- THỬ BÀN TU CHỨNG QUAN PHẬT
GIÁO
- Thích Hạnh Chánh
Kính dâng Đức Thế Tôn nhân
ngày thành đạo
Tu chứng quan là địa hạt quan trọng
nhất trong giáo lý Phật. Nó như một bức tường vững chãi, ngăn chận những
phiêu lưu của hành giả vào con đường tri thức phức tạp. Nếu không có
tu chứng quan thì giáo lý Phật chỉ là một loại triết học chỉ làm thoả
mãn tri thức hiếu kỳ mà thôi. Như một thông lệ, Đức Phâﴠluôn nêu ra
những phương thức để thực chứng những lời Ngài dạy trong những lần
thuyết pháp. Đó là sự thể hiện đặc trưng hai tính chất: Từ Bi và
Trí Huệ. Vì từ bi nên pháp Phật thuyết luôn viên mãn; vì trí tuệ là những
gì Ngài dạy là chân lý tối thắng qua kinh nghiệm tu chứng tự nội. Người
ta thường tán thán Đức Phật như một vị đại lương y toàn bích về
tài năng cũng như lương tâm. Ngài không nói lên cơn bịnh hiểm nghèo rồi
phó mặc bệnh nhân với nỗi sợ, chán chường, kinh khiếp; Ngài cúng
không dùng tài năng để khoe khoang, ru ngủ con bệnh trong huyễn hoặc, giả
tạo. Sau khi chỉ rõ bệnh lý, nguyên nhân tạo thành bệnh và phương thức
hữu hiệu dứt trừ bệnh, Ngài khuyến khích bệnh nhân hãy dùng phương
thuốc đó. Ngày nay, một số người trong chúng ta đã đi quá xa truyền thống
tốt này. Những bài giảng, những bài tham luận hoặc trở thành sự khoe
khoang kiến thức, sáo ngữ rỗng tuếch hoặc là hiện thân của những từ
ngữ giáo điều, kinh viện khô chết. Bình tâm một chút, chúng ta sẽ thấy
có những bài viết những từ ngữ Phật giáo đông tây kim cổ, nhưng không
có "chất Phật" nào cả. Xác nhận như vậy là để làm chuẩn đích
cho bài viết này, sẽ được trình bày theo hai chiều hướng: sách vở và
kinh nghiệm tu hành.
Tất cả giáo lý Phật qua ngôn thuyết
là những bước sơ khai cho người học Phật. Trước tiên, hãy xem nó như
là một sự điều chỉnh ngôn ngữ. Vì ngôn thuyết dù là chân lý, chỉ
giúp ta rũ sạch những khái niệm sai lầm về phạm trù tu chứng thực tại
với một ít kinh nghiệm của người đã đi qua. Sự rụng đổ những suy
diễn trong tâm thức, dầu có những bước nhảy vọt, cũng chỉ là những
bước đột phá giới hạn của tư duy hữu ngã. Sự dừng chân tại đây
đã không ích lợi gì mà còn khiến chúng ta rơi vào hai trạng thái: hoặc
tự cao, tự mãn hoặc ngây ngô trước thực tế như trường hợp Pháp Đạt
gặp Tổ Huệ Năng; Thần Tú lúc trình kệ với Tổ Hoằng Nhẫn. Nếu
không gặp minh sư, hai vị này đã không tự vượt qua chính mình vì ngôn
ngữ ràng buộc họ. Thực tế khẳng định, "cái gọi là" chỉ là
định đề thôi. "cái gọi là" giải thoát, niết-bàn không giải
quyết được những khổ đau quằn quại ngày đêm đang thiêu đốt chúng
sanh. Như một cơn bịnh trầm kha không thể nào chữa khỏi bằng những lời
khuyên của một bác sĩ cả. Vậy, niết -bàn và giải thoát, cái đích của
tu chứng quan, sẽ đạt đến bằng những phương pháp chân chánh và nỗ lực
không ngừng của hành giả. Một số người hiểu giáo lý Phật qua ngôn ngữ
thường thấy rằng đạo Phật phủ nhận giá trị cuộc sống, vì nơi họ
tu chứng quan không được nhìn thấy. Con đường tu chứng quan thường được
giới thiệu bằng Tam Vô Lậu Học: Gới, Định, Huệ.
Nó cũng là con đường truyền thống
được chư Phật ba đời và các bộ phái Phật giáo đều chấp nhận. Tam
vô lậu học này phải được thực hành trước tiên với chánh kiến,
chánh tư duy một cách liên lục. Kinh điển Nguyên Thuỷ xem việc hộ trì
giới bổn Patimokha như là căn bản ách yếu hỗ trợ duy trì chánh niệm
và dập tắt ác pháp do sáu căn nhiễm xúc sáu trần phát khởi. Tôi không
muốn xem giới như là những điều hỗ trợ có khả năng giúp chúng ta điều
chỉnh những rối loạn, mất thăng bằng do các thói quen tạp nhiễm gây ra
cho tâm sinh lý chúng ta. Sau khi điều chỉnh tự thân, các phương pháp như
hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác, tiết độ trong ăn uống, sinh hoạt
là các tiến trình tiếp theo cần thiết. Giới được thọ trì như là sự
tự nguyện, không có kiềm toả, bắt buộc. Muốn đi vào phạm trù này,
hành giả phải có những thăng trầm, sống chết trước thực tế cuộc sống,
nhận chân được những hoan lạc, khổ đau mà cuộc đời "dâng tặng".
Những phút giây cảm nhận sống chết trong mọi cảm giác sẽ giúp hành giả
thấy được cuộc đời là vô thường. Sau những phút giây trực nhận đó,
hành giả phải luôn duy trì chánh niệm: cái gì vô thường là khổ, cái
gì khổ là vô ngã, cái gì vô ngã phải tuệ tri: "Cái này không phải
là ta, cái này không phải của ta, cái này không phải là tự ngã của
ta." Đây không phải là một bản nhạc chỉ được hát lên khi hứng
khởi, mà phải được thường xuyên thấybằng chánh niệm với nghị lực
sắt đá.
Đức Phật thường bác bỏ những
quan niệm phiêu lưu, thoả mãn tri thức trong lĩnh vực tu học. Người học
Phật không phải để giải quyết tính hiếu kỳ hoặc để tranh luận khoái
khẩu. Thái độ học Phật, trước tiên phải xác quyết là thái độ
"gạn đục khơi trong." Đức Phật thường im lặng trước các câu
hỏi siêu hình, phi thực tế về vũ trụ nhân sinh. Đây là thái độ tràn
đầy từ bi và trí tuệ của Phật. Ngài không muốn đẩy đưa những ngôn
thuyết của mình vào đầu óc đệ tử như là một sự nhồi sọ, sơ cứng;
Ngài cũng không muốn ai hiểu mình, tin mình qua những lời dạy khô chết;
Ngài lại càng không muốn biến những lời dạy thành các giáo điều, kinh
viện được mạ vàng để cất giữ trong tâm trí đệ tử. Chúng ta nên hiểu
những lời Phật dạy là tấm bản đồ và ước mong duy nhất của Ngài
là chúng ta hãy nhìn rõ tấm bản dồ, rồi hãy bước những bước chân
kiên định trên những con đường đã chỉ dạy. Thái độ ca tụng hoặc
chỉ trích tấm bản đồ là không cần thiết và chẳng giúp ích gì cả
cho những người tu học.
Daiseiz Teitaro Suzuki có góp ý về
quan điểm này như sau: "học Phật mà chỉ thấy lý vô ngã, không màng
thâm cứu lý giác ngộ ắt không nhận chân được tất cả ý nghĩa của
thông điệp Phật trao cho thế gian. Kể ra trên phương diện tâm lý, Phật
phủ nhận cái tôi sau khi nghiền nát nó từng phần, chỉ một việc ấy,
trên phương diện khoa học, Phật đáng gọi là vĩ đại rồi, vì khả năng
phân tích của Phật vượt hẳn người đương thời. Tuy nhiên, nếu chỉ
có vậy thì ảnh hưởng của Phật, với tư cách lãnh đạo tinh thần, không
thể phổ quát và lâu dài đến thế. Giáo lý vô ngã của Phật không phải
chỉ thiết lập bằng sự khảo sát khoa học như hiện nay, mà cốt yếu hơn
là sự tu chứng, nếu vô minh được thấu triệt đến cùng lý thì vô minh
diệt là đương nhiên, cái tôi cũng bị phủ nhận luôn, không còn là một
thực thể căn bản hoạt động trong đời. Giác ngộ là một quan niệm thực
tế rất khó nhận chân được cho người thường, chỉ khi nào ta nhận ra
được ý nghĩa của nó trong toàn bộ Phật giáo và dồn hết nỗ lực nhằm
thực hiện nó thì đương nhiên mọi việc khác sẽ tự giải quyết lấy,
như khái niệm về: ngã, ngã chấp, vô minh, triền phược, lậu hoặc v.v…giới
hạnh, quán tưởng, cầu lý, tất cả phương tiện ấy chỉ nhằm đưa đến
cứu cánh duy nhất đặt ra cho Phật giáo." (Thiền Luận, Quyển Thượng,
Trúc Thiên dịch, trang 208-209, nxb TP. HCM, 1992).
Tác giả nêu thâm ý ấy sau khi hiểu
được lý vô ngã, hành giả phải "thâm cứu lý giác ngộ"; cụm từ
này cho thấy đây là tiến trình thứ hai là phải thực chứng vô ngã chứ
không hiểu trên danh từ. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh mạnh vào
sự mê ngủ của những người tham cứu giáo lý Phật như một loại triết
lý, hoặc tìm kiếm những giới hạn, những mong manh diệu vợi của ngôn từ
mà đánh giá phê bình để bảo vệ luận điểm "tri thức béo
phì" của mình. Những thái độ này hoàn toàn xa lạ với tông chỉ Phật
thuyết. Những người này sẽ không an hưởng được một sự bình an nào
trong chánh pháp.
Chúng ta thường bắt gặp thái độ
phủ nhận những gì sau khi tuyên thuyết của Phật nơi kinh điển - từ
nguyên thuỷ đến phát triển. Sự phủ nhận này không phải từ chối những
gì mình dạy, đó là sự xác nhận những gì mình thuyết không phải là bản
chất như thật những gì mình đã nói. Sự phủ nhận này cũng không ngăn
trở đệ tử mình trong lãnh vực học tập mà đó là thái độ thích ứng
để giáo dục đệ tử vượt qua và quên đi những gì chứa đựng trong ngôn
từ. Vì cái nói về chỉ là một sự ám chỉ cái đang nói, chứ không phải
là tự thân nó. Hiểu được như thế thì mới thấy rõ cái đang nói là
gì. Đây không phải là lý luận lẩn quẩn mà là sự trực nhận ngữ
ngôn.
Kinh Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh
Xà Dụ (số 22, Trung Bộ II) thường nêu những câu xem lời Phật dạy chỉ
là phương tiện đạt đến chân lý, nó không phải là chân lý. W. Rahula đề
cập đến vấn đề như sau: Once the Buddha explained the doctrine of cause and
effect to his disciples and they said that they saw it and understood it clearly. Then the
Buddha said: "O Bikkhus, even this view, which is so pure and so clear, if you cling
to it, if you fondle it, if you treasure it, if you are attached it, then you do not
understand that the teaching is similar to a raft, which is for crossing river, and not
for getting hold off. (What the Buddha Taught, p.11).
Tạm hiểu: một hôm Đức Phật giảng
cho các Tỳ-kheo về thuyết nhân quả, và các vị thưa rằng đã thấy và
hiểu điều đó một cách rõ ràng. Phật liền dạy: này các Tỳ-kheo, ngay
cả quan niệm này rõ ràng, tong sáng như vậy; nhưng nếu các Thầy bám chặt
vào nó, nếu các Thầy quý trọng nó, nếu quý Thầy cất giữ nó, nếu
các Thầy ràng buộc với nó thì chính các Thầy không hiểu được rằng
giáo lý như một chiếc bè, chủ yếu để dùng vượt qua dòng sông, chứ
không phải để nắm lấy.
Xa hơm một bước, sự phủ nhận các
pháp không thật có, như huyễn mộng, không chỉ dừng lại ở các cảm thọ
thông thường, đối đãi hữu biên mà Thế Tôn còn phủ định những cảnh
giới chứng đắc nữa. Thật là một lời tuyên thuyết làm rung chuyển
các triết thuyết đương thời. Vì quả vị tu chứng là những khổ luyện
liên tục, phải trải qua nhiều thăng trầm kinh khiếp. Sự phủ nhận này
có làm các đệ tử Thế Tôn mất thăng bằng và chán nản không? Không.
Các đệ tử chân chánh hành trì những lời Phật dạy, xem sự phủ nhâﮠnày
là một sự nâng đỡ bước chân của mình đi đến toàn thiện. Nó giúp
cho các vị không bị trói buộc, bế tắc, tham đắm nơi những cảnh giới
huyễn mộng mình thân chứng. Chúng ta xem sự phủ nhận toàn triệt này,
trích từ Tiểu Phẩm Bát-nhã: "lúc bấy giờ các vị thiên tử suy nghĩ
như vầy: những ai là người có thể tuỳ thuận nghe những điều tôn giả
Tu-bồ-đề nói? Tu-bồ-đề biết rõ những gì các vị thiên tử đang suy
nghĩ và nói với họ rằng: người huyễn có thể tuỳ thuận nghe những
điều ta nói, sự nghe cũng không và sự chứng cũng không." Các vị
thiên tử nghe xong nghĩ thế này: "nếu người nghe mà huyễn thì chúng
sanh cũng như huyễn, Tu-đà-hoàn quả đến Phật đạo cũng huyễn."
Tu-bồ-đề biết rõcác suy nghĩ của các thiên tử bèn nói với họ rằng:
tôi nói chúng sanh như huyễn, như mộng; Tu-đà -hoàn quả cũng như huyễn,
như mộng; Tư-đà-hàm quả cũng như huyễn, như mông; A-na-hàm quả,
A-la-hán quả, Bích Chi Phật quả cũng như huyễn, như mộng." Các vị
thiên tử nói: thưa Ngài Tu-bồ-đề, phải chăng Ngài nói Phật Pháp cũng
như huyễn, như mộng? Tu-bồ đề: Này các thiên tử, giả như có pháp nào
cao hơn Niết-bàn, tôi cũng nói là như huyễn, như mộng. Các vị thiên tử,
Niết-bàn và huyễn mộng không khác không hai." Thích-đề-hoàn-nhân
nghe xong tán thán: trí tuệ của trưởng lão Tu-bồ-đề thật là sâu xa,
ngài thuyết thật nghĩa mà không hoại giả danh" (Triết Học Tánh
Không, Tuệ Sĩ, trang 39-40, An Tiêm xuất bản).
Qua đoạn kinh này ta thấy huyễn mộng
được sử dụng như là một công cụ công phá sự còn nương chấp vào thực
tế cảnh giới tu chứng của các vị thiên tử. Đây là cứ diểm tập
trung mọi bám víu nhỏ nhít cuối cùng trong tâm trí của người tu hành. Bước
tháo gỡ cuối cùng này có giá trị tuyệt đối, đặt hành giả vào tình
thuống đứng trên đầu sào trăm thước và hối thúc nhảy một bước vào
hư không trong tư thế buông xả hai tay. Tu chứng quan Phật giáo đặc sắc
ở điểm này. Nếu không có bước xả ly cuối cùng thì đạo Phật đã
xác lập tu chứng quan tương tợ Bà-la-môn giáo, xem Đại Ngã là nơi
nương tựa cuối cùng của muôn ngàn tiểu ngã. Sự bàng hoàng đến mức
nghi ngờ của các thiên tử ở đoạn kinh nêu trên không có gì là lạ cả.
Vì chư vị đang trong quá trình tu tập, nên nhị nguyên đối đãi là phạm
trù chư vị đang an trú. Trưởng lão Tu-Bồ-dề không phải thúc đẩy chư
vị đến chỗ hoang mang mà thực ra là giúp chư vị phá tan những vướng bận
tâm trí do ngôn từ đem lại. Thế Tôn thuyết, hết thảy pháp đều vô
ngã, từ thực tại đến thực tế. Hai phạm trù này không tách rời nhau
dù có sai biệt trên ngôn từ. Dụ như bóng tối và ánh sáng. Ta gọi là
ánh sáng vì có bóng tối. Đó là tuỳ thời, tuỳ nhân, tuỳ duyên mà tạm
gọi; khi gọi là ánh sáng không có nghĩa là không có bóng tối. Ngược lại
cũng thế, vào cấp độ của trưởng lão Tu-bồ-đề, dầu an trú Niết-bàn
thì Niết-bàn cũng là huyễn, vì nơi Ngài đã vắng mặt các ngã và ngã sở.
Khi dùng ngôn ngữ để nói về bản chất sự vật, điều trước tiên
chúng ta phải hiểu là trong tận cùng ngôn ngữ trở thành phi thực. Muốn
định nghĩa bản chất sự vật ta phải thấy rõ định nghĩa là khẳng định,
mà khẳng định luôn bao hàm những phủ định khác. Dụ như khi ta khẳng
định một cái bàn thì đó là sự phủ nhận hằng bao cái không phai là
cái bàn như không phải là cái tủ, cái ghế,v.v… vậy là khẳng định và
phủ định không phải là những sự thể chống đối lẫn nhau nữa. Chúng
sinh hoạt trật tự theo quy luật hiển nhiên và vận hành tuỳ theo chủng
loại. Thế nên, trong phủ định có khẳng định, trong khẳng định có phủ
định. Vậy huyễn là thực, thực là huyễn; Niết-bàn là sanh tử, sanh tử
là Niết-bàn.
Thiền sư Huyền Giác Vĩnh Gia trong
Chứng Đạo Ca có đề cập đế鮠tu chứng
quan như sau:
- "Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân
- Vô minh thật tánh tức Phật tánh
- Huyễn hoá không thân tức pháp thân"
Cư sĩ Trúc Thiên luận như sau: Vô
minh không phải là chơn nên đừng tìm cầu, không phải là vọng nên đừng
trừ. Còn cầu, còn trừ là còn bị phân tâm. Còn gây chướng ngại. Nghĩ
nhiều thì bị cái chướng của phiền não. Biết nhiều thì bị cái chướng
của sở tri. Phiền não chướng ngăn lấp Niết-bàn. Sở tri chướng ngăn lấp
trí tuệ. Tuy nhiên, dưới ánh sáng nhất như, trí tuệ và vô minh cũng như
mọi cặp đối đãi khác của tri thức suy luận, đều ứng hiện từ tánh
Phật và như thế dựa vào cái thực của tự tánh. Nói một cách khác,
ngoài vô minh không có tự tánh, ngoài tự tánh không có vô minh. Vô minh chỉ
là một ảo tưởng không có thực chất, không thực có. Khi diệt trừ hết
vô minh, mới rõ "tánh" của vô minh là tánh Phật, bình đảng như
nhau. (Chứng Đạo Ca- Huyền Giác, Trúc Thiên giới thiệu, Lá Bối, 1970).
Luận giải như thế là đúng. Nếu
tánh Phật đối lập vô minh thì có hai từ những tự thể riêng biệt sanh
ra; chúng tồn tại tương khắc nhau trong chung cùng thân tâm chúng ta.
Sự phá vỡ hay thắng thế của phạm
trù này trên phạm trù kia luôn tạo cho chúng ta sự mất thăng bằng vào một
khoảng không nhất định. Thực tế cho thấy, từ những sự vật nhỏ bé
cho đến núi sông, đều hiện hữu trong chung cùng một bản thể. Sự diệt
vong của một sinh vật là một sự hình thành của một sinh vật khác.
Nói tóm, tu chứng quan Phật giáo
là cửa ngõ ách yếu mà hành giả sau khi thông lý- những lời Phật htuyết
phải được thực hành một cách liên tục bằng con đương truyền thống
Giới - Định - Tuệ. Bằng cách này những xả ly cuộc đời do ngã tạo
nên mới rụng đổ, và những cảnh giới không thật sau khi ngã rụng đổ
sẽ không còn, hành giả sẽ được tự tại trong các pháp. Từ đó mang
ánh sáng trí tuệ và từ bi đi vào đời phục vụ nhân loại, cải tạo
xã hội. Khi ấy, ánh tà dương của buổi chiều huy sẽ là ánh thái dương
rực rỡ của buổi bình minh; tiếng sóng gào của đại dương sẽ là bản
du ca cho lão ngư ông thong dong gác mái chèo nhìn về viễn phố.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/122-tuchung.htm