- BẢN CHẤT CỦA BỒ-ĐỀ,
GIÁC NGỘ, NIẾT-BÀN
- VÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
- (Thân kính tặng Anh Chị Em Áo
Lam)
- Tâm Minh
Phiền não đau khổ hay tự tại an
vui là ở ngay tại lòng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng chạy
theo 6 trần thì sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn. Vụng tu là buông
lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất tình, chạy theo 6 trần
thì phiền não khổ dau theo sau tức thì.
***
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải
thoát khỏi khổ đau phiền não, khỏi ba thứ độc tham, sân, si, giải
thoát khỏi ngã chấp... để chấm dứt sinh tử luân hồi. Bồ-đề,
niết-bàn được coi như là mục tiêu tối hậu của việc tu tập đạo giải
thoát. Chúng ta thử tìm hiểu bản chất, cội gốc của bồ-đề, giải
thoát và niết-bàn qua các lời dạy của chư Phật, chư Tổ. Vì đã
nói đến bồ-đề, niết-bàn tất phải nói đến sinh tử và luân hồi vì
đây là một cặp đối đãi. Biết được nguyên nhân của phiền
não tất sẽ biết được cửa giải thoát; và đức Phật cũng đã vẽ ra
con đường giới định tuệ, dựa trên sự tu tập tám Chánh đạo để giúp
chúng ta chặt đứt vô minh, nguyên nhân của đau khổ phiền não và sinh tử
luân hồi. Do đó tìm hiểu bản chất của bồ-đề và niết-bàn cũng
đồng nghĩa với sự tìm hiểu nguyên nhân của sinh tử luân hồi vậy.
Còn giác ngộ là thấy rõ cái ngục tù đã giam giữ mình và người giữ
ngục chính là vô minh. Khi kẻ giữ ngục đã bỏ đi (=giác ngộ) thì nhà
tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.
Ngài A-nan hỏi đức Phật trong kinh
Lăng Nghiêm: "cái gì là cội gốc của sinh tử luân hồi (STLH) và cái
gì là cội gốc của bồ-đề và niết-bàn (BĐNB)? "Chư Phật mười
phương đều trả lời A-nan: cội gốc của STLH là 6 căn của ông và
cội gốc của BĐNB cũng chính là 6 căn của ông. Tại sao vậy?
Tại vì, nếu khi 6 căn (mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp) mà không biết phòng vệ, lại phóng tâm ra để chạy theo 6 trần thì
phiền não khổ đau sẽ theo đó mà kéo tới, đụng đâu thì dính mắc đó,
và chính sự dính mắc là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Thế nào là
dính mắc? Lấy vài ví dụ trong cuộc sống hằng ngày với sự
dính mắc của mắt, tai, mũi, lưỡi... khi tiếp xúc với 6 trần và sự thực
hành tám Chánh Đạo để đối trị vì chúng ta tiếp xúc với thế giới
bên ngoài là nhờ 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi...
SỰ DÍNH MẮC CỦA MẮT VỚI
SẮC TRẦN
Tại sao đức Phật nói "mắt
là biển lớn mà người phải vượt qua." Vì mắt nhìn thì ham muốn
liền khởi, tâm liền dao động: ưa-ghét, lấy-bỏ liền hiện ra dưới đủ
mọi hình thức. Để đối trị với "các tật của mắt," đức
Phật dạy chánh kiến (= thấy đúng với bản chất của sự vật): người
phát triển chánh kiến là người biết nhìn mọi sự vật, hiện tượng
"như - nó - là" (as it is) nghĩa là nhìn mọi sự việc, hiện tượng
dưới ánh sáng của vô thường, vô ngã, không tham đắm, không xua đuổi.
Được như vậy, tâm chúng ta sẽ ở trạng thái bình thuờng, không bị khuấy
động, đó là ý nghĩa của "giữ tâm ý trong sạch" mà ta thường
nói. Nghĩa rốt ráo của chánh kiến vì vậy, là không phân biệt.
Tâm phân biệt phát xuất từ ham muốn và si mê. Thật vậy, tâm phân
biệt sai sử ta thấy cái này đẹp, cái kia xấu, người này hay kẻ kia dở
v..v.. Đúng ra ta phải nhìn thấy cái ngọt của mật ong không tốt hơn
cũng không xấu hơn cái đắng của trái khổ qua, con chim bồ câu không đẹp
hơn hay xấu hơn con chim se sẻ, hoa hồng thơm không tốt hơn cũng không xấu
hơn thùng rác bẩn v. v.. Trong thế gian luôn có sự bất đồng, ta không thể
đòi hỏi sự tương đồng; ngược lại ta phải học hỏi từ những bất
đồng đó, có những điểm tương đồng bên trong mọi sự vật:
đó là tính vô thường, tính "không thực có" (vô ngã) của
chúng. Tương tự như vậy đối với con người và những bất đồng
về văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, tư tưởng, tình cảm... của
họ. Ngoài ra, ngay trong ta cũng có những cặp bất đồng: an lạc và
phiền não; tĩnh lặng và dao động, hạnh phúc và đau khổ v.v.. Chúng
ta phải thấy đúng (chánh kiến) là cả hai phần tử trong mỗi cặp dều
có cùng một bản chất là vô thường, vô ngã và không đem lại hạnh phúc
lâu dài. Sự thật nó là "như vậy" thôi - quan sát cho kỹ
tâm ta, ta sẽ rất bối rối khi tự đặt cho mình câu hỏi "cái cảm
giác hạnh phúc hay đau khổ ấy có phải là "tôi" hay " của
tôi" không ?" Như vậy, bằng thực hành, chúng ta đã áp dụng một
chi phần của tám Chánh Đạo, đó là, chánh kiến để điều chỉnh cái thấy
lệch lạc theo thói quen của mình.
Chánh kiến giúp ta hiểu biết được
sự tương đồng bên trong mọi người, mọi sự vật, hiện tượng, từ đó
chúng ta sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên
ngoài một cách khôn ngoan, không còn ham thuận lợi, ghét trở ngại; ưa hạnh
phúc, ghét khổ đau; ưa những người giống mình, ghét những người
khác mình v..v.. nữa. Nói cách khác nó giúp ta dần dần có được một cái
tâm cân bằng, ta sẽ được an lạc và có khả năng đem an lạc cho mọi
người quanh ta. Nói cách khác, khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần- ví dụ
mắt tiếp xúc với sắc - mà biết dừng lại, không khởi tâm phân
biệt để cho 6 trần dẫn dắt, biết quay về với chân tâm, thì đó là bồ-đề
niết-bàn.
Tóm lại: tiếp xúc mà không dính mắc
= bồ-đề và niết-bàn. Tiếp xúc mà dính mắc = Sinh tử luân hồi
SỰ DÍNH MẮC CỦA LỖ TAI VỚI
ÂM THANH
Tại sao "tai cũng là biển lớn
phải vượt qua?" - vì những lời khen tiếng chê, lời qua tiếng
lại cũng làm tâm dao động, dính mắc.
Nếu ta chỉ biết nghe những âm
thanh mà ta ưa thích thì đó là ta chưa hiểu biết hết cái kỳ diệu của
âm thanh: nếu chỉ thích nghe những lời ngợi khen mà rất ghét nghe những
lời chê bai thì lỗ tai chỉ làm việc một nửa, vì tất cả mọi
âm thanh đều là vui, tất cả mọi âm thanh đều là pháp; những lời
nói dữ là thử thách sự kiên định của tâm, là pháp rèn tâm, là
pháp điều phục tâm xao động. Như thế, những lời nói dữ chính bản chất
nó không dữ mà ta chấp nó dữ vì ta còn vướ鮧 mắc vào âm thanh, cho nên ta không nhận thấy thật
tánh của ngôn ngữ. Quán sát âm thanh đơn thuần là âm thanh thì hiểu được
Đạo: những lời khen tự nó không xấu nhưng chấp vào thì nó trở
thành độc dược. Khen hay chê đều không thể biến ta thành người
khác; khi ta điềm nhiên trước những âm thanh của một người chê bai ta,
chưởi mắng ta là ta đã độ được tâm mình, độ được người
ấy, mà chính cũng là người ấy đã độ ta. Biết bao nhiêu chuyện
đau lòng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại về những ông vua chỉ vì
nghe lời của nịnh thần mà đã giết lầm tôi trung,con thảo v..v..
cho nên "tai cũng chính là một biển lớn mà ta phải vượt qua"
Chuyện kể hồi Phật còn tại thế,
cũng có những người không ưa thích đức Phật vì đố kyay hiềm nghi
v.v.. Ví dụ như có một hôm một người Bà-la-môn đến "chưởi"
Ngài đủ thứ, đức Phật không hề trả lời hay cải
chính thanh minh v.v.. ngài chỉ mĩm cười, cái cười từ bi và hỷ
xả vốn có của Ngài. Người Bà-la-môn sau khi chưởi "đã cơn"
mới hỏi Ngài: sao tôi chưởi ông nảy giờ mà ông không giận ?
cũng không chưởi lại?
Đức Phật từ tốn đáp: khi Bạn
đem cho ai cái gì mà người ấy không nhận thì bạn phải làm sao?
- Thì tôi đem trở về !
- Cũng thế, nảy giờ bạn đem những
lời nhục mạ đến cho tôi nhưng tôi không nhận, xin bạn hãy
đem về.
Đức Phật như vậy là ngài không
dính, ngài an nhiên tự tại. Những lời nói ấy không làm ngài nổi giận
hay cau có, oán hờn người Bà-la-môn, ngài giữ được tâm bất động trước
6 trần (ở đây là thanh trần = tiếng nói, âm thanh)
Còn chúng ta thì sao? Ai nói động tới
là xụ mặt xuống liền, ai chưởi mình thì mình đánh họ v.v.. như vậy là
để cho 6 trần lôi cuốn, sai sử, vậy là "dính " cứng ngắt rồi,
làm sao mà ung dung tự tại được!!!
Do đó, phiền não đau khổ hay tự
tại an vui là ở ngay tại lòng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng
chạy theo 6 trần thì sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn; vụng tu là
buông lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất tình, chạy
theo 6 trần thì phiền não khổ dau theo sau tức thì. Ví dụ người khéo
tu thì nghe chưởi cũng cười nghe khen cũng cười; người vụng
tu nghe khen thì tươi cười hớn hở, nghe chưởi
thì liền nổI sân hay oán giận v..v.. Vậy cho nên an hay bất
an là do mình. Phật cũng không thể cứu độ cho chúng ta mà chỉ bày
phương pháp để dẹp bỏ khổ đau phiền não mà thôi, có áp dụng phương
pháp hay không là chuyện của chúng ta!
SỰ DÍNH MẮC CỦA MŨI VÀ LƯỠI
Có thể thấy rõ qua 2 câu của bài
"sám nguyện" mà ta đã đọc từ hồi rất xa xưa:
"Mũi ưa ngửi mùi hương bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện điêu
ngoa"
Nói cách khác, cái tội của mũi là
ham chạy theo những mùi hương làm say đắm lòng người, làm tối tăm trí
óc, rồi làm ra những chuyện bất thiện vì lúc đó, không kiểm soát được
mình, không còn biết mình đang làm gì. Bởi vậy, tu cái mũi là biết
"thở chánh niệm." Thở chánh niệm là "thở vào tôi biết là
tôi đang thở vào, thở ra tôi biết là tôi đang thở ra" mà không
chú ý đến cái gì khác ngoài hơi thở. Thật là đơn giản nhưng thật sự
rất khó làm. Thật vậy, ai đã từng thực tập đếm hơi thở đều
thấy rõ; vì nếu thiếu sự chú tâm, tỉnh thức thì sẽ đếm nhầm ngay,
đó là chưa nói có thể "suy nghĩ bao la vũ trụ" quên cả việc đếm
hơi thở !!! Năng lượng chánh niệm do hơi thở tạo ra sẽ giúp ta an
trú trong hiện tại, không tìm về quá khứ, không mơ tưởng tương lai -
nguyên nhân của khổ đau, phiền não - Được như vậy, ta sẽ không chạy
theo những "mùi hương bất tịnh" nữa. Khi đã có sự kiểm
soát hơi thở vững vàng, dần dần ta sẽ điều hoà được những ưa - ghét,
lấy - bỏ của 2 lỗ mũi; lúc đó mùi hôi không làm ta khó chịu, ghét bỏ,
giận dữ và mùi thơm cũng không còn khả năng lôi cuốn, chiếm giữ và
sai sử tâm ta nữa, cảm giác an lạc sẽ đến với những người biết điều
hoà hơi thở nghĩa là biết thở chánh niệm.
Còn cái lỗi của Lưỡi là ở
trong hai việc ăn và nói. Tham ăn cũng dẫn đến tai hại: dễ bị mua
chuộc khi được cho ăn ngon, đưa vào miệng những chất độc mà không biết
v..v.. làm hại dạ dày và các cơ quan khác của thân. Vì vậy, tu cái lưỡi
là khi ăn ta phải nghĩ là "ăn để sống," thức ăn có tác dụng
như thuốc hay, có thể nuôi sống thân mạng mình. Trước khi ăn, ta khởi lên
một niệm biết ơn những người đã trực tiếp và gián tiếp lo cho ta bửa
ăn này. Khi ăn, ta ngăn ngừa những tật xấu như tham ăn bằng cách
nhai thức ăn thật kỹ, không gắp lia lịa dù trong chén đang còn thức ăn,
không ăn quá no, không vừa ăn vừa lo lắng, suy nghĩ, giận hờn, phiền muộn
v..v.. như thế thì thức ăn mới được tiêu hoá dễ dàng, cái lưỡi
mới khỏi mang tội với toàn thân.
"Nói" cũng là "nghề"
của lưỡi. Lời nói có thể cứu sống một mạng người
cũng có thể giết chết một hay nhiều người, lời nói cũng có thể
làm sụp đổ một ngai vàng, có thể mang lại hòa bình cho nhân loại, cũng
có thể gây ra chiến tranh v..v.. từ xưa đến nay, từ Âu Tây sang Đông
Phương thật không thiếu gì những ví dụ. Những điều này nói lên sự
quan trọng của lời nói, trong Tám Chánh Đạo thì đây là chi phần
chánh ngữ. Chánh ngữ là không nói những gì sai với sự thật,
những lời chia rẻ, những lời căm thù, độc ác mà chỉ nói
những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu biết và
hoà giải. Tu cái lưỡi là phải hết sức thận trọng về lời
nói của mình, phải "uốn lưỡi bảy lần trước khi nói." Đừng
nói trong khi đang giận dữ, vì "giận thì mất khôn," cái lưỡi có
thể sẽ "phun" ra những nọc độc bắn vào người khác và sau khi
nguôi giận ta sẽ hối hận cả đời v..v..
Chuyện kể đức Thế Tôn sau khi
thành đạo trở về thăm gia đình, ngài đã cho La-hầu-la (Rahula) một bài
pháp đặc biệt như sau: Này La-hầu-la! Đừng vì bất cứ một
lý do nào mà phải nói những lời không chân thật, cho dù nó
có đem lợi đến cho mình hay bất cứ một ai. Sự trung thành của
mình đối với sự thật là một điều tối quan trọng; nó giữ cho những
liên hệ của mình với thế giới chung quanh được dễ dàng và đỡ phức
tạp hơn. Thành thật trong lời nói sẽ dẫn đến sự thành
thật với chính mình. Trong thân và tâm ta, có biết bao nhiêu chuyện
mà ta hằng trốn tránh: những đau đớn bực dọc mà ta không bao giờ muốn
nhắc đến, như vậy là ta đã không thành thật với chính mình. Chân thật
trong lời nói là căn bản cho sự chân thật trong tâm tưởng. Có
thành thật với chính mình ta mới có thể cởi mở tâm mình ra, và nhờ đó
mới có thể nhận diện và đối trị với mọi trạng thái bệnh hoạn của
tâm hồn.
Đối với Lục Tổ Huệ Năng thì
phiền não và bồ-đề không khác, trong phẩm thứ 2 của kinh Pháp Bảo Đàn
(Phẩm Bát-nhã) Ngài Huệ năng nói: "Này thiện tri thức! Phàm phu tức
Phật, phiền não tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm
sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa
cảnh tức Bồ-đề."
Thoạt mới nghe, tưởng như Lục Tổ
nói khác với kinh Lăng-nghiêm nhưng kỳ thực không hề khác, ngài còn nói
tiếp: Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm,
dụng khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh
nơi bản tâm khiến 6 thức ra 6 cửa đối trong 6 trần không nhiễm, không tạp,
đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là tự tại giải thoát, gọi
là vô niệm hạnh. Này thiện tri thức! Người ngộ được pháp
vô niệm thì muôn pháp đều không; người ngộ được vô niệm thì thấy
cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa
vị Phật" Như vậy Lục Tổ cũng dạy một điều "dính mắc là
sinh tử luân hồi mà không dính mắc là Bồ-đề niết bàn" vậy.
Theo Kinh A-hàm, hình ảnh sự dính mắc
của 6 căn vào 6 trần là hình ảnh một chú khỉ bị mắc bẫy: miệng cạp
trái cây bị dính cứng ngắt không nhả ra được, dùng thêm 2 tay đẩy ra
cũng bị dính, dùng 2 chân gỡ: dính luôn, rồi cuối cùng dùng cái đuôi phụ
vào cũng bị dính nốt ! Thế là chú khỉ như bị treo lên, không còn tự
do chạy nhảy leo trèo nữa, chỉ chờ người đến bắt! Tương tự,
người bị dính mắc theo 6 trần cũng y như chú khỉ này, mãi trôi lăn
trong cái bẩy sinh tử luân hồi không thể giải thoát đưọc.
Tóm lại, con đường dẫn đến Giác
Ngộ Giải thoát là con đuờng thu thúc 6 căn (mắt, tai mũi, lưỡi v.v. . .)
để khi tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị. . . ), không trôi
theo 6 trần, không dính mắc vào 6 trần, luôn luôn tự tại trước ngoại cảnh.
Đó chính là con đường chiến thắng chính mình, chiến thắng 10 "con
ma" bên trong mình; 10 con ma mà thái tử Tất-đạt-đa trước khi trở thành
đức Phật Thích-ca đã phải chiến thắng, đó là: nhục dục, nản chí,
đói khát, ái dục, dã dượi & hôn trầm, sợ hãi, hoài nghi & ngoan cố,
chiếm đoạt, tự phụ & khinh thường người khác.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/119-banchat.htm