- SỰ VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT
- Thích Viên Giác
"Nếu bạn muốn thấy
người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y
phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của
Ngài thật vĩ đại giữa con người."
***
Đức Phật là một con người có
nhân cách đặc biệt siêu phàm, có một không hai trong lịch sử của nhân
loại. Một nhà văn hào Âu châu nhận định rằng:
"Không có nơi nào trong thế giới
tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có thể tìm thấy một vị
giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh
tú khổng lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các
nhà văn hóa đã tuyên bố về ngài "Con người vĩ đại nhất chưa từng
có." Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái thế giới
đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng
nhân loại." (Phật Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức)
I. ĐỨC PHẬT LÀ AI?
Đức Phật là ai? Một câu hỏi
được đặt ra hơn 25 thế kỷ; những nhận định, phê phán đầy tính
hoài nghi, rồi những phát biểu, tán dương đầy xác định tin tưởng ở
nơi con người đối với Đức Phật, cho đến nay vẫn là nguồn cảm hứng
vô tận. Bởi lẽ như Carl Jung, một nhà tâm lý học, phát biểu rằng:
"Bao giờ cái nhìn của bạn cũng bị giới hạn bởi những gì bạn
đang có và đang là." Vì vậy với các góc độ nhìn khác nhau, người
ta sẽ có những cảm xúc, những cái nhìn khác nhau về Đức Phật.
Giáo thuyết của Đức Phật xuất
phát từ kinh nghiệm tu chứng tự thân ngài, một loại kinh nghiệm khác với
các kinh nghiệm thông thường phổ biến. Cho nên hiểu một cách chính xác
về Đức Phật là điều bất khả, như trong kinh nói chỉ có Phật với Phật
mới hiểu được nhau.
Thời Đức Phật còn tại thế, những
kẻ chống đối ngài thường lên tiếng chỉ trích, vu khống ngài với những
lời lẽ tầm thường hay những luận điệu triết học, như nói ngài còn
ham muốn danh vọng, ngài là người chủ trương phá hoại sự sống (Kinh
Magandiya), chê ngài không có khả năng đặc biệt của các bậc thánh (Kinh
Sư tử hống) cho ngài là một Sa-môn xử dụng huyễn thuật (Kinh
Ưu-ba-li) v. v… Bên cạnh những chỉ trích thì những lời lẽ ca ngợi
tán dương cũng rất phong phú. Những người trí thức của xã hội thường
ca ngợi ngài rằng: "Như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối" (Trung Bộ Kinh).
Dù Ngài bị chỉ trích hay được ca ngợi ngài vẫn an nhiên tự tại,
không giao động, không bất mãn, không hoan hỷ. Một người ngoại đạo ca
ngợi Phật rằng:
"Thật kỳ diệu thay! Tôn giả
Gotama! Thật hy hữu thay ! Tôn giả Gotama ! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống
đối một cách mĩa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội
trong cuộc đối thoại, màu da tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt tôn giả
vẫn hoan hỷ như một A-la-hán Chánh đẳng giác." (Đại kinh Saccaka)
Ngài thường được mọi người gọi
là bậc Đạo sư hay vị Lương y, vì ngài chỉ cho mọi người con đường
giải thoát và ngài chữa trị bịnh khổ cho nhân loại.
Một số bài kinh trong kinh tạng
nguyên thủy có ghi lại một cách thú vị những lời tuyên bố của Đức
Phật về chính Ngài. Dưới đây là vài dẫn chứng:
Một hôm, trên đường đến vườn
Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp, ngài gặp một vị Đạo sĩ
tên là Upaka. Đạo sĩ hỏi: "Nầy hỡi Đạo hữu ! Ngũ quan của Đạo
hữu thật vô cùng trong sáng. Nước da của Đạo hữu thật trong trẻo và
tươi tắn. Hỡi nầy Đạo hữu, vì sao Đạo hữu từ bỏ đời sống gia
đình? Thầy của Đạo hữu là ai? Đạo hữu truyền bá giáo lý của ai? Đức
Phật trả lời:
- "Như Lai đã vượt qua tất cả,
- Như Lai đã thông suốt tất cả.
- Như Lai đã vượt bỏ mọi trói buộc
- Như Lai đã thoát ly tất cả
- Như Lai đã chú hết tâm lực tận diệt tham dục.
- Đã thấu triệt tất cả, Như Lai còn gọi ai là
thầy?
- Không ai là thầy của Như Lai
- Không ai đứng ngang hàng với Như Lai.
- Trên thế gian nầy, kể cả chư thiên và Phạm
thiên
- Không ai có thể sánh với Như Lai.
- Quả thật, Như Lai là một vị A-la-hán trên thế
gian nầy.
- Như Lai là Tôn sư vô thượng;
- Chỉ một mình Như Lai là bậc tòan giác, vắng lặng
và thanh tịnh.
- Như Lai đang đến thành Kàsi để vận chuyển bánh
xe Pháp bảo giữa thế giới mù quáng.
- Như Lai sẽ gióng lên hồi trống vô sanh bất diệt."
Upaka hỏi vặn: "Nầy đạo hữu,
vậy phải chăng đạo hữu đã tự nhận là A-la-hán, là bậc siêu hùng quyền
lực vô biên?" Đức Phật xác định:
"Tất cả những bậc siêu hùng
đã chinh phục mọi ô nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã
chinh phục, tận diệt tất cả những gì xấu xa tội lỗi. Vậy, nầy Đạo
sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng" (Kinh Thánh cầu TBK).
Đức Phật xác định rất rõ ngài
là người đã chinh phục mọi ô nhiễm, do vậy, ngài là người cao thượng
nhất trên đời. Đây là lời tuyên bố đầu tiên về giá trị cao thượng
tuyệt đối của Phật đối với mọi loài chúng sanh, ma về蠳au lời tuyên bố nầy đã được khái quát hóa thành
câu nói đặt trong bối cảnh biểu tượng Đản sanh: "Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn" (Trên trời dưới trời chỉ có Như
Lai là tối thượng). Cuộc đời hoằng hóa của ngài đã chứng tỏ những
gì mà ngài đã tuyên bố như trên là sự thật. Một lần có giáo phái ngoại
đạo muốn đến tham vấn về đạo lý với Đức Phật bởi họ nghe nói
Phật là người đã vượt qua mọi ô nhiễm, đạt được sự thanh tịnh
hoàn toàn. Họ đã bàn nhau và cử người giám sát Đức Phật liên tục
trong bảy ngày để xem Phật có thật sự thanh tịnh như người ta đồn không.
Cuối cùng người được cử đi giám sát trở về báo lại rằng: Quả thực
Sa-môn Gotama là người hoàn thiện trong lúc ngủ cũng như lúc thức cho đến
những cử động nhỏ bé nhất như khi Ngài bước qua một vũng nước hay
Ngài vén chéo áo lên . . . đều đầy thánh thiện. (Trung Bộ Kinh)
Lần khác khi bị chỉ trích về khả
năng và mục đích của Phật, sau khi phân tích những sai lầm của họ, Đức
Phật dạy rằng:
"Nầy Sari putta, những ai muốn
nói về ta một cách đúng đắn thì phải nói như thế nầy: (Đức Phật là)
Một hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ỡ đời vì lợi ích, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người" (Kinh Sư Tử Hống,
Trung Bộ Kinh).
Lời tuyên bố nầy nói lên phẩm
chất của một vị Phật là Trí tuệ viên mãn (không bị si chi phối) và
lòng thương yêu cứu giúp muôn loài vô tận.
II. SỰ CHỨNG NGỘ CỦA
PHẬT
Tất cả những năng lực của Đức
Phật đều xuất sinh từ Tuệ giác của Ngài, nghĩa là từ nội dung chứng
ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác dưới cội Bồ đề. Có lần một Du sĩ
ngoại đạo tên là Vacchagotta hỏi Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, con
nghe người ta nói rằng Sa-môn Gotama là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất
thiết kiến, ngài tự cho là mình có tri kiến hoàn toàn, khi đi, khi đứng,
khi ngủ, khi thức tri kiến luôn luôn tồn tại và liên tục.
Bạch Thế Tôn, những điều mà người
ta nói như vậy có đúng với sự thực không, họ có vu khống Đức Thế Tôn
không? Đức Phật đáp rằng, họ nói như vậy là không đúng với điều
ngài đã nói, là vu khống ta. Như vậy Đức Phật phủ nhận ngài có một
loại Trí tuệ lúc nào cũng hiện diện và thấy biết cùng khắp, trong lúc
thức cũng như trong lúc ngủ. Vacchagotta hỏi: vậy phải nói như thế nào mới
đúng? Đức Phật dạy rằng nếu muốn nói đúng thì phải nói Sa-môn
Gotama là bậc có Ba minh.
Khi nào ta muốn, ta sẽ nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời…cho đến nhiều đời
sống qúa khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết. Nầy Vacchagotta,
nếu ta muốn thì với Thiên nhãn thuần tịnh, ta thấy được sự sống chết
của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẻ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh…đều do hành nghiệp của họ. Này
Vacchagotta, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với
thượng trí giác ngộ, ta an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Nói như vậy là nói đúng về ta. (Kinh Ba minh Vacchagotta)
Như vậy Tam Minh: Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh và Lậu tận minh là nội dung chứng ngộ của Phật. Đặc
biệt chỉ có Phật mới có một cách đầy đủ Ba minh, mặc dù trên lộ
trình tu tập Ba minh luôn được coi là những thành quả sau cùng của một
hành giả đắc đạo. Đây có thể là một trong những điều khác biệt giữa
Đức Phật và đệ tử. Tiến trình giác ngộ bắt đầu từ :
"Ly dục ly bất thiện pháp, chứng
và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm
có tứ. Diệt tầm và tứ chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả,
chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh."
Đức Phật và các Thánh đệ tử
đều đi qua Tứ thiền, trên cơ sở thiền thứ tư, tâm định tĩnh và nhu
nhuyến, dễ xử dụng, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng
Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu. Đây là lộ trình thứ nhất.
Lộ trình nầy được khuyến khích và trở nên rất phổ biến. Phần lớn
các thầy đều theo hướng nầy. Lộ trình thứ hai là từ thiền thứ tư,
đi qua Không vô biên xứ, là vượt qua sắc tưởng, chướng ngại tưởng.
Hướng tâm đến hư không là vô biên chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt
qua tiếp tục chứng và trú thức vô biên xứ. Vượt qua thức vô biên chứng
và trú Vô sở hữu xứ. Vượt qua vô sở hữu xứ chứng và trú Phi tưởng
Phi Phi tưởng xứ. Vượt qua Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt
Thọ Tưởng Định. Từ định nầy chứng đắc Ba minh. Lộ trình nầy Đức
Phật cũng đã đi qua. (Kinh Phân Biệt Sáu Xứ, Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy)
Trong kinh tạng Nguyên thủy không thấy
ghi chép vị thánh đệ⠴ử nào tự tuyên bố là mình đã chứng được Ba
minh. Thường thì các ngài được giới thiệu đã chứng A-la-hán, chứng Diệt
Thọ Tưởng định, và đoạn trừ các lậu hoặc (tương đương với Lậu
tận minh). Trong kinh Sáu Thanh Tịnh (Trung Bộ Kinh) Đức Phật dạy về tiến
trình tu tập của một vị Tỳ kheo khi chứng được thiền thứ tư xong thì:
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ xử dụng, vững chắc
bình thản như vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Tôi biết
như thật: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là khổ diệt,
đây là con đường đưa đến khổ diệt. Biết như thật: Đây là những lậu
hoặc, đây là Nguyên nhân của lậu hoặc, đây là lậu hoặc được diệt
trừ, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ."
Như vậy điều cần thiết cho các
đệ tử là phải thoát khỏi "dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu"
để đạt được "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm
đã làm; không còn trở lui trạng thái nầy nữa." Từ đó chúng ta có
thể thấy rỏ rằng khả năng Thần thông của các đệ tử đều có giới
hạn, và vấn đề tu chứng không gắn liền với khả năng thần thông, vì
vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ngài Mục-kiền-liên được cho là
đệ tử Thần thông số một trong các Thánh đệ tử. Đức Phật không
khuyến khích các đệ tử đi vào các thần thông như Thần túc, Thiên
nhãn, Tha tâm, Túc mạng, và Thiên nhãn; ngài chú trọng và khích lệ các đệ
tử hướng tâm vào Lậu tận Minh để thành tựu mục đích tối hậu, giải
thoát sinh tử. Các khả năng thần thông không giúp ích gì cho một người
chưa đoạn trừ các ô nhiễm của tâm thức.
Quá trình chứng đạo của Phật là
một chuổi đột phá, vượt qua mọi thử thách bằng thực nghiệm. Tất cả
các pháp có tính giao động đều vượt qua, thành tựu an trú các bất động
pháp. Đặc biệt trong các trạng thái của Tứ thiền đều phát sinh một cảm
giác hạnh phúc (lạc thọ), ngay cả trong Ba minh cũng có cảm giác hạnh
phúc, nhưng những cảm giác ấy tồn tại mà không chi phối tâm ngài (Kinh
Saccaka).
Đối với các Thần thông ngài đã
tuần tự chứng đắc Thần túc thông, Thiên nhỉ thông, Tha tâm thông trước
khi ngài thành Phật. Trong đêm thành đạo ngài mới chứng tiếp 3 Thần
thông sau cùng theo thứ tự Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận
thông. Phật dạy:
"Khi ta chưa chứng Chánh Đẳng
Giác ta đã nổ lực tu tập 5 pháp: Ta đã tu tập Thần túc với Dục định
tinh cần hành, Tinh tấn định tinh cần hành, Tâm định tinh cần hành, Tư
duy định tinh cần hành và Tăng thượng tinh tấn, tùy theo ta hướng tâm đến
pháp nào, ta có thể chứng đạt pháp ấy" (Tăng Chi II).
Không có pháp nào làm chướng ngại
đức Phật, không có pháp nào mà Đức Phật không thấy rõ, biết rõ, vì
vậy đệ tử thường gọi ngài là Đấng Pháp Vương.
III. KẾT LUẬN
Nhân ngày kỷ niệm Đức Phật Thành
Đạo Phật lịch 2545, đôi lời nói về sự vĩ đại, sự
thanh tịnh, sự chứng ngộ của Đức
Phật chỉ để bày tỏ lòng kính ngưỡng của người con Phật và để tri
ân Người đã khai sinh ra con đường giải thoát cho nhân loại. Với những
ngôn từ hữu hạn giữa cuộc đời đầy ô nhiễm, con người không thể
ca ngợi hết được sự vĩ đại của Đức Phật. Ngài A-nan-da cũng đã từng
nói về sự vĩ đại của Phật rằng:
"Này Bà-la-môn, Đấng Thế Tôn
ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện
khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói
lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết
đạo và thiện xảo về đạo."
Để kết thúc, xin mượn lời của
một thi nhân Hồi giáo, Abdul Atahiya ca ngợi Đức Phật:
"Nếu bạn muốn thấy người
cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một
người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ
đại giữa con người." (Đức Phật dưới mắt các nhà tri thức)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/111-vidai.htm