- TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật
giáo
Tu Phải Là Hiền
Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo
Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp
Chánh Báo Và Y Báo
Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả
Thần Thông và Nghiệp Lực
Tu có chuyển được nhân quả không?
Tu Phải Là Hiền [^]
Buổi nói chuyện hôm nay tôi
nhắm vào Quý Phật tử Phước Thái nhiều hơn là Quý Phật tử ở các nơi.
Vậy Quý vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ở đây tôi không giảng những đề tài
cao siêu, mà đặt những câu hỏi rất thực tế, rất thấp, quý vị hãy
trả lời đúng như chỗ mình biết, để rồi tôi hướng dẫn cho quý vị
tu hành.
- Quý vị đi chùa học đạo, có phải
tu theo đạo Phật không?
- Thưa Phải.
- Vậy người tu là hiền hay dữ?
- Dạ hiền.
- Người đi chùa, lậy Phật, ăn
chay, tụng kinh, nếu có người xúc phạm đến thì nóng nảy la lối. như vậy
có hiền không?
- Dạ chưa hiền.
- À, chưa hiền tức là chưa tu. Vậy
đi chùa tụng kinh mà chưa hiền chưa gọi là người tu. Người tự nhận mình
tu theo đạo Phật mà chưa hiền thì sao?. Phải tu thế nào mới gọi là tu
theo đạo Phật. Và làm thế nào để được hiền, quý vị biết không?
- Dạ chưa biết.
- Đây tôi hướng dẫn cho quý vị
để thành người hiền rất thực tế và dễ dàng. Theo tinh thần đạo Phật,
tu là tu ở ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp.
Khi chưa biết tu, Thân có khi làm
lành có lúc làm dữ, miệng có khi nói lời thiện có lúc nói lời ác, ý
có khi nghĩ tốt có lúc nghĩ xấu.
Khi biết tu thì việc lành nên làm,
việc dữ nên tránh. Lời thiện thì nói, lời ác thì chừa. Điều tốt thì
nghĩ, điều xấu thì dừng. Người biết tu thân không làm ác, miệng không
nói ác, ý không nghĩ ác, đó là người hiền.
Tu chủ yếu không phải ăn chay nhiều,
vậy mà Phật tử cứ đua nhau ăn chay, cho ăn chay nhiều là tu, chứ không
biết tu là chừa ba nghiệp ác. Nhân gian có câu ca dao để nhạo báng người
ăn chay mà không hiền.
Sân si nghiệp chướng không chừa
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì?
Tham sân si là nghiệp chướng của
thân miệng và ý thì không chịu chừa bỏ, mà cứ đua nhau ăn chay, rồi
cho đó là tu, tu như vậy không đúng với chủ trương của đạo Phật. Tu
là thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Trong gia đình, nếu mọi người không
biết tu thì cứ cãi và chửi bới gây phiền não cho nhau. Thậm chí gây
cãi không nguôi còn giận thì đánh đập, đánh đập không thỏa mãn cơn
giận thì tình nghĩa không còn, mà tình nghĩa đã hết thì ly dị chia tay,
gia đình đổ nát.
Nếu mọi người biết tu thì ý vừa
khởi nghĩ ác, liền biết xấu chế ngự không dám nói lời nặng, không
nói nặng thì đâu có cãi, không cãi thì làm gì có đánh đập, không đánh
đập thì đâu có ly dị, gia đình thường an vui hạnh phúc.
Như vậy, nếu người biết tu thì
ý không bao giờ nghĩ xấu cho ai, tâm không bực bội phiền não, lúc nào cũng
vui vẻ an ổn. Nếu ý không nghĩ xấu thì miệng thân đâu có nói, làm hung
ác khiến cho người đau khổ. Mà không làm khổ người thì được người
thương mến, người thương mến thì không hại, nếu có chuyện bất trắc
thì được người giúp đỡ.
Khi đã biết tu thì thân miệng ý
lúc nào cũng thiện, ba nghiệp mà thiện thì tự thân được an vui, trong
gia đình trên thuận dưới hòa, ngoài xã hội không gây xáo trộn sẽ được
trật tự an bình. Như vậy người biết tu, chẳng những chính bản thân
mình được lợi ích, mà gia đình và xã hội cũng được lợi ích. Đó
là người tu đúng theo lời Phật dạy.
Nếu chỉ biết ăn chay, tay lần tràng
hạt, mỗi khi có ai xúc phạm đến thì la lối chửi rủa không thua ai; Người
như thế không hiền, chưa phải là người tu. Do vậy, nên bị kiêu ngạo:
"Ngoài miệng thì nam mô, trong bụng thì chứa một bồ dao găm".
Ngoài miệng thì niệm Phật lâm
râm, nhưng trong tâm thì quá hung dữ. Thế nên, cho ăn chay nhiều, niệm Phật
nhiều là tu mà không chịu chuyển thân, miệng, ý cho thiện thì làm trò cười
cho thiên hạ. Vì vậy, khi nói lời tu, người Phật tử phải nhớ thân miệng
ý phải thiện.
Phật dạy, tu một giờ, là được
an vui hạnh phúc một giờ, tu một ngày là được an vui hạnh phúc một
ngày, tu một năm là được an vui hạnh phúc một năm. Nhưng gần đây có một
số Phật tử nghĩ rằng ăn chay, đi chùa, làm công quả có phước nên ham
đua nhau làm.
Ví dụ, trong gia đình trung bình ăn
chay một tháng bốn ngày, vì nghe nói ăn chay có phước nhiều được khen,
nên người vợ tăng thêm sáu ngày, rồi mười ngày... chồng con ăn theo không
nổi nên có chuyện xào xáo trong gia đình. Rồi than trách rằng mình muốn
tu muốn tiến, mà bị quỉ nó phá nó ngăn không cho tu tiến, Người nghĩ nói
như vậy có tu không? Tu mà ý khởi nghĩ ác, miệng chửi chồng con là quỉ.
Như vậy, chưa phải là người Phật tử chân chính.
Người Phật tử chân chính không
đặt nặng việc đi chùa thường, tụng kinh giỏi, ăn chay nhiều, mà phải
biết tu ba nghiệp thân khẩu ý cho thiện. Tức là chuyển ba nghiệp ác
thành ba nghiệp thiện, đi chùa niệm Phật ăn chay là phải nhớ từng hành
động, từng lời nói, từng ý nghĩ luôn luôn phải thiện. Như vậy, có
lúc nào là không tu. Chẳng hạn thân cuốc cỏ, xưa thấy rắn thì lấy cuốc
đập chết, nay thấy rắn tránh không đập, đó là chuyển nghiệp thân ác
thành thiện. Xưa khi tiếp xúc với bạn bè họ nói lời hung dữ làm mình
tức giận bèn nói nặng lời cho bõ ghét, nhưng nay nhớ mình là người tu
không được lớn tiếng gây cãi nên im lặng mà nhẫn nhịn. Đó là chuyển
nghiệp khẩu ác thành thiện.
Lúc ngồi một mình vừa khởi nghĩ
xấu về người liền hổ thẹn dừng không nghĩ nữa. Đó là chuyển nghiệp
ý ác thành thiện. Tu như vậy, đâu có đợi vô chùa tụng kinh lạy Phật
mới tu, mà giờ nào ở đâu tu cũng được, thế mới đúng ý nghĩa tu của
đạo Phật. Nếu hiểu và tu như vậy, thì lo gì mai kia không được về cõi
Phật. Trong kinh có câu:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh Đồng
Phật vãng Tây phương"
Ba nghiệp mà hằng trong sạch thì
đồng với Phật về cõi Phật. Nếu không bỏ ba nghiệp ác mà cố niệm
Phật nhiều câu Phật A-Di-Dà rước về Cực Lạc, cũng không được rước
về, vì ba nghiệp còn ác thì về đó cứ gây cãi đánh đập hoài biến
cõi Cực Lạc thành cõi Ta Bà khổ hay sao ?
Vậy, tu cốt là chuyển ba nghiệp
ác thành ba nghiệp thiện là bước đầu, tụng kinh niệm Phật là bước kế
tiếp. Bước đầu là nền tảng mà không thực hiện trước, lại đi bước
thứ hai, giống như cất nhà lầu mà không xây nền móng, quyết định cái
nhà sẽ đổ không thành.
Lại cũng có nhiều Phật tử đi chùa
lâu năm, ăn chay, niệm Phật, Nếu con cháu có làm gì phật ý thì mắng chửi
không tiếc lời, khiến cho con cháu buồn không thương mến. Rồi viện cớ
là chỉ hiền với người ngoài thôi, đối với con cháu trong nhà phải
khó phải dữ nó mới sợ. Người Phật tử nói vậy là không đúng. Tu là
phải hiền, hiền với tất cả mọi người, từ trong nhà cho đến ngoài
xã hội. Giả sử con cháu có làm bậy, làm sai, thì nên ôn tồn nhỏ nhẹ
khuyên dạy con cháu. Đừng nên chửi bới la rầy, vì lúc nóng giận không
kiểm soát được ý nghĩ lời nói, sẽ nói bậy, mà nói bậy thì mất uy
tín với con cháu.
Kinh Phật ví dụ một Trưởng giả
có tất cả bốn bà vợ. Người thứ nhất rất trung thành với ông, thế
mà suốt ngày ông không nghĩ tới. Người vợ thứ hai được ông lưu ý
chút ít. Người vợ thứ ba được ông nhắc nhở liền miệng. Người vợ
thứ tư thì ông ở đâu bà có mặt ở nơi đó, Không rời một gang tấc.
Một hôm ông đau nặng sắp chết, hỏi cả bốn người vợ:
- Tôi sắp chết, trong bốn bà có
ai nguyện chết theo tôi không ?
Vợ thứ tư lên tiếng trước:
- Bình thường ông ở đâu thì có
mặt tôi ở đó, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cửa.
Vợ thứ ba lên tiếng tiếp:
- Bình thường tôi được ông lưu
ý nhắc nhở liền miệng, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cổng.
Vợ thứ hai nói:
- Bình thường tôi cũng được ông
nhắc nhở, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới mộ.
Vợ thứ nhất nói:
- Bình thường tuy ông không nghĩ tới,
nhưng bây giờ ông chết, tôi nguyện chết theo ông.
Qúy vị thấy ông Trưởng giả quá
bất công và bội bạc, người thương mình, trung thành với mình thì lơ là
không nghĩ đến, người thương ít thì luôn luôn theo dõi không rời... ông
Trưởng giả bất công bội bạc này Phật dụ cho mỗi người chúng ta.
Người vợ thứ tư Phật dụ cho tiền
bạc, chúng ta ở nhà, hay đi đâu đều có tiền trong túi không thể thiếu
nó. Nhưng khi chúng ta chết thì nó nằm trong tủ hoặc ở nơi rương thuộc
phạm vi trong nhà, vì vậy mà nói đưa tới cửa.
Người vợ thứ ba dụ cho của cải
sự nghiệp nhà cửa, nó nằm ở trong phạm vi vòng rào nhà, nên nói đưa tới
cổng.
Người vợ thứ hai dụ cho công
danh chức tước khi đưa quan tài người chết tới huyệt thì đọc điếu
văn kể công trạng rồi mới hạ huyệt chôn cất, nên nói đưa tới mộ.
Người vợ thứ nhất dụ cho nghiệp
lành hay nghiệp dữ theo mình như hình với bóng, có mình ở đâu thì có
nó ở đó không rời nhau, nên mới tình nguyện chết theo.
Tác động của thân khẩu ý lặp tới
lặp lui nhiều lần gọi là nghiệp. Người dậy học hằng ngày thì gọi
là nghề giáo hay nghiệp giáo. Người cùng làm một việc thì gọi là bạn
đồng nghiệp. Có người là có nghiệp. Người nghiệp không rời nhau.
Giả sử như ông thầy giáo đi đường
có mang theo một số tiền của, bất thần ông bị tai nạn, bao nhiêu tiền
ông mang theo bị mất hết. Nhưng nghiệp dạy học vẫn còn không mất, về
nhà vẫn đến trường dạy học trò. Như vậy, tiền của và sự sản là
cái ngoài mình nên bị mất dễ dàng không thể giữ được mãi mãi. Còn
nghiệp là cái không ngoài mình nên chẳng bao giờ mất. Thế mà trong cuộc
sống hằng ngày mọi người đều nghĩ làm sao cho có tiền, làm sao cho có
của, nếu có tiền có của rồi thì muốn có địa vị danh vọng. Trong ba
thứ đó nghĩ tới tiền nhiều nhất, rồi tới của cải danh vọng. Khi chết,
thì tiền của từ giã mình trước nhất, tức là khi chết nó ở lại chứ
không theo mình.
Trong đời này không ai là (người)
không chết, hoặc chết sớm hoặc chết muộn, khi chết thì không ai đem
được tiền của theo, chỉ có nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mà thôi. Thế
nên, nếu là người Phật tử khôn ngoan sáng suốt, dù có làm ra nhiều tiền
của mà làm ác thì nhất định không làm, vì khi chết không cứu được tội
khổ mà phải để lại tất cả, chỉ có một mình mình chịu quả báo khổ
đau. Nghĩ và nói ác mà đem lại lợi lộc cho mình thì cũng không nói.
Như thế không bị tiền tài sai sử
tạo nghiệp ác. Ngày nay không gây tạo tội lỗi, không bị người chê
trách, mai kia chết đi cũng nhẹ nhàng thảnh thơi. Ca dao có câu:
Bởi chừng kiếp trước khéo tu
Ngày nay con cái võng dù nghênh ngang
Do kiếp trước khéo tu nên ngày nay
con cháu mới sang trọng, Nếu hiện tại không chịu tu thì con cháu về sau
khổ. Để thấy chúng ta tu là tạo cho cuộc sống hiện tại an vui, ngày
mai lại càng an vui tốt đẹp hơn. Vậy, biết tu là thường nhớ tới nghiệp,
để tránh nghiệp ác làm nghiệp lành, hơn là nhớ tới tiền của vật chất.
Tuy trong cuộc sống, chúng ta phải làm ra tiền mới sống được, nhưng phải
làm cho công bằng lương thiện, mình an vui, người không khổ, hiện tại
mình hạnh phúc, mai sau cũng an lành. Vậy, tu không phải là mong cầu cái
gì cao siêu huyền bí, mà ngay trong thực tế thường làm lợi mình lợi người
một cách cụ thể, không mơ hồ viễn vông.
Đạo Phật chủ trương tu là để
giải thoát, song nói giải thoát có vẻ xa vời quá! Nhưng nếu thực tế thân
chúng ta không làm ác là giải thoát được cái khổ nghiệp ác của thân.
Vì nếu cướp của giết người thì bị cái khổ đánh đập tù tội, bây
giờ không tạo nghiệp ác ấy thì thân được lành mạnh tự do, đó là giải
thoát nghiệp ác của thân.
Nếu miệng không nói lời hung dữ
ác độc thì giải thoát được nghiệp ác của miệng, ý không nghĩ ác
thì giải thoát được tâm niệm xấu xa buồn ghét người khác. Tuy không
hoàn toàn giải thoát nhưng có giải thoát từng phần; tu ít thì giải
thoát ít, tu nhiều thì giải thoát nhiều, có tu là có bớt khổ. Chẳng những
bớt khổ trong đời này mà trong đời sau còn được an vui nữa. Nên người
biết tu không sợ chết. Vì ai cũng phải chết, và biết rằng mình không tạo
nghiệp ác thường tạo nghiệp lành, sau khi chết sẽ an vui chớ không khổ.
Tuy nhiên, đừng vì muốn giải thoát mà liều chết sớm để được khỏe
được sướng thì không đúng với tinh thần giải thoát của đạo Phật.
Thông thường thì người đời tham
sống sợ chết, nên nghe nói chết thì rất sợ. Nhưng người biết tu thì
ngay cuộc sống hiện tại lúc nào cũng an vui, khi chết đến thì bình thản
không loạn động, nên không muốn chết sớm mà cũng không sợ chết. Vì vậy
mà Phật tổ mới dạy chúng ta tu, tu là nguồn cội hạnh phúc, hết phiền
não hết khổ đau.
Kể từ ngày nay quý Phật tử ở gần
thiền viện, mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ba mươi nên đi chùa sám
hối và nghe quý thày giảng để biết phương hướng mà tu tập. Nghe một
lần tuy biết đó, nhưng vì cái bệnh chúng sanh hay quên, nên mỗi tháng phải
đi hai lần, nhờ các thày nhắc nhở, luôn ghi nhớ mới tinh tấn mà tu
hành.
Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo [^]
Giáo lý của nhà Phật cốt yếu dạy
cho con người tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Tuy nhiên, tùy theo sức
huân tu cao thấp mà giải thoát cũng có nhiều từng bậc. Đại lược chúng
ta có thể chia làm hai bậc là: Từng phần giải thoát và toàn phần giải
thoát.
Từng phần giải thoát là bậc thứ
nhứt, tu mà còn luân hồi sanh tử, nhưng biết chọn lựa phước lành để
đi trong đường tốt hưởng phước báo. Những loại chúng sanh đi trong các
đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A tu la đều không biết chọn nghiệp
lành nên đi vào con đường ác chịu qủa báo khổ đau. Và ngay như loài người
có biết chọn nghiệp thiện, lại cũng có ngườì không biết chọn nên tạo
lắm nghiệp ác, vì vậy mà chịu không biết bao nhiêu thứ khổ đau.
Thế nên khi còn ở trong lục đạo
luân hồi, sau khi bỏ thân này, muốn cho đời sống cuả thân sau được an
vui hạnh phúc thì ngay hiện tại phải biết chọn lựa nghiệp lành để làm
và để tránh ba nghiệp ác, đó là gốc của sự tu hành.
Nghiệp là động lực dẫn chúng ta
đi trong luân hồi sanh tử, nên rất hệ trọng đối với sự tu hành. Vậy
nghiệp là gì? Nghiệp được dịch từ chữ Phạn Karma nghĩa là hành động
lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp.
Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ
năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo và những người làm cùng
nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp.
Nghiệp là việc làm của chính
mình, mình làm chủ và tạo tác thành thói quen rồi cũng chính mình thừa
nhận hậu quả do nó đưa tới. Kinh Phật dạy: "Chúng sanh làm chủ tạo
nghiệp và thừa kế cái nghiệp do chính mình đã tạo". Không do ai
khác ngoài mình.
Chúng ta từ thuở sơ sinh cho tới
chín mười tuổi đâu có ai mắc bệnh ghiền rượu, ghiền trầu hay ghiền
thuốc... Thế mà từ 15, 16 tuổi cho tới già do sự tập tành thành thói
quen, người thì ghiền rượu, người thì ghiền thuốc, kẻ thì ghiền á
phiện...
Đứa trẻ 15, 16 tuổi thấy người
lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là oai là sang, nên bắt
chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút thì mình
làm chủ, thích hút thì hút không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều lần
dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi
mua về hút. Vậy khi đã ghiền rồi thì không còn làm chủ nữa mà nó làm
chủ ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó, Vậy,
nghiệp là cái chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi
thói quen thuần thục thì nó làm chủ dẩn dắt sai sử chúng ta.
Nếu ta tập thói quen là việc thiện
thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện, nếu chúng ta tập thói
quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất thiện.
Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu ngày thành thói quen,
một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một
động lực thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh.
Còn người khác, mỗi chiều đi quán
uống rượu, lâu ngày thành thói quen nên ghiền, tới cữ đi uống rượu,
không đi thì cảm thấy bức rức khó chịu, ngáp dài, có một ma lực thôi
thúc sai khiến tới quán rượu để uống rượu. Người đi chùa tụng kinh
tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho
bản thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành thói quen là nghiệp
ác, đưa tới nghèo thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ. Vậy, nghiệp phát xuất
từ đâu? Nếu thân tạo tác thiện đó là nghiệp thiện cuả thân, thân tạo
tác ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng nói điều lành là nghiệp thiện
của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của miệng. Ý nghĩ tốt
là nghiệp thiện của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Đó là nghiệp
phát xuất từ thân khẩu ý.
Như vậy, tạo nghiệp chủ động là
mình, nếu muốn luân hồi chỗ tốt cho thân lành mạnh tốt đẹp được sống
an vui hạnh phúc thì hiện tại phải biết tạo nghiệp thiện, nếu ngược
lại tạo nghiệp ác thì luân hồi đến cõi xấu, thọ thân xấu sống đời
đầy đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật
trời cũng không dự phần trong đó. Như vậy, chúng ta là chủ chọn lấy hướng
đi cho chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt
đẹp thì cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi.
Cũng như các học sinh sau khi đã chọn
nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống,
sướng hay khổ tùy theo cái nghề của mình chọn.
Vậy, chúng ta tu là phải làm sao?
Có nhiều Phật tử than vì bệnh tật vì nghèo khổ không thể tu. Người
than như vậy là chưa biết tu, vì họ tưởng phải đi chùa nhiều, tụng
kinh giỏi mới là tu. Như đã nói, tu là chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện,
mà nghiệp thì phát xuất từ thân, khẩu, ý.
Giả sử như người buôn bán, nếu
tráo hàng thật ra hàng giả, hoặc cân đo thiếu, hoặc bán người trả giá
không đúng, nổi giận la chửi, đó là thân miệng tạo nghiệp ác, không
biết tu.
Nếu buôn bán với mức lời vừa
phải, hàng thật nói là hàng thật, hàng giả nói là hàng giả, cân đo đúng,
khách trả đúng giá thì vui vẻ bán, khách trả không đúng giá tuy không
bán vẫn vui cười không tức giận mắng chửi.
Hoặc đi đường gặp người già yếu
nhường lối đi, nhường chỗ ngồi, đưa qua đưòng, đưa qua cầu, bưng xách
nặng dùm người... đó là thân khẩu thiện, biết tu, tu trong công ăn việc
làm, tu ngoài đường, tu ngoài chợ.
Ở trong nhà, đối với người thân
cũng phải giữ thân miệng luôn lành, làm cha mẹ giữ đúng tư cách của
cha mẹ, con cái có lỗi lầm phải từ tốn răn dạy, hướng dẫn phù hợp
với đạo lý cho con nên người, đó là tu. Nếu ỷ quyền cha mẹ, khi con
làm không vừa ý, tay đánh đập, miệng la hét, chửi rủa, đó là không biết
tu. Phận làm con đối với cha mẹ phải biết thương kính, chăm lo việc
ăn mặc thuốc thang cho cha mẹ, đừng để cha mẹ buồn tủi lúc ruổi
già. Nếu cha mẹ có sanh tật khó khăn thì nên an ủi khuyên lơn hơn là hờn
trách chế diễu. Đó là chuyển nghiệp thân nghiệp khẩu luôn lành.
Về ý nghiệp có phần vi tế hơn,
với người biết tu cũng chuyển được nghiệp ác thành nghiệp thiện. Nếu
đang ngồi chơi hay đi, hoặc làm việc, khởi nghĩ buồn giận người, biết
đó là ác ý liền dừng không nghĩ, mà khởi nghĩ thương người nghèo
khó, quý kính bậc hiền đức, tìm cách giúp đỡ người khốn khổ... Đó
là chuyển nghiệp ý ác thành ý thiện.
Nếu cho rằng đi chùa hay tụng kinh
mới là tu, thì tu quá ít. Rồi bệnh nào tật ấy vẫn còn nguyên, tham sân
si ích kỷ vẫn không chừa, tu như thế hiện tại tự mình không lợi ích
và cũng không đem được an hòa cho mọi người chung quanh, mai sau bị nghiệp
lôi vào đường ác là địa ngục ngạ quỉ súc sanh.
Thế nên Phật dạy trong tất cả
ngày giờ của mọi sinh hoạt đều phải tu mới chuyển được ba nghiệp
trọn lành. Ba nghiệp lành rồi, ngay đời hiện tại tự mình không phiền
não, lúc nào cũng nhẹ nhàng an vui. Trong gia đình mọi người không thắc mắc
rày rà, trên thuận dưới hòa, đầm ấm hạnh phúc. Ngoài xã hội được
an bình không loạn ly. Tu như thế mới thật là tu. Đừng vì muốn được
đi chùa thường xuyên, muốn được tụng kinh nhiều mà phế bỏ cả việc
nhà, thân miệng ý không chuyển cho lành, về nhà thì thắc mắc, gây cãi hết
người này tới người nọ làm cho gia đình xào xáo. Đối với người ngoài
xã hội thì không nhịn một lời không nhượng một bước. Đi chùa tụng
kinh như thế là chưa thật tu.
Có một bà cụ Nhật Bổn lần chuỗi
niệm Phật rất giỏi. Khi lần chuỗi niệm Phật thì rất chăm chỉ, nhưng
khi dừng niệm Phật thì rầy rà con cháu inh ỏi. Con trai bà thấy bà tu như
thế nꮠbuồn và nói:
- Má à. má tu má cứ lo niệm Phật
đi, sao má cứ rầy rà hoài khiến xao lãng làm sao Phật chứng cho má?
Bà nói:
- Khi nào tao niệm Phật thì Phật
thông cảm cho tao, còn khi nào tao rầy tụi bây thì tụi bây biết cho tao.
Bà chia làm hai phần, phần niệm Phật
thì tu với Phật, phần rầy la thì dành cho con cháu! Người thật tu là vừa
tu với Phật cũng vừa tu với thế gian, tu như thế mới trọn vẹn.
Có người ngoại đạo đến hỏi
Phật:
- Thưa ngài Cồ Đàm (họ Gautama,
tên Siddhartha dòng Shakya, của Đức Phật Thích-Ca), cái gì định đặt cho
con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng,
kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe
mạnh, kẻ thì ngu dốt người thì thông minh?
Phật trả lời:
- Tất cả sự sai biệt giữa con người
và con người là do nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có người
ưu kẻ liệt.
- Do tạo nghiệp gì khiến cho con người
sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu?
- Người không tạo nghiệp sát hại
chúng sanh thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng
sống của chúng sanh nên thọ mạng yểu.
- Do tạo nghiệp gì thân người
được khoẻ mạnh và do tạo nghiệp gì mà thân hay yếu đau bệnh tật?
- Do nghiệp ác làm cho người đau
khổ nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do nghiệp lành an ủi giúp đỡ
người qua những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi.
- Do tạo nghiệp gì mà sinh thân
trong gia đình giàu sang sung sướng và do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong
gia đình nghèo khó khốn khổ?
- Do đời trước biết làm lành, biết
bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo khó bệnh tật, nên đời
này được sinh ra trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước
không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại
còn tham lam rút riả của người nên đời này sanh thân trong cảnh ngèo đói
thiếu thốn.
- Do nghiệp gì người sanh ra được
thông minh sáng suốt và do nghiệp gì người sanh ra lại ngu dốt tối tăm?
- Người đời trước do siêng năng
học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người được học hỏi hiểu
biết nên đời này được thông minh. Người ở đời trước do lười biếng
học, không chịu tìn hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người nên
đời này bị tối tăm mê mờ.
Vậy, tất cả quả tốt hay xấu
mà chúng ta đang thọ hiện nay, gốc là từ cái nhân chúng ta gây thuở trước,
chứ không phải bỗng dưng mà có, khi đã biết như thế, chúng ta muốn
ngày mai được tốt đẹp an vui hay bị đau khổ, thì ngay bây giờ chúng ta
phải chuẩn bị.
Nếu chuẩn bị bằng nghiệp lành
thì sẽ được đến cõi lành và được an vui hạnh phúc, nếu chuẩn bị
bằng nghiệp ác thì sẽ đi vào đường dữ và bị khổ đau.
Có người nêu nghi vấn: Hiện tại
thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, mai kia thân hoại rồi hành
động cũng mất, vậy nghiệp còn hay mất? Đa số người không tin nhân qủa,
họ nghĩ rằng sau khi thân hoại hành động cũng không còn thì nghiệp cũng
mất.
Trong kinh Phật thường nói nghiệp
theo mình như bóng với hình vậy. Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị
lai có sự liên hệ tuá theo nghiệp của mỗi người,
Ví dụ có hai người khách qua
sông, một người chuyên nghề giáo, một người chuyên nghề thương mãi.
Khi đi đường người thương mãi đem theo nhiều vàng bạc của cải, nhà
giáo chỉ mang theo một cặp sách vở và chút ít tiền lộ phí, thuyền qua
giữa sông bất thần gặp sóng làm chìm. Khi thuyền chìm, mạnh ai nấy lo lội
vào bờ để thoát chết, lên đến bờ thì tất cả của cải tiền bạc của
nhà thương mãi không còn, cặp giấy tờ tiền lộ phí của nhà giáo cũng
mất. Cả hai đều trắng tay, nhưng kiến thức giáo dục của nhà giáo
không mất, kiến thức mua bán của nhà thương mãi cũng không mất. Kiến
thức là cái chuyên môn, sở trường của con người không mất tức là nghề
nghiệp không mất.
Như vậy, để thấy, qua những cuộc
biến đổi tất cả những cái có hình tướng ngoài mình thì mất, nên khi
thân này có hoại đi, nghiệp thức không ngoài mình nên không mất. Của cải
tài sản thế gian, chúng ta tạo sắm nhiều thế mấy, khi chết rồi tất cả
đều phải để lại không đem theo được một món nào, chỉ có mang theo
nghiệp mà thôi. Đó là một lẽ thật. Thế mà, có nhiều người không hiểu
không tin, rồi mê tín dán nhà lầu xe hơi, mua gấy tiền vàng bạc đốt để
đem theo cho cha mẹ chồng con chết xài.
Có người vội hỏi:
- Con cháu vì thương cha mẹ, sau khi
cha mẹ chết họ dán nhà, xe, mua giấy tiền vàng thật nhiều đem đốt và
cầu nguyện cho cha mẹ được hưởng. Như vậy, cha mẹ có được hưởng
không?
- Nếu con cháu đốt giấy tiền vàng
bạc rồi cầu nguyện cho cha mẹ lãnh, tôi e rằng ở tù chớ chẳng được
hưởng. Tại sao? Vì mang bạc giả xuống diêm vương xài là bất hợp
pháp. Nếu đốt nhà lầu xe hơi giấy, cầu cho thân nhân mình lãnh về ở
và đi, tôi cho rằng nếu ai làm như vậy là hại thân nhân của mình. Vì nếu
họ nhận được thì họ có nhà lầu để ở, có xe hơi để đi, có tiền
bạc để xài, đủ tiện nghi quá thì họ sẽ ở mãi cõi âm, không đi đầu
thai. Đó là trường hợp thân nhân của mình trong sanh tiền có chút phước
lành.
Còn nếu là kẻ có tội thì chết
đọa địa ngục bị giam nhốt hành hạ làm sao mà nhận lãnh tiền bạc
nhà xe để xài? Đó là chưa nói đến nhà xe tiền bạc bị đốt thành tro
thì dùng làm sao được? Thật là vô lý!
Như vậy, để thấy chính nghiệp
lành hay dữ mà mình tạo ra nó dẫn mình đi thọ thân trong cảnh giới sướng
hay khổ. Tất cả việc làm bên ngoài của người thân vì thương muốn giúp
mình khó mà giúp được, mình làm mình phải chịu, người khác không thể
thế được.
Lại có người nêu câu hỏi:
- Tại sao có nhiều người làm ác
mà họ sống phây phây? Có nhiều người rất hiền lành, làm phước làm
nghĩa mà lại gặp nhiều hoạn nạn. Như vậy là luật nhân qủa bất công
sao? Lại có nhiều người không làm ác vừa làm ác thọ qủa báo liền, hoặc
vừa làm thiện thì thọ qủa báo lành liền. Như vậy là sao?
Trong kinh Phật có dạy: Nếu tạo
nghiệp thiện được phước báo lành, tạo nghiệp ác bị qủa báo khổ
thì Phật chấp nhận.
Nếu nói rằng làm nghiệp thiện
sau khi chết sẽ sanh về cõi Trời, làm nghiệp ác sau khi chết sẽ đọa xuống
địa ngục liền, điều đó Phật không chấp nhận. Tại sao nói làm ác chịu
chịu qủa báo ác, làm thiện được qủa báo thiện, thì Phật chấp nhận,
mà nói tạo nghiệp ác sau khi chết đọa địa ngục, làm lành sau khi chết
về cõi Trời thì Phật không chấp nhận? Về thuyết nghiệp Phật có nói
cận tử nghiệp và tích luỹ nghiệp. Tích lũy nghiệp chứa nhóm nhiều kiếp
đến giờ.
Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo
tác lúc sắp chết. Cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp có ảnh hưởng chi
phối nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ.
Ví dụ có người tích lũy nghiệp
lành từ xưa đến nay, bất thần họ mê muội có người xúi dục họ làm
điều ác; làm điều ác này đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng vì
tích lũy nghiệp lành họ còn nhiều nên chưa đọa địa ngục liền.
Lại cũng có người làm nhiều điều
ác, đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng gần chết họ làm lành, tâm họ
luôn nghĩ tưởng đến điều lành. nên không đọa địa ngục. Thế nên
nói làm ác khi chết nhất định đọa địa ngục, làm thiện lên thiên đàng,
thì không đúng hẳn. Vì tuy họ có làm ác nhưng lúc gần chết cận tử
nghiệp thiện họ quá mạnh có thể đưa họ đến cõi thiện.
Còn người tuy làm nhiều điều thiện,
nhưng khi gần chết họ nổi sân quá hung dữ, lúc đó cận tử nghiệp ác
có thể đưa họ đến các đường xấu, Thế nên không phải chỉ tu khi sắp
chết, hoặc chỉ tu ở giai đoạn thân còn mạnh khỏe mà phải luôn luôn
giữ thân, khẩu, ý lành, từ lúc còn trẻ trung mạnh khỏe cho đến chung
cuộc của kiếp người.
Xưa có Maha Nam con của Cam Lộ Phạm
Vương em nhà chú của đức Phật. Maha Nam tu cư sĩ giữ năm giới, tu thập
thiện, thọ bát quan trai... Một hôm hỏi Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, bình thường con
tu giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện, giả sử con chết bất
đắc ká tử bởi một tai nạn xảy ra, sau khi chết con sẽ đi về đâu?
Phật trả lời bằng một ví dụ:
- Có một cây mọc từ đất lên,
thân và cành cây nghiêng về một bên. Vậy khi cưa, thân ngã về bên nào?
Maha Nam đáp:
- Cây ngã về phía mà nó đang nghiêng.
Phật dạy tiếp:
- Cũng vậy, bình thường ông hay
làm điều lành, khi chết tuy bị khủng hoảng, nhưng nghiệp thiện tích lũy
nhiều sẽ hướng ông đến chỗ lành, không sao, đừng sợ.
Vậy, chủ yếu của việc tu hành,
chẳng những tạo nghiệp lành trong lúc còn mạnh khỏe mà lúc gần chết
tâm niệm cũng phải lành thì mới bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường
tạo nghiệp lành mà lúc gần chết tạo nghiệp dữ thì chưa bảo đảm đi
đến cõi lành. Và bình thường nếu lỡ làm ác, lúc gần chết tâm niệm
lành thì cũng chuyển được phần nào nghiệp dữ, vì nghiệp không cố định.
Để kết thúc buổi nói chuyện
hôm nay, tôi nhắc lại câu chuyện Lý Bạch đời Đường ở Trung Hoa. Ông
là một nhà thơ nổi tiếng nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc
đạo mới tìm tới tham vấn. Tới nơi thấy Thiền Sư Ô Sào ngồi trên
cháng ba của một cây cổ thụ. Chỗ ngài ở giống như một ổ quạ nên
người đời gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào. Ông đứng dưới đất nhìn
lên hỏi:
- Bạch Hòa Thượng, Xin Hòa Thượng
dạy cho tôi một phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được.
Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống:
- Chư ác mạc tác
- Chúng thiện phụng hành
- Tự tịnh ká ý
- Thị chư Phật giáo
- Ông hãy về tu đi!
Lý Bạch nghe qua, cười và nói:
- Hòa Thượng nói bài kệ đó con
nít tám tuổi cũng thuộc, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì?
Thiền Sư Ô Sào nói:
- Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc
nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong.
"Chư ác mạc tác" là tất
cả nghiệp ác chớ có làm.
"Chúng thiện phụng hành"
là vâng làm tất cả các nghiệp lành.
"Tự tịnh ká ý" là khéo
lóng lặng tâm cho thanh tịnh.
"Thị chư Phật giáo" đó
là lời dạy của chư Phật.
Tu cốt là bỏ nghiệp ác của thân
khẩu ý và chuyển thành nghiệp lành. Bài kệ trên vừa nghe qua là dễ nhớ
và dường như thấy dễ làm. Song, đi vào kinh nghiệm tu hành thì không
đơn giản và dễ dàng vì tình thức mênh mang, chủng tử tập khí sâu
dày, vừa bỏ được thói xấu này để phát huy điều tốt nọ, thì lại
có dư tập dở khác đang ngủ ngầm hội đủ duyên nó trổi dậy lại phải
điều phục nữa, và cứ thế làm mãi cho đến chung cuộc của kiếp người,
có khi chưa xong, tâm vẫn còn lao xao lộn xộn. Thế nên người biết hướng
thiện luôn luôn phải xoay lại mình để lo tu tập, ở trong mọi hoàn cảnh,
trong mọi trường hợp, người rỗi rảnh hay bận rộn, giàu sang hay nghèo
hèn ai cũng tu được. Điều tiên quyết là dừng nghiệp ác, rồi tuá theo
hoàn cảnh: người nghèo thì ra công sức giúp đỡ, kẻ giàu thì ra tiền của
bố thí. Ai ai cũng biết tu thì tự mình được an vui, gia đình được hạnh
phúc, xã hội được an bình. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng
cuộc đời hiện tại được tươi đẹp và tạo cơ hội cho đời sau càng
được an vui sáng suốt hơn.
Vậy, từ đây về sau trọn đời
quí Phật tử cố gắng tránh tất cả các điều ác, làm tất cả các nghiệp
lành. Làm đó là làm cho chính mình chớ không phải làm cho ai khác. Đạo
Phật được coi là đạo cứu khổ ban vui, mà cứu khổ ban vui là chỉ cho
mọi người con đường nào đi đến khổ đau và con đường nào đi đến
an lạc. Khi biết con đường đưa tới an lạc thì cố gắng đi, đó là đạo
Phật cứu khổ ban vui cho quý vị. Còn nếu quý vị biết con đường thiện
đưa tới an lạc, con đường ác đưa tới khổ đau mà cứ đi con đường
đau khổ thì đó là tại quý vị không biết chọn đường đi, khổ là do
mình chớ không do ai khác. Vì Phật đã vạch lối chỉ đường rất rõ
ràng, nếu chọn và thực hành đúng lời Phật dạy thì được an vui, lợi
ích,
ngược lại thì khổ đau. Đó là
then chốt mà quý vị phải biết rõ và nắm vững để tu hành.
Bie䴠Nghiệp
và Đồng Nghiệp [^]
Nghiệp là thói quen
huân tập tạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc
sống của con người từ khi mở mắt chào đời cho đến khi nhắm mắt và
những đời kế tiếp. Nếu người Phật tử tu mà không hiểu rõ về nghiệp
thì khó mà ứng dụng tu hành để tới chỗ an lạc. Chữ nghiệp trong nhà
Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấu
điều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, nghiệp cũng có
nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp riêng thì gọi là biệt nghiệp và
nghiệp chung thì gọi là đồng nghiệp.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có
lấy một ví dụ để nói về nghiệp vọng kiến. Khi đó Đức Phật nói:
Trước một cây đèn đang cháy, người nhặm mắt thấy chung quanh ngọn đèn
có một cái vòng đỏ hoặc xanh. Còn những người mắt lành thì chỉ thấy
ngọn đèn đang cháy mà không thấy vòng đỏ hay vòng xanh. Cái vòng quanh đèn
chỉ có đối với người bị nhặm mắt, đó là do nghiệp riêng của người
bệnh mắt mà có thấy, còn người không bị nhặm mắt thì không thấy. Cũng
vậy, trong cuộc sống giữa đời này tuy sống có mối liên hệ với nhau,
nhưng mỗi người đều có mỗi cái nghiệp riêng của họ.
Ví dụ: Người có nghiệp chủng đồng
bóng như thầy bùa, thầy pháp thì họ cho rằng có ma quỉ. Còn người có
tinh thần khoa học thực tế thì họ không tin có ma quỉ, họ chỉ tin những
sự việc mà họ thấy và chứng minh cụ thể. Vậy những sự việc mà một
hay vài người thấy đó là nghiệp riêng của họ, vì họ chuyên làm cùng
nghề cùng nghiệp thì họ hưởng ứng với nó. Cũng sự kiện đó mà người
khác không thấy là vì họ không có nghiệp đó.
Kinh Phật ví dụ: Có hai vợ chồng
kia, chồng thì mù, vợ thì điếc, hai vợ chồng dắt nhau ra chợ, chồng đàn
vợ hát để kiếm tiền sinh sống. Hôm đó có một đám tang lớn đi qua,
người chồng nghe tiếng trống kèn bèn nói với vợ:
- Đám ma lớn quá, thổi kèn đánh
trống inh ỏi.
Người vợ cãi lại:
- Ông nói bậy, đâu có kèn trống,
tôi chỉ thấy cờ phướn, chớ không nghe tiếng kèn trống.
Người chồng không chịu cãi lại:
- Bà nói bậy, tôi chỉ nghe thấy
kèn trống, chớ đâu có thấy cờ phướn.
Có như thế mà hai ông bà cãi lộn
nhau, chồng thì nói có kèn trống không có cờ phướn, vợ thì nói có cờ
phướn mà không có kèn trống. Chồng tự cho là mình đúng, vợ cũng cho là
mình không sai, hai vợ chồng cãi nhau hoài không ai chịu thua, giận tức nổi
lên liền đánh lộn nhau. Người đi đường thấy mới can gián và hỏi
duyên cớ. Người chồng phân bua:
- Tôi nghe đám ma thổi kèn đánh trống,
tôi nói có kèn trống bả không chịu, bả nói tôi nói bậy, bả nói chỉ
có cờ phướn, không có kèn trống, nên mới cãi nhau rồi nổi giận đánh
lộn.
Người đi đường mới nói:
- Thưa ông bà, hai ông bà đều đúng
cả, mà hai ông bà cũng đều sai. Vì đám ma này có kèn có trống như ông
nghe mà cũng có cờ phướn như bà thấy.
Nếu người chồng nghe tiếng kèn
trống mà nhớ mình mù không thể thấy cờ phướn, và người vợ thấy cờ
phướn mà nhớ mình điếc không thể nghe tiếng kèn trống thì đâu có
cãi vả và đánh lộn nhau. Tại người nào cũng chủ quan, cho cái thấy
nghe của mình là chân lý nên mới xảy ra cuộc cãi vả và đánh lộn nhau.
Đó là nghiệp khác nhau, không thể chấp nhận nhau.
Cũng vậy, chúng ta sanh ra đời mỗi
người mang theo nghiệp riêng của mình mà cùng sống chung với nhiều người
khác, mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình mà không thừa
nhận nghiệp riêng của người khác, nên mới có sự cãi vả tranh chấp.
Trong một gia đình, ông chồng thì huân tập cái nghiệp của người nam, bà
vợ thì huân tập cái nghiệp của người nữ. Hai cái nghiệp nam nữ tuy
có vài điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Nên có
nhiều gia đình vợ chồng gây cãi, đánh đập nhau hoài là vì chấp lý của
mình là đúng, vợ cũng chấp lý của mình là đúng không biết dung hòa
nhau để sống. Cái đúng của người chồng là do thói quen huân tập cái
nghiệp của người nam. Cái đúng của người vợ là theo thói quen huân tập
cái nghiệp của người nữ, thế nên phải thông cảm nhau để đối xử
cho tốt đẹp, đem lại sự an vui hòa thuận trong gia đình. Khi chúng ta biết
mỗi người có nghiệp riêng thì không chủ quan, không chấp mà thông cảm
hòa nhịn được cuộc sống với mọi người.
Xưa có một gia đình, người vợ
thì tương đối tốt, biết bổn phận, biết lo làm ăn, người chồng thì
bê tha rượu chè cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc thua, về nhà là khảo tiền,
nếu bà không có để ứng thì ông chửi đánh thậm tệ. Người thân thuộc,
láng giềng ai thấy cũng đau lòng thắc mắc tại sao bà không ly dị cho rồi,
cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? nhưng khi hỏi bà, thì bà không thể
ly dị vì bà còn thương ông. Có nhiều gia đình có những đứa con ngỗ
nghịch bất hiếu, phá gia sản gần khánh tận. Vậy mà gia đình vẫn thương,
không thể từ bỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con. Để thấy cái
nghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoại cuộc không có nghiệp đó
thì không chấp nhận, không chịu nổi. Còn người đã có nghiệp, có nợ
nần nhau, dù bị đánh đập, phá phách, đối xử tàn tệ mà người ta vẫn
chấp nhận chung sống, không thể rời nhau được. Như vậy, nếu biết
được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết
sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn rắc
rối mà người trong cuộc không giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp
riêng của họ.
Nghiệp chung tức là đồng nghiệp
vọng kiến. Cũng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật có dạy: Người có nghiệp
chung mới sinh ra ở chung một nước, nói cùng một ngôn ngữ, sống cùng một
tập quán... Nếu có cùng nghiệp xấu thì cùng thấy điềm bất tường
như sao chổi, sao phướn... Chỉ có dân nước đó trông thấy mà dân nước
khác không thấy. Cũng giống như những người nhặm mắt cùng thấy chung
quanh ngọn đèn đang cháy có một cái vòng xanh hay đỏ, còn những người
không nhặm mắt thì không thấy. Vậy, người cùng nghiệp thì cùng cảm nhận
hiện tượng giống như nhau. Có nhiều người thắc mắc tại sao anh chị
em cùng cha mẹ sanh ra trong một gia đình, rầy la cãi hoài. Hoặc vợ chồng
chấp nhận sống chung trong một gia đình, mà kẻ ý này người ý kia, bất
hòa hờn giận nhau hoài là tại sao? Nếu không có duyên nghiệp với nhau tại
sao gặp nhau, sống chung với nhau để khổ? Chúng ta nên biết khi gặp nhau
là đã có nghiệp đồng phần rồi, tức là đã có cộng nghiệp nên cùng
ở chung với nhau. Tuy ở chung với nhau, mà mỗi người cũng có cái nghiệp
riêng nên không ai giống ai. Nếu có giống chăng chỉ giống năm sáu mươi
phần trăm là tối đa, không bao giờ có hai người giống nhau từ hình
dáng đến tính tình. Phần giống nhau thì gọi là đồng nghiệp, vì đồng
nghiệp nên mới cùng nhau sanh trong một gia đình, trong một đất nước. Và
vì mỗi người có cái nghiệp riêng nên có người thì giàu sang sung sướng,
an vui hạnh phúc, lại có người bần cùng khốn khổ. Hoặc anh em cùng cha
mẹ sinh ra, học chung một trường mà có người học giỏi có người học
dở. Đó là trong cái đồng nghiệp vẫn có cái biệt nghiệp, mà dù là đồng
nghiệp hay biệt nghiệp Đức Phật đều gọi là vọng kiến. Vọng kiến
là cái thấy hư dối không thật.
Tại sao nói nghiệp là vọng kiến?
Ví dụ có người nói lời xúc não làm cho mình nổi giận, khi nổi giận
thì nói lời hung ác mắng chửi, tay thì đánh đập người ta. Khi đánh đập
chửi mắng người, thì bị luật pháp trừng trị, cái khổ của tội phạm
pháp này ít nhất cũng một tháng. Và nếu mình có sức mạnh, có võ nghệ,
đánh người chết tại chỗ, thì tù tội khổ sở ít nhất cũng 10, 15
năm. Vậy, miệng nói bậy, thân làm bậy, đó là nghiệp ác, và nghiệp ác
đó từ ý nổi sân mà ra. Ý sân chỉ nổi lên khoảng 5, 10 phút mà hậu quả
không lường được. Nghiệp ác của miệng và thân có ra, là do ý ác chủ
động, ý ác tức là niệm sân, chúng ta nhìn xem tướng trạng của nó ra
sao? Khi (chúng ta) nhìn nó thì nó mất tiêu, không thấy hình dáng tướng mạo
nó ở đâu cả, mà không hình dáng không tướng mạo thì không thật. Như
vậy, chính cái chủ động tạo nghiệp (ý sân) là không thật. Cái không
thật mà chỉ vì chúng ta mê chạy theo nó để tạo nghiệp thọ khổ thì
thành có thật. Nên Ngài Khuê Phong nĩi: "Thế không mà thành sự".
Bản chất của cơn giận vốn là không, bất giác theo nó tạo nghiệp nên
trở thành thật. Đó là nghiệp ác.
Còn nghiệp lành cũng vậy, giả sử
chúng ta đi đường gặp người bệnh tật đang nằm rên rỉ bên đường,
chúng ta khởi lòng thương đem họ vô lề đường kêu xe chở tới bệnh viện
để chữa trị. Vậy, lòng thương hình dáng tướng mạo như thế nào? Có
thật không? Không. Nhưng khi theo nó thì tạo nghiệp lành, thân miệng ý
nói làm lợi ích cho người. Cái gốc tạo nghiệp ác hay nghiệp lành bản
chất nó không có thật, nhưng khi theo nó thì sẽ thành nghiệp hoặc lành
hay dữ. Phật dạy nghiệp là cái không thật, tuy không thật, nếu đã làm
thì sẽ cho quả, chớ không tránh khỏi. Trốn tránh người thế gian thì
được, mà nghiệp thì không thể trốn được. Vì khi tạo nghiệp thì mắt
thấy tai nghe thân cảm thọ, chủng tử nghiệp đã chứa vào tạng thức rồi,
hội đủ duyên thì quả kết tụ.
Về ý nghĩa đồng nghiệp, trong
kinh có ghi: Một hôm Phật ở trong hương thất trong núi Linh Thứu, gần đó
có nhiều đoàn Tỳ Kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo Tôn Giả
Xá Lợi Phất. Đoàn Tỳ Kheo thứ hai dẫn đầu là Tôn Giả Mục Kiền
Liên. Đoàn thứ ba các Tỳ Kheo đi sau Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp. Đoàn thứ tư
gồm những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả A Na Luật. Đoàn thứ năm là một số
Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Phú Lâu Na. Đoàn thứ sáu là những Tỳ Kheo đi
theo sự hướng dẫn củaa Tôn Giả Ưu Ba Ly. Đoàn thứ bảy là những Tỳ
Kheo đi theo sau Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Phật mới nói với các vị Tỳ
Kheo đang ở bên cạnh:
Những Tỳ Kheo cùng đi theo Xá Lợi
Phất là những Tỳ Kheo có trí tuệ lớn. Những Tỳ Kheo cùng đi với Mục
Kiền Liên là những Tỳ Kheo có đại thần thông. Những Tỳ Kheo đi theo Ma
Ha Ca Diếp là những Tỳ Kheo ưa tu hạnh đầu đà... Còn những Tỳ Kheo mà
đi theo Đề Bà Đạt Đa là những Tỳ Kheo có tâm ác dục".
Và Phật kết luận rằng: Ai cùng
đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với người đó. Những Tỳ
Kheo đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất là có cái nghiệp chung với Ngài về
trí huệ. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Mục Kiền Liên là có nghiệp
chung với ngài về thần thông. Cho tới các Tỳ Kheo đi theo Đề Bà Đạt
Đa cùng có nghiệp chung về ác dục. Cái nghiệp chung đó có từ quá khứ,
hiện tại, vị lai cứ theo nhau không rời. Đó là cộng nghiệp của những
Tỳ Kheo thời xưa, được Phật dạy trong kinh. Còn cộng nghiệp trong thời
hiện tại, chúng ta thậy rất thực tế và cụ thể. Người thích rượu
chè say sưa thì cùng ăn chơi thân cận với người uống rượu Người ưa
cờ bạc thì giao du với người cờ bạc. Người chuyên cần học hành
nghiên cứu thì tới lui thân cận với người nghiên cứu học hành. Người
thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng
kinh niệm Phật. Như vậy, người này thích người kia là họ có chung nghiệp
(đồng nghiệp) nên mới hợp nhau. Để thấy trong cuộc sống này, mọi người
cùng có nghiệp chung, nên mới trở thành chồng vợ, cha con, anh em, bạn
bè. Và vì ai cũng có nghiệp riêng nơi dáng mạo, tánh tình năng khiếu, trí
tuệ sai khác, không ai giống ai. Vậy, nghiệp nó chi phối cả đời sống
chúng ta, nếu huân tập sâu nghiệp nào thì nghiệp đó có sức mạnh, có hấp
lực thu hút chúng ta đến môi trường của nghiệp đó. Vì vậy, người Phật
tử biết tu hành thì thân khẩu ý luôn luôn phải thiện lành, mới chiêu cảm
được biệt nghiệp tốt và đồng nghiệp thiện.
Nếu tu còn trong vòng tương đối,
thì phải biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành để tạo thân tốt, tức
là được biệt nghiệp tốt và sanh trong cõi thiện, có đồng nghiệp thiện.
Tiến thêm một bước nữa, nếu biệt nghiệp là không thật, do ý sanh ra,
mà ý cũng không thật có, nó là niệm phân biệt chợt hiện chợt mất,
nên không theo là dừng nghiệp ý. Nghe nói trái tai vừa nổi bực tức muốn
đánh chửi người, liền nhìn lại xem coi cái bực tức hình tướng thế nào,
phát xuất từ đâu? Tìm lại không thấy hình tướng của bực tức, mà
nguồn gốc khởi bực tức cũng không còn nữa. Thấy của người lòng tham
vừa móng khởi muốn lén lấy, liền nhì lại coi tướng trạng của tham
lam như thế nào, phát xuất từ đâu? Khi nhìn kỹ lại thì không thấy
hình dáng của tham lam, và nơi chốn phát xuất ra tham lam cũng không có nữa.
Như vậy, nghiệp phát xuất từ ý,
rồi miệng, ra thân, mà ý là gốc phát ra nghiệp đã không thật, thì nghiệp
miệng nghiệp thân làm gì có thật? Sở dĩ thấy nghiệp có thật là do
mê. Những nơi khác dạy khi đổi duyên xúc cảnh, nếu có khởi tham lam
sân giận, thì cứ lo niệm Phật nhớ Phật, thì tham lam sân giận sẽ lắng
xuống. Đó cũng là một cái thuật đối trị bệnh tham bệnh sân. Ở đây
thì chúng tôi chủ trương dùng trí nhìn lại những cái xấu như tham, sân,
kiêu mạn... hình dáng tướng trạng ra sao, phát xuất từ đâu? Khi nhìn lại
nếu nó tan biến là nó không thật thì nó không có sức mạnh khiến mình
nói làm theo nghiệp ác. Và cứ mỗi lần đổi duyên xúc cảnh, nếu có
tham sân... dấy khởi lên nhìn lại xem tường tận thấu đáo, thấy nó
không thật thì nó không chi phối mình nói làm sai quấy. Khi tâm chúng ta
thanh tịnh là đã cắt đứt được dòng tạo nghiệp là vọng tưởng là
ý nghiệp không còn luân hồi sanh tử, được giải thoát.
Chánh Báo Và Y Báo [^]
Chúng ta là những người học
Phật, tu theo Phật, chủ yếu là phải hiểu Phật dạy như thế nào để
đi đúng đường, đúng hướng, không lầm lạc. Để được lợi ích, đường
hướng ấy được dạy ở bài Chánh Báo và Y Báo.
Chánh báo là quả báo gốc hay là
quả báo chủ yếu của nghiệp nhân đã tạo, còn y báo là quả báo nương
nơi chánh báo mà có như nhà cửa cảnh vật xung quanh... chánh báo và y báo
là chỉ cho con người và cảnh vật thuộc về con người. Vậy chánh báo
và y báo cái nào là gốc cái nào là ngọn? Nếu chúng ta không hiểu sẽ bị
lầm lẫn và không biết cái nào là gốc để tu, cứ mãi chạy theo cái ngọn,
rồi cả đời tu không được lợi ích. Vậy quý Phật tử học xong, tự
kiểm lại xem từ lâu mình tu là tu theo ngọn hay tu theo gốc.
Tại sao nói chánh báo tốt là y
báo tốt?
- Vì có con người tốt mới có cảnh
vật tốt. Chữ tốt ở đây là chỉ cho con người có tài, có trí, có đức
hạnh. Người tài trí đức hạnh ở đâu thì hoàn cảnh sẽ chuyển theo họ
trở thành tốt đẹp. Có khi nào một người bất tài vô trí thiếu đạo
đức tạo được một sự nghiệp vẻ vang không? Nếu có là nhờ phước
dư ở quá khứ, chỉ trong giai đoạn ngắn rồi cũng hoại, không bền. Người
tài trí đức hạnh dù hoàn cảnh không tốt, nhưng họ có thể chuyển lần
lần thành tốt.
Ví dụ như nhà kiến trúc, những kỹ
sư có tài đức, vì một lý do nào đó họ đến ở nơi núi rừng xa vắng.
Vói cảnh núi rừng này, họ hợp tác kiến thiết xây dựng cuộc sống mới.
Một thời gian sau cảnh hoang vắng rừng núi đó trở thành vùng trù phú
xinh tươi. Còn nếu người bất tài vô trí, thiếu đạo đức, dù ở trong
hoàn cảnh tốt rồi cũng trở thành hư xấu, vì họ thiếu khả năng xây dựng
kiến tạo, mà cảnh vật thì mau hư hoại, không được sửa chữa.
Một sự kiện trước mắt chúng ta
là khu Thường Chiếu, trước măm 1974 là một vùng đất hoang vắng, chỉ có
tre gai, tranh, mắc cở... không nhà cửa cây trái. Sau này nhờ những người
biết tu có chánh báo tốt biến nơi này thành một cảnh già lam nghiêm tịnh
thanh lịch. Và Viên Chiếu cũng vậy. Mọi người đều ghi nhận cảnh Thường
Chiếu Viên Chiếu thanh tịnh đẹp đẽ. Vậy cảnh tịnh cảnh đẹp đó
là do tự cảnh đẹp hay là do người mà có???
Mọi cảnh đều tùy thuộc vào con
người, nên con người là chủ, là chánh báo, còn cảnh vật là bạn tùy
thuộc vào con người, nên gọi là y báo. Đó là chánh báo y báo của người
xuất gia. Bây giờ đến chánh báo y báo của người tại gia. Mỗi Phật tử
ai cũng có gia đình nhà cửa, nếu là một Phật tử biết tu đúng theo lời
Phật dạy và là người tài đức thì cảnh gia đình nhà cửa của Phật tử
ấy sẽ êm ấm trang nhã sạch sẽ. Ngược lại, nếu là người không biết
tu, bất tài vô trí thì cảnh gia đình họ không hạnh phúc, nhà cửa họ lụp
xụp tồi tàn, túng thiếu. Vì vậy nên nói: "Nhìn qua cảnh biết được
người" tức là nhìn y báo biết được chánh báo. Chánh báo tốt thì
y báo cũng tốt, chánh báo xấu thì y báo cũng xấu theo.
Người đời thường nói: "Thời
thế tạo anh hùng" tức là hoàn cảnh đưa đẩy con người trở thành
anh hùng. Cũng có người nói ngược lại "Anh hùng tạo thời thế"
tức là người hùng, người tài đức tạo nên sự nghiệp vẻ vang trong đời.
Hai câu này câu nào đúng? Người đời hay bàn tán: Có những người trước
kia họ là những kẻ tầm thường không có tài đức, nhờ gặp cơ hội tốt
họ nghiễm nhiên trở thành con người xuất chúng. Như vậy là "Thời
thế tạo anh hùng".
Lại có một số người khác bàn rằng:
"Vua Quang Trung tuy là người áo vải ở chốn quê mùa, nhưng lại là người
tài trí phi thường, nên từ một con người áo vải quê mùa trở thành một
vị tướng giỏi, một ông vua tài trí. Như vậy không phải "Anh hùng tạo
thời thế" là gì? Kết luận, tất cả mọi người thành công trên đời
đều là "Anh hùng tạo thời thế". Tại sao vậy? Vì nếu thời thế
đổi thay mà chúng ta là kẻ thiếu phước bất tài vô trí, chúng ta không
cải cách gì được hoàn cảnh, chỉ ỳ ra đó, thì vẫn là kẻ tầm thường
như bao nhiêu kẻ khác. Ngược lại, dù cho thời thế có biến chuyển đổi
thay trăm ngàn lần đi nữa, đối với người có tài trí đức hạnh dù trước
cảnh thuận hay nghịch họ vẫn là người dũng mãnh đứng lên cải cách
xã hội, làm nên việc lớn. Vì họ là người có sẵn tài trí phước đức.
Người đời vì không hiểu rõ chánh báo và y báo nên cho rằng nhờ thời
thế tốt nên đưa đẩy con người trở thành người tài giỏi nên nói
"Thời thế tạo anh hùng". Họ đâu biết bản chất của người đó
có cái hay cái giỏi đang tiềm ẩn sẵn, khi gặp thời thế liền có cơ hội
phát triển bèn trở thành người tài giỏi. Để thấy rõ con người là gốc,
hoàn cảnh tùy thuộc vào con người. Người đời kẻ nhìn khía cạnh này,
người nhìn khía cạnh nọ, nên nói thế không đúng lẽ thật. Thế nên
ở đây chúng tôi khẳng định "Người tốt thì cảnh tốt". Đó
là trường hợp thứ nhất.
Đến trường hợp thứ hai "Chánh
báo xấu thì y báo xấu". Nếu là người bất tài vô đức dù họ có
dời nhà hay thay đổi hoàn cảnh hàng trăm ngàn lần đi nữa thì họ vẫn
là kẻ tầm thường khốn khổ, hết thất bại này đến thất bại khác,
ở đâu rồi cảnh vật cũng điêu tàn, lụn bại, vì họ không có khả năng
xây dựng kiến tạo, làm sao có dược cảnh tốt đẹp được. Như vậy, cảnh
không thể làm con người hay tốt, mà chính con người mới làm nên cảnh tốt
cảnh đẹp. Để thấy rằng người có chánh báo xấu mà muốn y báo tốt,
việc đó không thể được nên nói "Người xấu thì cảnh xấu"
hoặc chánh báo xấu thì y báo cũng tồi tệ.
Ở Việt Nam có một số người có
cái tật là cất nhà lựa chỗ hàm rồng để sau này làm ăn phát đạt. Chôn
ông bà cha mẹ cũng lựa chỗ hàm rồng để sau con cháu phát quan. Chúng ta
lựa chỗ tốt để chuyển con người thành tốt. Vậy chuyển được không?
Nếu chuyển được thì gia đình con cháu các ông địa lý giàu sang phát
quan hết rồi. Vì đương nhiên các ông phải lựa chỗ tốt cho các ông trước
rồi mới lựa cho mình sau. Nhưng tại sao chính bản thân của các ông và
con cháu của các ông không làm quan hay làm vua, mà các ông vẫn cứ là thầy
địa lý??? Lựa chỗ tốt chôn cha mẹ để con cháu làm ăn phát tài, làm
quan, việc làm đó là vì cha mẹ hay vì mình? Nếu vì cha mẹ, thì khi cha mẹ
chết nên chọn chỗ nào gần nhà cao ráo để tới lui thăm viếng hương khói
cho thuận tiện là được rồi. Nếu chọn chỗ chôn cha mẹ để được phát
quan, trong khi mình là kẻ bất tài thiếu phước làm sao phát quan được?
Đó là một sự lầm lẫn hết sức lớn lao. Do chúng ta không thấy được
cái gốc, cứ chạy theo cái ngọn để rồi hao tài tốn của, không đem lại
lợi ích thiết thực. Tất cả chúng ta, nếu là người thật có đức, thật
có tài thì dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng biến cảnh đó dần dần trở
thành tốt.
Khi nhận cuộc đất Thường Chiếu
này, đứng ngoài cổng nhìn vào, chúng tôi thấy phía trước đường đi
thoai thoải thấp, phiá trong là cái gò đất cao. Chúng tôi nghĩ: Nếu cất
chùa trên gò đất cao, nhìn ra đường thì đẹp lắm. Bấy giờ chưa có tiền
cất chùa, chúng tôi trồng hai hàng dương trước, đến khi đủ duyên cất
chùa thì dương đã có sẵn, tạo thành cảnh chùa nghiêm tịnh, thanh lịch,
đa số người đến chùa đều ưa thích. Để thấy, đó là phước duyên của
con người, nên sắp đặt công việc được thành công, nếu không có phước
duyên thì tính trật thất bại. Nên nói "Người là chủ, cảnh là bạn
tùy thuộc theo người". Hay nói cách khác "Chánh báo tốt thì y báo
tốt". Hiểu như vậy, Phật tử chúng ta phải làm sao xây dựng chánh
báo cho tốt đẹp, vì chánh báo chính là (tài trí đức hạnh ở nơi) con
người. Y báo là sự nghiệp của cải tài sản thuộc về con người.
Nói chánh báo là con người, đó
là lối nói đơn giản, chứ chánh báo là phần sâu kín tế nhị hơn, đó
là tâm. Vì tâm chủ động tất cả. Nếu tâm nghĩ tốt thì miệng nói tốt
và thân hành động tốt, tất cả cảnh sở thuộc về người mới tốt đẹp.
Bởi vậy, nói đến chánh báo là nói đến tâm. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Tịnh
Quốc Độ có câu: "Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh" nghĩa
là tâm thanh tịnh thì cõi nước theo đó mà thanh tịnh. Do đó nói tâm người
là gốc. Tôi dẫn một câu chuyện để quý vị thấy tâm người là gốc
và cảnh do tâm mà chuyển. Tôn giả Mục Kiền Liên lả đệ tử lớn của
Phật nổi tiếng là có thần thông bậc nhất. Sau khi chứng A La Hán, Ngài
nghĩ đến mẹ là bà Thanh Đề. Bình sanh bà sống không lương thiện, tánh
tình keo kiệt tham lam, Tôn Giả sợ bà thác sanh vào đường ác, nên dùng
thiên nhãn thông để xem bà sanh ở cõi nào. Tôn Giả nhìn đến cõi ngạ
quỉ thấy bà đang làm quỉ đói thân hình tiều tụy vô cùng đói khổ, động
lòng thương, Tôn Giả đi khất thực được một bát cơm, liền vận thần
thông đem dâng cho mẹ. Bà vốn là kẻ đầy lòng tham lam và bỏn xẻn, khi
vừa được bát cơm một tay bà bốc cơm một tay che lại, sợ kẻ khác thấy
giựt cơm của bà. Do tham lam bỏn xẻn còn đầy dẫy trong lòng bà, nên cơm
vừa đưa tới miệng thì hóa thành lửa, bà không ăn được, vẫn đói khổ.
Nếu lúc đó bà phát tâm hỷ xả, thì chắc cơm không hóa thành lửa. Tôn
Giả Mục Kiền Liên trông thấy cảnh khổ của mẹ, Ngài không biết làm
sao cứu mẹ thoát khỏi kiếp ngạ quỉ, bèn trở về Phật bạch tự sự.
Thế Tôn dạy: Một mình ông không đủ oai lực chuyển tâm niệm của mẹ
ông. Vậy nhân ngày chúng tăng hội về tự tứ, ông hãy sắm sửa trai nghi
để cúng dường các vị Thánh Tăng, và nhờ cầu nguyện khiến cho mẹ
ông chuyển tâm tham lam bỏn xẻn thì sẽ thoát kiếp ngạ quỉ.
Nghe qua, ắt quí vị có nghi ngờ.
Theo lý nhân quả thì người khi đã tạo nhân thì phải thọ quả. Bà Thanh
Đề tạo nhân tham lam bỏn xẻn nên phải chịu quả báo làm quỉ đói, tại
sao chúng Tăng cầu nguyện mà bà khỏi kiếp ngạ quỉ thì trái với lý
nhân quả. Như trước đã nói tâm là gốc, tâm là chánh báo. Nếu tâm chuyển
thì chánh báo và y báo theo đó mà chuyển. Tâm bà Thanh Đề tham lam và bỏn
xẻn đó là chánh báo xấu nên y báo cũng xấu là sống trong cõi ngạ quỉ
đói khổ. Bây giờ bà được chúng Tăng thành tâm cầu nguyện chuyển tâm
tham lam bỏn xẻn của bà thành tâm từ bi, hỷ xả. Vì tâm của chư Thánh
Tăng thanh tịnh đồng hướng về bà, nên có oai lực, có sức mạnh, khiến
bà cảm được niệm lành, bà liền thức tỉnh chuyển tâm tham lam bỏn xẻn
thành tâm từ bi hỷ xả ngay đó bà được thoát kiếp ngạ quỉ, sanh lên
cõi thiện lành. Chúng ta đừng nghĩ rằng chư Tăng cầu nguyện là thân
nhân mình được giải thoát. Điều đó không đúng. Nếu chúng Tăng cầu
nguyện mà thân nhân mình thức tỉnh, chuyển tâm xấu ác thành tâm thiện
lành, thì mới chuyển đổi được kiếp đọa lạc mà sanh vào cõi thiện
lành. Ngược lại, nếu không chuyển được tâm thì hoàn cảnh cũng không
đổi thay. Vì y báo tuỳ thuộc vào chánh báo là tâm.
Chủ yếu của người tu là phải
chuyển tâm, khi tâm chuyển thì thân và cảnh mới chuyển theo. Nếu tâm
không chuyển thì thân và cảnh không thể chuyển được. Tại sao một mình
Tôn Giả Mục Kiền Liên không khiến cho bà Thanh Đề chuyển được mà phải
nhờ nhiều vị Thánh Tăng khác? Điều này mới nghe qua có vẻ huyền bí,
nhưng kỳ thật không có chi là huyền bí cả. Mỗi người chúng ta đều có
nhân điện, mà nhân điện đó có một sức mạnh, nếu chúng ta luyện tập
và biết ứng dụng vào cuộc sống thì nó có tác dụng rất cụ thể. Chẳng
hạn như trị bệnh bằng cách xoa sát hay xoa bấm huyệt là chuyền nhân điện
làm cho người hết bệnh nơi thân. Cũng vậy, chư Thánh Tăng là những bậc
tu hành viên mãn, tâm các Ngài thanh tịnh trong sáng, cùng hướng về một
người cầu nguyện thì có một sức mạnh, có sự cảm ứng nơi người nhận.
Vấn đề này trong thực tế chúng ta thấy có những sự kiện xảy ra rất
cụ thể, như trong gia đình hoặc cha hay mẹ hấp hối, khi đó người con
đang ở xa, cả gia đình từ cha mẹ đến anh chị em đều trông người con
ấy về để gặp mặt. Khi đó người con ở xa cảm thấy lòng xao xuyến bức
rức. Tại sao? Vì tâm lực (nhân điện) của những người thân trong gia đình
đang hướng về người con ấy nên có sức giao cảm khiến cho lòng xao xuyến
bức rức. Nhưng vì tâm lực (nhân điện) của những người thân đó yếu
nên người con ở xa chỉ cảm thấy lòng xao xuyến mà thôi. Nếu tâm mọi
người thanh tịnh thì sẽ có sức giao cảm mạnh khiến cho người nhận biết
rõ điều gì mà người trong gia đình muốn cho họ biết. Sự kiện này rất
cụ thể, tuy quá tầm mắt của chúng ta nên khó tin, nhưng không phải là
không có. Cho nên những nhà thôi miên họ dùng nhân điện điều khiển
được những người mà họ muốn điều khiển một cách dễ dàng. Để thấy
mỗi người chúng ta ai cũng có nhân điện, nếu nhân điện mạnh của nhiều
người đồng hướng về một người nào để cầu nguyện cho người đó
chuyển tâm niệm sẽ được thành tựu. Nên nói cầu nguyện có kết quả
là như vậy, chớ không phải chư Tăng nguyện rồi Phật hay thiên thần tới
rước đi về cõi khác. Đó là lòng thành, do sức nguyện cấu khiến cho
tâm xấu ác của người trở thành tâm thánh thiện và khi tâm thánh thiện
thì nghiệp đã chuyển nên sanh về cõi thiện, đâu có trái lý nhân quả.
Hiểu như thế chúng ta mới không nghi ngờ chánh báo và y báo trái với lý
nhân quả. Nhưng nhớ, chánh báo mà chuyển được là phải có cơ hội, có
sức mạnh đánh thức mới chuyển nổi chớ bình thường khó mà chuyển đổi.
Cũng như quý Phật tử khi chưa biết đạo không thích đi chùa, không thích
làm phước... nhưng nhờ một cơ duyên nào đó, chẳng hạn như trong gia đình
có xảy ra tai biến khổ đau, bạn bè rủ đi nghe pháp, nên được thức tỉnh
và chuyển tâm niệm liền thay đổi cuộc sống.
Quý vị đã thấy tầm mức quan trọng
nhân điện của chư Tăng đánh thức tâm niệm của người nghiệp chướng
nặng nề. Và quý vị phải nhớ, Phật dạy hàng Thánh Tăng đã chứng lục
thông La Hán tâm thanh tịnh mới có đủ oai lực, chớ không phải hàng Tăng
Sĩ lôi thôi. Chúng ta bây giờ vì không hiểu ý nghĩa, chỉ chú trọng hình
thức, miễn thỉnh được các thầy đầu tròn áo vuông tụng ê a, chuông
mõ rền vang là được rồi. Chớ không cần biết các vị Tăng ấy có giữ
trai giới phạm hạnh thanh tịnh không. Phần sức mạnh tinh thần thì không
lưu ý. Nếu chư Tăng không giữ trai giới phạm hạnh thanh tịnh mà cầu
nguyện thì có khác gì quý Phật tử cầu nguyện. Vậy tốt hơn là cả gia
đình, cả gia quyến hợp lại tụng kinh, thành kính cầu nguyện cho cha mẹ
còn có ý nghĩa hơn. Tập trung tinh thần hướng về một người để cầu
nguyện: Nếu tinh thần những người cầu nguyện trong sáng thì có ảnh hưởng
tốt, nếu tinh thần của những người cầu nguyện đen tối thì làm sao
chuyển đổi nghiệp chướng cho người, e còn làm nặng nề thêm là khác.
Vì "Tâm tịnh là cõi nước tịnh". Cho nên pháp môn Tịnh Độ dạy
Phật tử niệm Phật là phải niệm cho nhất tâm rồi thì không còn một
niệm dấy khởi, mà niệm không khởi thì đâu có nghĩ xấu nghĩ bậy, tâm
không tịnh là gì ? Mà tâm tịnh nhất định sanh về cõi tịnh. Ngược lại,
nếu tay lần chuỗi miệng lâm râm mà tâm còn toan tính chuyện hơn chuyện
thua, chuyện được chuyện mất, thì có niệm vô số câu A Di Đà Phật
tâm vẫn còn nhiễm ô, Phật cũng không rước về cõi tịnh.
Có một số Phật tử hỏi rằng:
Người niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ, sau khi chết được Phật A Di
Đà rước về cõi Cực Lạc. Còn người tu thiền không cầu sanh về cõi
nào, sau khi chết đi về đâu, chẳng lẽ đi lang thang?
Đáp: Người tu thiền có hai trường
hợp:
Một là đạt được thiền định.
Đối với những người sạch hết vọng tưởng nên tâm thanh tịnh nhất
như, quyết định là sẽ được giải thoát Niết Bàn.
Hai là đối với người loạn tưởng
đã giảm, tâm chưa trong sạch hoàn toàn nhưng có phần thanh tịnh, khi chết
chưa vào Niết Bàn được. Tuy nhiên, tùy tâm tịnh ở mức độ 50% thì đến
cõi tịnh 50%, nếu tâm tịnh được 80% thì đến cõi tịnh được 80%... Rất
là vô lý, khi tâm tịnh mà không biết chỗ đến lại đi lang thang. Lang
thang là kiếp ngạ quỉ, do nhân tham lam bỏn xẻn mới chịu quả báo đói
khát lang thang. Người tu tâm thanh tịnh, lại từ bi hỷ xả thì làm gì phải
lang thang? Ví dụ có một người đi Huế, người ấy có thân nhân ở Huế,
cho nên yên lòng ra đó sẽ ở nhà thân nhân. Một người khác cũng đi Huế,
người này không có thân nhân ở Huế, nhưng người ấy có mang theo tiền
để chi dùng trong chuyến đi. Khi đến Huế họ mướn khách sạn, vậy ai hơn
ai? Chúng ta có thể bảo người không có thân nhân ở Huế, đến Huế họ
đi lang thang được không? -Không. Vì họ có hành trang để đi đường.
Cũng vậy, người chỉ sợ tâm không thanh tịnh, đừng lo không có cõi tịnh
để mình đến. Phải hiểu cho thật rõ chỗ này kẻo tu bị lầm lạc. Đứng
bên này chỉ trích bên kia phê phán bên nọ làm một việc hoang mang nghi ngờ
cho người mới tu học, là quá lôi thôi, không lợi ích. Chúng ta hiểu rõ
tâm ai thường thanh tịnh, người đó sẽ được sanh cõi tịnh. Chẳng những
Phật tử tu thiền tu Tịnh Độ, mà người không qui y làm Phật tử nếu
tâm họ tịnh cũng sanh được vào cõi tịnh. Vì chánh báo tốt ắt hẳn y
báo phải tốt.
Bây giờ ứng dụng lý chánh báo
và y báo vào việc tu hành. Trước là bản thân của người xuất gia. Thông
thường nhiều người xuất gia có quan niện tu là phải cất chùa to, đúc
tượng Phật lớn, trang trí cảnh chùa cho đẹp, quên đi phần tu học cho bản
thân. Nếu ngưới xuất gia mà không tu học làm sao có tài có đức để
cho người kính tin kết duyên mà làm Phật sự? vì vậy mà phải xoay lại
bản thân mình để lo tu học, một khi có đủ tài đức thì chùa to cảnh
đẹp ắt sẽ có.
Xưa có nhiều vị Thiền Sư ẩn tu
trong những hang đá, am tranh trên núi rừng là người tu hành chân chính,
tài đức vẹn toàn khi có người biết đến liền thỉnh về kinh đô để
ở những ngôi chùa lớn để hoằng dương chánh pháp. Chúng ta ham ở chùa
to cảnh đẹp mà bất tài thiếu đức lại tu hành lôi thôi, sớm muộn gì
cũng bị người mời ra khỏi chùa, để thỉnh người xứng đáng về trụ
trì. Như vậy mới thấy chánh báo không tốt mà đòi y báo tốt thì không
thể được. Chúng ta tu phải làm sao cho tài trí đức hạnh, chớ không lo
có chùa ở.
Kế là việc giáo hóa đệ tử.
Người tu phải lo cho đệ tử như thế nào? Nếu người thông lý chánh
báo y báo, trước phải dạy đệ tử tu học cho có đức có tài. Đức do
tu mà có, tài do học mà có. Tài đức vẹn toàn rồi thì lo gì mai sau
không xiển dương Phật pháp. Vì đã có chánh báo tốt, chắc chắn y báo sẽ
theo đó mà tốt. Còn lo cất chùa cho đẹp cho kiên cố, để lại hằng
trăm năm cho đệ tử ở, nếu là đệ tử bất tài vô đức, tu hành lôi
thôi, thì chẳng làm gì lợi ích cho Phật pháp. Lại có thể, nó cởi áo
tu, hoàn tục, bỏ chùa hoang, không người hương khói. Lo cho đệ tử như vậy
không bảo đảm. Vậy lo chùa để lại cho đệ tử, không bằng lo cho đệ
tử có đức có tài, tu hành chơn chánh, hợp với chánh pháp.
Chúng tôi thường nói rằng:
"Sau này chúng tôi tịch rồi, chỉ để lại một số người biết tu
biết đạo chớ không để lại chùa tốt chùa sang. Ngôi chánh điện Thường
Chiếu tôi cất chỉ có hai mươi ngày là xong. Các nơi nghe tôi cất chùa chỉ
có hai mươi ngày họ cười nói "Chùa dã chiến". Mà thật,
"Chùa dã chiến". Vì nó không ra gì hết. Trên Chân Không có bao
nhiêu vật liệu, đem xuống Thường Chiếu ráp lại vừa đủ, không thêm
gì hơn. Chúng tôi chỉ cần có chỗ cho Tăng Ni tu, Phật tử đến học đạo
là được rồi. Sau khi tôi tịch, nếu ai có tài trí phước đức hơn tôi
họ muốn sửa chữa cho đẹp hơn là tùy họ. Chúng tôi chỉ nghĩ làm sao
đào tạo một số Tăng Ni có học có tu có tài có đức để lại cho đạo
là đủ rồi, còn chùa cảnh thì chúng tôi không đặt nặng. Đó là phương
hướng giáo hóa đệ tử.
Kế đến là làm Phật sự. Phật sự
thì có liên hệ đến Phật tử tại gia nhiều. Phật tử khi làm Phật sự
thì nhắm vào y báo hay chánh báo? Đa số Phật tử nghe nói xây chùa đúc tượng
Phật thì thích lắm, còn nghe nói nuôi Tăng Ni tu học thì không thích. Tại
sao vậy? Vì mình làm cực khổ mới có tiền của, đem đến nuôi người
nhàn rỗi hơn mình là điều không được vui, nên không thích. Hơn thế nữa,
đem bao nhiêu của đến Tăng Ni ăn cũng hết, không còn để lại cái gì thấy
là của mình đã cúng. Còn cất chùa tạo tượng đúc chuông để lại đời
đời, cái mà mình đã cúng vẫn còn đó, thì thích hơn. Vì nó có hình thức
dễ thấy. Hình thức đó thuộc về y báo. Nếu chùa tốt Phật to chuông
thanh mà không có một vị Tăng tu hành chân chánh gìn giữ xiển dương chánh
pháp, thì cất chùa có lợi ích gì? Vậy, Phật tử hiểu đạo rồi nên
ứng dụng lý chánh báo và y báo để làm Phật sự mới hợp đạo. Chúng
ta Phải làm sao cho ngày mai có những Tăng Ni tài đức để duy trì pháp Phật
được lưu truyền, sau đó mới gìn giữ chùa chiền là thờ kính Phật. Vậy
việc chính của chúng ta là phải phát triển chánh báo cho tốt rồi y báo
sẽ theo đó sẽ tốt. Nếu chỉ một bề lo y báo mà không lo chánh báo thì
sẽ bị suy thoái về sau. Đâu quý vị kiểm lại xem Phật sự quý vị đã
làm là nhắm vào gốc hay vào ngọn ? Đa số là nhắm vào hình thức.
Ví dụ như các thày dự định xây
mái cổng chùa, có một Phật tử giàu có đến xin hỷ cúng một mình, để
cổng chùa ấy mang tên của mình cúng. Tên người lẫn cổng chùa vẫn còn
lưu lại đến năm ba chục năm. Còn nếu cúng một hai triệu để nuôi 100
vị Tăng ăn tu, chỉ vài tháng là hết, tên người cũng không còn, nên
không vui không thích. Cúng cổng chùa mỗi lần đi ngang qua nghĩ cổng chùa
mình cúng còn đây. Quý vị nên nhớ rằng chư Tăng ăn của tín thí tuy hết,
nhưng họ lo tu học cho tâm trí được sáng suốt, đức hạnh được tăng
trưởng, thanh tịnh. Mai sau, họ là người hoằng dương chánh pháp, làm cho
Phật pháp trường tồn lợi ích chúng sanh. Nếu không có những người đó
thì lấy ai duy trì Phật pháp giáo hóa chúng sanh?
Bây giờ đến phần ứng dụng lý
chánh báo y báo trong cuộc sống hằng ngày của Phật tử. Trước hết là
ngay bản thân mình việc trước mắt là phải trau dồi tài sức, chớ đừng
nghĩ mai kia mình có địa vị làm ông này bà nọ, sẽ giàu sang phú quí. Nếu
mình có đủ tài đức thì mọi việc tốt nó sẽ đến với mình. Giả sử
có môt đứa học sinh đi học, ngày ngày cứ mơ ước mai sau sẽ làm bác sĩ
hay bác học, mà hiện tại vào lớp không chịu học hành, cứ thả hồn mơ
ước viễn vông. Cuối năm thì thi rớt, vậy mai sau có làm bác học, bác sĩ
được không? Chắc chắn là không. Ngược lại có một học sinh khác
không mơ ước mai sau làm gì cả, mỗi ngày vô lớp chăm chỉ, siêng năng học
hành, nên học giỏi nhất nhì trong lớp. Và cứ như thế, hết niên khóa
này tới niên khóa khác, và cuối cùng là được tuyển vài khoa học hay y
học để rồi ra làm bác sĩ, bác học. Mơ ước những điều cho ngày mai
là việc làm không thực tế. Mà thực tế là hiện tại phải làm sao trau
dồi cho có tài đức, thì mọi sự tốt đẹp dù không muốn cũng đến. Vì
chánh báo tốt thì y báo tốt sẽ đến.
Sau là việc dạy dỗ con cháu. Có
nhiều Phật tử quan niệm là phải làm sao có nhiều tiền của để lại
cho con cháu. Nếu có nhiều tiền của mà con cháu bất tài vô đức, lêu lổng
ăn chơi thì càng thêm hư hỏng. Cùa cải khó bề bảo quản, sớm muộn gì
rồi cũng tiêu tán. Thế nên thương và lo cho con cháu là phải lo cho nó học
để có tài, phải giáo dục cho nó có đức. Nếu có tài có đức thì mai
kia nó sẽ nên người, làm được việc mà chúng ta mong muốn. Chớ dành dụm
của cải để lại cho con cháu, mà nó bất tài thiếu đức thì không gìn
giữ được. Vì của cải thì có thể bị con cái phá, trộm cắp cướp
đoạt mất đi. Chớ tài đức thì không ai cướp giựt được. Lại có nhiều
người nhìn phiếm diện, chỉ lo cho con học giỏi thôi, không nghĩ gì đến
đức hạnh của nó. Đó là một khuyết điểm lớn cùa người làm cha mẹ.
Trên đời nhiều người làm tội ác tày trời đâu phải là những người
dốt, bất tài. Chẳng hạn như những thủ lãnh cúa những đảng cướp lừng
danh thế giới đâu phải là những kẻ ngu bất tài. Người càng tài giỏi
mà không đạo đức là càng họa to cho xã hội. Cho nên có tài thì phải cần
có đức. Tài thì nhà trường đào tạo, đức không phải tự nó mà có
mà do cha mẹ kết hợp nhà trường hướng dẫn giáo dục. Được như thế
mới có thể gìn giữ sự nghiệp của mình và làm lợi ích cho nhân quần
xã hội.
Như chúng ta đã biết gốc của
chánh báo là tâm. Gần đây, quý Phật tử nghe nói pháp tu Tịnh Độ quá
đơn giản là gần lâm chung niệm Phật từ bảy đến mười câu cũng được
Phật rước về cõi Cực Lạc. Điều này phải nghiệm lại cho kỹ. Kinh A
di Đà Phật dạy: Niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn ít nhất là một
ngày, hoặc hai ngày... cho đến bảy ngày. Nhất tâm bất loạn tức là định,
mà định là tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì sẽ sanh về cõi Phật tịnh.
Phật dạy thật rõ ràng. Vậy mà tay chúng ta lần chuỗi miệng niệm Phật
tâm thì nghĩ vô số chuyện. Như vậy là tâm quá loạn thì làm sao về cõi
tịnh được? Nên Phật vì lòng từ bi có rước về cõi Phật, chúng ta cũng
không ở được, vì tâm chúng ta quá ô nhiễm, tham sân si còn dẫy đầy làm
sao tương ứng được với cõi tịnh mà ở, rốt cuộc rồi cũng phải trở
lại cõi Ta Bà uế trược này. Vì chánh báo nào y báo nấy. Chuyện thế
gian gần nhất là nhiều người đi nước ngoài, trong số đó cũng có một
số người chịu sống ở nước ngoài, nhưng cũng có một số người muốn
trở lại Việt Nam. Trong khi họ đi họ nghĩ rằng ra nước ngoài sẽ sung sướng
hơn. Nhưng khi đến nước ngoài vì văn hóa kém, ngôn ngữ của người không
nói được, phong tục tập quán của mình không thể kết hợp được... Nên
cảm thấy lạc loài, muốn trở về Việt Nam. Người niệm Phật mà tâm
không thanh tịnh, còn loạn động bởi tham sân mà muốn về Cực Lạc cũng
na ná như thế ấy.
Người tu thiền cũng vậy, chúng ta
đừng mong chứng Niết Bàn, mà phải tu làm sao cho hết vọng tưởng phiền
não. Vọng tưởng phiền não hết thì Niết Bàn hiện tiền. Trái lại, tu
mà mong mau chứng Niết Bàn, sẽ bị ma quấy nhiễu rồi dẫn vào đường tà.
Niết Bàn là gì? Niết Bàn là tâm thanh tịnh. Nếu vọng tưởng phiền não
hết thì tâm thanh tịnh đó là Niết Bàn, không cần mong cầu tìm kiếm. Đó
là một lẽ thật, đừng mong ước Niết Bàn trong khi tâm mình còn dẫy đầy
vọng tưởng phiền não, thì không bao giờ được Niết Bàn như ý muốn.
Vậy, chủ yếu của sự tu hành là
ở tâm. Tâm được thanh tịnh là do tu thiền định, gạn lọc tham sân si
phiền não hết sạch, rồi trải lòng thương giúp đỡ người, làm cho mọi
người được an vui lợi ích. Mình vui người vui thì đâu có chán nản
mong tâm đi đây đi kia ! Vì tâm mình ích kỷ, đố kyanh ghét thấy ai cũng
xấu xa tối tệ, nên chán, tự cô lập mình thành một cái ốc đảo nên
cô đơn lạc loài. Nếu ở chỗ này với tâm ích kỷ phiền não thấy mình
lạc loài, tới chỗ khác cũng sẽ bị lạc loài. Tu là hiện tại phải
chuyển tâm, tâm chuyển thì cảnh chuyển. Chớ trách cảnh trách người xấu,
mà hãy tự trách mình còn nhiều thói hư tật xấu, nên y báo xấu nó theo
mình. Vì vậy, tự mình phải lo tu sửa cho tâm được tốt, cho tâm được
thanh tịnh.
Chúng ta hiểu rõ lý chánh báo y
báo rồi, thì phải ứng dụng trong đời tu, trong khi làm Phật sự, trong cuộc
sống gia đình, giáo dục con cái cho đúng, thì sẽ được lợi ích rất lớn,
không riêng cho bản thân mình mà còn lợi ích cho tất cả mọi người
chung quanh.
Bồ
Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả [^]
Nhiều Phật tử đi chùa quy y
đã lâu, biết tụng kinh niệm Phật, thế mà đối với lý nhân quả chưa
đủ lòng tin. Nếu chưa đủ lòng tin nhân quả thì giáo lý Phật coi như
chưa hiểu gì cả, vì lý nhân quả là nền tảng của Phật pháp. Tin lý
nhân quả là điều thiết yếu nhưng không phải tin suông, tin mù quáng mà
là một sự kiện thực tế, cụ thể ngay trong cuộc sống, rất sáng tỏ,
không mơ hồ huyền hoặc.
Thế nào là "Bồ Tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả"?
Bồ Tát nguyên chữ Phạn là
Bodhisattva, dịch âm là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch nghĩa là hữu tình giác. Tức
là một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp cho những chúng sanh khác cũng
được giác ngộ như mình, thì gọi là Bồ Tát. Nhờ đã giác ngộ thấu
suốt được lý nhân quả trong ba đời, nên chỉ sợ nhân mà không sợ quả.
Chúng sanh là loại hữu tình có sinh có tử còn vô minh nên đi mãi trong
vòng luân hồi. Vì chưa giác ngộ, còn mê mờ không thông lý nhân quả nên
chỉ sợ quả mà không sợ nhân. Vậy kiểm lại trong chúng ta, ai là người
biết sợ nhân xấu đó là người giác, là Bồ Tát, ai sợ quả xấu là kẻ
mê, là chúng sanh. Bồ Tát hay chúng sanh là tự chúng ta có thấy biết đúng
sự thật hay không, chớ không phải Bồ Tát cỡi hạc hay cỡi sư tử đi
trên hư không để cho người ngưỡng vọng lễ bái. Nếu giác, thấy đúng
lẽ thật, nhận biết một cách chính xác nhân nào đưa đến quả khổ, nhân
nào đưa đến quả an lạc. Do biết rõ, nên thấy nhân nào đưa đến quả
khổ quyết định không làm, vì tạo nhân rồi thì không tránh được quả,
đó là Bồ Tát sợ nhân. Ngược lại, cái nhân đưa đến quả khổ nếu
chúng ta không biết để tránh, mà chỉ thấy quả khổ đến lo sợ tránh
né, đó là chúng sanh sợ quả. Ví dụ người có tật nóng giận, mỗi khi
có người trong nhà hay hàng xóm nói hoặc làm điều gì trái ý liền la lối
đánh đập. Nếu chửi bới hay đánh đập vợ con trong nhà bị thương tích
thì tốn tiền thuốc thang chữa trị, bị xóm giềng cười chê là đồ bất
nghĩa bất nhân, khiến tâm ray rứt hối hận.
Nếu đánh đập người ngoài xã hội
có thương tích thì bị người đánh lại hay bị bắt bớ giam cầm. Khi đánh
chửi thì không sợ, đến khi thấy vợ con đau bịnh hoặc bị người đánh
lại, hay bị tù tội thì lo sợ. Đó là người mê hay tỉnh? Vì mê không
biết nhân xấu ác sẽ đưa đến quả khổ, nên cứ làm rồi thọ quả khổ
chừng đó mới sợ.
Người có lòng tham, thấy của người
dễ lấy, liền lấy đem về làm của mình, khi lén lấy của người thì
không sợ mà chỉ thích thú là mình được của. Để khi chủ nhà hay mất
của, báo nhà chức trách truy tìm lùng bắt kẻ trộm thì lo sợ. Đó là người
mê, vì mê nên không biết tạo nhân xấu phải chịu quả khổ, cứ làm để
rồi quả khổ đến thì hoảng kinh lo sợ.
Có nhiều thiếu niên 14, 15 tuổi thấy
người lớn hút thuốc nhả khói phì phà có vẻ oai vệ thư nhàn nên tập
hút, hút một thời gian thì ghiền. Khi ghiền, nếu có thuốc hút thì tạm
ổn, hôm nào không tiền mua thuốc thì ngáp dài chảy nước dãi thèm thuồng,
chịu không nổi, tới người này, người kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc
hút, thật là khổ sở. Đó là cái quả chặng thứ nhất. Đến quả chặng
thứ hai là hút tới lới tới già thì bị nám phổi, ung thư phổi, bịnh
trầm kha, khốn khổ vô cùng. Lúc hút thuốc hồn lâng lâng quyện theo khói
theo mây thì không sợ. Đến khi cơn ghiền hành hạ không tiền mua thuốc,
bịnh hoạn bứt ngặt không tiền uống thuốc, không thuốc để điều trị,
chừng khổ đến mới sợ.
Lại có những chú bé mười lăm
mười bảy tuổi thấy cha chú uống rượu bàn tán việc làng việc nước,
việc cổ kim thời sự ra vẻ người hiểu biết sành đời, nên thích thú
tập uống. Khi mới uống thì cảm thấy cay nóng, tập một thới gian trở
thành dễ chịu và đi tới ghiền. Khi ghiền rồi thì mỗi ngày phải có rượu
mới yên, nếu không rượu thì uạ ọc bực bội khó chịu. Đó là cái quả
thứ nhất không rượu uống. Nếu gặp tiệc tùng anh em đông đảo, người
chén thù người chén tạc, kết quả là say túy lúy, đi ngã bờ ngã bụi
làm trò cười cho thiên hạ. Khi về đến nhà thì chửi đánh vợ con, ói mửa
đầy đất hôi hám nhơ bẩn nhà cửa, khiến cho cha mẹ vợ con buồn chán.
Đó là cái quả thứ hai, làm cho gia đình mất hạnh phúc. Đến cái quả
thứ ba là chai gan, loét dạ dày... đau bịnh trầm kha vô cùng khốn khổ. Từ
cái nhân nhỏ đưa tới cái quả thật to, mà người ta không thấy nên mới
tạo, để rồi thọ quả vô cùng khốn khổ, hối hận thì không kịp. Vậy,
người tập tành những thói hư tật xấu đó là giác ngộ hay mê? Bởi mê
nên mới khổ. Nếu giác như Bồ Tát biết rõ hút thuốc uống rượu là
cái nhân đưa tới nghiện ngập, bịnh hoạn nghèo khổ, gia đình mất hạnh
phúc. Biết như vậy, nhất định không uống, không hút, dù người có cố
tình mời mọc, dứt khoát không dùng. Đó là người sống có tính giác
nên không khổ. Nếu sống mà không biết nhân nào đưa tới quả khổ, nhân
nào đưa tới quả vui, mặc tình tạo tác để rồi quả đến thì kêu trời
trách đất. Đó là người mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ
quả nên bị khổ đau. Vậy chúng ta hiện có mặt ở đây tự xét lại coi
mình là người giác hay kẻ mê? Ai cũng muốn mình là người giác, không bị
khổ đau bứt ngặt thì nên tập hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu,
chớ không sợ quả xấu.
Ở thế gian có nhiều trường hợp
mới thoạt nhìn, thấy dường như rất tốt, nhưng nhìn kỹ thì chẳng tốt
chút nào. Chẳng hạn người biết hút thuốc gặp người chưa biết hút
thì mời ép cho hút, đến khi ghiền thuốc rồi, không tiền mua, xin thì
kkhông cho. Hoặc người chưa biết uống rượu được người biết uống
rượu mời mọc ép uống, đến khi ghiền rồi thì ít khi được mời uống.
Vậy, những người bạn thuốc bạn rượu có thật thương thật tốt với
chúng ta không??? Bạn thuốc bạn rượu không phải là người để chúng ta
kết giao thân thiện.
Lại có trường hợp Phật tử thường
đi chùa tụng kinh lạy Phật. Một hôm có người nói: "Chị năm nay bị
sao Kế Đô chiếu mạng, coi chừng bị tai nạn". Phật tử này không
dám đi đâu, ngay cả đi chùa cũng không đi, ở nhà lo lắng buồn rầu...
Phật tử đi chùa với tâm trạng như vậy, có hiểu lý nhân quả không?
Sao Kế Đô đó do ai đặt ra. Nhà thiên văn địa lý nào đó đặt ra mỗi
tinh tú có một cái tên, trong đó có một tinh tú mang tên Kế Đô và mỗi
tinh tú vận hành theo luật thiên nhiên của vũ trụ, đâu có chủ yếu chiếu
vào người nào để cho người đó thọ nạn? Theo lý nhân quả của Phật
giáo thì do người chủ động tạo tác nhân (nguyên nhân tạo nên sự vật,
khi sự vật thành hình gọi là kết quả) và quả cũng do người tạo tác
nhận chớ không ai khác. Phật, trời, thánh, thần không định đặt cho con
người khổ hay vui, mà do con người làm chủ; Nếu tạo nhân xấu là thọ
quả xấu, nếu tạo nhân tốt thì thọ quả tốt. Vậy sợ là sợ cái gì?
Giả sử có một Phật tử đúng vào năm sao hạn xấu mà tâm lúc nào cũng
nghĩ tốt, nói năng thì vui vẻ nhã nhặn, đối với mọi người thì luôn
luôn tử tế hài hòa, thì Phật tử ấy thường được người thương hay
ghét? -Thương. Ngược lại, nếu có một Phật tử hay đi chùa được tuổi
tốt sao hạn tốt mà tâm thường nghĩ quấy, nói năng thô lỗ cộc cằn,
đối xử với mọi người thì hơn thua lấn lướt. Vậy Phật tử đó được
thương hay bị ghét? -Ghét. Vậy, do tâm niệm xấu xa, ngôn ngữ cộc cằn
thô lỗ, hành động bất hảo làm cho người ta ghét hay sao hạn làm người
ghét? Và tâm niệm tốt đẹp, ngôn ngữ nhã nhặn, việc làm lương thiện
khiến cho người thương hay sao hạn khiến cho người thương??? Nếu người
thương thì được người hoan hỉ giúp đỡ, đó là phước. Nếu có người
ghét thì bị hại đó là tội. Rõ ràng tội phước là do ý nghĩ lời nói
hành động mà ra, ý nghĩ lời nói hành động tốt là gieo nhân lành, đã
gieo nhân lành thì quả sẽ an vui tốt đẹp, ý nghĩ lời nói hành động xấu
là gieo nhân ác thì gặt quả xấu khổ đau. Khổ hay sướng là do nhân tốt
hay xấu chớ đâu do tuổi xấu sao hạn xấu?
Đa số người Việt Nam đều ngại
ngùng ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba, đi đường thì không dám đi,
làm việc thì không dám khởi công vào những ngày này, vì đó là những
ngày xấu. Với những ngày xấu này, nếu quý Phật tử để dành tiền mua
sắm phẩm thực vật dụng cần thiết để đem đi giúp đỡ người tàn tật,
bệnh hoạn hay già yếu thì ngày đó là ngày tốt hay ngày xấu?-Tốt. Trong
những ngày mà đi giúp đỡ xoa dịu cho người bớt cơn nghèo túng đói khổ,
không phải ngày tốt là gì? Còn những ngày khác được coi là tốt mà ra
đường gặp ai cũng cãi cũng gây rồi đi tới đánh đập kiện cáo. Vậy
ngày đó là ngày tốt hay xấu?-Xấu. Tại ngày đó xấu hay tại chửi lộn
đánh lộn thành xấu? Tại mình không biết chế ngự thân miệng ý mới
có chuyện đánh chửi xảy ra nên xấu. Như vậy, ngày được mọi người
cho là tốt mà gieo nhân xấu thì ngày đó cũng trở thành xấu mà biết
gieo nhân tốt thì ngày đó cũng trở thành tốt. Lỗi tại ngày giờ hay lỗi
tại hành động con người? Nếu lời nói hành động con người gây tai họa
hay được an vui, thì rõ ràng con người gieo nhân và cũng chính con người
chịu quả, đâu phải ngày giờ sao hạn định tốt xấu cho con người. Đã
là Phật tử, có còn sợ và tin ngày giờ, sao hạn tốt xấu nữa không? Nếu
còn thì lòng tin nhân quả chưa có. Luật nhân quả "là một lẽ thực
cụ thể", vì Phật tử không hiểu chưa tin nên nói mơ màng tưởng tượng
ra lý này lẽ nọ để mà tin mà làm. Thế nên có nhiều Phật tử đã quy
y mà vẫn tin những cái quàng xiên, mơ hồ không đúng lẽ thật.
Ví dụ tromg gia đình hai vợ chồng
có những quan điểm bất đồng nên gây cãi nhau, lần đầu không giải quyết
ổn thỏa, ít hôm sau lại cãi nữa, và cứ cãi hoài đến năm bảy lần...
rồi họ thắc mắc tại sao trong nhà cứ xào xáo hoài, họ cho rằng do cái
cửa, cái bếp đặt không đúng hướng, nên đến chùa nhờ thầy giở lịch
ra coi, rồi xây lại cái bếp sửa lại cái cửa. Nhưng, xây bếp sửa cửa
xong họ lại cãi nữa... Hai người bất đồng ý kiến mà không chịu hóa
giải cho đồng, cho có một hướng chung để xây dựng cuộc sống chung cho
có hạnh phúc mà lo sửa bếp sửa cửa. Chỉ làm chuyện bên lề không đúng
vào đâu. Chẳng hạn có cuộc cãi vã đó là do ông chồng đang có chuyện
tình cảm riêng tư, nên người vợ buồn phiền sanh ra rầy rà. Muốn cho
gia đình được êm ấm, thì người chồng phải tu chỉnh thói hư tật xấu,
để trở thành người chồng tốt, người chồng có đủ tư chất. Còn
cái bếp cái cửa vô tri có dính dáng gì với chuyện cãi vã của vợ chồng
trong gia đình? Thế mà người ta vì không hiểu nên không thấy cái nhân
gây ra cái dở cái xấu, để rồi trốn tránh trách nhiệm và đổ thừa
cho ngoại cảnh. Quý vị có tự thấy mình mỗi khi làm điều gì hư dở là
nêu lý do này lý do nọ, chứ không dám nhận cái hư dở là tại mình sơ
thất và can đảm chịu trách nhiệm. Đó là do tâm hồn yếu đuối, không
gan dạ nhìn nhận sự thật.
Nếu người Phật tử hiểu được
lý nhân quả, biết được mọi sự vật xảy ra giữa mình với người đếu
do cái nhân từ trước, mà nhân đó chính mình tạo chớ không phải ngẫu
nhiên mà có. Chẳng hạn đi đường gặp người quen vừa thấy mặt mình
là họ xoay mặt đi chỗ khác, mình liền bực cho rằng họ khinh mình, bèn
nói xa nói gần một hồi sanh ra gây chửi. Chửi rồi, về nhà nói rằng
tôi không chọc ghẹo mà nó kênh với tôi nên tôi phải cho nó một bài học.
Người nói như vậy là vô lý, vì trong sự tương giao, mình cũng như người
chưa từng nói hay làm điều gì mích lòng nhau, vẫn đối xử với nhau tốt
đẹp, thì có khi nào gặp nhau là khó chịu xoay mặt làm lơ? Không ai mà bất
thường đến thế ! Chắc chắn là mình hoặc vô tình hay cố ý đã làm
cho họ xúc não rồi, nên gặp mình là họ tránh né. Đó là do mình đã
gây nhân không tốt với họ rồi, chớ đâu phải vô cớ. Quý vị xét kỹ
lại xem trong gia đình ngoài xã hội từ vợ chồng con cái cho đến quyến
thuộc anh em bằng hữu, nếu có chuyện không ổn xảy ra, đều do nguyên
nhân không tốt, hoặc người này hay người kia tạo ra mà người trong cuộc
không có gan nhận trách nhiệm tự nơi mình mà đổ thừa lý này lẽ nọ.
Vì thế mới có thầy bói khai thác cái nhược điểm đó để ăn tiền. Nếu
Phật tử mà tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền coi bói. Ngày xưa tôi
có quen một ông thầy bói, ông nói cho tôi nghe cái thuật coi tướng số của
ông mà tôi cười quá chừng. Ông nói coi tay đâu cần coi, chỉ nhìn dáng
người là đoán đúng tâm lý. Chẳng hạn vợ ông cả ông chủ đến coi mà
thấy người héo hon xanh xao, là biết bà đang bệnh gì rồi. Ông liền
nói: Bà rất hiền lành, rất phúc hậu, trong nhà bà có người xen vô làm
cho gia đình mất hạnh phúc, nên bà buồn rầu sinh bệnh hoạn... Bà khen
ông coi rất hay nên trả tiền rất hậu. Còn nếu thanh niên nhờ xem vận mạng
đen đỏ trong kỳ thi tới, thì ông nói: Không sao, cháu thế nào cũng đậu,
nhớ ráng học, học giỏi thì sẽ thi đậu. Tới chừng thi, nếu đậu thì
ông được khen và được thưởng, nếu rớt thì ông nói tại cháu không
chịu ham học... Ông nói, bói là đánh vào tâm lý, đánh vào sở thích,
nói cho người ta vừa lòng thì dù đúng hay không cũng thù lao tiền trọng
hậu. Để thấy người coi bói là họ ve vuốt theo tình cảm, chúng ta
thích cái gì thì họ cứ vuốt ngọt cái nấy để chúng ta vừa lòng, đã
hài lòng thì dù nói dở cũng thành hay, nói trật cũng thành trúng. Đó là
cái thuật mà người chuyên nghiệp họ kể lại cho chúng tôi nghe. Điếu cần
thiết của họ là khéo mồm khéo miệng, nhờ khéo lời, nên người coi bói
tốn tiền mà không lẩn tiếc, cứ đi coi hoài.
Người băn khoăn lo lắng hậu vận
của mình là người không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì có gì băn
khoăn lo lắng? Muốn mai kia được sung sướng thì ngày nay cứ lo làm lợi
ích cho mọi người. Muốn mai kia thi đậu vẻ vang thì ngày nay phải chăm học,
học giỏi. Muốn cho mọi người ai thấy mình cũng mừng rỡ thì cứ đối
đãi tử tế với mọi người. Mình đã tạo nhân thì quả sẽ đến, chớ
không thể bỗng dưng mà có.
Như vậy, quý Phật tử có nên đoán
vận mệnh nữa không? Giả sử mỗi năm cần đoán hậu vận khoảng năm ba
chục lần, thay vì làm việc đó, quý vị nên sắm phẩm thực vật dụng
thuốc men cho cô nhi, người già, người bệnh, vì họ đang cần sự giúp
đỡ của chúng ta.
Châm ngôn Việt Nam có câu: "Tay
cầm tiền quý bo bo, đem cho thầy bói mang lo cho mình". Làm ra tiền thì
phải lao động tay chân hay trí óc cực nhọc nên quý nó lắm. Nhưng đem tiền
đến thầy bói coi vận mạng, nếu họ nói năm này là năm tuổi, nhằm sao
la hầu chiếu mạng, hậu vận không tốt... Coi xong về nhà lo rầu, không
biết tai nạn gì sẽ đến với mình, rồi bỏ ăn mất ngủ. Đi coi bói chỉ
thêm buồn thêm lo thôi, có lợi gì? Người tin nhân quả cứ tạo nhân
lành thì quả tốt sẽ đến, còn tạo nhân ác thì dù cho có ai khen tốt
khen hay, thì quả xấu vẫn cứ đến. Giả sử đối với một người nào
đó mà mình ghét họ, khinh họ, nói xấu họ, chắc chắn là họ không quý
mến mình. Ngược lại, đối với họ nếu mình cảm thông, chân tình giúp
đỡ, dù không muốn họ quý mến mình, họ vẫn cứ mến. Nhân quả theo
nhau không rời, rõ ràng mà nhiều người không tin, cứ tin những chuyện
bâng quơ vô căn cứ. Như vậy, người Phật tử hiểu rõ lý nhân quả thì
tránh nhân hay sợ quả? Nếu biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt thì quả
xấu làm gì có? Người mà biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt là người
tỉnh hay người mê? Đó là người tỉnh, người giác, là Bồ Tát con. Bồ
Tát thì sáng suốt, biết tránh nhân xấu thì quả khổ không đến nên được
an lạc, chúng sanh vì si mê, cứ tạo nhân xấu thì quả xấu cứ đến nên
đau khổ.
Người tránh nhân xấu thì không băn
khoăn về chuyện thương chuyện ghét, không băn khoăn về hậu vận rủi
may, cứ trải lòng thương đến mọi người và làm lợi ích cho mọi người,
lòng không lẩn tiếc hay toan tính. Chúng ta thường có những bất công mà
không tự thấy, không đem nguồn vui đến cho mọi người mà cứ mong mình
luôn được vui sướng, điều này khó có thể xảy ra.
Ví dụ muốn ráp một chiếc xe đạp
toàn hảo vừa chắc chắn vừa đẹp, phải lựa mua những bộ phận cho thật
tốt. Cần có đủ năm chục bộ phận mới ráp được chiếc xe vừa bền
vừa đẹp, mà chúng ta chỉ có hai chục bộ phận hoặc mười bộ phận là
đồ tốt, những bộ phận còn lại là đồ xấu, khi ráp xong chiếc xe, chiếc
xe có được vừa ý không? -Không. Để thấy, muốn được chiếc xe hoàn hảo
thì phải chọn các bộ phận của chiếc xe cùng hoàn hảo.
Cũng vậy, con người ai cũng muốn
đời mình hoàn toàn vui, không muốn chút khổ xen lấn, vậy mà khi tạo
thì không chọn thuần nhân lành mà cứ để xen lấn những điều xấu, thì
làm sao được quả vui hoàn toàn? Chẳng hạn như các ông muốn thân thể
được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, mà lại hút thuốc uống rượu gây
cái nhân đau bịnh, thì làm sao được khỏe mạnh sáng suốt. Muốn cho
thân khỏe tâm sáng thì phải sống có điều độ có thì giờ nghỉ ngơi tịnh
dưỡng thân tâm. Còn các bà các cô ai cũng muốn tươi trẻ, vậy mà cứ
buồn giận nhăn nhó quạu quọ hoài, thì làm sao tươi trẻ được. Muốn
tươi trẻ thì phải sống lành mạnh vui vẻ, nhờ vui nên mới tươi, mà
vui thì không giận. Vậy, nếu có ai lỡ làm phiền thì hoan hỷ bỏ qua, đó
là tạo nhân tươi trẻ. Bằng ngược lại, cứ buồn giận, hết phiền
người này ghét người kia, mà giận ghét thì lòng đâu có an ổn nhẹ
nhàng, ăn không ngon ngủ không được, đó là cái nhân bệnh hoạn làm cho
thân mình tiều tụy hốc hác. Nếu biết nhân xấu đưa tới quả xấu thì
tránh, đừng muốn một đàng mà làm một nẻo thì không được như ý. Vậy,
biết tu một ngày là làm cho mình được an vui một ngày, tu một măm là
làm cho mình được an vui một năm và đồng thời cũng gây niềm vui cho mọi
người. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhân quả giúp chúng ta nhìn đúng
lẽ thật, sống an lành, trở thành người gan dạ mạnh mẽ không nhát
nhúa yếu đuối. Ví dụ có một Phật tử vì không điều phục được
cơn phiền giận nên lỡ đánh chửi người. Khi đánh chửi xong biết mình
tạo nhân ác, chắc chắn là quả báo xấu sẽ đến. Nên khi bị người uy
hiếp đánh đập lại thì gan dạ chịu chớ không kêu than hay trách cứ ai
cả. Ngược lại, có người khi đánh chửi thì hăng hái, đến khi bị uy
hiếp thì kêu trời kêu đất than trách đủ điều. Đó là người yếu đuối
không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo. Vậy muốn được an vui thì
phải gan dạ bỏ những cái nhân xấu mà tạo nhân lành. Thường tạo nhân
lành thì cái xấu ác sẽ yếu dần và hết hẳn.
Hiểu được lý nhân quả thì đối
với những sự việc bất tường xảy ra, chúng ta sẽ không trách người mà
tự trách mình, do mình trước kia mê muội không tránh nhân xấu ác nên giờ
này thọ quả xấu. Sẵn sàng đón nhận một cách gan dạ bình tĩnh. Chúng
ta thường thấy trong một gia đình hai ba chị em sống chung, có một người
lỡ làm bể một cái tô hay cái dĩa, sợ bị rầy nên phi tang. Đến khi má
hay ba hỏi không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát nhúa
không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của
mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái dở của
mình. Lý nhân quả giúp con người có tinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết
lựa chọn nhân tốt để làm nhân xấu để tránh. và lỡ tạo nhân xấu rồi,
thì sẵn sàng chấp nhận quả xấu một cách gan dạ không sợ sệt, không
lẩn trốn. Vì không hiểu lý nhân quả nên mới nhát nhúa, sợ sệt, không
có chánh tín, rồi làm xằng bậy sẽ đi vào con đường tà một cách dễ
dàng.
Hiện tại có một số Phât tử có
cái lệ đầu năm đi chùa hái lộc, hay đi cúng thập tự để cầu cho trọn
năm được bình an. Nhưng nếu nửa năm có xảy ra hoạn nạn thì thắc mắc
tại sao mình đi cúng thập tự và đã cầu an mà vẫn còn hoạn nạn. Rồi
cho rằng chùa cầu nguyện không linh, định năm sau sẽ không đi cúng chùa
nữa. Quan niệm như vậy là không chánh đáng. Vì đi cúng chùa cầu xin Phật
ban phước lành, đó chỉ là một ảo tưởng. Phật có bao giờ ban phước
giáng họa cho ai đâu? Phật chỉ dạy cho ta việc nào để làm cho được
an vui, việc nào nên tránh để khỏi bị khổ. Chúng ta nghe lời dạy của
Ngài thực hành theo mới hết khổ. Phật không phải là một thần linh để
ta tôn thờ lễ lạy và cầu xin phước lộc.
Năm rồi có một Phật tử hỏi
tôi:
-Thưa thầy. có người nói bà Chúa
Xứ ở Châu Đốc linh lắm, Đến miếu bà vay tiền về làm ăn sẽ phát đạt.
Theo thầy thì quan niệm đó đúng hay sai?
Tôi đáp:
-Nếu vay tiền ở miếu bà về làm
ăn phát tài, thì mọi người ở Châu Đốc đều giàu hết, vì ở đó gần,
họ sẽ vay để làm giàu. Nhưng có nhiều gia đình ở chung quanh miếu bà,
nhà còn lụp xụp có vẻ nghèo khó, họ dại gì không vô miếu vay mà làm
giàu, để quý vị từ phương xa đến vay?
Đó là một chuyện vô lý, vậy mà
người ta vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng. Người Phật tử không thấy
được lẽ thật, tin hết chỗ này linh đến chỗ khác linh, đua nhau đi tìm
sự linh hiển ở bên ngoài. Không thấy được linh hay không linh là cái
nhân tốt hay xấu mà mình đã tạo, tạo nhân tốt thì gặp quả tốt, tạo
nhân xấu thì gặp quả xấu. điều đó quá rõ ràng, vì chúng ta chưa định
tĩnh nên không thấy đó vậy.
Lại có người hỏi:
-Thưa thầy, nhiều người đi biển
gặp sóng to gió lớn, họ niệm Bồ Tát Quan Thế Âm, thấy Bồ Tát đến cứu
họ được thoát nạn, họ cho rằng Bồ Tát linh thiêng. Theo thầy thì sự
kiện đó như thế nào?
Tôi đáp: Đã là Phật tử đi sông
đi biển gặp sóng gió thì không ai tiếc hơi mà không niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát. Nhưng tại sao có người được cứu, vẫn có người bị chết chìm?
Có phải Bồ Tát Quán Thế Âm thương người này mà không thương người
kia không?
Vì không hiểu lý nhân quả nên cho
rằng người không bị nạn là nhờ niệm Bồ Tát. Bồ Tát linh giải cứu
cho thoát nạn. Còn người bị nạn niệm Bồ Tát, mà Bồ Tát không linh
nên không cứu. Tại sao đồng niệm Bồ Tát mà người niệm linh, người
niệm không linh, làm sao cho rõ lẽ này? Người niệm danh hiệu Bồ Tát mà
được thoát là vì chính người đó có nhiều nhân lành nhiều phước đức.
Nên khi tâm khởi tưởng Phật, tưởng Bồ Tát thì thấy Phật và Bồ Tát
hiện. Vì chủng nghiệp lành đã huân chứa sẵn đủ duyên liền khởi hiện
hành (thấy Phật thấy Bồ Tát), Và vì do tích chứa nhiều nghiệp lành
thì làm sao thọ quả khổ được? Còn người niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn
bị nạn, chính vì người đó thiếu phước không có tích lũy nghiệp lành
(chủng tử Phật, Bồ Tát không có sẵn). Tuy có khởi niệm mà Phật và Bồ
Tát vẫn không hiện. Và vì nhân ác đã có sẵn nên chiêu quả không lành.
Để thấy, sự kiện trên cũng do nhân lành hay dữ mà chúng ta tạo, không
phải do từ Phật hay Bồ Tát linh thiêng đến giúp. Thế nên người Phật
tử tu hành đầu tiên là phải hiểu lý nhân quả, biết nhân nào nên làm
nhân nào nên tránh, đó là chúng ta tiến vào con đường giác, mà người sống
có tỉnh có giác thì hết khổ được vui, rõ ràng không nghi ngờ.
Hằng ngày trong công việc làm ăn
tuy có bận rộn giao tế nhiều với mọi người, nhưng nếu chúng ta biết
tránh nhân dữ, chọn nhân lành, thì từ ý nghĩ, lời nói, việc làm lúc
nào cũng lương thiện, vừa lợi mình vừa lợi người, đó là chúng ta đã
tu. Chúng ta phải thường xuyên tu, tu từng phút, từng giờ, tu cả ngày...
chớ đâu phải đợi tới giờ tụng kinh lạy Phật mới tu, ngoài giờ đó
nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như vậy là không hiền. Lạy
Phật thì lạy, tụng kinh thì tụng, chửi lộn vẫn cứ chửi, đánh lộn cũng
dám đánh. Thế nên tu mà không hết khổ lỗi tại chỗ đó. Vì tu mà chỉ
biết tu với Phật không chịu tu với chúng sanh, cũng không chịu tu với
chính mình nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà cứ
nghiêm trang lễ bái Phật, còn ra ngoài đời với mọi người thì không nhịn
một lời, không nhường một bước, ăn thua đủ. Đối với Phật dù quý
vị có khen hay chê, Ngài cũng không vui không buồn, cũng không nói một lời,
Ngài cũng không cần chúng ta tu với Ngài.
Còn chúng sanh thì dễ buồn giận,
nên chúng ta mới tu với họ thì mình bớt khổ mà họ cũng bớt khổ. Biết
tu với nhau là đem lại hạnh phúc cho nhau, đem sự bình an lại cho nhau. Phật
dạy chúng ta tu là tu với mọi loài, chớ đâu có bảo tu với Ngài. Vậy
mà đa số người chỉ biết tu với Phật, ngày ngày lễ bái Phật, dâng hương
dâng hoa cúng Phật...
Thậm chí có nhiều người nói hôm
nay là ngày tôi ăn chay nên tôi tu, đợi ăn chay mới tu. Vậy những ngày
ăn mặn không tu sao? Một tháng ăn chay có bốn ngày hoặc sáu ngày nên chỉ
tu có bốn ngày hoặc sáu ngày, còn lại hai mươi bốn ngày hoặc hai mươi
sáu ngày cứ tự do làm ác với mọi người sao?
Nếu đợi đến trước tượng Phật
mới tu, đợi tụng kinh mới tu, đợi ăn chay mới tu, tu như thế thì quá hạn
chế. Tu là phải thường xuyên nhìn thấy từng hành động, từng lời nói,
từng ý nghĩ của mình, nếu tốt thì cho ra, xấu thì dừng lại, đó mới
thật là tu. Tu như vậy mới đúng với tinh thần "Bồ Tát Sợ
Nhân" và dù không muốn làm Bồ Tát thì quý vị cũng là Bồ Tát. Vì
đã thực hành cái hạnh Bồ Tát ắt hẳn phải là Bồ Tát. Bồ Tát là
giác, biết được nhân xấu không làm, nhân tốt thì làm đó là tỉnh
giác, mà người hằng tỉnh hằng giác không phải là Bồ Tát là gì?
Các Phật tử ở đây đều thuộc
câu "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Vậy ai cũng biết cũng
biết việc nào nên làm việc nào nên tránh rồi. Tôi mong rằng quý vị cố
gắng tu hành để tương lai sẽ thành Bồ Tát, tập sống với quan niệm Bồ
Tát, hành động theo Bồ Tát thì mai kia chúng ta sẽ là Bồ Tát. Còn nếu cứ
sống theo quan niệm và hành động của phàm phu thì suốt kiếp chúng ta vẫn
là phàm phu. Vậy, phàm phu và Bồ Tát không xa, chỉ có mê hay giác mà
thôi. Nếu giác là Bồ Tát và được an vui, nếu mê là phàm phu và bị
đau khổ.
Thần Thông và Nghiệp Lực [^]
Đa số Phật tử tu theo đạo
Phật không nhiều thì ít đều có liên tưởng đến những hiện tượng
huyền bí, đó là thần thông. Vậy thần thông có phải là cái chúng ta nương
tựa, để cho chúng ta tin cậy, để cho chúng ta học hỏi luyện tập
không?
Khi Phật cón tại thế, Tôn Giả Mục
Kiền Liên sau khi chứng quả A La Hán, Ngài có đủ lục thông. Song, đối với
những vị chứng A La Hán như Ngài, Ngài là người ưu việt hơn cả. Nên
Phật nói Tôn Giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử
lớn của Phật. Vì thần thông siêu việt nên Tôn Giả có thể dùng thần
thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong chớp mắt, hoặc dùng
thần thông hóa hiện tùy ý. Khi ấy Phật ngự trên một từng lầu, dưới
tầng trệt các tỳ kheo nói chuyện ồn ào. Phật bảo Tôn Giả Mục Kiền
Liên làm cho các tỳ kheo đó đừng làm ồn nữa. Tôn Giả liền duỗi chân
ra thì cái nhà xoay tròn, chư tỳ kheo hoảng hốt không dám nói chuyện nữa.
Với sức thần thông siêu việt như
thế, vì lòng hiếu thảo Ngài dùng thiên nhãn thông tìm trong lục đạo coi
mẹ Ngài sinh ở đâu, Ngài thấy bà đang mang thân ngạ quỉ khổ vô cùng.
Ngài thương xót mẹ, nên đi khất thực được một bát cơm liền vận thần
thông đem đến dâng cho mẹ. Khi được cơm, tay trái bà bưng bát cơm, tay mặt
bốc cơm để vào miệng, cơm vừa tới miệng liền hóa thành lửa. Tôn Giả
Mục Kiền Liên thấy mẹ ăn cơm không được khổ sở vô cùng, Tôn Giả rơi
nước mắt.
Chúng ta đặt lại vấn đề, nếu
thần thông của Tôn Giả Mục Kiền Liên siêu việt thì khi mẹ Ngài ăn
cơm, cơm hóa thành lửa, tại sao Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa
để mẹ Ngài dùng cho no lòng, mà lại đứng khóc? Vậy, quý vị nghĩ sao về
thần thông của Ngài và nghiệp ác mà mẹ Ngài gây ra? Để thấy, thần thông
không cứu được nghiệp ác của người thân. Nếu tu để có thần thông,
mà không cứu được ai hết thì có thần thông làm gì? Toàn chúng đệ tử
Phật đều tôn xưng Ngài là người thần thông bậc nhất. Vậy mà trước
cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải cứu,
mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được
nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng. Thần thông không đưa người
đến sự an lạc vĩnh viễn mà cũng không giải cứu được ác nghiệp cho
người đau khổ. Vậy, tu thiết tha mong cầu chứng đắc thần thông? hay tu
cốt để đoạn các nghiệp ác, để tránh khỏi khổ đau đang chi phối cả
kiếp người?
Sau đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên trở
về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài và cầu xin Phật dùng phương tiện
giải cứu. Phật dạy:
-Mẹ người nghiệp ác quá nặng, sức
người không thể cứu được. Người phải làm lễ Vu Lan thiết đãi chư
Tăng.
- Sơn lâm thiền định
- Thọ hạ kinh hành
- Lục thông La Hán
Nhờ oai lực của các vị này cầu
nguyện, thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngạ quỉ.
Khi đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên
vâng theo lời Phật sắm sửa trai diên, thỉnh chư Tăng đang thiền tịnh
ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là những bậc đã chứng lục
thông A La Hán cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ Ngài thoát kiếp nga quỉ.
Vì lý do Tôn Giả Mục Kiền Liên không đủ sức cứu mẹ, nên phải nhờ
số đông chư Tăng đã chứng A La Hán trợ lực mới cứu được mẹ Ngài.
Chính sự kiện này mà về sau hàng
Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, là một
bậc xuất gia tu hành chứng A La Hán, không quên công ơn cha mẹ, vẫn nhớ
và muốn đền đáp. Nên hàng Phật tử sau mùa an cư tự tứ của chúng Tăng,
đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư Tăng cúng dường cầu siêu. Đó là việc
làm đạo đức căn bản.
Tuy nhiên chư Tăng hiện thời không
phài là những bậc thiền định chứng lục thông A La Hán như Phật đã dạy
Tôn Giả Mục Kiền Liên thỉnh cúng dường, cầu nguyện cho Ngài. Nên sự
cầu nguyện của chư Tăng hiện thời không bảo đảm được như ý nguyện
của Phật tử. Nhưng tại sao mỗi năm vào rằm tháng bảy Phật tử tụ hội
về chùa làm lễ Vu Lan để làm gì? Điều này Phật tử nên hiểu cho tường
tận.
Với tấm lòng hiếu thảo của người
Phật tử, mỗi khi nhớ lại gương sáng của đức Mục Kiền Liên, là người
đã cắt ái lìa thân xuất gia hành đạo, quyên hết chuyện nhà mà vẫn
không quyên ơn sanh dưỡng của cha mẹ, biết mẹ bị quả báo làm ngạ quỉ,
tìm mọi phương tiện cứu mẹ thoát khổ của kiếp ngạ quỉ. Theo gương
hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, nên ngày nay Phật tử làm lễ Vu
Lan để tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, và mong cứu cha mẹ thoát khỏi
cảnh khổ. Đến chùa vì hiếu nghĩa, vì nhớ ơn để cầu nguyện cho cha mẹ,
đó là tinh thần từ thiện tốt đẹp. Nhưng nếu tin chắc cha mẹ thoát khổ
thì không bảo đảm.
Trong kinh A Hàm, Phật có nói:
"Người biết ơn và đền ơn, dù ở xa ngàn dặm, cũng như hầu cận bên
ta; ngược lại, người không biết ơn và không đền ơn dù ở hầu cạnh
bên ta cũng cách xa ta ngàn dặm". Phật dạy đạo đức bắt nguồn từ
chỗ biết ơn và đền ơn. Người lương thiện là người thọ ơn ai không
bao giờ quên. Những lúc mình nguy khốn được người giúp đỡ, khi người
hoạn nạn thì mình sẵn sàng giúp đỡ lại không ngại khó khổ gian lao.
Trong kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật
có dạy: trời nắng người đi đường vào bóng cây núp mát, khi ra đi không
được bẻ cành cây. Và trên đường đi được bóng cây hai bên đường
che mát, Phật cấm không được bẻ lá cây, vì cây có cái ơn che mát cho
chúng ta trên đường dài nóng bức. Đối với cái ân rất nhỏ của loài
vô tri mà Phật còn không cho phép chúng ta quên ơn, huống là cái ơn sanh
dưỡng lớn lao của cha mẹ. Nếu ơn sanh dưỡng sâu nặng mà chúng ta quên
đi thì những cái ơn khác không dễ gì nhớ được. Ở đời cũng có lắm
kẻ được người giúp đỡ qua cơn nguy khốn, sau đó đối với người
ơn của họ, họ ngoảnh mặt làm kẻ xa lạ.
Cũng như những đứa con ngỗ nghịch
không tiếc lời nặng nhẹ khảo tra tiền của cha mẹ, cha mẹ đến tuổi
già yếu đói no sướng khổ con cái không buồn nghĩ đến. Người như thế
là người không biết ơn và đền ơn, không phải là người lương thiện.
Thế nên, người đạo đức chân thật là người biết ơn và nhớ ơn sanh
dưỡng của cha mẹ. Dù cha mẹ còn hay mất, mỗi mùa Vu Lan đến, người
con hiếu thảo vì cha mẹ làm việc phước thiện để hướng tâm tưởng
thiện lành đến với cha mẹ, mong cha mẹ được nhẹ nhàng hết khổ. Đó
là kẻ biết ơn và đền ơn mà thế gian thường nói "Uống nước nhớ
nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây". Nhớ ơn cha mẹ là đạo đức
căn bản vậy.
Có một lần Phật đi khất thực
ở vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo đói. Phật đi từ sáng đến
trưa không có người cúng dường, trong bát Phật không có thức ăn. Khi đó
có một thầy tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi được một bát cơm, vội
vàng đem dâng Phật. Phật hỏi:
-Ông còn cha mẹ không?
Tỳ kheo trả lời:
-Bạch Thế Tôn, con còn bà mẹ.
Phật hỏi:
-Mẹ ông sáng nay có ăn cơm chưa?
Tỳ kheo đáp:
-Bạch Thế Tôn, con đổi một lá y
chỉ được một bát cơm, con dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm
ăn.
Phật dạy:
-Người đáng thọ nhận bát cơm này
là mẹ của ông.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy
Phật rất chú trọng đến đức hiếu thảo của con người. Nếu người
tu hành không nhớ công ơn cha mẹ thì việc tu hành chỉ là việc làm ích kỷ,
không có cơ bản đạo đức. Chúng ta tu là vì thương cha mẹ, thương thân
bằng quyến thuộc, thương dân tộc, thương nhân loại, nên nỗ lực tu
hành để rồi khuyên những người thân người sơ cố gắng tiến trên con
đường đạo đức, làm đẹp cho người, làm đẹp cho quê hương xứ sở.
Đâu phải vong ân cha mẹ, quên thân bằng quyến thuộc, phản bội quốc
dân mà đi tu. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đều phải lấy công
ơn cha mẹ làm gốc để tu hành. Vì vậy, mỗi năm tới mùa báo hiếu, Phật
tử qui tụ về chùa, trước là đem lòng thành kính nguyện Tam Bảo gia hộ
cho cha mẹ sớm được về cõi Phật. Kế đó, vì cha mẹ mà làm lành tu
thiện, cứu giúp người nghèo khổ và nhắc nhở khuyến khích hướng dẫn
con cháu tiến trên con đường đạo. Đó là nền tảng đạo đức đời đời
không quên.
Tăng Ni hiện nay tuy không đủ tư cách
như Phật dạy trong kinh Vu Lan, nhưng dù sao đi nữa, một người tu an chay,
bỏ ác làm thiện cũng có chút công đức lành góp phần với quý vị Phật
tử, cùng hồi hướng cùng cầu nguyện cho cha mẹ. Đó là cội nguồn của
ngày lễ Vu Lan. Vì vậy nếu đã là đệ tử của Phật, phải nhớ rằng
tu với Phật không bằng tu với cha mẹ. Vì Phật đã giải thoát mọi khổ
đau, dù cho chúng ta có đảnh lễ tán thán đến đâu, Ngài vẫn bình thản
mặc nhiên. Còn cha mẹ chưa hết phiền não nên mỗi khi con cháu tỏ lòng
hiếu thảo, biết nghĩ tưởng đến thì cha mẹ hoan hỷ sung sướng. Thế nên
chúng ta thường làm cha mẹ vui, Chẳng phải chỉ lo lạy Phật cúng Phật
mà quên không lo phụng dưỡng hiếu kính cha mẹ. Người tu như thế thì chưa
đúng với tinh thần của đạo Phật.
Người Phật tử muốn đền đáp
công ơn của cha mẹ, trường hợp thứ nhất khi cha mẹ còn sanh tiền, muốn
cho cha mẹ an vui trong hiện đời và an vui trong mai hậu, ngoài việc cung phụng
nuôi dưỡng cha mẹ về mặt vật chất, nếu cha mẹ chưa biết đạo, phải
tạo duyên tốt khiến cho cha mẹ phát tâm tu hành bỏ ác làm lành. Vì người
phát tâm làm lành mới khỏi đọa ba đường ác sanh vào cõi thiện được
an vui. Cho cha mẹ ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tuy là hiếu thảo, nhưng hiếu
thảo đó chỉ là tạm bợ không lâu dài, vì cha mẹ sẽ chết không còn hưởng
dụng những thứ đó nữa. Tạo duyên lành cho cha mẹ hướng về đường
thiện, thì chẳng những bảo đảm trong đời này ít khổ đau mà đời sau
cũng hết đau khổ. Chính việc làm đó mới là cái hiếu chân thật. Vì vậy,
quý Phật tử ai được vinh hạnh cha mẹ còn tại tiền, hãy ráng tạo điều
kiện giúp cho cha mẹ tu hành, đó là cái hiếu lớn nhất.
Trường hợp thứ hai là khi cha mẹ
quá cố rồi. Chúng ta không làm gì khác được, nên mới cúng dường cầu
nguyện hồi hướng phước lành cho cha mẹ được siêu thoát. Đó là việc
làm cầu may chứ không bảo đảm kết quả như ý. Nhiều khi quý Phật tử
nghĩ đến người chết mà quên hẳn người sống. Đến rằm tháng bảy
cúng kiến cầu nguyện cho ông bà tổ tiên được siêu sanh tịnh độ mà
ông bà cha mẹ tại tiền thì không để ý chăm sóc giúp đỡ để tiến
tu. Như thế là không xứng đáng, không đúng với chữ hiếu trong đạo Phật.
Trở lại, thần thông không cứu
được khổ, khơng giải được nghiệp. Như chúng ta biết Tôn Giả Mục Kiền
Liên đã từng dùng thần thông qua lại trong không gian từ cõi này đến cõi
khác một cách tự do. Nhưng đối trước quả báo nghiệp ác của mẹ
Ngài, Ngài đành bó tay đứng khóc chứ không cứu được, đó là trường
hợp thứ nhất.
Đến trường hợp thứ hai là
chính bản thân Ngài khi trở về già, một hôm đi khất thực qua chân núi,
ngoại đạo lăn đá cho rớt xuống đè Ngài chết. Bình thường có chuyện
bất ổn xảy ra là Ngài dùng thần thông bay bổng, không ai hại được Ngài.
Bây giờ nghiệp đến, thấy đá lăn từ trên xuống, Ngài dùng thần thông
bay đi mà bay không được, nên bị đá đè chết. Để thấy thần thông bất
lực trước quả báo nghiệp ác của Ngài, thần thông cũng không giải được
nghiệp của chính mình khi quả báo đến. Như vậy luyện tập thần thông
để làm gì?
Song, tâm lý chung của Phật tử
thì ưa thích thần thông với những tướng lạ thường. Giả sử bây giờ
quý vị đang ngồi nghe tôi nói pháp, ngoài kia có người đang vận thần thông
bay lên dạo chơi trong hư không, quý vị sẽ cùng đua nhau xem họ trình diễn
thần thông, chớ không thể ngồi yên mà nghe pháp. Vì bản chất của con
người là hiếu kỳ, ưa thích những điều khác lạ, còn những gì bình thường
đơn giản thì không ưa chuộng. Tu, nếu bảo dùng nghiệp ác của thân của
miệng của ý, chuyển thành ba nghiệp thiện thì thấy thường và khó làm.
Còn, nếu nói tôi có thần thông, ai muốn được hết tội, tôi hóa ra nước
Cam Lồ rưới sẽ hết phiền não, thì mọi người ham thích đua nhau xin nước
Cam Lồ để tắm gội hay để uống cho hết tội. Vì người ta vừa hiếu
kỳ vừa lười biếng, hễ thấy dễ khoẻ là làm, Vì vậy, nên dễ bị gạt
và để rơi vào mê tín tà giáo.
Thời Đức Phật còn tại thế, có
bốn ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:
-Thiên nhãn thông là thấy tất cà
người vật gần hay xa.
-Thiên nhĩ thông là nghe khắp tất
cà âm thanh lớn nhỏ gần xa.
-Thiên tâm thông là biết được ý
người khi mới vừa khởi nghĩ chưa nói ra lời.
-Thần túc thông là biến hóa thân
hình lớn nhỏ tùy ý, thăng thiên độn thổ không ngại.
-Túc mạng thông là biết được vô
số kiếp về trước.
Bốn vị này biết mình sắp bị quỉ
vô thường đến bắt đi, nên mỗi người tìm cách để trốn thoát thần
chết. Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên hư không núp trong đám mây
xanh. Vị thứ hai vận thần thông lặn xuống đáy biển. Vị thứ ba dùng
thần thông chui vô lòng núi. Vị thứ tư thì chui trốn ở trong lòng đất.
Tất cả bốn vị đều nghĩ rằng chỗ mình trốn, quỉ vô thường không
thể tìm được.
Nhưng đến giờ thần chết đến
thì vị thứ nhất ở trên mây hết thần thông rớt xuống nát thây. Vị
thứ hai ở dưới đáy biển hết thần thông ngộp chết nổi lên. Vị thứ
ba ở trong lòng núi hết thần thông đá nứt đè chết. Vị thứ tư ở
trong lòng đất hết thần thông bị đất sụp chôn thây luôn.
Để thấy, tu chứng được thần
thông muốn thoát chết vẫn không thoát được. Tu mà chứng được ngũ thông
là đã trải qua quá trình tu tập không phải ngắn và dễ dàng, thế mà muốn
thoát chết cũng không thoát được.
Lại một trường hợp nữa: Có một
vị tu sĩ đạt đạo chứng được ngũ thông, thuyết giảng giáo lý rất
hay cho đến trời Đế Thích cũng đến nghe. Một hôm, trời Đế Thích nghe
giảng xong ra ngồi gốc cây khóc. Vị tu sĩ ấy lấy làm lạ hỏi:
-Tại sao nghe giảng xong ông lại
khóc, tôi giảng có chỗ nào ông không đồng ý?
Đế Thích đáp:
-Không, Ngài giảng rất hay, vì tôi
thấy ngài sắp chết nên tôi thương khóc.
Tu sĩ hỏi:
-Vậy phải làm sao cho tôi khỏi chết?
Đế Thích đáp:
-Nếu Ngài muốn khỏi chết, hãy đến
cầu cứu với Đức Phật Thích Ca.
Tu sĩ hỏi:
-Đức Phật Thích Ca là ai Đang ở
đâu?
Đế Thích đáp:
-Ngài là một vị giác ngộ hoàn
toàn sạch hết vô minh lậu hoặc, đang ở tịnh xá Trúc Lâm gần thành vương
xá.
Vị tu sĩ bèn vận thần thông bay
đi tìm Phật. Đi dọc đường, ông nghĩ rằng đi cầu Phật dạy nên có lễ
vật để cúng dường Ngài. Ông thấy bên đường có những cây ngô đồng
đang trổ hoa thật đẹp, bèn nhổ và cầm đến cúng Phật. Khi tới tịnh
xá Trúc Lâm, thấy Phật đang ngồi thuyết pháp cho chúng tỳ kheo nghe, ông
vào quì xuống dâng hai cây ngô đồng lên Phật và thưa:
-Thưa Thế Tôn, con xin cúng dường
Ngài hai cây ngô đồng và cầu xin Ngài dạy cho con phương pháp tu để khỏi
chết.
Lúc đó Phật không dạy gì hết,
chỉ bảo:
-Buông !
Tu sĩ buông tay thứ nhất, ngã cây
ngô đồng thứ nhất. Phật lại bảo:
-Buông !
Tu sĩ buông tay thứ hai, ngã cây
ngô đồng thứ hai. Phật nói tiếp:
-Buông !
Tu sĩ sửng sốt thưa:
-Hai tay con cầm hai cây ngô đồng,
lần thứ nhất Phật bảo buông, lần thứ hai Phật bảo buông, con buông
cây thứ hai là hết. Phật bảo con buông nữa con không biết buông cái gì?
Phật nói:
-Ta đâu có bảo ông buông hai cây
ngô đồng. Lần thứ nhất ta bảo ông buông là đừng chạy theo ngoại cảnh.
Lần thứ hai ta bảo ông buông là đừng chấp sáu căn là ngã. Lần thứ ba
ta bảo ông buông là không chấp sáu thức là ngã. Nếu ông buông hết ba
cái đó thì ông hết chết.
Nghe Phật nói, tu sĩ nhận ra yếu
chỉ, tu một thời gian chứng A La Hán. Hết chết là không còn nghiệp dẫn
đi trong luân hồi sanh tử, chứ không phải thân tứ đại hiện đời không
hoại, không chết, phải hiểu rõ chỗ này. Để thấy, dù có tu có luyện
thần thông đến đâu, mà chưa buông xả được cảnh, thân và tâm thức
thì cũng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Lại một Đạo sĩ và một Thiền sư,
hai vị cùng đi chung một con đường. Đạo sĩ hỏi Thiền sư:
-Thầy tu lâu chưa?
-Lâu rồi.
-Thầy chứng thần thông chưa?
-Tôi tu không có thần thông. Vậy
đạo sĩ có thần thông không?
- Có.
Hai vị cùng đi tới một bến đò,
Đạo sĩ muốn thi thố thần thông cho Thiền sư thấy bèn rủ:
-Thôi chúng ta đi qua.
Đạo sĩ qua sông mà không đi đò.
Thiền sư nói:
-Thôi, Đạo sĩ cứ qua đi.
Đạo sĩ liền vén áo đi trên mặt
nước qua bên kia bờ. Còn Thiền sư thì đến bến đò mua vé lên đò, qua
sông. Khi qua bờ bên kia, Đạo sĩ gặp lại Thiền sư ra vẻ tự hào, nói:
-Thầy thấy tôi không?
-Đạo sĩ tập luyện thuật đi trên
nước mất bao nhiêu năm?
-Hết hai mươi năm.
Thiền sư cười nói:
-Công phu luyện tập 20 năm của Đạo
sĩ đáng giá bằng hai xu tôi qua đò !
Tốn hai xu cũng đi qua sông được
mà phải luyện tập hai mươi năm được thần thông cũng để qua sông,
thì có giá trị gì??? Thiền Tông không trọng thần thông, coi đó chỉ là
trò biểu diễn vui chơi, không giải cứu được khổ đau của con người.
Thế mà người đời không biết, rất hâm mộ nể phục thần thông.
Trở về nguồn, khi Thái tử Sĩ Đạt
Ta tu sắp thành đạo dưới cội cây bồ đề, ma Ba Tuần biết Ngài sắp
chứng đạo nên cùng nhau đến phá Ngài. Quân ma có tới 18 ức bao vây
Ngài dưới cội bồ đề. Ma bảo:
-Sa Môn mau đứng đậy.
Thái tử lặng thinh không đáp, như
thế đến ba lần. Ma hỏi:
-Sa Môn sợ ta chăng?
Thái tử đáp:
-Ta không kinh sợ.
Ma hỏi:
-Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta
chăng? Ông chỉ một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại
nói không sợ?
Thái tử đáp bằng bài kệ:
- "Giáp nhơn, cung tam muội
- Tay cầm tên trí tuệ
- Phước nghiệp làm binh khí
- Nay sẽ phá quân ngươi"
Ma bảo:
-Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ
làm cho thân hình ông tan thành tro bụi.
Thái tử nói:
-Ta tự xem xét trên cõi người ma và
thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ chúng của ngươi không thể đụng
được một mảy lông của ta.
Ma nói:
-Sa môn, nay muốn cùng ta giao chiến
chăng?
Thái tử đáp:
-Muốn được giao chiến.
Bấy giờ Thái tử mặc áo giáp nhơn
từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ, và binh khí phước nghiệp để
giao chiến với ma quân.
Ngày nay, chúng ta tu một mình ở nơi
vắng vẻ có nhiều ma, thì quý thầy dạy nên học thuộc các câu chú, về
những là bùa để trừ tà ma, hoặc để con dao hay cái rựa bên cạnh
phòng khi đối trị ma quái.
Xưa Phật chiến đấu với ma quân
Ngài mặc áo giáp từ bi, cầm cung thiền định, bắn tên trí tuệ và dùng
phước đức làm binh khí để chiến đấu với quân ma.
Chúng ta thấy Đức Phật đơn độc
một mình chỉ và sử dụng có bốn loại khí giới là từ bi, thiền định,
trí tuệ, và phước đức mà chiến thắng được ma quân một cách vẻ
vang. Sở dĩ Phật chiến thắng đựơc ma quân là vì Ngài có tâm từ bi vô
lượng vô biên không oán không thù ai, nên ma không hại được. Còn chúng
ta thì lòng từ chưa bủa khắp, xử kỷ tiếp vật còn thân còn sơ nên ma
tham ma sân có chỗ vào, vì vậy mà cứ mãi thua ma (dài dài); Đó là yếu tố
thứ nhất.
Yếu tố thứ hai là tâm Phật luôn
luôn an định, dù ma có hiện hình tướng kỳ quái thô bạo dữ dằn đến
đâu, Ngài vẫn mặc nhiên không run không sợ nên ma không hại được. Bây
giờ nếu chúng ta tu nếu gặp ma hiện vằn mặt đỏ trong đêm tối, thì
hoảng hốt chạy ra, không giữ được bình tĩnh đó là do tâm không an định,
vì tâm không an định nên sợ và thua ma.
Yếu tố thứ ba là với trí tuệ
sáng suốt. Phật thấy rõ thân này không thật thì các tướng mạo của ma
quỉ nào có thật! Nên không bị chi phối bởi ma, chúng ta vì trí tuệ chưa
sáng, thấy thân này thật, ma cũng thật, sanh tâm kinh sợ nên bị ma hại.
Yếu tố thứ tư là phước nghiệp,
Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích chúng sanh, phước đức kết nhóm
nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại được. Chúng ta tu sở dĩ thường
gặp chướng nạn ma nạn là vì phước đức mỏng, sức tu tập yếu nên bị
ma nhiếp được dễ dàng.
Tôi thường nói chúng ta tu đừng
ỷ mình thông minh, đừng ỷ mình tài giỏi, cũng đừng ỷ mình khôn lanh
là có thể hanh thông trên đường tu tiến, mà phải xét nét công hanh tu tập
của mình. Nếu thấy phước đức mình cạn mỏng thì lo vun bồi cho được
sâu dầy hầu giúp mình vượt qua mọi chướng nạn và tiến đến chỗ cứu
cánh viên mãn. Vì có rất nhiều người khôn lanh thông minh tài giỏi mà
không tránh được chướng nạn khổ đau. Ngược lại, người có nhiều phước
đức thì vượt qua tất cả mọi chướng ngại, sự tu tập dễ dàng tiến
mau nên được kết quả tốt.
Chúng ta thấy, Đức Phật khi chiến
đấu với ma quân, chỉ dùng có bốn loại binh khí: Nhân từ là do tự tâm
phát khởi lòng thương yêu tất cả mọi loài. Chánh định là do lóng lặng
tâm tư mà được thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh nên trí tuệ phát sáng.
Còn phước nghiệp là do công hạnh làm lợi ích cho mọi loài. Chính bốn
đức ấy hóa giải sự nhiễu hại của ma quân ở chính mình. Như vậy, chúng
ta vào đạo là phải giữ tâm không oán không thù lần lần để tâm lóng
lặng cho trí tuệ phát sáng, và hành ngày làm việc thiện lành lợi ích
cho mọi người. Đó là những điều căn bản không một người tu nào có
thể thiếu được.
Tóm lại, tu theo đạo Phật chủ yếu
là tránh ba nghiệp ác của thân miệng ý và tạo ba nghiệp lành. Vì nghiệp
có sức mạnh đưa người tới chỗ khổ hay vui. Nếu tu mà nghiệp thức
còn thì dù có chứng thần thông siêu việt đến đâu cũng không giải cứu
được khi nghiệp báo đến. Vì thế đạo Phật không trọng thần thông,
mà sợ gây nghiệp ác, khuyên tạo nghiệp lành. Thế nên mọi hiện tượng
huyền bí lạ lùng không phải là cái đích cho người tu Phật hướng đến.
Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành người tốt,
nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày làm lợi
ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười biếng,
không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần của
đạo Phật.
Tu có chuyển được nhân quả không? [^]
Từ lâu, chúng ta thường nghe
nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ
quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không?
Đây là điều mà chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người
mới tu đều nghĩ rằng: Xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong
giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả
nấy thì tu để làm gì? Tu cốt cho hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải
thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa
nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm
không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân
nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất
phức tạp.
Kinh A Hàm Phật có dạy: Người gây
nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả
sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu
giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy
và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay.
Phật có ví dụ một nắm muối nếu
hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được.
Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba
trăm lít thì nước trong lu sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mẳn mẳn.
Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngàn
lít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bất thiện là dụ
cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn không
giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong lu nước thì
quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của
mắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu,
nước dùng xài bình thường.
Cũng vậy, người mà không biết tu
thân, tu giới, tu tâm tạo nhân ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm
muối tan trong tô nước, không giải khát được. Nếu người biết tu thân,
tu giới thì dụ như nắm muối tan trong lu nước, tuy vị nước mẳn nhưng
cũng tạm dùng được. Còn người biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm
muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn, dùng xài bình thường. Vậy,
nếu tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả sẽ chuyển sẽ chuyển không
thọ đúng như khi gây nhân. Như vậy nếu gây nhân ác mà không biết tu,
không chuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả ấy không sai chạy. Nếu
gây nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ
hơn. Còn gây nhân ác biết tu thân, tu giới, tu tâm gần như chuyển hoàn
toàn. Cho nên tu là chuyển đau khổ được an vui.
Kiểm lại, chúng ta từ nhỏ đến
già, không ai là người hoàn toàn thiện lành, cũng có lúc người này làm
người kia khóc than, cũng có lúc người kia làm người nọ oán hận. Như vậy,
là đã tạo nhân xấu. Nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì
tu có lợi ích gì? Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu, tuỳ theo sức
huân tu nhiều hay ít mà quả tuỳ theo đó chuyển đổi.
Sau đây, Phật dạy: Có một gia chủ
nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tới trộm dê, bị gia
chủ bắt được đánh, đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê
là người người của quan lớn sai tới, gia chủ chỉ bực tức nói năng
đôi lời chớ không đối xử thậm tệ như người thường dân trước. Kế
tiếp, kẻ trộm dê do lính của vua sai đến, thì gia chủ không dám nói nặng
nhẹ gì cả mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắt dê. Trong ba trường hợp trên
chứng minh rằng: Người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao
nhiêu thì phải trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó
là dụ người thường dân trộm dê không thế lực.
Trường hợp người trộm dê là
lính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ. Đó là dụ cho người biết
tu thân, tu giới, tuy có tạo nhân ác nhưng thọ quả báo nhẹ hơn.
Trường hợp người trộm dê là
lính của vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặng nhẹ. Đó là dụ
cho người tuy có tạo nhân ác nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp
quả được hoá giải.
Như vậy để thấy cùng tạo nhân
ác, tùy theo khả năng tu tập cao thấp mà thọ quả sai khác. Nếu biết tu
thì quả liền chuyển, không cố định như người không biết tu. Khi biết
rõ người có tu thân tu giới tu tâm thì sẽ thoát được những nghiệp quả
đã gây trước kia; tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn. Nghĩa là nắm
muối vẫn hòa tan trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiều nên
không thấy mặn.
Cũng như chú lính của nhà vua trộm
dê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ, nhưng trong lòng chủ
nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quả sai biệt theo khả năng tu tập.
Thế nào là tu thân tu giới tu tâm?
Tu thân là nơi thân này không làm
điều ác, tất cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh, còn mọi
điều thiện phải cố gắng làm, luôn luôn nhớ và làm đó là biết tu
thân.
Tu giới là Phật tử tại gia, sau
khi quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới:
1/ Không sát sanh: Là không được
giết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng,
không nên giết mạng sống của người. Nếu giết mạng sống của người
thì bị luật pháp trừng trị. Vì tôn trọng mạng sống của mình nên phải
tôn trọng mạng sống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ
công bằng là tội lỗi.
Ngoài ra, đối với những con vật
lớn như trâu bò heo chó tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ yếu
là không giết người.
Một là tự tay mình giết. Ví dụ
mình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết.
Hai là sai bảo người khác giết,
ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giết được bèn
xúi bảo hay mướn người khác giết.
Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết.
Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được, khi thấy
nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú.
Như thế là phạm tội sát sanh. Vì
tự tay giết là thân tạo nghiệp ác, sai bảo người giết là miệng tạo
nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác,
nên Phật cấm không cho Phật tử làm.
2/ Không được trộm cướp: Phàm của
cải của người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một
ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc
trộm lấy, hoặc cướp giựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu
lậu thuế cũng đều gọi là trộm cắp.
3/ Không tà dâm: Người Phật tử
sau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoại tình với người
khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh
phúc, làm cho gia đình tan vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người,
vì vậy mà Phật cấm.
4/ Không nói dối: Nói dối có bốn
trường hợp phạm tội.
a) Chuyện có nói không, chuyện
không nói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người.
b) Nổi giận nói lời hung dữ, thô
ác mắng chửi người, vu oan người.
c) Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu
dệt để lừa gạt người.
d) Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất
hòa thù oán nhau.
Đó là những trường hợp nói dối
thì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc để trấn an người
bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm.
5/ Không uống rượu: Nói đơn giản
là rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được
dùng. Vì nó là cái nhân sanh ra bệnh hoạn, làmcho tiêu tán tài sản, mất
hết trí tuệ. Nhưng, nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống thuốc rượu
để trị bệnh thì được phép uống.
Phật dạy giữ năm giới là vì
lòng từ bi, sợ chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nên giữ gìn không phạm
thì được an vui. Đó là tu giới.
Tu tâm, có nhiều người nói tôi lo
tu tâm thôi lo đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì? Vậy, tu tâm là tu
thế nào?
Tâm là chỉ cho mọi ý niệm xấu
ác như tham, sân, si... Tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tính sân hận, đố
kyﬠsi mê... Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi,
tham tài, tham sắc, tham ăn, tham ngủ... ở đậy tôi chỉ đề cập tham ăn
và tham ngủ, được mọi người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải
là dễ. Ăn nếu dở quá thì không vui, nếu không no thì cũng không được;
ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt
dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham
muốn, mà đó là cái bệnh chung của mọi người, không ai là không có. Tu
là dẹp bỏ lòng tham, còn sân và si luôn luôn đi chung, hễ có sân là có
si.
Thuở xưa có một gia đình gồm có
ba người, người con đi làm ngoài đồng, ông nội và cháu ở nhà, ông
đưa cho cháu hai cái tô và hai đồng bảo:
-Cháu hãy đi mua một đồng tương
và một đồng chao.
Đứa cháu cầm tô và tiền đi một
lúc về hỏi:
-Thưa ông nội, đồng nào mua tương
đồng nào mua chao?
Ông rầy cho nó một hồi, rồi bảo:
-Đồng nào mua cũng được.
Nó liền chạy đi, một lúc lâu trở
về hỏi:
-Thưa ông nội, hai cái tô cái nào
đựng tương cái nào đựng chao?
Ông giận quá tát cho nó mấy tát
tai, nó khóc lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầm cây roi đánh
trâu, thấy con mình bị ông già đánh, nó la khóc nên nổi giận nói:
-Ông đánh con tôi, tôi đánh con
ông cho ông biết.
Người con liền cầm roi tự quất
lên mình túi bụi, ông già nóng ruột quá nói:
-Mày đánh con tao, tao treo cổ cha
mày cho mày biết.
Ông liền làm vòng, đút đầu vô
treo cổ.
Kết luận câu chuyện, quý vị thấy
gia đình đó si mê ở mức độ nào? Nếu nói ngu thì gia đình đó không ai
bằng. Đứa cháu đã ngu, người cha còn ngu hơn, đến ông nội lại quá
ngu! Ngu là do nổi giận mà ra vậy. Nên có sân là có si, làm mà không biết
sai không biết hại. Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy
không? Tưởng chừng như không, nhưng khi có làm mà không hay. Chẳng hạn
lúc nào đó, con làm trái ý, cha mẹ nổi giận chửi "Mày là đồ trâu
đồ chó..." Nếu có người hỏi "Nó là trâu là chó, vậy cha mẹ
nó là gì???". Làm cha mẹ chửi con như vậy có khôn không? Thế mà có
lắm người chửi như vậy!!! Nên biết, hễ nổi sân là liền ngu, không biết
phải quấy. Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận mình
là trâu là chó. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phải là trâu chó
mới sanh con trâu chó. Hoặc có người khi giận con thì chửi ông cố nội,
ông cố ngoại nó... Ông cố nội ông cố ngoại nó là ai? Là ông nội ông
ngoại mình. Vậy mà khi giận thì người ta cứ nói cứ làm. Chẳng khác
gì người kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánh mình thì
mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảng sợ, nhưng rồi chính
ông chết!
Vì sân si mà chúng ta không nhận biết
điều phải lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiến cho thiên hạ chê cười.
Nên ca dao Việt Nam có câu:
Sân si nghiệp chướng không chừa,
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì.
Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân,
bỏ si mà cứ khoe "tôi ăn chay một tháng mười ngày, 15 ngày
v.v..." Ăn chay, ăn tương dưa là để chừa tham sân si. Có chừa bỏ
được tham sân si thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì không nói bậy
làm bậy, không nói bậy làm bậy thì nghiệp chướng theo đó mà giảm. Nếu
không chừa bỏ tham sân si thì nghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được.
Tuy nói tu thân, tu tâm, nhưng chủ yếu
là tu tâm. Nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không
còn, mọi họa khổ sẽ hết, không phải trả nặng nề như lúc gây tạo.
Nói nhân nào quả nấy là chưa chính
xác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợp là người không
biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng.
Nếu người tạo nghiệp ác nhiều,
vì yếu đuối không cố gắng làm lành, chắc rằng nghiệp ác khó chuyển
đổi. Ví dụ có nhiều người lỡ nghiện rượu đều được bác sĩ và bạn
tốt khuyên nên bỏ rượu, vì uống rượu hại sức khỏe, tinh thần không
minh mẫn, tốn kém tiền bạc, vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh
phúc. Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ uống rượu là tai hại. Nhưng có
người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu đuối bạc nhược. Lại có
người ý chí mạnh mẽ biết uống rượu có hại dứt khoát bỏ ngay. Vậy,
nghiệp cũng có thể chuyển được mà cũng có thể chuyển không được, tùy
theo ý chí mạnh hay yếu của mọi người.
Có nhiều Phật tử lấy làm thắc
mắc hoặc nuối tiếc về những người tu xuất. Vì họ cho rằng các thầy
các cô có rất nhiều duyên phước mới được xuất gia tu hành. Tại sao
có nhiều người tu mười mấy hai mươi năm học hành tương đối cũng thông,
bỗng dưng cởi áo hoàn tục. Họ hỏi:
-Thầy tu ở trong đạo an ổn quá,
tại sao lại hoàn tục cho phiền lụy?
Các thầy trả lời chung chung:
-Tại nghiệp của tôi nó lôi.
Qúy vị nghĩ sao? Ai tu có nghiệp cũng
bị nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôi có người chuyển
nghiệp đổi nghiệp? Nếu ai tu cũng bị nghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn
không có người tu tới nơi tới chốn. Chúng ta sanh ra trong đời này đều
có liên hệ với quá khứ, kẻ có nghiệp này người có nghiệp khác...
Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu hay mạnh mà chuyển được nghiệp
hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồi tu, nếu gặp cảnh nghịch lòng,
trái ý liền bỏ đạo về đời, lại nói do nghiệp lôi. Người như thế
là người không ý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp. Tuy
nhiên chúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còn tại thế,
Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trên đường đi giáo hóa, bà
gặp các cô gái trẻ, bà rủ:
-Các con nên xuất gia đi tu.
Các cô thưa:
-Các con còn nhỏ dại, ham ăn, ham
ngủ tu không được.
Bà nói:
-Không sao cứ đi tu.
Các cô nói:
-Đi tu không làm tỳ kheo ni, lỡ tụi
con phạm giới đọa địa ngục thì sao?
-Không sao, lỡ đọa địa ngục, hết
quả báo trở lên tu tiếp.
Theo Bà Liên Hoa Sắc thì nếu tu phạm
giới bị đọa hết quả báo thì trở lại tu nữa, vì chủng tử tu hành vẫn
còn, gặp duyên thì nhớ lại. Nếu người chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị
đọa, hết quả báo không có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được.
Bây giờ tuy người tu phạm giới bị đọa có thua kém những người tu khác,
nhưng với người chưa tu vẫn có phần hơn, vì họ còn chủng tử cũ, đủ
duyên họ phát tâm tu trở lại.
Tới đây, tôi xin đi xa một chút
là trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong "Chứng Đạo
Ca" của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu:
Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai
không,
Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái.
Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướng
xưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những
nhân ác, những nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành
không liễu ngộ thì phải trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì
nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải không còn.
Sau có một thiền khách tên Hạo
Nguyệt đến Thiền Sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng:
-Cổ Đức có nói: "Liễu tức
nghiệp chướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái". Như Tổ
Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước?
Trường Sa bảo:
-Đại đức chẳng biết bổn lai không.
Hạo Nguyệt hỏi:
-Thế nào là bổn lai không?
-Ngiệp chướng.
-Thế nào là nghiệp chướng?
-Bổn lai không.
Tại sao nói nghiệp chướng bổn
lai không?
Theo Phật giáo thì nghiệp là động
lực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tới đời này và
mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng
luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quan sát cho kỹ thì nghiệp không thật.
Ví dụ ông A nói lời hung ác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau
ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp
ác của ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xin lỗi thì
ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thật thì không đổ được, vì
nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu
biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật.
Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi
sanh tử không dừng.
Đã nói "Nghiệp chướng bổn
lai không" tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong
tù? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức
tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại
đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươm
đến chỗ ngài hỏi:
-Thầy được không tướng chưa?
-Đã được.
-Đã được thì còn sợ chết chăng?
-Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.
-Chẳng sợ thì có thể cho trẫm
cái đầu chăng?
-Thân chẳng phải của ta, huống nữa
là cái đầu.
Vua liền chặt đầu ngài rơi xuống
đất.
Với con mắt phàm phu thì thấy
ngài bị trả quả chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ của ngài
thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài
không tiếc cái đầu thì có gì gọi là trả? Sở dĩ chúng ta thấy ngài trả
nghiệp là vì chúng ta chưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật.
Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ
đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán.
Ngài nói:"Ta còn chút duyên để đi trong nhân gian". Rồi Ngài Đến
giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị người sàm tấu Ngài là người truyền
đạo không đúng chánh pháp, quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam
trong khám, Ngài chỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây,
rồi Ngài tịch ở trong khám.
Đối với chúng ta khi bị nhốt
trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với Ngài,
Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười.
Như vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết
trong khám, đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả,
nhưng đối với Ngài thì không có trả.
Tôi lấy một ví dụ thực tế cho
dễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tức giận. Nhưng vì
ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trả lời. Sau ông Tấn có cơ hội
trả thù ông Tần, ông Tần đã biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi,
ông Tần chì cười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận,
nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trả quả không? Người
không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần trả quả. Nhưng với ông
Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng ngài tai, qua rồi
thì mất, nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảy ra
người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả, nhưng đối với
người liễu đạo thì không có giá trị, nến thấy không có trả.
Thế nên, chư Tổ không thấy trả
nghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta
tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao
nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếu tu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận,
si mê, tham sân si càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà
được an vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướng đối
với mình coi như không có; nếu không bị nghiệp chi phối làm cho đau khổ
thì không giải thoát là gì?
Hiện nay có một số Phật tử mê
tín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ
nghiệp, do tu do tụng kinh nên xẩy ra nhiều tai nạn... Vậy nghiệp đó đổ
bằng cách nào? Do tụng kinh nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều
nghiệp ác bậy giờ đổ bớt đi??? Đã là Phật tử tại sao không tìn hiểu
nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ nghiệp là không dám tụng
kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu là để chuyển nghiệp, giảm
nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là đổ ra.
Nếu xưa kia tạo mghiệp ác, đáng
lý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất nhân mạng, nhưng
nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của.
Khi bị mắng chửi hay mất tiền của nên quán xét: có thể nghiệp chướng
của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờ biết
tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửi mất tiền của thì
quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược lại, nghe nói
đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm.
Lại có nhiều Phật tử quan niệm
rằng đi chùa quy y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộc sống sẽ
bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục
trặc thì thối chí nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm
lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá
khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến
tu không thối chuyển.
Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấu
sạch hết, môi việc xảy ra đều như ý.
Chính Đức Phật là người tu hành
công đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có
lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn, gia đình nọ giỏi về tướng
số, sanh được một người con gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả
con gái ông cho người có đủ ba muơi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa
dược. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng
quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy Phật rất hài lòng, đúng là
đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài.
Phật nói "Đối với bà thì
con gái bà đẹp, song, đối với ta đó là một dãy da hôi thúi, tất cả
trong thân nàng đều là bất tịnh". Nghe Phật đáp, bà buồn, trở về
nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe. Cô tự ái nổi giận, ôm lòng
thù oán thề rằng sẽ trả thù Phật.
Sau cô được làm hoàng hậu của một
nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp
du đãng chận đường Phật để mắng chửi. Tôn Giả A Nan đi theo Phật,
thấy du đãng vây mắng thậm tệ, ngài không chịu nổi, mới nói:
-Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước
khác giáo hóa.
Phật hỏi:
-Đi đâu?
A Nan thưa:
-Thế Tôn đi nước nào cũng được,
vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịu được.
Phật hỏi:
-Giả sử đi tới chỗ khác bị người
ta chửi nữa thì A Nan tính sao?
A Nan thưa:
-Nếu tới đó mà bị chửi nữa
thì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà... chỗ mà Thế Tôn có nhiều
đệ tử ở đó giáo hóa.
Phật hỏi:
-Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nan
có nên đề bảng: "Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bịnh
nặng" chăng?
A Nan thưa:
-Bạch Thế Tôn, không được, thầy
thuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người.
Phật nói:
-Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều
mê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để
ta giáo hóa họ, vì họ cần ta.
Du đãng tiếp tục chửi Phật.
A Nan nói:
-Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làm
sao giáo hóa được?
-Chừng nào họ không nghe lời nói
của ta thì ta đi.
Nghe Phật trả lời A Nan như vậy,
du đãng nói:
-Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa,
chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy.
Từ đó Phật nói pháp giáo hóa với
họ.
Quý vị thấy, Phật mà còn bị người
chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn Giả A Nan cũng
như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửi không chịu được. Còn Phật đã
giác ngộ tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không
động tâm, nên thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói
pháp cứu chữa.
Cũng vậy, Chúng ta khi phát tâm tu,
nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quán khởi lòng thương
và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị
chồng hay vợ, hay con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ
buồn giận và đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mình tu.
Mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạo còn mờ tối
nên cần sự cảm hóa của mình.
Thế nên, tất cả mọi khó khăn,
những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóa giải tất cả
thì được an vui.
Một lần khác Phật đi giáo hóa
vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều
quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo
sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi:
-Cù Đàm có điếc không?
-Ta không điếc.
-Ngài không điếc tại sao không
nghe tôi chửi?
-Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám
tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ
không nhận thì quà ấy về ai?
-Quà ấy về tôi chứ ai.
-Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận
thì thôi.
Người kêu tên Phật chửi mà Ngài
không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâu đâu cũng lắng
nghe để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của
chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời
nói nặng, nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên.
Chúng ta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ,
những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm, như thế
mới được an vui.
Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng
chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó. Người
ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không
tới trời mà rơi xuống mặt người phun. Thế nên, có thọ nhận mới
dính mắc khổ đau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau,
quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận
thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt
về mình qua miệng người thứ hai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để
thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người
trí. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải không thọ nhận
đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để
có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận
vì một vài lý do bất như ý bên ngoài đó là tu chưa tiến.
Tinh thần nhân quả của đạo Phật
không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không
biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả
biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyuển
nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là
tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên
phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập,
không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quý Phật tử sau khi nghe pháp
nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến
cho hết khổ được vui.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/133-chuyennghiep.htm