- VÀI SUY NGHĨ VỀ QUAN NIỆM
- ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ VÀ ĐỨC
PHẬT TÔN GIÁO
- Thích Thị Quả
Chúng ta không thể nói
đức Phật lịch sử là con người bình thường như những con người khác
bởi vì Ngài không được sinh ra từ nơi bất tịnh, lớn lên trong đau khổ
và chết dần trong đau khổ. . . Đức Phật trong kinh Đại thừa không phải
là đức Phật tôn giáo mà nhằm tiêu biểu cho pháp môn mà ngài đang giảng.
. . Chúng ta đừng bao giờ đem những nhãn hiệu "đức Phật lịch sử"
hay "đức Phật tôn giáo" áp đặt lên Ngài!
***
Kính quý liệt vị,
Ngày Phật Thành đạo năm nay, chúng
ta được về Bồ-đề Đạo Tràng, nơi đức Phật thành đạo, để ôn lại
ngày lịch sử thiêng liêng ấy, và cùng thảo luận chuyên về về đức Phật
và ngày thành đạo của Ngài. Nhân đây tôi cũng xin được nói lên vài
suy nghĩ của mình về đức Phật lịch sử và đức Phật tôn giáo.
Gần đây, có nhiều học giả thuộc
tín đồ của các tôn giáo khác nghiên cứu Phật học. Một số ít trong họ
đã cho rằng có hai đức Phật. Đó là đức Phật lịch sử và đức Phật
tôn giáo. Quan điểm này, thực sự đã đưa đến sự hiểu lầm về đức
Phật cho nhiều thế hệ tín đồ Phật giáo cũng như những người nghiên
cứu Phật học.
Qua bao năm miệt mài nghiên cứu Phật
pháp, tôi chưa tìm thấy một đoạn kinh nào trong Tam Tạng Pàli cũng như Đại
thừa đề cập đến vấn đề: đây là đức Phật lịch sử và đây là
đức Phật tôn giáo.
Trong thực tế, chỉ có một đức
Phật Thích-ca xuất hiện ở thế gian này. Thế thì đức Phật nào là đức
Phật lịch sử và đức Phật nào là đức Phật tôn giáo?
- Phải chăng đức Phật phóng hào
quang, soi sáng mười tám ngàn thế giới phương đông (phẩm tựa, Kinh
Pháp Hoa) là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật bày tướng lưỡi rộng
dài đến trời Phạm thiên, tất cả lỗ chân lông phóng ra vô lượng hào
quang, thảy đều soi khắp thế giới mười phương (phẩm Như Lai Thần Lực)
là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật mà trên đầu của Ngài
mọc lên một hoa sen ngàn cánh, mỗi cánh có một hóa Phật ngồi, đồng thời
nói thần chú Lăng-nghiêm và sai ngài Văn Thù đem thần chú ấy giải thoát
cho ngài Anan (Kinh Lăng-nghiêm) là đức Phật tôn giáo?
- Lại khi ngài Xá-lợi-phất hoang
mang rằng cõi nước chư Phật đều thanh tịnh mà cõi nước của Phật Thích-ca
lại bất tịnh, biết rõ tâm của ngài Xá-lợi-phất, Phật bấm ngón chân
xuống đất, cõi Ta-bà rung động và cõi đất lập tức biến thành Tịnh
Độ (phẩm Phật quốc, Kinh Duy Ma) là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật có một đời sống vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Ngài có vô lượng hào quang, vô lượng công
đức và ngài đã kiến tạo thế giới của ngài bằng 48 lời thệ nguyện
(Kinh Đại Bửu Tích và Kinh A-di-đà) là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật, lại là một thầy
thuốc đại tài chuyên chữa trị cho chúng sanh (Kinh Dược Sư) là đức
Phật tôn giáo?
- Phải chăng đức Phật Tỳ-lô-giá-na
có ba thân trong kinh Hoa Nghiêm là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật hiện thần thông làm
cho hai thanh niên Bà-la-môn thấy rõ tướng đại nhân của Ngài (Kinh
Lakkhana thuộc Trường Bộ kinh VI) là đức Phật tôn giáo?
- Đức Phật dùng thần thông làm
cho tên cướp Angulimala chạy hết tốc lực mà vẫn không đuổi kịp ngài
(Kinh Angulimala thuộc Trung Bộ II) là đức Phật tôn giáo? v.v. .
.
Các Ngài không phải là đức Phật
tôn giáo với ý nghĩa như là những nhân vật thần thoại, hoang đường,
ảo tưởng hay là Thượng đế. Các Ngài không phải là thần linh vạn năng,
bắt buộc con người phải cúi đầu vâng lệnh. Đức Phật Thích-ca chính
Ngài đã phủ nhận sự hiện hữu của một oai lực siêu thế, một chúng
sanh toàn năng hay năng lực khởi thuỷ của các sự vật, cũng không có
tính cách thần khải, không có người truyền đạt tin tức và những lời
sấm của một thần linh từ đâu trên cao xuống con người (xem Đức Phật
và Phật Pháp của Narada, trang 259).
Đức Phật trong kinh Đại thừa
cũng như trong kinh Pàli là những nhân vật tiêu biểu cho pháp môn mà đức
Phật đang giảng. Chẳng hạn như đức Phật trong phẩm tựa Kinh Pháp
Hoa là nhân vật biểu trưng cho tri kiến Phật: nhằm giới thiệu cho mọi
người biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Muốn ngộ nhập
tri kiến Phật của mình trước tiên hành giả phải dùng trí tuệ Trung đạo
(phóng hào quang giữa chặng mày) để thấy rõ sáu căn, sáu trần, sáu thức
(mười tám ngàn thế giới phương đông), thấy rõ từng động tịnh của
chúng sanh (thấy rõ chư Phật, Bồ-tát, Thinh Văn và chúng sanh ở các cõi
kia). Thấy rõ được như vậy chính là đã ngộ nhập được tri kiến Phật
của mình (xem Thích Từ Thông, Pháp Hoa Trực Chỉ Đề Cương, phẩm tựa).
Đức Phẩm ở phẩm Như Lai thần lực,
Kinh Pháp Hoa là nhân vật biểu trưng cho năng lực kỳ diệu của
chơn tâm. Sau khi hành giả đã thấy được Phật tri kiến, tâm của họ trở
nên thuần tịnh. Từ bản giác diệu minh ấy pháp ra trí tuệ tròn sáng (những
lỗ chân lông đều phát ra vô số hào quang) và năng lực thuyết pháp của
ông ta giờ đây trở nên hữu hiệu hơn, có thể giúp chúng sanh vượt thoát
sanh tử luân hồi trong tam giới (tướng lưỡi rộng dài đến cõi trời Phạm
thiên) (xem Thích Thiện Trí, Pháp Hoa Giảng Nghĩa, phẩm Như Lai thần
lực).
Đức Phật trong phẩm Phật quốc
kinh Duy-ma, là nhân vật biểu trưng cho pháp môn bất nhị. Nghĩa là Tịnh
Độ (tịnh) và Ta bà (nhiễm) không hai, chúng sanh và Phật không hai (Phật
bấm ngón chân xuống đất cõi ta bà lập tức biến thành Tịnh độ) và
chỉ có tâm của chúng sanh tịnh hay nhiễm mà thấy cõi Phật trở nên tịnh
hay bất tịnh (xem Thích Từ Thông, Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương,
phẩm Phật Quốc).
Đức Phật A-di-đà trong kinh Đại
Bửu Tích và kinh A-di-đà là nhân vật biểu trưng cho tự tánh A-di-đà của
mỗi chúng sanh, trong tự tánh ấy có đủ vô lượng thọ, vô lượng quang
và vô lượng công đức (xem Chán and Zen Teaching, trang 42).
Đức Phật trong kinh Dược Sư là
nhân vật biểu trưng cho tâm từ bi, chính nó là môn thuốc chúa, có thể
trị lành bệnh chấp ngã cho chúng sanh (xem 10 lời nguyện của Phật Dược
Sư).
Đức Phật Tỳ-lô-giá-na trong kinh
Hoa Nghiêm là nhân vật tượng trưng cho Pháp thân Phật. Trong Pháp thân đã
có đủ Báo thân và Hóa thân. Lục Tổ Huệ Năng nói "Pháp thân, Báo
thân cập Hóa thân, tam thân bổn lai thị nhứt thân." Nghĩa là Pháp
thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân ấy vốn là một thân. Và Lục Tổ còn
chỉ rõ rằng: "Thanh tịnh Pháp thân nhữ chi tánh dã, viên mãn Báo
thân nhữ chi trí dã, thiên bá ức Hóa thân nhữ chi hành dã." Nghĩa là
Thanh tịnh Pháp thân là tự tánh thanh tịnh, Viên mãn Báo thân là trí tuệ
và Thiên bá ức Hóa thân là hạnh của mỗi chúng ta. Mỗi chúng sanh đều
có đủ ba thân này (xem Pháp Bảo Đàn Kinh, Taiwan 1962, trang 54 và
trang 67, bản chữ Hán).
Đức Phật trong kinh Lăng-nghiêm
được biểu trưng cho chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh minh của mỗi
chúng sanh. Vì ngài Anan sống với vọng tâm cho nên ngài bị Ma đăng già
quyến rũ. Tuy nhiên vọng tâm không phải thật có, cho nên đức Phật đã
dùng huyễn pháp (Hóa Phật) để đối trị huyễn pháp (chú Satì cala) giúp
cho ngài Anan thoát khỏi Ma đăng già và sống lại với chơn tâm thanh tịnh,
và bản giác diệu minh của chính ngài (xem Sùrangama Sutra trang 01-82 ).
Đức Phật trong kinh Lakkhana Trường
Bộ kinh IV và kinh Angulimala Trung bộ II giống như đức Phật trong phẩm
Như Lai Thần lực kinh Pháp Hoa, đã được viện dẫn ở trên.
Chính vì kinh Đại thừa quá ư trừu
tượng, khó hiểu, khó bàn, nên ông Kern, nhà bác học Hà Lan đã viết
trong bài giới thiệu cho quyển sách đã dịch của ông tên là "The
Lotus of the True Law" rằng: "Kinh Pháp Hoa có ý đề cao đức
Phật Thích-ca như một nhân vật siêu nhân, là thượng đế của những
thượng đế toàn năng toàn trí ..." (xem Kern, Introduction of the Lotus
of true Law, trang 27). Theo ông Kern, đức Phật trong kinh Pháp Hoa là đức
Phật tôn giáo và Ngài được đề cao như một thượng đế của những
thượng đế.
Dịch giả của quyển Trường bộ
kinh III đã viết ở phần đại ý của kinh Đại Bổn như sau:
"Chúng ta thấy sự sai khác giữa
hai quan niệm đức Phật lịch sử như được diễn tả trong tập Mahavagga
về đức Phật Thích-ca với rất ít thần thông, nếu không phải là không
có, và đức Phật tôn giáo như đã diễn tả trong kinh này (kinh Đại Bổn)
với các điềm tướng xuất hiện các thần thông diệu dụng. Ở đây
chúng ta chứng kiến sự bắt đầu còn dè dặt và thận trọng, đặt nhẹ
dưới hình thức một chuyện tiền thân về đức Phật Tỳ Bà Thi
(Vipassi)... Sau này đặc tính tôn giáo lan qua các mẫu tích về đức Phật
Thích-ca Mâu Ni đến nỗi bao phủ con người lịch sử Sa môn Gotama như chúng
ta chứng kiến sau này."
Tác giả bài viết này đã xuyên tạc
bài kinh Đại Bổn và đã gán ghép một cách phi lý đặc tính tôn
giáo (Thượng đế, mặc khải, mê tín) vào năng lực thần thông của đức
Phật Tỳ-bà-thi và sáu đức Phật khác trong kinh ấy. Vị này vô tình đã
gieo mầm độc vô minh và chấp ngã vào mảnh đất tâm trong sáng, thanh tịnh
của nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử, làm cho họ mịt mờ trên con đường
học đạo giác ngộ!
Nếu cho rằng đức Phật thần thông
là đức Phật tôn giáo, thì đức Phật Thích-ca Mâu Ni, ngay trong đêm
thành đạo Ngài đã trở thành đức Phật tôn giáo. Vì rằng đêm ấy
Ngài đã chứng được sáu thứ thần thông. Đó là:
- Thiên nhãn thông: Mắt Ngài có thể
nhìn thấy được vật bên kia vách, vật bên kia núi, từ cõi Ta bà Ngài
có thể thấy được những thế giới xa xăm khác.
- Thiên nhĩ thông: Tai Ngài có thể
nghe và hiểu được tiếng của muôn loài.
- Tha tâm thông: Ngài hiểu rõ được
tâm tư tình cảm của mỗi chúng sanh.
- Túc mạng thông: Ngài biết rõ những
kiếp quá khứ của Ngài và của chúng sanh như một đời, hai đời cho đến
vô số đời.
- Thần túc thông (còn gọi là biến
hóa thần thông): Ngài, từ một thân, biến thành nhiều thân, và từ nhiều
thân biến thành một thân. Ngài có thể đi qua vách, qua núi, đi trên nước,
ngồi trên hư không. Ngài có thể sờ mặt trăng, mặt trời với bàn tay của
Ngài.
- Lậu tận thông: Ngài đã gọt sạch
phiền não từ tâm của Ngài và dạy cho người khác về phương pháp đoạn
trừ cấu nhiễm để chứng đạt Niết bàn (xem Đức Phật và Phật
Pháp, trang 51 – 53; xem kinh Maha Sakuludi Dayi, Trung bộ II trang 308,
kinh Maha Sihanada Sutta (Kinh Đại Sư Tử Hống) Trung bo䠉
trang 120).
Như vậy, thần thông không những
chỉ bao phủ con người lịch sử Sa-môn Gotama mà nó còn ăn sâu tận đầu,
não, tim, gan, qua từng hơi thở và từng bước đi của con người lịch sử
Sa-môn Gotama.
Như chúng ta đã biết, không những
đức Phật mới đặt vấn đề thần thông trong kinh Đại Bổn mà Ngài đã
giảng nhiều về thần thông trong kinh Đại Sư Tử Hống, Trung bộ I,
kinh Kevadha, Trường bộ I, kinh Angulimala, Trung bộ II, kinh
Lakkhana, Trường bộ IV, v.v... Quyển "The Buddha and His Teaching"
cũng đã chép những mẫu chuyện về thần thông của đức Phật: Ngài đã
dùng thần thông độ bà Khema, thứ hậu xinh đẹp của Bình Sa Vương; độ
bà Patacara một phụ nữ bất hạnh; hàng phục con độc long của ngài Xá-lợi-phất;
hàng phục voi say của vua A-xà-thế. Khi Đề-bà-đạt-đa từ trên núi cao,
xô một tảng đá to cố ý giết Phật vì mục đích muốn làm giáo chủ Tăng
đoàn, Đức Phật đã dùng thần thông làm cho tảng đá ấy vở ra từng mảnh
vụn v.v...
Thần thông không phải là vấn đề
tôn giáo hay không tôn giáo mà nó là năng lực kỳ diệu của chơn tâm (phẩm
Pháp Sư Công Đức, kinh Pháp Hoa). Mỗi chúng sanh đều có cái năng lực
diệu dụng ấy. Một ngày mà lớp bụi vô minh bao phủ trên tấm gương sáng
trí tuệ được quét sạch hoàn toàn, thì cái năng lực kỳ diệu ấy sẽ
xuất hiện.
Nếu chúng ta cho rằng đức Phật tôn
giáo là sản phẩm của ảo tưởng, hoang đường, thần thoại thì vô tình
chúng ta đã nói đức Phật là "Linh hồn của những điều kiện không
có linh hồn, là trái tim của thế gian không có trái tim, là nha phiến của
dân chúng" (Marx). Và chính chúng ta tự giới thiệu mình là người kém
hiểu biết về giáo lý thuần túy của đức Phật.
Về khía cạnh lịch sử, đức Phật
Thích-ca được xem là đức Phật tôn giáo vì Ngài là giáo chủ của một
tôn giáo, có giáo đoàn và giáo lý.
Để tỏ lòng tôn kính đối với
đức Phật, học giả Radha Krishnan đã viết:
"Nơi đức Phật Cồ-đàm ta nhận
thấy một tinh hoa toàn diện của người phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài
trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến
nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử.
Mọi người đều sùng kính tôn Ngài là người đã dựng lêm một hệ
thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu, Ngài thuộc về lịch sử
tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí, bởi vì đứng
về phương diện trí thức, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn
chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch
sử" (xem Gotama the Buddha, trang 1).
Tôn giáo mà đức Phật đã dựng
lên không phải là một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái, trung
thành với một thần linh siêu nhiên. Niềm tin của người Phật tử đặt
vào đức Phật cũng giống như người bệnh đặt niềm tin vào vị lương
y tài giỏi, hay niềm tin của người học trò đặt trọn vẹn nơi thầy. Mặc
dù nương tựa nơi đức Phật và tôn trọng Ngài là vị hướng đạo sư,
là thầy dắt dẫn trên con đường giải thoát, người Phật tử không qui
phục mù quáng như kẻ nô lệ, mà họ nương theo giáo pháp tự nỗ lực để
đạt đến giác ngộ giải thoát. Giáo sư Rhys David đã viết:
"Dầu là Phật tử hay không là
Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới,
trong tất cả tôi không tìm thấy một tôn giáo nào có cái gì đẹp đẽ và
hoàn toàn hơn Bát chánh đạo của đức Phật. Tôi chỉ còn một việc làm
là thu xếp nếp sống cho phù với con đường ấy (xem The Buddha and His
Teaching, trang 160).
Chúng ta không thể nói đức Phật
lịch sử là con người bình thường như những con người khác bởi vì
Ngài không được sinh ra từ nơi bất tịnh, lớn lên trong đau khổ và chết
dần trong đau khổ (xem phần Bồ-tát nhập thai, kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu,
Trung bộ III, số 123 trang 248).
Theo tinh thần kinh Pháp Hoa, đức
Phật Thích-ca đã thành Phật từ vô lượng kiếp (phẩm Như Lai Thọ Lượng).
Vì thấy chúng sanh đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa tham, sân, si, ưu bi
khổ não. Hiện thế họ phải chịu nhiều đau khổ như sanh, già, bịnh, chết:
khổ, yêu thương mà phải xa lìa: khổ, oán thù gặp nhau: khổ, cầu mong
không được toại ý: khổ, chấp mắc về thân năm uẩn là khổ. Họ còn
chịu nhiều đau khổ hơn nữa trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh trong đời
sống tương lai của họ (phẩm Thí dụ). Vì lòng thương chúng sanh, vì an lạc
và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, Ngài đã giả vờ sinh vào đây
như một con người; Ngài đã thị hiện có sinh ra đời, hưởng thọ dục
lạc, xuất gia, tu hành, thành đạo, thuyết pháp độ chúng sanh và nhập Niết
bàn ở tuổi 80. Đó là phương tiện của Ngài, nhằm giúp cho chúng sanh căn
cơ hạ liệt biết quay về với chánh pháp và từng bước dắt họ tiến gần
đến Phật quả (phẩm Phương Tiện).
Vì lý do này, vừa sinh ra đời Ngài
đã có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, có đủ đại từ, đại bi, thập
lực vô sở úy; đến nỗi vị Bà-la-môn tên A-tư-đà, một vị tướng số
giỏi nhất thời bấy giờ, phải sụp lại dưới chân Ngài, khi vị này thấy
rõ 32 tướng đại nhân của Phật.
Đức Phật đã dạy rằng Ngài
không phải là Thượng đế, cũng không phải là thần thánh, cũng không phải
là con người mà Ngài là Phật (xem Nalinaksha Dutt, Mahayana Buddhism,
trang 140).
Chắc chắn Phật không phải là người
thường, Ngài sinh ra với cái nghiệp phi thường mà Ngài đã tạo ra từ
vô lượng kiếp.
Đến đây xin được kết luận rằng
đức Phật là đức Phật. Ngài có đủ thần thông diệu dụng, đại bi đại
trí và Ngài đã để lại cho nhân loại một lịch sử vẻ vang về cuộc
đời của Ngài! Chúng ta đừng bao giờ đem những nhãn hiệu "Đức Phật
lịch sử" hay "Đức Phật tôn giáo" áp đặt lên Ngài!
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/112-vePhat.htm