- TRẦM TƯ VỀ NGÀY PHẬT THÀNH
ĐẠO
- Thích Nữ Giới Hương
Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một
vĩ nhân thì đó là một vĩ nhân trên hết các vĩ nhân của nhân loại từ
xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân thì đó
là một bậc siêu nhân cao hơn tất cả các bậc siêu nhân khác. Nếu chúng
ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự
thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị
hiện.
***
Người sáng lập ra đạo Phật là
Đức Thích-ca-mâu-ni Phật (Sakyamuni) còn gọi là Đức Phật (Buddha), là đấng
giác ngộ, là bậc thức tỉnh. Người đã thức tỉnh được lưới tham
ái, vô minh, đã thấy rõ bản chất của các pháp như chúng đang là.
Đức Phật tên là Tất-đạt-đa
(tiếng Sanskrit: Siddh rtha), họ là Cồ-đàm (Gautama) ra đời cách đây hơn
2600 năm tại miền đông bắc Ấn Độ vào ngày mùng 8 tháng 2, năm 624 trước
Tây lịch. Phụ thân Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana), người cai trị
vương quốc của dân tộc Sakya (ngày nay thuộc đất nước Nepal). Mẹ Ngài
là hoàng hậu Ma-da (Maya). Theo tục lệ thời bấy giờ, thái tử kết hôn rất
sớm vào năm 16 tuổi, với công chúa xinh đẹp và đức hạnh, tên là
Da-du-đà-la (Yasodhara). Là một thái tử đương triều sống trong cung điện
đầy đủ với tất cả những xa hoa lộng lẫy, nhưng khi va chạm với đời
sống bình thường thực tại, Ngài nhận thấy khổ đau của kiếp người,
Ngài quyết định tìm giải pháp để con người ra khỏi nỗi thống khổ
như mạng nhện này. Năm 19 tuổi sau khi người con đầu lòng và duy nhất
là hoàng nhi La-hầu-la (Rahula) ra đời, Ngài quyết định từ bỏ tất
cả uy quyền, địa vị, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan và trở
thành một nhà khổ hạnh ra đi tìm giải pháp cứu mình và cứu người khỏi
ách sanh tử từ nhiều đời kiếp. Ngày mùng 8 tháng 2 ngài bắt đầu xuất
gia và sống một đời sống phạm hạnh.
Năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm
thực hành khổ hạnh, Ngài Cồ-đàm đã đi lang thang khắp thung lũng sông Hằng
(Ganga), tìm những vị thầy nổi tiếng bấy giờ học hỏi những phương
pháp và hệ thống tu hành của họ; rồi khép mình vào những kỷ luật khổ
hạnh khắc khe tột cùng. Kinh Trung Bộ đã mô tả sự nỗ lực của
Ngài như sau:
"Này Aggivessana, rồi ta nín thở
vô, thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, này Aggivessana, khi
ta nín thở như thế thì ngọn gió kinh khủng thốt lên đau nhói trong đầu
ta. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác
vơi một thanh kiếm sắc, cũng vậy, này Aggivessana, khi ta nín thở như thế
thì ngọn gió kinh khủng thốt lên đau nhói trong đầu ta. Này Aggivessana, dầu
ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm an trú không giao
động, nhưng thân của ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì ta
bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy,
này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi ta được tồn tại nhưng không
chi phối tâm ta… "
Khi đó sa môn Cù-đàm đã liên tục
dùng đủ loại hình thức để cảm thọ sự khổ trong việc tu nín thở,
những cảm giác nóng kinh khủng cắt ngang qua bụng như một người đồ tể
thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang qua bụng với một con
dao cắt thịt bò sắc bén, những cảm giác nóng kinh khủng khởi lên trong
thân như bị hai người lực sĩ sau khi nắm cánh tay một người yếu hơn
nướng người ấy trên một hố than hừng.
Đủ loại cảm giá nóng khổ khởi
lên nơi Đức Phật không thể nào chịu xiết nhưng với lòng tinh tấn nỗ
lực, Ngài đã vượt qua và không bị chúng chi phối. Rồi Ngài lại bắt
đầu thực hiện hạnh tuyệt thực với từng giọt súp đậu nên thân
Ngài từ từ trở nên gầy yếu. Tay chân Ngài trở thành như những ngọn cỏ
hay những đốt cây leo khô héo, bàn trôn của Ngài trở thành như móng
chân con lạc đà, xương sống phô bày giống như một chuổi banh, xương
sườn gầy mòn giống như rui cột nhà sàn hư nát, con ngươi nằm sâu trong
hố mắt giống như nước long lanh nằm sâu thẳm trong giêng nước sâu, da
đầu trở thành nhăn nheo khô cằn giống như trái bí trắng và đắng khi bị
cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhó khô cằn. Ngài nói
rằng khi đó Ngài rờ vào bụng mình thì gặp phải xương sống, nếu rờ
xương sống thì gặp phải da bụng, vì Ngài ăn quá ít nên da bụng bám chặt
vào xương sống. Khi ngài muốn đứng dậy để đi đại tiện hay tiểu tiện
thì liền ngã quỵ xuống vì quá yếu. Nếu Ngài muốn xoa dịu thân thể, lấy
tay xoa bóp chúng, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ngài.
Sau khi trải qua sáu năm cực kỳ khổ
hạnh này, Ngài chợt lóe lên tia sáng rằng: "những sự đau khổ này
thực là tối thượng, không gì có thể hơn nữa. Nhưng với sự khổ hạnh
khốc liệt như thế, ta vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến
thù thắng, xứng đáng bậc thánh. Hay có đạo lộ nào khác đưa đến giác
ngộ."
Ngài liền hồi tưởng lại thuở còn
bé xưa kia khi vua cha Tịnh Phạn đang cày, Ngài ngồi dưới gốc cây Diêm
Phù đề thiền định. Lúc đó tâm Ngài đã ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm
có tứ và Ngài biết rằng với thân xác yếu gầy như vậy thì Ngài không
thể nào đạt được những trạng thái thiền đó. Ngài nghiệm rằng giống
như người chơi đàn, phải biết thế nào là mức độ vừa phải. Nếu
căng quá thì dây đàn sẽ đứt, còn nếu để chùn quá thì đàn sẽ không
kêu. Cuộc sống quá khứ của Ngài trong nhung lụa đài sang nơi hoàng cung lộng
lẫy chẳng khác nào như dây đàn thả lõng; đến khi nỗ lực tu khổ hạnh
hành hạ xác thân thì tựa như dây đàn quá căng. Hãy nương thân này mà
tìm phương pháp "trung đạo" để giải thoát chúng sanh.
Thế là Ngài bắt đầu từ bỏ những
tôn giáo với những phương pháp cổ truyền khổ hạnh này và đi theo con
đường tu tập của riêng mình. Ngài nhận bát cháo sữa của nàng Su-da-ta
cúng và ngồi thiên liên tục trong 49 ngày dưới cội cây bồ đề bên
dòng sông Ni-liên-thuyền (Neranjar ) xanh mát tại Bồ đề đạo tràng
(Buddha-gaya) thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ.
Ngài bắt đầu bước vào sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền rồi tứ thiền. Với tâm nhu nhuyến, thuần khiết,
Ngài hướng tâm về sự hiểu biết những đời sống quá khứ và vô lượng
kiếp về trước của Ngài. Vào canh một của đêm 49, Ngài chứng được Túc
mạng minh, phá tan lớp vô minh có liên quan đến quá khứ. Ngài hướng tâm
thanh tịnh về sự "tri giác hiện tượng sanh diệt của chúng sanh"
và vào canh giữa của đêm thành đạo, Ngài chứng được Thiên nhãn minh,
hướng đến sự phân tán và cấu thành nên chúng sanh. Ngài chứng tâm
thanh tịnh về "tuệ hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm
luân" và vào canh ba của đêm thành đạo, Ngài chứng được Lậu tận
minh. Màn vô minh của ba lậu (dục lậu, hữu lậu, và vô minh lậu) đã giải
tỏa và trí tuệ phát sinh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến. Ngài biết
rằng "ta đã được giải thoát," "sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, các việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại đời này nữa."
Từ đó Ngài được tôn xưng là Đức Phật với mười danh hiệu: Như lai,
Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng
sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật-Thế tôn. Năm ấy Ngài vừa
tròn 30 tuổi.
Theo truyền thống Đại thừa, ngày
8 tháng chạp được coi là ngày Đức Phật thành đạo. Trong tuần lễ đầu
sau khi thành đạo, Đức Phật đã ngồi bất động nơi tòa kim cang (cội bồ
đề nơi Ngài ngồi giác ngộ và chứng ba minh) và trong ba tuần lễ đầu
Ngài đã thuyết kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và Bồ-tát ở cõi trời nghe,
nhưng vì nghĩa lý của kinh quá cao siêu khó lãnh hội, nên Ngài bắt đầu
thuyết về lý Tứ đế rồi sau đó mới dần dần giảng dạy những kinh
điển có tính cách triết lý đại thừa cao hơn như được đút kết trong
bài kệ tóm tắt sau đây:
- "Hoa Nghiêm trước nhất hai mươi mốt ngày,
- A-hàm mười hai, Phương đẳng tám,
- Hai mươi hai năm bàn Bát-nhã,
- Pháp hoa, Niết-bàn cộng tám năm"
Còn theo truyền thống Nguyên thủy,
Đức Phật thành đạo vào đêm rằm của tháng Vesaka (tức rằm tháng 4).
Vào tuần lễ đầu sau khi giác ngộ,
Ngài nghiền ngẫm lý nhân duyên vô ngã. Tuần thứ hai, Đức Phật đứng
nhìn chăm chú biết ơn cây bồ đề đã che chở Ngài trong những ngày thiền
định. Tuần thứ ba, Đức Phật đi kinh hành dọc bên trái cây bồ đề.
Tuần lễ thứ tư, Đức Phật đã suy ngẫm những vấn đề thuộc về siêu
hình học của A-tỳ-đạt-ma. Tuần lễ thứ năm, ngài ngồi dưới cây
Ajapala và Mucalinda để chứng nghiệm sự an lạc giải thoát. Khi đó trời
bỗng mưa tầm tả, con mãng xà vương Mucalinda liền bò lên và dùng thân quấn
quanh Đức Phật bảy vòng và dùng đầu để làm tàng che mưa đỡ gió cho
Ngài.
Vào tuần lễ thứ bảy, Ngài ngụ
tai cây Rajatana để chứng nghiệm sự an lạc của qủa vị giải thoát
hoàn toàn. Sau khi nhận sự cúng dường của hai vị thương gia, Đức Phật
liền rời Bồ-đề đạo tràng để đi đến vườn nai (Lộc uyển) ở
Isipatana (ngày nay là Sarnath), thuộc thành phố Ba-la-nại (Benares) để tìm năm
người bạn đồng tu trước kia mà truyền đạt những gì Ngài đã chứng
ngộ. Tứ diệu đế (Catt ri Ariyasaccani) là bài chuyển pháp luân đầu tiên
của Đức Phật cho năm anh em Kiều Trần Như. Và đó cũng là trọng tâm
toàn bộ giáo lý mà Ngài đã thuyết trong 45 năm hoằng pháp lợi sanh của
mình. Từ ngày đó trở đi Ngài đã thuyết pháp cho mọi tầng lớp nam nữ,
vua chúa và hoàng hậu, quý tộc và bà-la-môn, thương nhân và công nhân,
giai cấp cùng khổ và hành khất mà không hề phân biệt gì giữa họ cả.
Ngài không chấp nhận hệ thống giai cấp xã hội ở Ấn Độ cổ đại và
con đường Ngài dạy mở ra cho tất cả những ai muốn nghe.
Đức Phật cũng đã thường tự
xưng mình không gì khác hơn là một con người, hoàn toàn chỉ là một con
người. Những gì Ngài thực hiện được, những gì Ngài đạt đến được
và hoàn thành được đều hoàn toàn do nỗ lực và trí tuệ con người. Một
con người và chỉ có con người mới có thể giác ngộ trở thành một Đức
Phật. Tất cả chúng ta đều mang trong mình khả năng trở thành một Đức
Phật nếu chúng ta muốn và nỗ lực. Nếu có gọi Ngài là một đấng
"tối thượng giác ngộ" đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa rằng Ngài
đã tìm ra và chỉ ra con đường đi đến giải thoát niết-bàn; rồi tự
chúng ta phải cất bước trên con đường ấy.
Chẳng những thế, Đức Phật còn
khuyến bảo chúng đệ tử của mình rằng cần phải xét đoán ngay cả
chính Ngài để có thể hoàn toàn tin chắc giá trị của một vị thầy mà
mình đang theo tu học.
Đức Phật chủ trương tự do tư
tưởng, thêm vào đó tính khoan hồng của Đức Phật, cũng đã làm cho những
người nghiên cứu lịch sử tôn giáo phải ngạc nhiên. Như trong kinh Upa li
kể rằng: Khi Upali, một đệ tử tại gia nổi tiếng của phái Ni-kiền-tử
(Nigantha-Nataputta), sau khi tranh luận thuyết nghiệp báo với Đức Phật, biết
được tư tưởng của Thầy mình là sai và đã nhiều lần thỉnh Đức Phật
nhận mình làm đệ tử tại gia (Upasaka). Nhưng Đức Phật khuyên ông hãy
tiếp tục kính trọng, ủng hộ những vị thầy cũ của mình, hãy suy nghĩ
và đừng vội vả vì "sự xét đoán cẩn thận rất tốt cho những người
lỗi lạc như ông."
Trong thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch,
vị Hoàng đế phật tử A-dục (Asoka) đã khắc trên trụ đá như
sau:
"Người ta không nên chỉ kính
trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn giáo của kẻ khác,
mà phải kính trọng tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác. Như thế ta
có thể làm cho tôn giáo mình phát triển và giúp đỡ các tôn gíao
khác."
Tính khoan dung thông cảm ấy từ khởi
thủy đã là một trong những lý tưởng được yêu chuộng nhất trong văn
hóa và văn minh Phật giáo. Chính vì thế mà suốt trong 25 thế kỷ truyền
bá qua, Phật giáo đã không để lại một vết tích đàn áp nào, hay làm
đổ một giọt máu nào. Nhãn hiệu Phật giáo là điều không thiết yếu,
chúng ta có thể gọi Phật giáo dưới bất cứ danh hiệu nào. Điều quan
trọng là nếu vị thuốc hay thì bịnh sẽ lành và sẽ là con đường thoát
khổ cho chúng ta. Hầu hết mọi tôn giáo đều được thiết lập trên đức
tin nhưng Phật giáo nhấn mạnh sự thấy biết, hiểu rõ, tự nghiệm rồi
lãnh hội phương pháp trị bịnh đó. Nói đến sự giác ngộ của chính
mình, Đức Phật dạy: "Con mắt đã phát sanh, trí thức đã phát sanh,
kiến giải đã phát sanh và ánh sáng đã phát sanh."
Điều đó có nghĩa là hãy tự
mình thấy biết và chứng nghiệm bằng khả năng của mình. Đức Phật chỉ
giúp chúng ta chỉ ra con đường Ngài đã đi thôi. Những gì Ngài chỉ dạy
chúng ta không phải chỉ để thõa mãn sự tò mò của trí thức mà mục đích
là đem hạnh phúc an vui cho con người chúng ta mhằm kiến tạo một xã hội
mà ở đó không có sự tranh chấp thế lực; ở đó an tĩnh và hòa bình ngự
trị xa hẳn chiến thắng và chiến bại; ở đó sự áp bức người vô tội
phải bị mạnh mẽ tố cáo và một người tự thắng mình được kính trọng
hơn những người chiến thắng hàng triệu người bằng chiến tranh quân sự
kinh tế; ở đó hận thù được hóa giải bằng yêu thương và sự ác độc
được chinh phục bằng thiện cảm; ở đó thù hận ganh ghét, ác độc và
tham lam không nhiễm độc tâm trí con người, bởi lẻ từ bi là nguyên
nhân động lực cho mọi hành động, ngay cả những sinh vật nhỏ bé nhất
cũng được đối xử với lòng yêu thương lân mẫn và ở đó cuộc sống
con người bình an hòa điệu để hướng đến những mục đích tối thượng
cao quý hơn.
Đức Phật đã nhâﰠniết-bàn nhằm
ngày rằm tháng 2 lúc Ngài 80 tuổi, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫ
còn chiếu sáng rực trước mắt chúng ta. Suốt một đời, trong 80 năm trời,
không một lúc nào Ngài xao lãng mục đích tối thượng là hóa độ chúng
sanh. Ngài đã vất vả giong ruổi trên mọi nẻo đường bụi bặm, gai góc
để hướng dẫn con đường thoát khổ cho chúng sanh. Sự hy sinh cao cả,
lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài
không những là gương sáng cho riêng giới Phật giáo mà còn cho tất cả. Nếu
chúng ta quan niệm Ngài là một vĩ nhân thì đó là một vĩ nhân trên hết
các vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài
là một bậc siêu nhân thì đó là một bậc siêu nhân cao hơn tất cả các
bậc siêu nhân khác. Nếu chúng ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện
của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ý nghĩa
hơn hết trong các sự thị hiện.
Cho nên đối với Phật giáo hay đối
với tất cả mọi người, Đức Phật đáng được kính cẩn tôn sùng và
chiêm ngưỡng.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Đức
Phật Thích-ca thành đạo tại cội bồ-đề ở Bồ-đề đạo tràng, Ấn
Độ, nơi Ngài đã thiền định và giác ngộ trong bối cảnh các dân tộc
trên thế giới đang chuẩn bị đón mừng năm mới 2001 của thiên niên kỷ
mới, trong không khí tưng bừng hân hoan đó, chư Tôn đức Hòa thượng,
Thượng tọa, Đại đức Tăng ni và phật tử từ Á, Âu, Mỹ, Úc… không
phân biệt màu da, chủng tộc, ngu trí, giàu nghèo, Tăng tục… đều tụ tập
về đây để cầu nguyện, mong muốn có một xã hội công bằng, văn minh,
tiến bộ … để con người không còn bị khổ đau, bịnh tật, đói nghèo
và ngu dốt nữa. Tâm nguyện này không phải của riêng ai mà của cả toàn
nhân lọai trên hành tinh này đều hướng về ý tưởng đó. Nhân dịp
này, thiết tưởng việc trầm tư ôn lại cuộc đời và ý nghĩa Phật thành
đạo, hay nói cách khác ôn lại vai trò của nền giáo lý Đức Phật không
phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý đó có những tư tưởng
tiến bộ để con người có thể tự xây dựng một xã hội mà con người
đang đi tìm giải pháp.
Kỷ niệm lễ Phật thành đạo, chúng
ta thành tâm dâng hương trầm hoa trái, lời kinh tiếng kệ, chuông trống cờ
phướng… dâng lên bậc Đạo sư vô thượng; chúng ta thành tâm tưởng niệm
Đức Từ phụ mà sự giác ngộ của Ngài là một điều hy hữu, là lợi lạc
lớn lao cho mọi chúng sanh, là ánh sáng trí tuệ xua tan bóng tối vô minh
và đau khổ. Như: "Mặt trời chiếu sáng ban ngày, ánh trăng chiếu sáng
ban đêm, khí giới chiếu sáng dòng vua chúa, thiền định chiếu sáng bậc
tu hành; nhưng hào quang Đức Phật thì cả ngày và đêm chiếu sáng cả thế
gian này."
Mong sao đêm nay dưới ánh sáng lấp
lánh lung linh của ngàn sao chiếu sáng trên trời, dưới ánh nến cháy đỏ
thiêng liêng bất diệt của ngàn ngọn nến bên cội bồ-đề, cầu nguyện
cho tất cả hữu và vô tình trên khắp thế giới đều được đượm nhuần
hồng ân ánh sáng giác ngộ của Ngài.
- Đêm với ngàn sao lung linh
- Ôi ! những vì sao như mắt ai
- Từ vô lượng kiếp
- Đón chờ một bình minh …
- Phía trời đông
- Ánh sao Mai xuất hiện
- Từ đường chân trời lấp lánh nói cùng ai
- Ánh quang minh
- Tràn ngập thế gian này
- Không như mặt trời
- Chỉ soi sáng một nửa thời gian.
- Một nửa kia là bóng đêm ngự trị
- Không như đóa hoa
- Bừng hương sắc
- Và tàn lụi.
- Nụ cười Cồ-đàm từ trí giác vô biên.
- Đêm bình an cho ba ngàn thế giới
- Đêm vời vợi
- Ai về tắm gội hồng ân.
SÁCH THAM KHẢO
Kinh Pháp Cú, Thích Trí Đức (dịch), AᮠĐộ,
1999.
Narada Maha Thera,. The Buddha and His Teachings.
(Singapore: Buddhist Meditation Centre, 1973)
Thích Hạnh Nguyện & Vô Thức,. Xứ
Phật Tình Quê, tập I. (Ấn Độ: Đại thừa xuất bản, 1996)
Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ
Thông, I & II. (TP. HCM: THPGTP HCM, 1989)
W. Rahula,. Con Đường Thoát Khổ,
TN. Trí Hải (dịch). (Sài Gòn: Đại học Vạn Hạnh, 1966).
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/114-tramtu.htm