- Đạo Phật Ngày Nay
VAÁN
ĐỀ HỌC PHẬT [^]
Trước hết tôi xin phép được nói
quan niệm của tôi về vấn đề học Phật. Trong giới Phật tử, ai
cũng biết rằng đạo Phật không phải là từ trên trời rơi xuống
mà chính lại là được phát hiện trong lòng sự sống của nhân
loại. Đạo Phật xuất hiện trong nhu cầu của nhân loại, tồn tại vì
nhân loại, để phụng sự cho nhân loại. Bởi vậy cho nên chúng ta
đừng quan niệm rằng đạo Phật là một kho tàng tri thức và lý
thuyết cứng đọng. Đạo Phật ra đời vì sự sống của nhân loại
nên cũng linh động như sự sống của nhân loại. Ta không thể tách
rời đạo Phật ra khỏi sự sống, bởi chính đạo Phật là sự
sống. Nếu ta quan niệm đạo Phật như một kho tàng tri thức và lý
thuyết cứng đọng thì tức là ta đã xem đạo Phật như những chén
bát cổ trưng bày ở tàng cổ viện. Những chén bát cổ ấy biểu
hiện một vài khía cạnh sinh hoạt của con người cổ, nhưng không có
tác dụng gì trên sinh hoạt của con người ngày hôm nay. Chúng ta hãy
nhìn đạo Phật trong lịch sử văn hóa nhân loại, hãy nhìn nhận sự
có mặt của đạo Phật trong suốt cuộc sống nhân loại, cũng như hãy
nhìn nhận sự hiện diện của đạo Phật trong sự sống của nhân
loại hôm nay. Đạo Phật là tất cả những sinh hoạt của nó, những
biểu hiện trên suốt lịch sử nhân loại, chứ không phải chỉ là
một ít sinh hoạt biểu hiện trên một bối cảnh kinh tế, xã hội,
chính trị của một khoảng thời gian mấy chục năm hồi đức Phật
còn tại thế.
Học Phật không phải là đi thăm
những đồ cổ trong tàng cổ viện để rồi ra khoe với mọi người
rằng những đồ cổ ấy đẹp như thế này, quý như thế kia. Học
Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự
sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân
loại, những luồng sinh khí mà đạo Phật đã thổi vào trong đà
tiến hóa của nhân loại. Khi có được một nhận định có tính cách
sử quan như thế rồi, chúng ta mới có thể tiếp nhận được sức
sống rào rạt mà đức Phật đã trao truyền cho chúng ta qua hai mươi
lăm thế kỷ sinh hoạt linh động. Tiếp nhận được sự sống ấy, ta
mới ý thức được sứ mạng của chúng ta, sứ mạng của người
Phật tử trong xã hội ngày nay, mới tiếp nối được dòng sinh hoạt
Phật giáo.
Tôi đã từng gặp nhiều người
học Phật lâu năm. Họ có thể thuộc lòng bộ Phật giáo Bách khoa
Tự điển. Họ có thể giải thích cho ta về bất cứ một câu một
chữ nào trong Tam tạng. Họ chất chứa trong óc họ những cái
biết rất bác học. Nhưng họ không hiểu gì cả. Họ không hiểu
đạo Phật là gì cả. Lý do là tôi không thấy những kiến thức
của họ về đạo Phật có dính líu gì đến sự sống của chính bản
thân họ, và của đoàn thể họ. Họ không tiếp nhận được đạo
Phật, không tiếp nhận được sinh khí của đạo Phật : họ chỉ mân
mê trong tay của họ những cái xác cũ của đạo Phật mà
thôi. Họ chỉ ưa đi xem đồ cổ trong tàng cổ viện. Cái học của họ
giống như cái học khảo cổ nhưng còn tệ hơn cái học khảo cổ ở
chỗ cái học của họ không có một triển vọng nào khác hơn là
để
nói và nói.
Cái học đó vô ích.
Cho nên ta không ngạc nhiên lắm khi
thấy có người khi nói thì chỉ nói những điều rất "siêu"
mà khi làm thì lại hành động như một kẻ chưa bao giờ biết đến
đạo Phật là gì. Học theo kiểu ấy, tôi tưởng tốn công, tốn thì
giờ mà vô ích quá. Hậu quả của cái học ấy là sự nói
"dốc" - tôi xin lỗi vì đã dùng chữ này, vì không kiếm
được chữ nào nhã hơn - một hậu quả chẳng có gì là đẹp đẽ
cho tương lai đạo Phật. Vì vậy, tôi nghĩ rằng ta phải học Phật với
tâm trạng của một con người thao thức đi tìm lẽ sống, với tâm
trạng một nhà mỹ thuật đi tìm cái đẹp, với tâm trạng của một
bệnh nhân đi tìm lương y. Với những tâm trạng ấy, ta chắc chắn
sẽ đạt tới nhiều khám phá mới lạ.
Không ai không nhận thấy rằng hiện
giờ đang có một phong trào học Phật. Giới Tăng sĩ và giới tín
đồ lo học hơn bao giờ hết. Các nhà Nho xưa cũng ưng học Phật. Các
cậu bé chín mười tuổi cũng được học Phật. Người ta học Phật
ở mọi nơi, ở Phật học viện, ở các chùa, các niệm Phật
đường, các trường Bồ Đề tư thục, ở các cuộc cắm trại của
Gia đình Phật tử, trong các trường Sĩ quan, trong các đơn vị Quân
đội, trong các trại Hướng đạo sinh, ở các nhà thương, trường
học, dưỡng trí viện, cô nhi viện. Cả đến trong các lao xá cũng
thỉnh thoảng có những buổi giảng diễn và thuyết trình về đạo
Phật. Các nhật báo lẻ tẻ cũng có phụ trương Phật học, các tạp
chí thường đăng tải các thiên khảo cứu Phật học. Cả đến các
vị Linh mục cũng học Phật. Các giáo phái không phải Phật giáo
cũng có học Phật. Các giáo phái không phải Phật giáo cũng có
học Phật. Thật chưa bao giờ có một phong trào học Phật hăng hái
như bây giờ. Người đọc nhiều, người nghe nhiều cho nên người
viết và người giảng cũng nhiều. Nhưng chúng tôi nhận thấy mỗi
người có một ý hướng, một mục đích và một phương pháp khác
nhau. Chưa có một nhận định hợp lý về mục đích và về phương
pháp khả dĩ để cho chúng ta thu hoạch được những ích lợi trực
tiếp và toàn vẹn về phong trào học Phật của chúng ta. Bởi vậy,
chúng tôi nghĩ rằng bây giờ chính là lúc chúng ta nên xét lại
mục đích và phương pháp học Phật để cho cái học của chúng ta có
thể phục vụ được cho sự sống và cho lý tưởng chúng ta một
cách thực tiễn.
Hãy đặt lại những câu hỏi thật
giản dị. Học Phật để làm gì ? Người Phật tử trả lời : để
biết chủ trương và phương pháp của đạo Phật mà hành trì, tự
độ, độ tha. Chúng tôi đồng ý. Bởi vì câu trả lời ẩn chứa
ý thức muốn hiểu, muốn thấy và muốn làm. Nhưng đã
có bao nhiêu người trả lời như thế mà không đạt được mục
đích như thế. Bởi vì họ đã trả lời để mà trả lời, chứ
không phải đã trả lời với một tâm trạng thao thức, thành khẩn.
Tôi thấy có người (kể cả một số ít các vị Tăng sĩ) học là
để học, học vì nhận thấy bổn phận của mình phải học. Tâm trạng
mà như thế thì kết quả sẽ ra sao ? Có những người đi qua rừng
trầm hương mà không thấy được một cây trầm. Những vị kia đã
(sẽ) đi qua khu rừng chân lý, dẫm đạp lên châu ngọc chân lý mà
không thấy chân lý. Hoặc giả bọc trong vạt áo những châu ngọc
mà mình không biết là châu ngọc, không một chút thiết tha về
những châu ngọc này. Trong trường hợp đó, người học không
thành công.
Lại có những người học Phật để
đạt đến mục đích rất giản dị là
trở thành một nhà Phật
học. Người ta đã nghe nói nhiều về triết học cao siêu của đạo
Phật, rất ưa nghe về nền triết học cao siêu đó. Họ muốn nghe và
cố nhiên họ sẽ tỏ ý thán phục những người nào nói được cho
họ nghe, và nhất là nói hay. Tôi đã thấy những người đi xa về
nhà nói dốc (ấy, tôi cứ quen dùng cái chữ này mãi) và rất
thích khi thấy làng xóm há mồm nghe mình tán hưu tán vượn về
những điều mình đã thấy ở xứ người. Nói là một khoái cảm.
Được người ta nghe là một khoái cảm. Cho nên có nhiều người
chỉ học Phật với mục đích là để nói lại cho người khác nghe.
Như chúng ta đã biết, chính bản thân của người nói đã không
tiếp nhận được sinh khí của đạo Phật thì những người nghe kia
làm sao mà thừa hưởng được một chút gì của sinh khí đạo pháp
cho được. Trong trường hợp này, người học cũng không thành
công.
Có hai trường hợp khác mà chúng
ta không cần bàn luận đến nhiều là trường hợp cái học từ
chương và cái học với mục đích để xuyên tạc và kích bác. Cái
học từ chương chẳng làm nên trò trống gì, điều đó mọi người
đều biết. Cả một nền Nho giáo suy diệt vì cái học từ chương.
Trước kia thì không nói, chứ bây giờ cái học Phật theo lề lối
từ chương là một cái học vô ích trông thấy. Còn cái học để
mà xuyên tạc kích bác thì thời nào và ở đâu mà chẳng có.
Bởi sẵn mang một tâm niệm xấu xa như thế người học làm sao tiếp
nhận được cái hay của đạo Phật ? Thành kiến mê vọng đã khiến
cho người ta, sau một thời nghiên cứu sách Phật bằng tiếng Tàu,
tiếng Tây kết luận rằng đạo Phật phủ nhận sự sống, đạo
Phật không có từ bi, khi một em bé mười tuổi đã có thể
thấy được sức sống rào rạt của đạo Từ bi trong chính gia đình
em, xã hội em và ngay cả trong tâm niệm của chính em nữa.
Ta biết nói làm sao ? Chỉ một thái
độ, một tâm trạng thôi cũng đủ để quyết định sự thành công
hay không thành công của người học Phật. Đạo Phật là một thực
tại linh hoạt chứ không phải là một xác ướp như chúng ta đã
biết. Muốn hiểu được đạo Phật ta phải xúc tiếp với thực
tại ấy, nghĩa là phải thể nhập thực tại ấy, phải học Phật bằng
những phương pháp của chính Phật học.
Như thế nghĩa là thế nào ? Chân lý
Phật học có tính cách thực nghiệm tâm linh, linh động, vô tướng.
Nó cũng giả tỉ như cái khả năng viết chữ của bàn tay chúng ta.
Nếu cắt bàn tay và mổ xẻ bàn tay ấy một cách khoa học đến thế
nào đi nữa thì ta cũng không thấy được cái khả năng mầu nhiệm
kia mà còn làm mất nó nữa là khác. Ta sẽ thất vọng vì trước
mắt ta chỉ có cái xác Phật học. Phạm Quỳnh, Phan Văn Hùm, Louis de la
Vellée Poussin chẳng hạn. Linh mục Trần Thái Đỉnh chẳng hạn, đã
viết mấy bài khảo luận về đạo Phật, ai cũng nhận là công phu và
không thiên lệch, chủ quan. Tôi cũng thấy Linh mục Đỉnh viết rất
công phu. Nhưng tôi lại không thấy được cái gì là đạo Phật trong
những bài ấy cả. Nói cho đáng, tôi cũng đã đọc nhiều về Phật
giáo nguyên thỉ, đã nhiều lượt tụng đọc bốn bộ Nikaya, và đã
chú trọng nhiều đến kho văn học Abhidhamma của Nam phương Phật giáo.
Linh mục Đỉnh đối chiếu, so sánh, nhận xét triết học đạo Phật
với những triết thuyết khác một cách tỉ mỉ; bài của Linh Mục
đầy dẫy những danh từ triết học và Phật học, mà kỳ lạ, tôi
vẫn không thấy trong các bài ấy cái không khí của nền đạo học
và triết học mà trong đó tôi đã sống, đã thở từ gần hai
mươi năm nay. Tôi có cảm tưởng Linh mục phân tích một cái xác
Phật học cứng đờ và dù cố gắng, cái sinh khí của Phật học
vẫn không ốp đồng về nhập vào ngòi bút của Linh mục.
Tôi là người tu hành theo đạo
Phật, xuất gia từ hồi còn thơ. May mắn tôi cũng được học qua về
các tông giáo, nhưng tôi không bao giờ dám có ý tưởng rằng mình
có thể nói không sai lầm về một tông giáo khác như Thiên Chúa
giáo chẳng hạn. Bởi vì tôi suy nghĩ ngay vào trường hợp của chính
tôi. Càng đi sâu vào sự thực nghiệm tâm linh - thiền quán - bao
nhiêu, tôi càng hiểu về đạo Phật một cách thâm thúy bấy nhiêu.
Tôi thấy lý luận hình thức, căn cứ trên danh ngôn và văn tự,
không đưa tôi đến sự thấu hiểu sâu xa được. Thỉnh thoảng nếu
có những tổ chức văn hóa mời nói, tôi cũng chỉ nhận nói về
đạo Phật tức là nói về phần mà tôi tự cho là có sở đắc
vững vàng hơn hết. Nhưng nếu có nói thì tôi cũng rất ít lý
luận. Tôi chỉ trình bày sinh hoạt tâm linh của tôi, trình bày đạo
Phật qua sinh hoạt tâm linh tôi. Nhờ lối trình bày ấy mà tôi đã
thành công một vài lần trong sự trao truyền một chút ít sinh khí
đạo pháp cho người nghe. Lý luận bao nhiêu, tôi làm chết đạo
pháp bấy nhiêu. Đến như khi tôi viết mấy trang này đây, tôi cũng
có cảm tưởng rằng tôi đang phơi bày tâm hồn tôi, chớ không
phải là tôi đang lý luận để chinh phục quí vị độc giả.
Vậy thì, thưa quí vị, tôi có thể
kết luận rằng theo thiển ý, muốn đạt đến kết quả của sự học
Phật, ta phải thành khẩn, không có tư ý, không thiên lệch, không
hình thức, và cốt nhất là phải học Phật theo những phương pháp
của chính Phật học. Phải làm sao tiếp xúc với thực tại linh hoạt
của đạo Phật, phải tiếp nhận cho được luồng sinh khí tiếp nối
từ đức Phật qua hai mươi lăm thế kỷ truyền thừa, chứ không
phải chỉ là lượm lặt, chất đống và phân tích những cái xác
Phật học không hồn kết cấu bằng danh từ, bằng tài liệu.
VỊ
TRÍ ĐẠO PHẬT TRONG VĂN HÓA [^]
Hãy để đức Phật ngồi dưới cây
Bồ Đề, đừng tôn Ngài lên một vương vị, lên ngôi chúa tể vũ
trụ. Đừng dán sau lưng Ngài những nhãn hiệu mà chính Ngài không
thừa nhận. Ngài là giáo chủ của một tôn giáo vì ta đã tôn
thờ Ngài qua lòng sùng kính của một kẻ tín đồ, không phải bản
ý của Ngài là muốn làm giáo chủ. Ngài là một nhà văn hóa
bởi vì ta đã nhìn Ngài bằng cặp mắt của một nhà văn hóa. Ngài
là một nhà triết học bởi vì ta đã tìm hiểu Ngài qua kiến thức
triết học của ta. Thực ra, ta chỉ có thể nói rằng Ngài là người
đã đáp ứng được những nhu cầu sinh hoạt của một xã hội -
đáp ứng một cách toàn vẹn, nhờ kiến thức giác ngộ, nhờ
đức độ vô biên, nhờ ý chí bất khuất của Ngài. Ngài đã tìm
ra nguyên lý của cuộc đời, của sự sống.
Phật tử, qua hai mươi lăm thế kỷ,
đã xây dựng những nhân sinh quan khác biệt trên những nguyên lý
sáng tỏ ấy và đã làm cho dòng sinh lực của chính pháp chảy tràn
về hiện tại. Xã hội luôn luôn đổi thay; những hình thức sinh
hoạt của con người, nhất là con người Phật tử, cũng được
đổi thay để một mặt đáp ứng với nhu cầu xã hội, một mặt thể
hiện được những nguyên lý sáng tỏ kia. Có quan niệm vấn để
bảo tồn đạo pháp như thế thì mới không chấp chặt bảo thủ
những hình thức sinh hoạt cổ điển không còn sinh khí đạo pháp -
những cái xác không hồn của các thế hệ cũ để lại.
Và cũng nhờ quan niệm vấn đề bảo
tồn đạo pháp như thế mà ta có thể vượt được thái độ ấu
trĩ của kẻ mang nặng thiên kiến và thái độ bưng bít chấp thủ.
Nếu đức Phật được nhận định như là khởi nguyên của một
giòng sinh khí thơm lành và sáng mạnh thì đạo Phật phải được coi
như một thực thể sinh hoạt mà không nên coi đó là một kho tàng
hương hỏa của những người Phật tử. Ta thường thấy có những
Phật tử chỉ khăng khăng cho đạo Phật là hay, đức Phật là cao,
và tất cả những cái khác ngoài đạo Phật là dở, là thấp. Như
vậy họ không hiểu "đạo Phật" là gì, đức Phật là gì.
Có lẽ họ nghĩ rằng đạo Phật là đạo của họ, gồm có tam tạng
kinh điển, gồm có Giáo hội Tăng già, gồm có đức Phật mà họ
đang thờ lạy. Không, thưa các ngài, những gì mà tôi vừa kể chỉ
là những hình thức sinh hoạt của đạo Phật, chưa phải là thực
thể Phật giáo. Thực thể Phật giáo là cái gì thể hiện và lưu
nhuận một cách linh hoạt trong những hình thức đó, và cũng có
thể thể hiện và lưu nhuận trong những hình thức khác nữa.
Tôi lấy ví dụ : trong kinh Phật có
công nhận một vài tư tưởng của Áo nghĩa thư (Upanishads) nghĩa là
của những điển tịch có trước đức Phật, vậy thì những tư
tưởng ấy của Áo nghĩa thư không có "Phật tính" hay sao ?
Hoặc giả đạo Phật đã dùng luận lý học Nhân Minh của Aksapada sau
khi đã sửa chữa lại đôi chút, vậy Nhân Minh không có "Phật
tính" sao ? Lại nữa, Nho giáo có dạy về hiếu thuận, đạo Phật
cũng dạy về hiếu thuận, vậy thì Nho giáo, kể riêng về điểm hiếu
thuận ấy, không có một chút "Phật tính" nào sao ? Cứ như
thế mà suy luận ta sẽ thấy rằng trong các học thuyết tông giáo,
học thuyết và tông giáo nào cũng có một phần "Phật tính",
hoặc nhiều hoặc ít. Một vị tăng già không thực hành đạo pháp,
một tín đồ không hiểu Phật là gì, một quyển kinh chép sai, tất cả
những thứ ấy làm gì có "Phật tính" ? Cho nên đạo Phật
là tất cả mọi hình thức sinh hoạt nào có thể làm sống được
nguyên lý Phật học.
Tôi xin đàm luận thêm về điểm
này để cho vấn đề được sáng tỏ. Ví dụ tôi lấy con mắt của
người Phật tử để nhìn các tông giáo khác. Tôi thấy có một ít
điểm đồng và nhiều điểm dị. Những điểm đồng ấy cho tôi biết
có sự hiện diện của "Phật chất" trong tông giáo kia, những
tông giáo không mang tên Phật giáo. Vậy là tôi đã nhìn các tông
giáo ấy với một con mắt có nhiều thiện cảm. Tôi xin gạt qua
trường hợp một tông giáo này có ý muốn không cho tông giáo
khác phát triển thêm. Điều đó buồn quá và tôi nghĩ đó có thể
là điều khổ tâm nhất của các nhà văn hóa tha thiết với nền
văn hóa tổng hợp của nhân loại.
Tôi chỉ đem một ví dụ. Nếu Phật
tử không am hiểu đạo Phật làm những bản "nhạc Phật" có
một nội dung tinh thần Thiên chúa giáo, xây dựng "chùa
chiền" theo kiến trúc truyền thống Thiên chúa giáo, dùng danh từ
mang nội dung ý nghĩa Thiên chúa giáo thì người ấy hẳn nhiên là
người đang hoằng dương giáo lý Thiên chúa giáo trong Phật giáo
rồi còn gì. Người đó ít nhiều mang tính cách một tín hữu Thiên
chúa giáo. Trái lại, nếu một tín hữu Thiên chúa giáo dùng các
danh từ có nội dung Phật giáo như Từ bi, sám hối, viết các bài
thánh ca với nội dung thấm nhuần tinh thần giải thoát từ bi của
Phật giáo, truyền bá một quan niệm vô thể về Thượng đế giống
như quan niệm về pháp thân hay chân như của Phật giáo chẳng
hạn, thì chính người ấy đã hoằng dương Phật pháp rồi. Tôi xin
nhắc lại rằng đạo Phật là tất cả mọi hình thức sinh hoạt nào
có thể làm sống được nguyên lý Phật học. Nhắc lại như vậy
để chúng ta cùng thấy rằng cần phải có một nhận thức phóng
khoáng cởi mở, không nô lệ hình thức, danh từ, thành kiến. Hãy
gọi là đạo Phật tất cả những hình thức sinh hoạt nào nhắm đến
mục đích ly khổ đắc lạc, chuyển mê khải ngộ, đoạn hoặc chứng
chân (rời khổ đạt vui, chuyển sai lầm thành giác ngộ, phá mê
loạn để tìm gặp chân lý). Danh từ và hình thức chỉ là phương
tiện, đừng để chúng trở thành chướng ngại vật. Con người đã
đau khổ vì bao nhiêu vỏ cứng : vỏ cứng của bản ngã, của gia
đình, của chủng tộc, của tôn giáo, của đảng phái
Hãy thực
hiện giải thoát bản ngã bằng nhận thức Phật học, bằng hành trì
Phật học. Chỉ có nhận thức quảng đại đo, chỉ có hành trì những
nhận thức quảng đại đó mới làm sáng tỏ được đạo Phật,
mới làm sống được đạo Phật lại trong những ngục tù cố
chấp, mới đặt đạo Phật đúng vào địa vị của nó trong sinh hoạt
con người.
Nhân loại hiện giờ đang khổ đau vì
cố chấp, vì riêng rẽ, vì tị hiềm, vì chủng tộc, vì đảng phái, vì
địa phương, vì nhân ngã. Văn hóa nhân loại phải đi về tinh thần
tổng hợp để phụng sự nhân loại. Đạo Phật với tâm niệm từ
bi, với thái độ cởi mở, với ý nguyện độ sinh có thể có đủ
phong độ và điều kiện để đứng ra cùng với những tư trào
trọng đại nhất của kho tàng tri thức nhân loại hiện đại, chủ
xướng và lãnh đạo cho cuộc tổng hợp vĩ đại đó của văn hóa
nhân loại. Trên niềm thao thức thực hiện ý nguyện ấy, chắc chắn
bạn sẽ có những khám phá bất ngờ và kỳ diệu khi trở về
nghiên cứu thực tại Phật giáo qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử.
ĐỨC
PHẬT VÀ CON NGƯỜI [^]
Nếu đạo Phật phát xuất từ sự
sống con người để nhằm đáp ứng những nguyện vọng thâm sâu
nhất của con người, thì đức Phật chính thực là người yêu của
nhân loại.
Ngài tượng trưng cho những tinh hoa
đúc kết nên bởi những phần cao khiết nhất và sáng mạnh nhất
của con người và bởi vì Ngài đích thực là một con người nên
Ngài đã hiểu con người một cách thấu triệt. Dạy đạo giải thoát
cho chúng ta Ngài là một bậc Thầy, nhưng nhìn chúng ta, Ngài có ánh
mắt từ hòa và thân mật của một người bạn sống giữa xã hội
loài người, hiểu biết con người, và thắm thiết tình người.
Cho nên cái ý tưởng cho rằng Ngài
là một nhân vật thần linh vạn năng từ một cõi trời xa hiện về
để ban phúc trừ họa là một ý tưởng sai lạc. Thần linh không
hiểu được con người, không biết được ý nguyện và tâm lý con
người. Ta mến yêu đức Phật vì bản thân Ngài là một thực thể
đúc kết bằng những yếu tố nhân bản và vì trí tuệ, đức độ
và giáo lý Ngài là những châu ngọc đúc kết bằng những chất
liệu con người. Ta mến yêu đức Phật bởi vì ta có thể thấy ở
Ngài hình ảnh của chúng ta. Cũng bởi vì vậy cho nên trong suốt hai
ngàn năm trăm năm lịch sử, đạo Phật một nguồn sống tràn đầy
tính chất nhân bản. Đức Phật là người khơi mở nguồn sống ấy,
khơi mở chứ không phải là hóa hiện và tạo dựng. Con người
khổ đau vì con người sống xa bản tính, sống ngược bản tính. Con
người không ý thức được thực thể của chính mình, không hiểu
được mình là gì. Nói tóm lại con người không có được một
nhận thức rõ rệt về hiện hữu và bản chất của hiện hữu.
Đức Phật đã khám phá trên bước đường tri hành những phương
pháp giúp Ngài đi đến sự trực nhận giá trị và bản chất của
hiện hữu. Tiếp xúc thẳng với dòng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm
linh Ngài đột nhiên trở thành cao cả, sáng tỏ, nhân cách Ngài
trở thành siêu việt, vĩ đại. Và trên lịch sử, bỗng nhiên nhân
loại trông thấy dòng sinh lực nhiệm mầu kia hiển lộ sung mãn và
linh hoạt nơi con người đức Phật. Bỗng nhiên bản thân của
đức Phật trở thành một hiện tượng sinh hoạt linh diệu và dòng
đạo pháp được khơi mở từ con người của Ngài. Một ngàn hai
trăm năm mươi vị Tăng sĩ bao quanh Ngài, nhìn vào nhân cách Ngài,
nương vào đạo phong Ngài, tiếp nhận sức sống mãnh liệt của tâm
linh Ngài để mà sinh hoạt, để mà xây dựng nếp sống của chính
mình. Bài thuyết pháp hùng hồn hơn hết, tha thiết hơn hết là sự
sống của chính đức Phật. Người đương thời nương vào nhân
cách của đức Phật mà sống, mà tu tập, mà chứng ngộ. Hàng trăm
năm sau, dư ảnh của nhân cách ấy vẫn còn hướng dẫn được hàng
vạn người sống theo nguồn đạo từ bi. Người ta có thể không cần
nghe một bài kinh, dự một buổi thuyết pháp : Người ta chỉ cần nghe
nói đến nhân cách của đức Phật là có thể phát tâm sống
được đời sống Phật tử rồi.
Thế cho sự xuất hiện của đức
Phật quan trọng hơn là chính sự xuất hiện của Tam Tạng giáo điển.
Đọc thuộc ba tạng kinh điển chưa chắc đã bằng được sống một
vài giờ bên cạnh Ngài. Chỉ cần được nhìn hình dáng Ngài,
được tiếp nhận cái nhìn của Ngài trong chốc lát, được nghe Ngài
nói một vài lời ngắn ngủi, ta có thể thấm nhuần được một
cách sâu xa trong biển đạo pháp của Ngài hơn là đọc tụng nhiều
lần những kinh điển lưu truyền. Như vậy có nghĩa rằng bản chất
của đạo Phật nằm trong sự sinh hoạt theo chính pháp, thể hiện nơi
những con người sinh hoạt theo chính pháp. Cho nên ở thời nào có
xuất hiện cao tăng nhiều nhất, thời nào sinh hoạt chính pháp được
thể hiện trong quần chúng nhiều nhất là thời ấy Phật giáo hưng
thịnh nhất.
Tam Tạng giáo điển có giá trị như
những ghi chép đạo pháp. Mà đã là ghi chép thì chỉ là ghi chép
mà thôi. Không bao giờ ta có thể ghi chép được bản thân của
đạo pháp; người ta chỉ ghi chép được những mảnh rời rạc và
cứng đọng của đạo pháp mà thôi.
Bởi vậy, người nào muốn hiểu
được đạo pháp một cách thấm thiết thì người ấy phải thể
nhập đạo pháp, phải tiếp nhận cho được sinh khí đạo pháp,
phải thực hiện đạo pháp. Tam Tạng giáo điển chỉ là những phương
tiện giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ là những công án cần thiết cho
sự suy tư và thể nhập.
Người xưa nói rằng tri đạo tức
là học đạo, kiến đạo, tu đạo và chứng đạo. Chữ tri đã
có một phạm vi rộng rãi thế ấy thì để đi đến kết quả của sự
học đạo, ta phải có những điều kiện tâm lý cần thiết như thành
khẩn, vô tư ý, không cố chấp, không hình thức và sẵn sàng thể
nhập.
Có được nhận định như thế thì ta
mới đến gần được đức Phật. Nếu không, càng học hỏi, càng
phân tích, càng nghiên tầm ta càng đi xa đạo Phật. Phải nhận định
rằng đức Phật và những thế hệ Phật tử nối tiếp Ngài là
những thực hiện linh động của dòng sinh hoạt đạo pháp. Nhìn vào
dòng sinh hoạt ấy, thể nhập dòng sinh hoạt ấy, và xem xét lại
những ghi chép của kinh điển ta có thể thực chứng được
những nguyên lý Phật học. Thực chứng được những nguyên lý
ấy rồi, ta mới xây dựng cho ta và cho những con người của xã
hội ta, của thời đại ta một quan niệm nhân sinh có thể đáp ứng
được nhu cầu sinh hoạt tiến bộ hướng thượng của con người
thời đại. Có hai điều lầm lỗi to lớn có thể làm ngưng đọng
giòng sinh hoạt đạo pháp và cũng có thể làm tàng ẩn và mai một
bản lai diện mục (mặt mũi xưa nay) của chân lý : đó là đặt đạo
Phật dưới sự nghiên cứu của mình như một đối tượng cứng
nhắc bất biến, và bảo thủ những hình thức sinh hoạt không còn
thể hiện được bản chất của đạo pháp.
Như chúng ta đã biết, đạo Phật là
một thực tại linh động ta cần thể nhập nó để hiểu biết nó và
như vậy ta không thể coi nó như một đối tượng cứng nhắc và bất
biến. Nếu ta đặt nó dưới kính hiển vi của sự phân tích, ta sẽ
mất nó; hoặc giả ta chỉ còn nắm được những cái xác khô cứng
của nó. Trong kinh có câu chuyện một ông vua sai quần thần chẻ vụn
một cây đàn để tìm những tiếng đàn. Kinh điển đạo Phật cũng
thế, những hình thái sinh hoạt của đạo Phật cũng thế. Ta không
thể chẻ những thứ ấy ra để tìm đạo pháp. Ta phải linh động để
tiếp nhận đạo pháp qua những thứ ấy, bằng thể nhập, bằng thực
hiện, bằng cảm thông.
Xã hội luôn luôn chuyển biến vì
các cơ cấu xã hội luôn luôn chuyển biến. Các yếu tố tạo nên
những sinh hoạt xã hội như văn hóa, kinh tế, chính trị, nhân chủng
không phải ở đâu cũng như ở đâu, thời nào cũng như thời
nào. Mà các cơ cấu xã hội đã biến chuyển thì những hình thức
sinh hoạt cũng phải biến chuyển. Một xã hội mới cần có những
tương quan sinh hoạt mới. Giữ mãi những hình thức sinh hoạt không
còn đáp ứng được với nhu cầu sinh hoạt mới tức là làm một
công việc vụng dại. Những hình thức sinh hoạt của đạo pháp là
để thực hiện bản chất của đạo pháp. Xã hội đã thay đổi vì
những hình thức sinh hoạt cũ không phù hợp với xã hội nữa, do
đó không thể thực hiện được bản chất của đạo pháp nữa.
Phải có những hình thức sinh hoạt mới, một mặt đáp ứng với
nhu cầu của xã hội mới, một mặt thể hiện được những nguyên
lý căn bản của đạo pháp. Nếu cố chấp bảo thủ mãi những hình
thức sinh hoạt cũ tức là vô tình (hay cố ý ?) muốn cho xã hội
lùi lại và làm cho đạo pháp khô héo trong những cái xác cũ,
những cái xác có thể rất cổ kính và sơn phết rất đẹp đẽ.
Đạo pháp cần có những hình thức sinh hoạt mới để được thể
hiện trong xã hội mới; khi ta cố thủ những hình thức cũ, kết tội
những hình thức mới thì ta chận đường không cho đạo pháp thể
hiện và như thế là ta có thể làm ngưng đọng giòng sinh hoạt đạo
pháp.
Ở một hình thái sinh hoạt xã hội
mà đạo pháp chỉ còn là nguồn an ủi của một thế hệ luống tuổi
muốn sống những ngày còn lại của đời mình một cách yên ổn,
một phương tiện của một số người vin vào để lăng xăng danh
lợi, đạo pháp làm sao thể hiện trọn vẹn ?
Ở những hình thức sinh hoạt mà
những thế hệ trẻ tuổi không tìm thấy một lối đi sáng của tương
lai, không tìm thấy một chất liệu để đốt lên ngọn lửa lý
tưởng trong tâm hồn mà chỉ thấy một chỗ trú ẩn tuy an lành nhưng
tạm thời - để chui về trong cơn phong ba bão táp, thì ta có thể nói
rằng đạo pháp đã được hiển lộ và thực hiện toàn vẹn hay
chưa ?
Nhận thức chứa đầy đau xót, nhưng
có thể là khởi điểm cho những cố gắng mới, nỗ lực mới.
NGUYÊN
THỈ VÀ ĐẠI THỪA [^]
Vấn đề Phật giáo nguyên thỉ
thường được các học giả xem như là một vấn đề chính yếu của
Phật học. Có người nói rằng chính Phật giáo nguyên thỉ mới là
Phật giáo còn ngoại giả đều là những thứ Phật giáo cải cách.
Có người lại lựa chọn ra một bên những thứ mình ưa thích và
gọi đó là nguyên thỉ, và bên còn lại kia thì gọi là không
nguyên thỉ.
Thực ra ta phải định nghĩa thế nào
là Phật giáo nguyên thỉ. Trước hết ta phải trở lại định nghĩa
Phật giáo mà chúng tôi đã trình bày trong chương trước : Phật
giáo là tất cả những sinh hoạt nào của con người nhằm biểu hiện
những nguyên lý Phật học mà đức Phật và các thế hệ Phật tử
kế tiếp đã thực chứng. Để thực hiện những nguyên lý ấy,
mỗi thời đại, mỗi địa phương có những hình thái sinh hoạt khác
nhau, để một mặt thích ứng với nhu cầu sinh hoạt của con người,
một mặt biểu hiện được dòng sinh hoạt chính pháp. Cho nên Phật
giáo nguyên thỉ phải được định nghĩa là những hình thức sinh
hoạt văn hóa trong xã hội Ấn Độ cách đây hai ngàn năm trăm năm
nhằm mục đích thể hiện những nguyên lý Phật học để phụng sự
cho con người của xã hội ấy.
Trong xã hội và thời đại của
đức Phật, những hình thức sinh hoạt văn hóa ấy đã được coi
là rất thích hợp cho con người, đáp ứng được mọi nhu cầu trí
tuệ, tình cảm, lý tưởng và giải thoát của con người; nói tóm
lại đã thể hiện được những nguyên lý Phật học mà đức Phật
đã chứng nghiệm. Nhưng các cơ cấu xã hội luôn luôn biến đổi
theo luật vô thường : mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những
nhu cầu sai biệt, và các sinh hoạt tâm lý, tình cảm và trí tuệ của
con người trong xã hội đó cũng biến chuyển không ngừng. Cho nên,
những hình thức sinh hoạt gọi là Phật giáo nguyên thỉ không còn
thích hợp nữa, hoặc ít ra không còn thích hợp một cách hoàn toàn
nữa; do đó sự tạo dựng những hình thức sinh hoạt Phật giáo
mới là một sự tất yếu, dĩ nhiên phải có, nếu người Phật tử
không muốn cho Phật chủng (hạt giống đạo Phật) bị đoạn diệt. Vì
vậy mà chúng ta thấy có Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nam tông,
Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật
giáo Nhật Bản, Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Ấn Độ
Các nền
Phật giáo nầy có những sinh hoạt khác biệt về phương diện hình
thức và cũng có khi cả về phương diện nội dung tư tưởng nữa,
nhưng tất cả đều nhắm tới một mục đích là làm sống những
nguyên lý Phật học trong đời sống nhân loại.
Có người nói rằng Phật giáo Nam
tông mà hiện thời đại biểu là phái Theravada là hình bóng bất
biến của Phật giáo nguyên thỉ. Nói như vậy là không hiểu gì về
Phật giáo nguyên thỉ cả. Làm sao mà những hình thức sinh hoạt văn
hóa của một xã hội cách đây hai nghìn năm trăm năm lại có thể
áp dụng thích nghi với những nhu yếu sinh hoạt của một xã hội
mới hôm nay ? Phật giáo Tích Lan, Cam Bốt chẳng hạn, đã biến đổi
rất nhiều trong nội dung cũng như ngoài hình thức. Ta cần thêm rằng
phái Theravada chỉ là một trong nhiều học phái khác của Phật giáo Nam
phương trong đó ta nên kể phái Sarvastivada, một học phái đã hưng
thịnh trong suốt mười lăm thế kỷ ở Mathura, Gandhara và Kashmir. Điều
đáng chú ý là con người phương Nam, nghĩa là con người những
xứ nhiệt đới, bao giờ cũng thiên về sinh hoạt nội tâm hơn, và
ít ưa hoạt động hơn người phương Bắc. Vì thế Phật giáo Nam phương
có tính các nội hướng và bảo thủ hơn. Cho nên, một ít hình thức
sinh hoạt nguyên thỉ còn có thể bảo tồn được ở các xứ ấy.
Và khi nhìn những hình thức kia người ta cứ tưởng lầm Phật giáo
Nam phương là Phật giáo nguyên thỉ. Kỳ thực trên dòng lịch sử
truyền bá và sinh hoạt, không giờ khắc nào mà Phật giáo không
chuyển biến. Không chuyển biến tức là không sinh tồn, bởi vì sinh
tồn là chuyển biến vậy (sinh sinh chi vị dịch). Điều hệ trọng nhất
là qua tất cả các sinh hoạt luôn luôn chuyển biến ấy của các nền
Phật giáo, người ta đều có thể nhận thấy bản chất của đạo
Phật : đó là những nguyên lý căn bản để tạo dựng nền sinh
hoạt đạo pháp, là những căn nguyên khơi mở dòng sinh hoạt đạo
pháp.
Những nguyên lý căn bản ấy mới
chính là bản chất của đạo Phật. Nghiên cứu Phật giáo nghĩa là
cố đạt tới những nguyên lý ấy, những nguyên lý rất linh động
ấy, chứ không phải là chép lại những hình thái sinh hoạt trong
một giai đoạn, trong đó kể cả kinh điển, chữ nghĩa. Kinh điển chữ
nghĩa cũng là để đối trị với căn bệnh của thời đại, của con
người trong thời đại. Ta phải đi xuyên qua kinh điển để tìm những
nguyên lý sinh hoạt kia. Kinh Trường A Hàm (tương đương với
Dighanikaya, bản dịch của Pali Text Society) chẳng hạn đã nhắm nhiều
tới mục đích chỉ vạch những kiến thức sai lạc của các nền tư
tưởng học phái đương thời. Nếu Trường A Hàm được thuyết vào
thế kỷ XX, thế nào ta cũng được đọc về những sai lạc căn bản
của thuyết Mác xít, thuyết Hiện sinh và mọi tà thuyết khác hiện
thời. Như thế kinh điển, cũng như giáo điều căn cứ trên kinh
điển, cũng như những hình thức sinh hoạt Phật giáo xây dựng trên
các giáo điều ấy, đều chỉ là hình thức, là phương tiện biểu
hiện cái nội dung quan trọng là bản chất Phật học, là những
nguyên lý Phật học. Bản chất ấy, những nguyên lý ấy, ta thấy ở
bất cứ một nền Phật giáo nào : ở Phật giáo Nam phương cũng như
ở Phật giáo Bắc phương, ở Phật giáo Tây Tạng cũng như ở Phật
giáo Nhật Bản, ở Phật giáo Không tông cũng như ở Phật giáo
Hữu tông. Bản chất ấy là những hạt giống, hạt giống Bồ Đề.
Các hạt giống ấy, tùy theo miếng đất ta gieo, sẽ mọc lên thành
nhiều cây Bồ Đề khác nhau. Khí hậu màu mỡ, đất đai sẽ qui định
những chỗ khác nhau ấy, nhưng bao giờ cây Bồ Đề cũng vẫn là
cây Bồ Đề. Chứ không phải chỉ có một cây ấy, trồng ở thời
đại ấy, trên miếng đất xã hội ấy mới được gọi là cây Bồ
Đề.
Huống nữa, đi sâu vào nội dung, ta
thấy những danh từ Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu thừa chỉ
gây những khái niệm hết sức tương đối. Ở Phật giáo Bắc
phương người ta thấy có những tông phái Tiểu thừa, những kinh
điển Tiểu thừa, cũng như ở Phật giáo Nam phương người ta vẫn
thấy tư tưởng Đại thừa và lối hành trì Đại thừa. Ở Cam Bốt
chẳng hạn, vào khoảng năm 1360 của kỷ nguyên Phật giáo, tức là
vào khoảng năm 800 của kỷ nguyên Tây lịch, giáo lý Đại thừa đã
được phát đạt một thời. Kinh điển Pali và những sinh hoạt của
Phật giáo Nam phương ngày xưa đã có hơn một lần truyền đến miền
Bắc Việt Nam, nhưng có lẽ vì thủy thổ không thích hợp, nên những
hạt giống kia không bắt rễ đâm chồi được. Những cố gắng hiện
thời của Tăng sĩ Theravada ở Nam phần Việt Nam cũng chưa đạt đến
những kết quả nào đáng kể, có lẽ vì Việt Nam từ lâu đã
thuộc về khu vực văn hóa Bắc phương.
Trong giai đoạn lịch sử hiện tại,
người Phật tử của Phật giáo Nam tông đã nhận thấy cần hướng
nhiều hơn về những hoạt động nhập thế, cũng như người Phật tử
của Phật giáo Bắc tông nhận thấy cần tăng cường năng lực sinh
hoạt nội hướng để đủ chất liệu nuôi dưỡng những hoạt động
nhập thế của mình. Như vậy ranh giới Bắc, Nam, Đại, Tiểu đang đi
dần đến sự xóa bỏ, và Phật giáo chỉ là Phật giáo với tất
cả những hình thái có thể phục vụ sự giải thoát con người về
mọi mặt.
Đứng về phương diện kinh điển, ta
phải thấy rõ rằng tuy cả bốn bộ Tứ A Hàm của tạng kinh Bắc
phương cũng như bốn bộ Nikaya của tạng kinh Ba lị đều là những kinh
điển căn bản của Phật giáo hiện giờ, nhưng tạng kinh Nam phương
đã mang nặng màu sắc của nền văn học Abhidharma nhiều lắm. Nền
văn học Abhidharma nhắm mục đích ghi chép nhận thức và quan điểm
của học giả Nam tông, do đó bốn bộ Nikaya hiện thời đều được
xem như là đã được chỉnh lý theo tinh thần Abhidharma. Vào buổi đầu
của nền văn học Phật giáo Nam phương, chưa có sự phân biệt rõ
rệt về giới hạnh kinh và luận. Có nhiều tác phẩm thuộc về luận
(sastra) được sáng tác mô phỏng theo hình thức kinh (sutra). Qua kết
quả của sự nghiên cứu ngày nay, ta có thể khám phá ra được
nhiều kinh vốn chính là luận như kinh "Chúng tập" của Trường
A Hàm, "Vệ đà tư tha" của Trung A Hàm
Nhưng không sao,
những "kinh" ấy vẫn nói được các nguyên lý Phật học,
tiếp tục khai thác những khu rừng tư tưởng đã được đức Phật
khai mở khi Ngài còn tại thế. Bên Phật giáo Bắc tông, cũng có
đại khái những hiện tượng như thế, nhưng ta phải công nhận với
tinh thần cởi mở tự do, nền Phật giáo Bắc phương đã dám đi xa
hơn, cho nên đã đạt tới những chân trời mới lạ hơn. Một bộ
kinh như kinh Pháp Hoa chẳng hạn đã phản chiếu một giai đoạn sinh
hoạt tư tưởng sáng rỡ và phản chiếu cả một xã hội Phật giáo
hưng thịnh. Vậy nếu kinh Pháp Hoa nối được truyền thống tu chứng
của đức Phật thì chính kinh Pháp Hoa đã nói được điều đức
Phật muốn nói, thực hiện được điều đức Phật muốn làm.
Giới Phật tử thường nói đến
những Pháp ấn như "chư hạnh vô thường", "chư pháp vô
ngã", "niết bàn tịch tĩnh" hay những nguyên lý căn bản
như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo tức là những đặc chất của
Phật giáo. Ở bất cứ một nền giáo lý nào, ở bất cứ một sinh
hoạt chính pháp nào, những pháp ấn ấy, những nguyên lý ấy vẫn
được xem như là căn bản. Lìa những đặc chất kia, phản bội
những nguyên lý kia, mọi sinh hoạt mệnh danh là Phật giáo đều
không phải là Phật giáo, mà là tà đạo.
Như thế Phật giáo là tổng thể của
mọi giáo lý, mọi sinh hoạt văn hóa hiện hữu của nhân loại trên
khắp thế giới, không phân biệt thời gian, địa phương, miễn nhắm
tới sự phục vụ con người bằng cách hướng dẫn con người sống
đúng theo những nguyên lý căn bản của Phật học. Mong rằng một
nhận thức như thế sẽ đưa chúng ta đến gần đạo Phật hơn và xóa
bỏ những quan niệm hẹp hòi vướng bận hình thức, vướng bận chủ
quan thiên lệch. Để tìm đến những nguyên lý Phật học, ta phải đi
sâu vào mọi thực tại sinh hoạt của Phật giáo; qua các thực tại
sinh hoạt khác biệt đó ta mới có đủ yếu tố để suy luận, để
chứng nghiệm, để có một nhận thức đầy đủ. Một giọt nước
có thể đủ để cho ta biết được thế nào là đại dương, nhưng
chấp rằng giọt nước là đại dương, ấy là điều nên tránh vậy.
TÌM
CÁCH THỰC DỤNG [^]
Nhận thức rằng đạo Phật là một
thực tại linh động ta phải nghiên cứu đạo Phật trong quá trình
lịch sử của nó. Điều quan trọng không phải là tách rời ra khỏi
dòng sinh hoạt Phật giáo một ít hiện tượng để phân tích, suy
luận, mà là cố gắng nhận thức được bản chất của đạo Phật
trong suốt dòng liên tục lịch sử của đạo Phật. Có như thế ta
mới mong đạt đến những nguyên lý Phật giáo làm chất liệu cho
dòng sinh hoạt hai ngàn năm trăm năm lịch sử kia.
Chân lý, trước hết, là những
nguyên lý mà ta phải hành động cho phù hợp, nếu ta muốn đi đến
thành công. Thành công ở đây có nghĩa là đạt tới sự an lạc
và trí tuệ, hiểu theo nghĩa đạo Phật. Nhưng nếu bối cảnh hành
động không đâu giống đâu, chủ thể hành động không ai giống ai,
điều kiện hành động không lúc nào giống lúc nào, thì, để phù
hợp với những nguyên lý ấy, con người phải linh động trong khi
đạt đến mục đích của hành động chứ không phải chấp chặt
vào những hình thái của hành động. Chấp chặt như thế, kết
quả có khi về trái ngược với ý nguyện. Cho nên, chân lý là
những gì hết sức linh động và cũng hết sức thực dụng, nói như
William James. Căn cứ trên nhận định đó, đức Phật đã thành lập
một nền đạo lý hướng dẫn, nhắm mục đích giúp đỡ và
dìu dắt con người trên quá trình hành động, chứ không ngây thơ
đặt ra những giáo điều cứng nhắc để mong có thể áp dụng hoàn
mỹ cho tất cả mọi con người, mọi căn cơ, mọi thời đại. Cố
nhiên mỗi căn cơ hay mỗi thời đại cần phải xây dựng cho mình
những giáo điều phù hợp với chính mình để đối trị thích ứng
với trường hợp mình, xây dựng bằng những nguyên lý hướng
dẫn linh động ấy. Và vì vậy, Phật Pháp có thiên hình vạn trạng.
Các câu nói bất hủ : "Phật Pháp thị thế gian pháp" (Phật
Pháp là thế gian pháp), "Phật Pháp thị bất định pháp" (Phật
Pháp là bất định pháp), "Phật Pháp tại thế gian bất ly thế gian
giác" (Phật Pháp ở trong thế gian và không ly khai với những
điều giác ngộ của thế gian), "Nhất thiết thế gian pháp tức thị
Phật Pháp" (tất cả các thế gian pháp đều là Phật Pháp) đều
để phát huy và diễn tả ý niệm trên. Đạo Phật có đến "tám
vạn bốn nghìn" pháp môn khác nhau để đối trị với "tám
vạn bốn nghìn" căn cơ khác nhau. Con số "tám vạn bốn
nghìn", trước sau, chỉ là một con số tượng trưng.
Tính cách linh động ấy của những
nguyên lý Phật giáo lại đồng thời chứng minh một cách rõ rệt
tính cách thực dụng căn bản của đạo Phật. Đạo Phật nhắm đến
những vấn đề thực tại của sự sống con người, chứ không nhắm
đến sự biện giải những vấn đề siêu hình, những thiết tưởng
huyền đàm không thể kiểm nhận bằng thực nghiệm. Biết bao nhiêu
lần các vị đệ tử của Phật đã đặt những câu hỏi siêu hình,
nhưng Ngài đều không nói. Ngài không muốn đệ tử Ngài đắm chìm
trong những suy luận siêu hình, mất thì giờ, không bổ ích. "Này
các vị, đừng thắc mắc rằng thế giới này là hữu hạn hay vô
hạn, cõi đời này là hữu cùng hay vô cùng. Dù nó là hữu hạn
hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng, thì điều mà các vị phải thừa
nhận trước hết vẫn là : Cuộc đời đang dẫy đầy những đau
khổ" (Kinh A Hàm). Cuộc đời khổ đau, bất tịnh, vô thường, vô
ngã. Hãy chuyển hóa cuộc đời, hãy chuyển hóa bản thân, hãy
giải thoát vô minh dục vọng để đạt đến an lạc và trí tuệ.
Đừng mong đạt tới chân lý tuyệt đối khi mà công cụ trí tuệ
còn yếu đuối, mờ ám, vô năng. Giải thoát trí tuệ ra khỏi vô
minh và dục vọng, phát triển trí tuệ đến trạng thái vô lậu
(trạng thái không còn bị rơi vào mê lầm nữa) thì tự nhiên chân
lý hiển lộ. Việc cần thiết và cấp bách là thoát khỏi vô minh
dục vọng, thoát khỏi khổ đau. Một người bị trúng tên độc phải
rút ngay mũi tên ra để mà buộc thuốc, chứ không nên chần chừ
mà nói : "Khoan nhổ mũi tên đã ! Hãy chỉ cho tôi biết ai đã
bắn mũi tên đó, tên họ là chi, có vợ con chưa, bao nhiêu
tuổi
". Chỉ có người ngu muội mới hành động như vậy, và
thái độ của kẻ không chịu giải quyết thực tế những vấn đề
hiện thực mà cứ hay phiêu lưu vô vọng trong thế giới suy tưởng
siêu hình cũng không khôn ngoan hơn. Một hôm đức Phật từ trong
rừng trở về tịnh xá, tay cầm một nắm lá Simcapa. "Này các vị,
Ngài đưa nắm lá lên cao, các thầy nghĩ sao ? lá Simcapa trong tay ta
nhiều hay là lá Simcapa ở trong rừng nhiều ? - Bạch đức Thế Tôn,
lá trong tay Ngài ít, lá trong rừng nhiều. - Cũng như thế đấy, các
vị; những điều ta đã chứng ngộ thì quả thực là nhiều như lá
trong rừng, nhưng những điều ta đem ra chỉ bảo cho các vị thì ít như
lá trong tay ta đây. Tại sao ta không dạy tất cả các điều kia ? Vì
những điều kia vô ích, không giúp các vị tiến tới giải thoát. Ta
chỉ dạy những điều có thể giúp các vị giải thoát mà thôi".
Tất cả những giáo lý đạo Phật đều mang màu sắc thực dụng.
Những hệ thống triết lý hướng dẫn được hoàn thành trong quá
trình truyền giáo, như hệ thống Pháp tánh và hệ thống Duy thức, tuy
đôi khi có mang màu sắc siêu hình học, nhưng không phải là những
hệ thống lý luận siêu hình (systèmes logico - métaphysiques) mà là
những hệ thống tâm lý siêu hình (systèmes psycho - métaphysiques) bắt
nguồn từ nhận thức tâm lý để đi sâu vào thực nghiệm tâm linh
và thực chứng bản thể. Trong triết học Tây phương, ta không bao
giờ thấy có một sự dung hợp lạ kỳ giữa tâm lý, tâm linh và
thực nghiệm siêu hình như ở Duy Thức Học đạo Phật chẳng hạn.
Nhưng các hệ thống triết học kia
không phải được dựng nên để giải đáp các thắc mắc siêu
hình, mà là để hướng dẫn. Đó là những "ngón tay chỉ mặt
trăng". Đó là những "ảnh tượng chân lý", nói như
Thái Hư Pháp Sư, mà không phải là chân lý. Nương vào ảnh hưởng
của chân lý là để đạt đến chân lý; mà ta chỉ đạt tới khi ta
rời bỏ được ảnh tượng. Các hệ thống kia có giá trị như
những đồ án dùng để đi tìm chân lý; chấp vào đồ án thì
không bao giờ thấy được chân lý, mà bỏ đồ án đi thì cũng vô
vọng (y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự tức đồng ma
thuyết). Cho nên ở bất cứ một giáo hệ nào của Phật giáo, ta
cũng thấy rõ tính cách thực dụng linh động của đạo Phật. Ta
không bao giờ thấy những câu như: "Chân lý là thế nầy, chân
lý là thế kia", mà chỉ thấy tinh thần của những câu như :
"Nếu làm như thế nầy, ta sẽ đến chỗ nầy, nếu làm như thế
kia; ta sẽ đạt đến chỗ kia", hay "Nếu muốn đi đến đó thì
phải hành động như thế này, nếu muốn đi đến chỗ kia thì phải
hành động như thế kia". Lìa tính cách thực dụng ấy, tất cả
những lý thuyết nào dù được mệnh danh là Phật giáo đều không
phải đích thực là Phật giáo. Chân lý Phật học, để kết luận,
bao giờ cũng linh động và thực dụng, và như thế con người một
mặt phải thực tế và thành khẩn, một mặt khác phải khai thác khả
năng nhận thức khoáng đạt của nội tâm mới mong bắt gặp được
nó. Sự hiển lộ của chân lý chỉ có thể thực hiện khi ta đã
phủi bỏ những cố chấp hình thức, và chỉ khi nào chân lý hiển
lộ ta mới tìm thấy lẽ sống chân thực và ý nghĩa.
NHẬN
THỨC CĂN BẢN [^]
Dẹp bỏ tất cả những huyền đàm
siêu hình, con người trở về thực tại để giải quyết những vấn
đề của thực tại. Cuộc đời đầy những khổ đau. Chúng ta đang
quằn quại trong khổ đau, hốt hoảng như đang ở trong một ngôi nhà
cháy, chịu đựng không biết bao nhiêu não loạn và xót xa. Mũi tên
độc khổ đau đang làm cho chúng ta rên siết, hãy tìm cách nhổ mũi
tên đó ra khỏi thân thể của nhân loại. Chúng ta phải ý thức
rằng chúng ta đang khổ đau. Đó là nhận thức căn bản. Làm sao
giải quyết vấn đề khổ đau thực tại nếu chúng ta không có ý
thức về khổ đau thực tại ? Làm sao có thể chữa lành được
bệnh khi ta không biết là ta đang có bệnh, hoặc giả biết là bệnh
nhưng không rõ là bệnh gì ?
Người Phật tử không phải chỉ cần
hiểu trên lý thuyết rằng cuộc đời là khổ đau. Người Phật tử
phải thường trực ý thức và thực nghiệm những khổ đau của
cuộc đời. Chừng nào khổ đau vẫn còn là một vấn đề phải
giải quyết thì chừng ấy đạo Phật còn có sứ mệnh, người
Phật tử còn là người Phật tử. Mất liên lạc với khổ đau, là
mất tất cả. Lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng những
chất liệu khổ đau, cũng như hoa sen được nuôi dưỡng bằng chất
bùn. Chừng nào anh không còn thấy khổ đau thì chừng ấy anh không
còn là Phật tử. Hoặc giả anh đã giải thoát khổ đau cho anh và
mọi người chung quanh anh, hoặc giả sống giữa khổ đau mà anh không
hay không biết. Ngoài hai trường hợp ấy, anh phải khổ đau, phải ý
thức về sự đau khổ của anh và của nhân loại nếu anh muốn đạt
đến lý tưởng giải thoát khổ đau cho anh và nhân loại. Cũng như
một dân tộc muốn tranh đấu để thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang
thì phải luôn luôn ý thức rằng mình đang bị nô lệ ngoại bang. Ý
thức ấy mất đi thì sự tranh đấu không còn và dân tộc ấy thất
bại. Con người cũng vậy, muốn giải thoát khổ đau phải luôn luôn
ý thức và thực nghiệm khổ đau.
Một khi ta bưng bít tâm hồn, một khi
ta không đủ can đảm nhìn vào thực trạng của hiện hữu, một khi ta
vùi thân trong cuộc sống của dễ dãi, của áo ấm cơm no, ta không
nhận thức được chân tướng của cuộc đời và ta có ảo tưởng
rằng cuộc đời là hạnh phúc. Cũng như dân tộc kia nô lệ khổ đau
mà không biết mình nô lệ khổ đau. Ý thức về khổ đau cố nhiên
luôn luôn gây cho ta một xót xa trong nội tâm, nhưng như chúng tôi
đã nói, đó là những chất liệu cần thiết để nuôi dưỡng lý
tưởng. Không phải chỉ có lý tưởng giải thoát mới cần được
nuôi dưỡng bằng ý thức khổ đau. Lý tưởng nào cũng phải
được nuôi dưỡng bằng ý thức khổ đau. Cái khổ đau xót xa của
một Việt vương Câu Tiễn chẳng hạn là chất liệu nuôi dưỡng lý
tưởng phục thù của vương. Tại sao phải bảo tên hầu cận mỗi
ngày nhắc cho mình nghe cái nhục mất nước ? Tại sao phải treo một
bọc mật đắng trước cửa để nếm mỗi khi đi ra đi vào ? Đó là
Câu Tiễn muốn nuôi dưỡng lý tưởng phục thù vậy.
Đức Phật luôn luôn nhắc cho đệ
tử Ngài thực nghiệm khổ đau, ý thức một cách thâm thiết về
khổ đau. Không phải chỉ là những khổ đau nhỏ bé của riêng mình
mà là cả thực tại khổ đau to lớn của nhân loại. Các vị Tỳ
Kheo phải sống cuộc đời "tam thường bất túc" (ba việc
thường là cơm ăn, áo mặc, nhà ở không bao giờ đầy đủ quá)
không phải là để ép xác khổ hạnh mà là để sống mãi trong
ý thức minh mẫn về khổ đau của cuộc đời, để đừng có
những ảo tưởng sai lạc về cuộc đời. Sống cuộc đời bần tăng
khất sĩ là để tiếp xúc trực tiếp với quần chúng khổ đau, đau
niềm đau của họ, thấy cái thực trạng sinh hoạt tâm lý xã hội
của họ. Chỉ cần mỗi ngày ba bữa cơm no, một chức tước nhỏ bé
là ta có thể dễ dàng mất hết liên lạc với thực trạng khổ đau
của cuộc đời, và như thế ta đã đánh mất lý tưởng của ta và
đánh mất luôn bản thân ta nữa. Cho nên nếp sống tăng sĩ trước
hết là nếp sống nuôi dưỡng ý thức khổ đau, phải tự nguyện
tiếp xúc với đau thương của cuộc đời và đồng lao cộng khổ
với quần chúng. Một nếp sống trưởng giả, đài các không phải
là nếp sống tăng sĩ.
An lạc chân thật chỉ có thể phát
xuất từ ý thức khổ đau. Điều này chỉ có những người đã sống
trong cuộc đời một cách rào rạt mới có thể hiểu nổi. Đó là
một sự thực mà các bậc hiền nhân đều công nhận. Khổ đau làm
con người trưởng thành, không có khổ đau, con người không thành
con người. Nhưng con người cần biết sống với khổ đau, chứ
không phải chỉ cần sống trong đau khổ. "Niết bàn không ly
khai với sinh tử khổ đau" chính là ý ấy.
Cả một nền đạo học được thành
lập trên nhận thức căn bản "cuộc đời đầy khổ đau" kia.
Vì đạo Phật muốn nuôi dưỡng mãi ý thức khổ đau làm chất liệu
cho lý tưởng giải thoát, cho nên nhiều người đã nghĩ rằng đạo
Phật bi quan. Thực ra đạo Phật không bi quan, mà cũng không lạc quan.
Bi quan bao hàm một ý niệm chán nản, tuyệt vọng. Đạo Phật nhận
thức khổ đau để mà giải quyết khổ đau, chứ không phải để
thở dài mà buông xuôi hai tay. Đạo Phật đòi hỏi can đảm, đòi
hỏi kiên nhẫn, đòi hỏi đại hùng đại lực. Bi quan hay lạc quan
đều là những gì quá dễ dãi nông cạn. Không lạc quan một cách
ngây thơ vì một sự lạc quan như thế chứng tỏ thiếu nhận thức
về thực tại của hiện hữu; không bi quan một cách yếu đuối vì
một sự bi quan như thế chứng tỏ sự thiếu nhận thức về khả
năng bất diệt của con người. Đạo Phật bình thản nhận thức và
cương quyết hành động.
Cho nên nghĩ rằng cửa chùa là nơi
mà người ta tìm đến để trốn tránh khổ đau thì thật là oan uổng
cho đạo Phật. Bởi vì giáo lý đạo Phật không dạy người ta trốn
tránh khổ đau. Mà nếu muốn chiến thắng khổ đau, trước hết phải
khinh thường khổ đau, phải can đảm nhìn khổ đau tận mặt, phải tuyên
chiến với đau khổ. Chúng ta chưa từng thấy ai sợ địch thủ mà
chiến thắng được địch thủ bao giờ. Đừng biến đạo Phật của
kiên nhẫn, của quả cảm, của gian khổ, của đại hùng đại lực
thành một đạo Phật của cải lương vọng cổ "dưa muối chay lòng,
tu là cỗi phúc". Những kẻ hèn nhát yếu đuối ấy không đáng
được gọi là tăng sĩ. Người xuất gia phải là những vị đại
trượng phu.
Hình bóng của những con người yếu
đuối, mắt không dám nhìn thẳng, chân bước ngập ngừng, sợ sệt
khổ đau, khúm núm trước quyền lực, cố nhiên không phải là hình
bóng của người tăng sĩ. Hình bóng của người tăng phải là hình
bóng của một Long Thọ, một Huyền Trang, một Vạn Hạnh, đời sống
thì đạm bạc, gian khổ, ý chí thì vững chắc như kim cương, đức
độ thì khiêm cung, nhẫn nhục, hành nguyện thì rộng to như sóng biển.
Người xuất gia phải có đôi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lòa
nghị lực, người xuất gia phải có nụ cười bất diệt khinh thường
khổ đau. Có như thế mới làm biểu lộ chân tướng sáng rỡ của
đạo Phật. Mà muốn được như thế, điều thiết yếu trước tiên
là nhận thức thực trạng khổ đau, sống trong khổ đau, luyện mình
thành sắt thép. Ta chết đuối trong đau khổ nhưng ta thành Phật cũng
nhờ đau khổ. Chính đau khổ, chữa lành đau khổ, và khi đặt vấn
đề nhận thức khổ đau làm đệ nhất đế của Tứ Diệu Đế, đức
Phật quả đã nhận thấy tầm quan trọng của sự thực ấy một cách
thâm thiết.
KHAÛO SÁT THỰC TẠI (I) [^]
Không phiêu lưu trong những thế
giới luận thuyết siêu hình đạo Phật trở về thực tại, khảo sát
thực tại và giải quyết vấn đề đau khổ của thực tại.
Vậy đạo Phật chú trọng hướng
dẫn con người đi đến một nhận thức chân xác về thực tại để
làm nền tảng cho những phương pháp thực hành nhắm mục đích giải
thoát tình trạng khổ đau của con người trong thực tại và trước
thực tại.
Con người khổ đau vì con người
không có nhận thức chân xác về thực tại và trước thực tại.
"Nguồn gốc của mọi đau khổ là vô minh", đức Phật đã
lặp lại nhiều lần câu nói quan trọng đó. "Cái khổ của con
lừa con lạc đà chở nặng, cái khổ của kẻ bị trôi lăn trong lục
đạo chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận thức được thực tại,
không biết được hướng đi mới thật là đau khổ". (Sa di luật
giải).
Tất cả những nghiệp nhân xấu ác
và vụng của con người đều bắt nguồn từ vô minh, từ chỗ không
nhận thức được chân tướng hiện hữu thực tại. Nhận thức sai
lạc ấy được mệnh danh là biến kế chấp, và đối tượng
nhận thức sai lạc ấy được mệnh danh là biến kế sở chấp.
Màn vô minh, dục vọng và tư kiến
đã khiến cho trí tuệ con người yếu kém, vô năng, và vì vậy mang
nặng biến kế chấp tính. Biến có nghĩa là cùng khắp tất cả; kế
chấp nghĩa là nhận thức và suy tưởng sai lầm, rồi bảo thủ
những nhận thức và suy tưởng sai lầm ấy. Cố nhiên khi phần nhận
thức khách quan đã "sai lầm cùng khắp" như thế thì phần
đối tượng nhận thức khách quan cũng không thể hiển lộ chân
tướng được. Và vì vậy ta không nắm được thực tại, ta chỉ
tạo trong nhận thức ta những hình bóng sai lạc méo mó về thực
tại, và do đó ta hành động sai lạc để gặt lấy những nghiệp quả
khổ đau.
Ví dụ tôi đi ngoài đường trong
đêm tối, trong tâm trạng ngại ngùng lo âu. Tôi thấy một sợi dây
thừng giữa đường. Trong tâm trạng ngại ngùng lo âu đó, tôi mất
bình tĩnh, hoảng hốt cho đó là con rắn. Tôi hét lên, bỏ chạy,
đâm đầu vào bụi tre, rách da, sưng trán. Vậy là thực tại
"sợi dây thừng" đã bị nhận thức biến kế chấp của
tôi biến thành con rắn, không hiển lộ được chân tướng của nó.
Kịp đến khi nghe tiếng tôi là cầu
cứu, mọi người đem gậy và đuốc đèn ra, thì chẳng thấy rắn
đâu, chỉ thấy sợi dây thừng. Bây giờ tôi mới đủ sáng suốt
để nhận thấy sự thực dây thừng; trong trường hợp này, nhận
thức của tôi hết
vô minh, hết biến kế chấp, và thực tại
dây thừng được hiển lộ trong nhận thức sáng suốt ấy. Những con
người phàm phu (có nghĩa là chưa đạt đến tri thức giá ngộ của
thánh nhân) đều mang nặng ở nhận thức mình những lớp vô minh,
dục vọng và tư kiến dày đặc khiến cho nhận thức ấy trở thành
biến kế chấp và cũng do đó không thể nắm được thực tại mà
chỉ biến thực tại thành những ảo tượng biến kế sở chấp,
những con rắn trong tưởng tượng. Con người phải rũ bỏ vô minh,
dục vọng và kiến chấp bằng học hỏi, bằng tham thiền, bằng suy tư,
bằng thăng hóa để trừ diệt dần dần biến kế chấp tính của
nhận thức, để dần dần nắm được chân tướng của thực tại.
Đức Phật đã nhấn mạnh đến
điểm này và đã khai thị cho mọi người những tính cách chân xác
hiện thực của thực tại để giúp người cởi bỏ biến kế chấp
tính.
Ngài trình bày cặn kẽ tính cách y
tha khởi của mọi thực tại.
Y có nghĩa là căn cứ vào, lệ
thuộc vào, nương tựa vào. Tha có nghĩa là tất cả hiện tượng
khác. Khởi có nghĩa là phát sinh và hiện hữu. Mọi hiện tượng
đều phát sinh và hiện hữu tùy thuộc và căn cứ vào tất cả
những hiện tượng khác, và như vậy là đều có y tha khởi tính.
Điều này tuy giản dị nhưng thật quan
trọng.
Nhận thức thực tại trong tính cách
y tha khởi của nó, ta sẽ gạt ra được không biết bao nhiêu là cố
chấp sai lạc của trí thức ta. Trước hết, là những cố chấp về
tính cách đồng nhất và bất biến của các hiện tượng.
Vạn vật tùy thuộc nhau mà sinh khởi
và tồn tại, luôn luôn chuyển biến và có tính cách vô thường.
Nhưng trong nhận thức ta chỉ có những khái niệm về những sự vật
đồng nhất bất biến; mỗi khái niệm như thế được mệnh danh bằng
một từ ngữ nhất định. Ví dụ từ ngữ "xe đạp của tôi".
Từ ngữ này dùng để gọi một hiện tượng phát sinh trong một
thời gian nào đó, tồn tại trong một khoảng thời gian nào đó.
Trước hết tôi nhận thấy từ ngữ "xe đạp của tôi" gợi
cho tôi khái niệm về chiếc xe đạp của tôi, cả từ ngữ, cả khái
niệm đều như có những khuôn khổ nhất định. Nhưng chính thực tại
- chiếc xe đạp - thì không thế. Nó luôn luôn chuyển biến cho đến
nỗi sau ba năm thay sườn, thay lốp, thay sên, cũ kỹ, không giống gì
với chiếc xe đạp tôi mua mấy năm về trước, mà nó vẫn mang tên
"xe đạp của tôi" như thường. Đó là chưa kể đến sự
cắt xén của trí thức. Tôi chỉ nhận biết sự hiện hữu của chiếc
xe đạp khi nó thành hình, mà không nhận biết được nó trong những
nhân duyên y tha của nó. Tôi đã cắt xén, trong thời gian và không
gian, một mảnh thực tại và đặt tên cho nó, đóng khuôn nó lại
trong một khái niệm, trong một cái tên, trong khi chính nó, nó không
hề chịu đựng được sự khuôn khổ và luôn chuyển biến trong
thời gian và không gian. Trong từng sát na, sự chuyển biến được
thực hiện : luôn luôn có một cái gì đang bớt đi và có một cái
gì đang thêm vào. Và như vậy, không có những hiện tượng bất
biến, chỉ có một thực tại bao la gồm có nhiều giòng hiện tượng
hỗ tương tác động sinh khởi, bù đắp và thay thế nhau. Tri thức
tôi hay cắt xén thực tại ra từng mảnh và nhận thức từng mảnh
bằng từng khái niệm, hay suy tưởng bằng cách sắp xếp so sánh các
mảnh khái niệm ấy. Cho nên mọi sai lạc siêu hình đều bắt nguồn
từ chỗ cắt xén thực tại ra từng mảnh và đặt cho mỗi mảnh một
cái tên cứng nhắc, trong khi chính thực tại thì linh động vô
cùng và không thể bị cắt xén mà không biến hình. Chắp nối
những mảnh cứng nhắc đó, và dựng nó thành hệ thống, tôi đã
đánh mất bản lai diện mục (bộ mặt thực từ xưa đến nay) của
thực tại, và đã tạo ra một bộ mặt kỳ lạ buồn cười cho thực
tại. Mà như thế tôi đã không nắm được thực tại. Cái mà tôi
cho là thực tại không giống gì với bản thân của thực tại cả.
Các hiện tượng trong thực tại thì
linh động, chuyển biến và vì vậy, vô thường. Các hiện
tượng ấy không phải bao giờ cũng như bao giờ, luôn luôn hỗ
tương tác động bù đắp nhau, phút trước khác phút sau, và vì
vậy, vô ngaõ. Ngã là tính cách đồng nhất của sự vật. Nhưng
thực tại chứng minh rằng không có sự vật nào mà có tính cách
đồng nhất cả : tất cả đều chuyển biến. Vì vậy khi công nhận tính
cách vô thường, ta phải công nhận luôn tính cách vô ngã. Vô
thường và vô ngã chỉ là một : đứng trên thời gian thì gọi vô
thường, đứng trên không gian thì gọi vô ngã. Các hiện tượng
vật lý sinh lý (sắc pháp) đều vô thường, vô ngã. Các hiện
tượng tâm lý (tâm pháp) cũng đều vô thường, vô ngã.
Mọi nhận thức không phù hợp lý
vô thường vô ngã đều sai lạc, đều xa lìa thực tại. Tất cả
những hệ thống đạo đức luân lý, tất cả mọi phương pháp thực
hành, cải tạo, thăng hóa và tu chứng đều phải y cứ trên nhận
thức vô thường vô ngã. Nếu không, tất cả đều đưa đến thất
bại bởi vì đã chống đối thực tại.
Trình bày tính cách y tha khởi của
mọi thực tại, đức Phật có chủ ý đánh tan nhận thức sai lạc
cố chấp của con người, trao quyền cho con người một phương pháp
nhận thức thực tại cao hơn phương pháp khái niệm suy tư mang nặng
tính cách lầm lạc chỉ biết cắt xén thực tại và sắp xếp những
bóng dáng đã đổi hình của thực tại. Giáo lý Pháp tướng Duy
Thức trình bày những sai lạc cố hữu của nhận thức và giúp
ta khảo sát thực tại trên quan điểm hiện tượng luận (point de vue
phénoménologique) nhắm mục đích đả phá lối nhận thức cố chấp
thường, ngã. Giáo lý Pháp Tánh Không Tuệ nhắm mục đích
làm cho vô lý đi (reductio ad absurdum) tất cả những khái niệm của ta
về sự vật để giúp ta đạt đến một nhận thức cao hơn. Giáo lý Như
Lai tạng duyên khởi cũng trình bày luật trùng trùng duyên khởi,
để giúp ta thấy rõ ràng trong một có tất cả, tất cả
là một và như vậy cũng nhắm đến mục đích cản ngăn không cho ta
cắt xén một cách sai lạc và ngây thơ cả dòng thực tại linh hoạt
đang diễn biến hiện hữu.
KHẢO SÁT THỰC TẠI (II) [^]
Những hệ thống giáo lý Bắc phương
cũng như những hệ thống giáo lý Nam phương đều nhắm đến sự khai
thị chân lý vô thường, vô ngã, y tha khởi, nhân duyên sinh để
giúp con người lay đổ lề lối nhận thức cũ, đào luyện một khả
năng nhận thức mới, hoặc gọi là nhất thiết trí, hoặc diệu quan
sát trí, vô lậu trí, bát nhã trí, vô phân biệt trí
tùy theo
trường hợp, đối tượng và trình độ tu chứng. Nhưng dù sao,
những giáo lý ấy cũng chỉ mới có thể gây trong ta những biến
động cần thiết đủ để lay đổ lề lối nhận thức cũ. Ta phải
tỉnh dậy và theo sự hướng dẫn của giáo lý mà sinh hoạt để
đào luyện nhận thức mới, mới mong trực nhận thực tại trong tự
tính y tha khởi của nó. Không phải chỉ cần học tập kinh điển mà
tự khắc có được nhận thức duyên sinh về sự vật. Chừng nào
ta cảm nhận, suy tư và hành động phù hợp hoàn toàn với thực
tại, chừng đó nhận thức duyên sinh mới hoàn toàn thành tựu.
Còn nếu ta chỉ học hỏi và công nhận tính cách y tha khởi của vạn
vật mà nhận thức và hành động ta vẫn sai lạc không phù hợp
với y tha khởi tính của hiện tượng thì ta chưa có thể nói rằng ta
đã chứng nghiệm chân lý y tha khởi. Ta mới "kiến tạo"
chứ chưa "chứng đạo". Phải tập rèn đào luyện nhận
thức, nghĩa là phải tu tập diệt mê trừ vọng hằng ngày để mỗi
lúc một tiến gần thực tại, mỗi lúc một nhận thức thực tại
rõ ràng hơn. Nhận thức vấn đề mà không y cứ trên nguyên lý y
tha khởi và hành động phản lại với nguyên lý ấy thì ta sẽ thất
bại chua cay trong cuộc đời và trên lịch trình tu chứng. Ngày nào
mà ta nhìn một sự vật, suy tưởng một vấn đề, thực hiện một
hành động, nhất nhất đều phù hợp với nguyên lý y tha khởi,
ngày đó ta mới chứng được nguyên lý y tha khởi của thực tại.
Nói tóm lại, tất cả mọi lầm lạc
về nhận thức và về hành động của chúng ta đều phát nguyên từ
chỗ không thấy rõ tính cách vô thường, vô ngã, duyên sinh và y
tha khởi của thực tại. Nhân sự giới muốn đẹp đẽ phải mô
phỏng tự nhiên giới; mà tự nhiên giới chỉ hiển lộ khi ta không
cắt xén nó, không đóng khung nó trong khái niệm và danh ngôn.
Tuy nhiên, giáo lý vẫn được
chuyên chở bằng danh ngôn và khái niệm, cho nên giáo lý không thể
thuyết minh được thực tại. Giáo lý dùng danh ngôn và khái niệm
để lay đổ danh ngôn và khái niệm. Ta phải nhận thức được chủ
đích của giáo lý mà đừng chấp chặt ở giáo lý, bởi vì
"chân lý thực tại là mặt trăng, giáo lý là ngón tay chỉ mặt
trăng; đừng lầm ngón tay là chính mặt trăng". Vì dù sao ta cũng
nhận thức những nguyên lý vô thường vô ngã bằng khái niệm và
diễn tả chúng bằng danh ngôn. Mà như vậy, ta đã có những khái
niệm về thực tại. Mà đã là khái niệm tức là có cắt xén có
nhãn hiệu : như thế thực tại lại cũng thoát khỏi nhận thức ta.
Phải luôn luôn nhớ rằng những khái niệm vô thường, vô ngã,
duyên sinh có nhiệm vụ lay đổ mọi khái niệm và như thế phải tự
lay đổ cả chính chúng nữa. Khái niệm cũng như danh ngôn, trong
trường hợp này, lay đổ nhau, hủy hoại nhau và tiêu diệt nhau để
nhường chỗ cho một nhận thức trực giác đặc biệt, có thể tạm
gọi là vô phân biệt trí hay vô lậu trí chẳng hạn. Đọc một bộ
sách của Tam Luận Tông hay Duy Thức Tông chẳng hạn ta sẽ nhận thấy
rõ ràng điều đó. Và nếu đạt thấu như thế, ta sẽ vượt khái
niệm y tha khởi và sẽ mầu nhiệm xúc tiếp thẳng với bản thân linh
động của thực tại, với tính chất viên thành thực của
thực tại. Thực tại là thực tại, "pháp nhĩ như thị",
không có tính cách biến kế sở chấp cũng không phải không có
tính cách biến kế sở chấp, không có tính cách y tha khởi cũng
không phải không có tính cách y tha khởi : tính cách nó là viên
thành thực. Và để nhận thức hoàn hảo để cho thực tại
đúng là viên thành thực, ta phải thêm như sau : thực tại không
phải có tính cách viên thành thực cũng không phải không có tính
cách viên thành thực, do đó nó mới hoàn toàn là thành thực.
Đó là chân lý mầu nhiệm mà Kinh Kim Cương muốn diễn tả. Đó
cũng là điểm cao chót vót của nhận thức luận Phật giáo.
Những điểm hết sức thiết yếu mà
chúng tôi đã cố trình bày một cách giản lược như trên, có thể
tìm thấy trong mọi kinh điển căn bản ở Nam tông cũng như ở Bắc
tông, ở Tiểu thừa cũng như ở Đại thừa. Những hệ thống Bát
nhã Duy thức, Viên giác
có vẻ hình như là đặc biệt của
riêng Đại thừa giáo nhưng kỳ thực chỉ là những khai triển của
giáo lý Nguyên thỉ. Những hệ thống tư tưởng ấy không nhắm mục
đích nào khác hơn là trao truyền phương pháp đào luyện nhận thức
giác ngộ, mà khởi điểm là thuyết minh vô thường vô ngã để lay
đổ nhận thức cũ, để cuối cùng tiêu diệt luôn khái niệm vô
thường vô ngã mà đi đến nhận thức viên giác vô phân biệt.
Tìm học ở những kinh điển Nam tông, ta sẽ nhận thấy sự hiện
diện của những tư tưởng nhân duyên, vô thường, vô ngã, duy
thức, bát nhã và cả viên giác nữa. Thiền học là một đóa hoa
tuyệt vời nở trên nhận thức luận Phật giáo, tổng hợp được
tinh ba của tất cả hệ thống giáo lý khác biệt.
Cho nên, những kinh sách nào những
giáo lý nào không chuyên chở được nhận thức luận duyên sinh
và viên giác của đạo Phật thì có thể xem như là không phải của
Phật giáo, và ít ra không phải của Phật giáo chính thống. Giáo lý
mênh mông và rất thiên sai vạn biệt nhưng đồng nhất vị, chính là
ý ấy.
Bước đầu của sự khảo sát thực
tại, như thế, là nhận thức duyên sinh, tức là nhận thức vô
thường, vô ngã. Câu kinh A Hàm sau đây có thể là đại diện căn
bản cho tất cả các kinh điển về phương diện khai thị chân lý ấy :
- "Thử hữu tắc bỉ hữu,
- Thử vô tắc bỉ vô,
- Thử sinh tắc bỉ sinh,
- Thử diệt tắc bỉ diệt"
- (Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu,
- Cái này không hiện hữu thì cái kia không hiện
hữu,
- Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh,
- Cái này hoại diệt thì cái kia hoại diệt).
Trên nhận thức duyên sinh ấy, ta
thấy mọi kiến chấp về thường và ngã tan rã, mọi xây dựng tri
thức lay đổ, mọi cố gắng hệ thống hóa trở nên vô nghĩa. Thực
tại là thực tại nguyên vẹn linh động không thể cắt xén, không
thể mệnh danh, không thể dán nhãn hiệu. Những khái niệm sinh, diệt,
hữu, vô, khứ, lai, nội, ngoại đều là những kiến tạo của tri
thức chủ quan sai lạc không thể được gán cho thực tại, và cả
những khái niệm vô thường, vô ngã giúp ta lay đổ nhận thức
lầm lạc cũ cũng phải đến phiên bị lay đổ. Và ta thấy :
- "Nhất thiết pháp bất sinh,
- Nhất thiết pháp bất diệt,
- Nhược năng như thị giả,
- Chư Phật thường hiện tiền".
- (Mọi hiện tượng không sinh,
- Mọi hiện tượng không diệt,
- Nếu hiểu được như thế, ta sẽ thấy
- Chư Phật thường hiện hữu trước mắt ta).
(bài kệ của Thiền sư Việt Nam Điều
Ngự Giác Hoàng, sáng tổ của phái Thiền tông Trúc Lâm Việt Nam
đời Trần).
Đến đây, viên thành thực tính
của thực tại đã được hiển lộ, vì khái niệm danh ngôn đã đổ
vỡ nhường chỗ cho nhận thức viên giác. Mà nhận thức được
thực tại tức là thấy được chân tướng của thực tại, thấy
được chư Phật, thấy được Niết Bàn. Niết Bàn chẳng có nghĩa gì
khác hơn là chân tướng của thực tại. Ta vì không đạt đến
chân tướng của thực tại, chỉ có thể vọng chấp được bóng
dáng của thực tại nên không thấy được Niết Bàn mà chỉ
thấy luân hồi sinh tử khổ đau. Ba pháp ấn của Phật giáo là Vô
Thường, Vô Ngã, Niết Bàn; khi chưa đánh đổ được nhận thức
bằng khái niệm và danh ngôn, ta chỉ nhìn thấy thực tại qua vọng
chấp thường, ngã. Theo sự hướng dẫn của giáo lý ta đào luyện
nhận thức duyên sinh để thấy được tính cách vô thường vô ngã
của thực tại, và sau đó khi đã lay đổ luôn được những khái
niệm cuối cùng về vô thường vô ngã, ta sẽ trực nhận được
thực tại trong tự tính Niết Bàn viên thành thực của nó. Vì vậy
tuy Thường Ngã đã đành là vọng chấp, nhưng Vô Thường, Vô Ngã
cũng còn là vọng chấp. Chỉ có Niết Bàn là viên thành thực. Tuy
nhiên, ta phải thấy rõ rằng vọng chấp và viên giác là hai khái
niệm tương thành tương lập, cả hai đều bất tương ly, cả hai là
một, cả hai đều giả lập, hoặc cũng có thể nói rằng cả hai đều
là thực tại. Có sự hiện hữu của Vọng chấp thực tại, tức
là có sự hiện hữu của Viên giác thực tại. Nói khác hơn, nếu
thế giới vô thường vô ngã hiện hữu, thì Niết Bàn cũng hiện
hữu. Như thế, sinh tử với Niết Bàn là một, hoặc "Niết Bàn
sinh tử thị không hoa" (cả hai thứ Niết Bàn và sinh tử đều
là những hoa đốm trong hư không). Đó là chân lý mà giáo lý
viên giác chủ ý diễn tả trong các kinh điển của mình,
Câu hỏi : "Có Niết Bàn không
?" và "Niết Bàn là gì ?" như thế, trở thành không quan
trọng, và đôi khi ngớ ngẩn nữa.
Kinh điển Nam tông cũng nói đến
thực tướng viên giác bất ly thế giới sinh tử :
"Phải có thực thể không sinh
không diệt; bởi vì nếu không có thực thể không sinh không diệt
ấy thì do đâu mà các hiện tượng có sinh có diệt ?" - (Kinh A
Hàm).
Như vậy ta nhận thấy dù ở Bắc
tông hay Nam tông, giáo lý Phật giáo đều chú trọng đặc biệt đến
vấn đề khảo sát thực tại, đều trao truyền những phương pháp
hướng dẫn diệt trừ mê vọng, giúp con người thoát bỏ nhận
thức nông cạn và sai lạc để đạt đến nhận thức giác ngộ viên
minh. Nhận thức càng chân xác thì hành động càng chân xác; trên
quá trình nhận thức và hành động (quá trình tri, hành) con người
diệt trừ dần dần đau khổ và thất bại, kiến tạo cho mình một nếp
sống phù hợp chân lý, an lạc, hạnh phúc và sáng tỏ.
PHƯƠNG PHÁP THỂ HIỆN (I) [^]
Cứu cánh của đạo Phật là trừ
diệt khổ đau và kiến tạo an lạc, mà nguyên nhân của khổ đau là
vô minh, tức là sự xa cách thực tại, nhận lầm thực tại, cắt
xén và biến hình thực tại. Không nhận thức được thực tại thì
cố nhiên sẽ hành động phản chống lại thực tại, với đường
lối vận hành của thực tại. Mà hễ phản chống lại thực tại là
mua chuốc lấy khổ đau.
Khi ta dại dột đưa tay vào lửa, ta
bị bỏng tay : thế là đau khổ vì không biết rằng lửa nóng. Khi ta
hành động trái chống với nguyên lý vô thường, vô ngã và
duyên sinh của thực tại, ta cũng mua chuốc lấy những thất bại khổ
đau. Vì thế để đạt tới một cuộc sống hòa đồng với thực
tại, ta phải nhận biết bản thân của thực tại và như thế, phải
đạt đến nhận thức giác ngộ, gọi là Tueä hay Bát nhã
(prajna).
Nhưng nhận thức Bát nhã không thể
trong một sớm một chiều mà thực hiện được. Để đạt đến nhận
thức Bát nhã tròn vẹn ta phải thực hiện từ từ nhận thức ấy.
Mà thực hiện thế nào ? Đó là tất cả vấn đề mà đạo Phật
nhắm đến, vì đạo Phật là một đạo lý hướng dẫn con người
trên bước đường thực hiện nhận thức ây.
Không phải do học tập trong giáo
điển mà con người có thể có ngay nhận thức ấy. Phải trải qua
nhiều công phu tu luyện thực tập, con người mới có thể làm sáng
tỏ nó dần dần nơi bản thân mình. Sự học tập trong kinh điển chỉ
mới đem ta tới một vài ý niệm nhận thức. Phải thể hiện những
ý niệm ấy bằng áp dụng, bằng thiền quán, bằng chính niệm cho
động tác, tâm ý và ngôn ngữ phản chiếu được một phần nào
những nhận thức kia. Mà khi những thực tập ấy đem lại kết quả
đẹp, thì khả năng nhận thức càng trở nên sắc bén. Đó là sự
hỗ tương ảnh hưởng giữa hai phần tri và hành; và tri chỉ đi tới
cứu cánh khi hành đi tới cứu cánh. Như vậy, một cái tri toàn
vẹn có nghĩa là một cái hành toàn vẹn. Ở đây ta thấy rõ tri
hành quả là hợp nhất.
Tri hướng dẫn Hành, và Hành làm
sáng tỏ thêm cho Tri. (Để hiểu thêm về vấn đề nầy, xin đọc cuốn
ĐỂ HIỂU ĐẠO PHẬT của PHƯƠNG BỐI - trang 23 đến 28 - do Phật Học
Viện Trung phần xuất bản, 1959). Vì vậy, những áp dụng và thực
tập rất cần thiết cho người hành giả muốn tự đào luyện cho mình
một khả năng nhận thức sâu rộng.
Nhưng áp dụng gì và thực tập gì ?
Áp dụng và thực tập những ý niệm chân xác hơn về thực tại
(xin nhớ là chân xác hơn) mà ta học từ đức Phật. Ví dụ nguyên
lý duyên sinh, vô thường, vô ngã. Đó là những nguyên lý mà vì
không có nhận thức sâu sắc và thường xuyên ta đã vi phạm trong
khi ta hành động, tức là trong khi chúng ta sống. Những nguyên lý
ấy, đôi khi lý trí của ta cũng trực nhận được, nhưng chúng
không ngự trị trong ý thức ta một cách trường cửu mà chỉ thoáng
bay qua. Lý do là vì trong ta những ý dục và sân hận thường lui
tới xâm chiếm. Do đó chúng lấn áp và trùm chiếm nhận thức
không cho sáng tỏ. Như thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
- Làm sao nhận thức duyên sinh vô thường và vô
ngã có thể thường xuyên ngự trị trong ta.
- Làm sao cho dục vọng và sân hận đừng vây
chiếm nhận thức ta.
Thực hiện được hai điều ấy, ta
sẽ nắm vững được ta và sẽ hành động đúng với nguyên lý
duyên sinh, vô thường, vô ngã; và sẽ không thêm một nguyên nhân
đau khổ nào nữa. Để thực hiện hai điều ấy, đạo Phật đề nghị
:
I.-
ĐỊNH TÂM : Mỗi ngày phải có những giờ giấc thực tập, tập
trung tư tưởng về một đối tượng, đình chỉ những loạn tưởng,
tiêu diệt những vọng tưởng để phát triển nhận thức bát nhã.
Đây là cả một kỹ thuật tu luyện. Ta phải học tập và thực hành
dưới sự hướng dẫn của một thiền sư hay một người đã đi
trước ta hơi xa. Tập trung tư tưởng về một đối tượng (như nguyên
lý vô thường, vô ngã) để duy trì đối tượng ấy trong ta một
thời gian lâu dài, để nó thâm nhập và huân tập (xông ướp, danh
từ duy thức học Phật giáo) mạnh mẽ vào nhận thức ta. Cũng có
nghĩa là để đối tượng ấy bừng sáng và tỏa chiếu trong nhận
thức ta. Ý thức ta, khi tập trung vào một điểm đối tượng, sẽ
trở thành sức mạnh có thể làm bừng sáng đối tượng ấy - như
một thấu kính hội tụ (lentille convergente) có thể, dưới ánh sáng
mặt trời, đốt cháy một bông cỏ. Đình chỉ những loạn tưởng,
là để chúng đừng phát sinh, tác động và ảnh hưởng trên bản
thân và hành động ta một cách tự do và uy quyền như trước. Sức
mạnh do ý lực đem lại, với bối cảnh tiềm thức và vô thức
đồng huân, đồng biến, sẽ là một lưỡi gươm sắc bén chặt đứt
dần vọng tưởng đang phát khởi và đã phát khởi hiện còn gốc
rễ (chủng tử) trong vô thức (Alaya, theo danh từ duy thức học).
Điều nầy cần được học hỏi trong giáo lý Duy thức.
II.-
TRÌ GIỚI : Nhưng làm thế nào để thực hiện định tâm ? Một
cuộc sống buông thả, không kỷ cương, không khuôn phép là điều
kiện cho vọng tưởng và ý dục lộng hành. Bởi vì định tâm không
thể thực hiện được bằng một vài giờ thiền quán và một vài
giờ thiền quán mỗi ngày chưa chắc đối trị lại được với suốt
ngày vọng động buông thả. Cho nên khi đi, đứng, nằm, ngồi, hoạt
động, sinh hoạt, người hành giả cũng phải tập giữ chính niệm
nghĩa là chuyên nhớ đến nguyên lý hành động. Mà muốn dễ giữ
chính niệm, muốn dễ thực hiện định tâm, ta phải khép mình trong một
nếp sống thuận lợi cho sự phát triển thiện niệm và để cho tà
niệm khó lộng hành. Nếp sống ấy là một nếp sống được quy định
bởi những giới luật. Ta thường làm những gì ta nghĩ và ta
thường nghĩ những gì ta làm. Điều ấy giản dị quá, ai cũng nhận
thấy. Vì vậy, người hành giả không làm những gì do ý dục
và sân hận ra lệnh, để không nghĩ đến những gì có dục
tính và sân tính. Hành giả lại không nghĩ đến những gì có
ý dục tính và sân tính để không làm những gì do dục ý và
sân ý ra lệnh. Hành giả càng tiến tới thì si tính của nhận thức
càng bị tiêu hoại và nhường chỗ cho tuệ tính của bát nhã. Tham
dục sân hận và si độn càng tiêu hoại thì khả năng giác ngộ
càng phát triển. Một ngày kia, hành giả đi đến sự thực hiện
toàn vẹn tuệ tính của nhận thức mình,
Vì sự sống không cho phép ta có
nhiều điều kiện để tự thực hiện một cuộc thoát xác mau chóng
như ý ta muốn - nghĩa là làm thiền sư - ta hãy cố gắng xếp đặt
một chương trình sống hợp lý hơn, có nhiều điều kiện hơn, để
thực hiện nhận thức giác ngộ. Ta có thể học tập, thiền quán và
áp dụng đạo Phật trong bất cứ một cuộc sống vất vả và bận
rộn nào. Nhưng thực ra, vất vả và bận rộn nhiều hay ít cũng tùy
ở ta.
PHƯƠNG
PHÁP THỂ HIỆN (II) [^]
Chúng ta thường nghĩ rằng tôn giáo
nào cũng dạy bỏ ác làm lành và vì vậy tôn giáo nào cũng đáng
quý trọng. Điều đó thật đúng. Nhưng điều đó không quan hệ mấy.
Quan hệ là ở chỗ bỏ những ác nào, làm những lành nào, những
gì là ác, những gì là lành, và lấy tiêu chuẩn nào để đo
lường mà biết thế nào là ác, thế nào là lành.
Vấn đề tiêu chuẩn thiện ác là
một vấn đề trọng đại của luân lý học. Nhưng luân lý bao giờ
cũng được căn cứ trên một nền tảng nhận thức có hệ thống
về vũ trụ, về thực tại và về con người. Nhận thức ta là một
nhận thức duy vật chẳng hạn, thì luân lý ta là một luân lý duy
vật. Nhận thức ta là một nhận thức duy thần thì luân lý ta sẽ
là một luân lý duy thần. Và lẽ tất nhiên hễ nhận thức căn bản
đổi thay thì quan niệm luân lý đổi thay. Luân lý không phải những
bài học hay những khuôn mẫu đúc sẵn để cho mọi người khép theo.
Luân lý phải là phương châm và pháp thức hành động của con
người hợp với hoàn cảnh, tâm lý và hạnh phúc chân thật con
người. Lịch sử đã chứng tỏ bao nhiêu cuộc đổi thay của sinh
hoạt xã hội của nhận thức trí tuệ và của luân lý con người.
Luân lý phải chuyển biến để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại
của xã hội, của con người. Quan niệm xưa "quân sử thần tử,
thần bất tử bất trung" chẳng hạn, đã được tôn sùng như
một chân lý và cũng đã đóng góp không ít cho nền trị an của
những đế quốc nông nghiệp rộng rãi. Nhưng ngày nay xã hội đã
đổi khác, những nhận thức của con người cũng đổi khác cho nên,
các quan niệm luân lý như thế đã trở thành không hợp thời và
lại trái chống với hạnh phúc con người nữa. Cho nên, là một
Phật tử chân chính không có nghĩa là phải bắt chước y hệt khuôn
mẫu hành động của một người Phật tử sống ở một xã hội
khác biệt cách đây hai ba ngàn năm, dù người Phật tử ấy là
người Phật tử chân chính nhất. Điều cốt yếu tìm cho ra những
nguyên lý này đã làm căn bản cho hành động của người Phật
tử ấy, và xây dựng sinh hoạt ý chí tình cảm hoạt động của mình
trên những nguyên lý căn bản kia. Theo đúng nguyên tắc trên, ta
thấy luân lý (tức là phương pháp) của ta phải :
1.-
Phù hợp với những nguyên lý căn bản của đạo Phật đã làm
nền tảng cho sinh hoạt muôn mầu muôn sắc của hai-ngàn-năm-trăm-năm
giáo sử.
2.-
Phù hợp với xã hội ta, lịch sử ta và những điều kiện tâm lý
sinh lý của cá nhân ta.
Điều thứ nhất là khế lý,
điều thứ hai là khế cơ. Hễ cái gì mà khế lý và khế cơ
thì được gọi là Phật Pháp. Như vậy trong khi thực hành Phật
Pháp, ta có ý thức rõ rệt và linh động về những phương pháp
và mục đích của công cuộc thực hiện ấy, chứ ta không bắt
chước một cách vô ý thức khuôn khổ hành động của một kẻ
khác mà điều kiện xã hội, lịch sử, điều kiện tâm lý và
sinh lý chẳng giống gì của ta.
Vậy trước hết, ta phải tìm hiểu
những nguyên lý căn bản của đạo Phật và tiếp đó là tìm cách
ứng dụng những nguyên lý ấy trong những điều kiện đặc biệt
của chính ta.
Trước hết ta phải tìm đến những
TIÊU CHUẨN THIỆN ÁC để có thể phân biệt được những gì là
thiện phải làm và những gì là ác phải tránh. Ta đừng nên hiểu
chữ thiện theo nghĩa những công việc xã hội từ thiện mà
phải hiểu chữ thiện theo nghĩa nên làm. Ví dụ khi ta cho một
người khát uống nước thì đó là một việc thiện. Nhưng nếu ta cho
một bệnh nhân vừa mới giải phẫu ruột uống nước thì đó là
một việc ác, dầu ta không cố tâm giết người đó. Lại như ta cho
một người bệnh uống sâm, có người uống sâm thì mạnh khỏe thêm
lên, có người (như người vừa bị cảm thương hàn) uống sâm thì
bệnh nặng đùng đùng kéo đến. Vậy uống sâm là thiện hay ác,
là nên làm hay không nên làm, điều đó còn tùy ở
hoàn cảnh, ở trường hợp và ở điều kiện. Vậy điều quan yếu
không phải là kê khái trên một tờ giấy những gì thiện mà mọi
người phải làm bất cứ ở đâu, lúc nào; trái lại, là tìm cho
ra những tiêu chuẩn để ứng dụng trong mọi trường hợp và hoàn
cảnh khác nhau. Theo đạo Phật, ta có thể có những tiêu chuẩn sau,
những tiêu chuẩn này bổ trợ cho nhau mà không thể tách rời nhau
được.
1.-
Tiểu chuẩn khổ vui. Những gì gây khổ đau cho ta và cho
người chung quanh ta trong hiện tại và trong tương lai đều được gọi
là ác. Ngược lại ta gọi là thiện những gì gây cho ta tâm trạng
an lạc thanh tịnh tự chủ và thanh thoát. Ví dụ tôi có bệnh bón.
Nếu tôi uống vào buổi sáng một cốc nước lạnh trong khi bụng
còn trống, tôi thấy điều đó giúp cho tôi trị được bệnh bón,
tôi hết nhức đầu cáu kỉnh. Điều đó là một điều thiện (đối
với tôi trong những điều kiện của tôi) nhưng nếu tôi uống
thật nhiều nước trong khi tôi ăn cơm chẳng hạn, nhất là rượu và
các thứ nước ngọt ướp đá lạnh tôi thấy bệnh bón của tôi
càng ngày càng khó chịu thêm lên. Vậy uống đây là một
điều ác (đối với tôi, trong những điều kiện của tôi). Ngàn
vạn chuyện hằng ngày điều có thể dùng tiêu chuẩn khổ vui này
để đo lường.
2.-
Tiêu chuẩn mê ngộ. Nhưng tiêu chuẩn khổ vui cần được bổ
túc bằng tiêu chuẩn mê ngộ. Mê là sai lầm, ngộ là hợp lý, mê
là trái với nhận thức vô thường, vô ngã, nhân duyên và niết
bàn. Ngộ là đúng với nhận thức ấy. Trở lại ví dụ bệnh bón.
Tôi đang uống rượu và tôi thấy uống rượu là vui, nghĩa là hạnh
phúc. Mà cái gì làm cho ta vui, làm cho ta có hạnh phúc là nên làm,
là thiện, suy xét theo tiêu chuẩn khổ vui. Đó là trường hợp
tiêu chuẩn khổ vui không được bổ túc bằng tiêu chuẩn mê ngộ.
Nếu áp dụng tiêu chuẩn mê ngộ ta sẽ thấy cái vui của giờ phút
uống rượu không bù được cái khổ của bệnh bón kéo dài, của
thần kinh suy nhược, của những tan vỡ trong gia đình do sự cáu kỉnh
gây ra bởi say sưa, bởi bệnh uất bón. Những gì trái ngược với
suy lý, với nhận thức sáng suốt về vô thường, vô ngã, duyên
sinh niết bàn đều được xem là ác, vì vậy tôi không được uống
rượu, dù rượu có gây khoái cảm cho tôi trong vài giờ say túy
lúy.
3.-
Tiêu chuẩn lợi hại. Tiêu chuẩn này là một tiêu chuẩn phối
hợp hai tiêu chuẩn trước. Tôi đang nhắm tới sự thực hiện sức
khỏe tôi, trí tuệ tôi, sự an lạc của bản thân tôi, của gia đình
tôi, và xa hơn nữa, tôi đang nhắm tới sự thực hiện diệt mê
vọng để được giác ngộ giải thoát. Vậy những gì đóng góp
được vào sự thực hiện những mục tiêu ấy - tức là hạnh
phúc của tôi, của chúng tôi, nói rộng ra là của tất cả chúng ta
- đều được coi là lợi, và ngược lại là hại. Người xưa đã
tỏ ý coi thường chữ lợi "Hà tất viết lợi ?", nhưng
chữ lợi đây không có gì đáng bị coi thường cả. Lợi đây là
lợi ích chân chính của bản thân, của xã hội, của chúng sinh - cái
lợi Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, cái lợi Chánh giác, Niết bàn mà
mọi Phật tử đang nhắm đến thực hiện. Ta không ưa chữ lợi vì
có lẽ nội dung của chữ ấy (theo nghĩa phổ thông đang dùng) bao hàm
tư lợi, tà lợi dục vọng. Những gì phản lại sự thực hiện
những mục tiêu trên đều gọi là hại.
Ở đây tôi không muốn đi sâu vào
chi tiết lắm, chỉ xin giải bày những điều đại cương. Sau khi ta đã
có những tiêu chuẩn (như người đi biển sẵn có bản đồ, địa
bàn v.v.) ta cần xét nội dung của một hành động một nghiệp
nói theo danh từ chuyên môn của ta; có thể là thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp, để đoán định giá trị của hành động ấy theo
những tiêu chuẩn trên.
Trước hết là động cơ tâm lý
của hành động, được xem là bản chất của hành động. Thứ đến
là phương tiện, cách thức biểu hiện động cơ tâm lý ấy. Và
cuối cùng là kết quả xảy tới là hành động ấy. Đó là 3
phương diện: căn bản, phương tiện, và thành dĩ. Ví dụ nó
giết người. Ý niệm giết người là căn bản. Dao súng, gậy, hay
là lời vu cáo chẳng hạn, là phương tiện. Người kia chết là
thành dĩ. Nhưng có khi căn bản nặng, nhưng phương tiện và thành dĩ
nhẹ (muốn giết nhưng tay yếu và chỉ làm cho người kia bị thương
nhẹ). Có khi căn bản nặng, phương tiện nặng, nhưng thành dĩ nhẹ
(muốn giết, có súng nhưng bắn sai) có khi căn bản nhẹ nhưng phương
tiện nặng và thành dĩ nặng (chỉ có ý dọa không muốn giết nhưng
lỡ tay bóp cò, người kia chết). Cứ như thế, ta suy luận đoán
định giá trị của một hành động và tạo nên luân lý cho ta và có
thể cho một số người cùng trong những điều kiện như ta.
4.-
Căn cơ đặc biệt. Sau khi nắm được tiêu chuẩn, ta phải
nghiên cứu căn cơ của ta, của xã hội ta, lịch sử ta, tâm lý, sinh
lý ta. Điều này cũng thật quan trọng. Vì trị bệnh phải biết bệnh
chứ không thể ỷ có thuốc hay mà cho bệnh nhân uống một cách mù
quáng. Ta trở lại thí dụ cho bệnh nhân uống sâm Cao ly : có khi ta
làm cho bệnh nhân thêm nặng.
Trong Phật giáo nghe nói đến tám
vạn bốn ngàn Pháp môn tức là có rất nhiều cửa pháp để đi
vào Phật địa. Tiền nhân đã ghi lại kinh nghiệm và phương pháp trong
sách vở, đã truyền lại kinh nghiệm và phương pháp cho hậu thế.
Nhưng dòng kinh nghiệm biến chuyển hoài hoài, vì bản chất của dòng
kinh nghiệm là cơ cấu xã hội, lịch sử, tâm lý, sinh lý luôn luôn
biến chuyển. Có những Pháp môn ta còn dùng được, có những
Pháp môn phải sửa đổi lại cho hợp với những điều mới, có
những Pháp môn không dùng được nữa. Ta phải tìm hiểu, thí
nghiệm, áp dụng và tìm lấy những phương pháp của chính ta, phù
hợp cho chính ta. Ví dụ khi tôi nói đến phương pháp điều tức
(điều hòa và chế ngự hơi thở) để giúp người tu nhập chỉ
quán, tôi không nói đến một phương pháp có thể áp dụng cho tất
cả mọi người. Vì cơ thể sinh lý, tâm lý mỗi người mỗi khác,
tôi không thể bắt chước làm giống hệt người kia. Phải tự hiểu
tình trạng vốn liếng của chính mình trước. Và vì vậy, bước đầu
của người Phật tử và kiểm điểm vốn liếng tâm lý, sinh lý là
hoàn cảnh của mình để định cho mình những phương pháp khế hợp.
Giáo pháp quan trọng nhất là Bát chánh đạo. Nhưng ở đây, ta chỉ
được nghe chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ,
v.v
mà không thấy thống kê những gì là chánh kiến, chánh tư
duy, chánh nghiệp, chánh ngữ. Bởi vì Bát chánh đạo là tiêu chuẩn
hành động mà không phải là giáo điều cố định. Đạo Phật cao
siêu và bất diệt một phần là nhờ ở đấy.
HIỆN ĐẠI HÓA [^]
Trong những chương trên, chúng tôi
đã cố trình bày một cách giản lược những nét chính về bản
chất và phương pháp của đạo Phật - như những khám phá cần thiết
tối thiểu của một cá nhân về nền đạo lý ấy cho chính bản thân
mình. Trong chương cuối này chúng tôi muốn nói về sự cần thiết
của công việc hiện đại hóa đạo Phật đứng trên lập trường
văn hóa và xã hội.
Thế kỷ của chúng ta là thế kỷ mà
trong đó mọi giá trị tinh thần cổ điển đều bị ngờ vực, đều bị
đem ra khảo sát lại. Tâm trạng của người trí thức thời đại là
một tâm trạng nghi nan, nghi nan tất cả những gì được phơi bày
dưới những hình thái tuyên truyền tân tiến nhất, tài tình nhất,
và có vẻ như là hay ho và hợp thời nhất. Sự nghi nan ấy bao trùm
tất cả những giá trị tinh thần cổ điển tự ngàn xưa được coi
là nề nếp bất di bất dịch của đạo làm người. Nhân loại hôm nay
đòi làm một cuộc "phán xét cuối cùng" để củ soát
và định đoạt lại mọi giá trị tinh thần và văn hóa, cận kim cũng
như cổ điển.
Bởi vì những hình thái sinh hoạt
của các tinh thần cũ đã bị nứt rạn. Nứt rạn vì không nắm
được bản chất thiết yếu của văn hóa mà chỉ khăng khăng nắm
giữ những hình thái khô cứng của xã hội cũ, trong khi đó những
cơ cấu sinh hoạt của xã hội ngày nay đã theo luật vô thường mà
biến thiên đến tận gốc. Kẹt trong khuôn khổ hình thức, bản chất
văn hóa không được thể hiện và do đó hình thức phải đi đến
khô cứng và nứt rạn. Phật giáo ở các nước Á châu cũng đang
lâm vào tình trạng đó.
Trong khúc quanh quan trọng này của
lịch sử, những dòng sinh hoạt văn hóa nào muốn sống còn sau cơn
bão tố nhân loại cần phải thực hiện một sự thoát xác, để
trút bỏ gông cùm hình thức để tự biến thành trẻ trung hùng
mạnh, tạo dựng được một sức sống mới mà gốc rễ bắt bén
được vào tâm hồn và hoài vọng của những con người đại diện
cho xã hội mới. Văn hóa Khổng Mạnh chẳng hạn, với giáo lý trung
quân ái quốc xưa cũ, với những quan niệm luân lý quá thời, đã
thiếu điều kiện để tự thực hiện một cuộc thoát xác vì bản
chất văn hóa đã khô cứng theo với hình thái sinh hoạt. Những
dòng văn hóa nào bắt nguồn từ những khởi điểm nhận thức mê
tín, phản khoa học, ngày nay cũng không còn điều kiện để thực
hiện sự thoát xác nữa. Chỉ có những dòng sinh hoạt văn hóa nào
bắt nguồn từ những nhận thức chân xác về thực tại và còn
hàm chứa một nội dung để có thể tiếp tục phụng sự con người
thì mới có những triển vọng thoát xác mà thôi. Nhưng nếu những
dòng sinh hoạt ấy cứ tiếp tục khô héo và nghèo nàn dần đi trong
những chiếc vỏ cứng thiếu sinh khí thì chúng cũng phải chịu chung
số phận biến diệt và sẽ không còn có mặt trong sinh hoạt xã hội
ngày mai nữa. Đạo Phật, như chúng ta đã biết, bắt nguồn từ
những nhận thức chân xác và tiến bộ nhất của nhân loại và bao
hàm một nội dung văn hóa vô cùng phong phú và hàm xúc. Đạo Phật
có rất nhiều điều kiện để thực hiện một cuộc thoát xác trong
ngày hôm nay cũng như đã thực hiện được một cách viên mãn
những cuộc thoát xác trong 2500 năm lịch sử đã qua. Nếu không có
những cuộc thoát xác của Đại chúng Bộ, của Long Thọ và của Vô
Trước chẳng hạn, Phật giáo đã không biến thành một sức mạnh
tràn lan khắp lục địa Á châu như ta đã thấy. Mỗi lần xã hội
biến thiên với những cơ cấu sinh hoạt của nó, là mỗi lần đạo
Phật phải chuyển mình vươn tới những hình thái sinh hoạt mới để
thực hiện những nguyên lý linh động của mình. Sau mỗi lần lột
xác như thế, đạo Phật biến thành trẻ trung và lấy ngay lại được
phong độ và khí lực của thời nguyên thỉ.
Cho nên những con người tự nhận
có trách nhiệm về sự sinh tồn của đạo Phật, phải ý thức
được vấn đề một cách nghiêm trọng. Đừng vô tình hay hữu ý vu
cáo cho đạo Phật, biến đạo Phật thành một phương tiện. Đừng
dán sau lưng đức Phật những nhãn hiệu để thỏa mãn nhu cầu, thị
hiếu và thị dục của mình. Đừng đóng khung lại ngàn đời những
nguyên lý linh động không bao giờ chịu đựng được khuôn khoå.
Phải hiểu thế nào là bất biến và tùy duyên. Đừng tự giam mình
trong thế giới chủ quan, đừng bưng bít nhận thức. Phải hiểu thế
nào là cuộc đời hôm nay, con người hôm nay, với những nhu cầu
trí tuệ, tình cảm, xã hội của nó. Phải cảm thông những nỗi niềm
đau khổ thắc mắc của nó, phải hiểu thấu hoàn cảnh và điều kiện
sinh hoạt của nó để mà phụng sự nó. Vì đạo Phật ra đời là
để phụng sự con người. Rời con người, đạo Phật mất sứ mạng.
Sống trong xã hội, cảm thông những
khổ đau của xã hội, ta mới thấy sáng tỏ nơi trí tuệ ta những
nguyên lý và phương pháp mà đức Phật dạy. Phải sống ta
mới hiểu. Giáo lý và cuộc đời cũng ví như hai tảng đá,
chạm nhau thì phát sinh ra lửa : ngọn lửa thiêng đó chính là con
đường, là nguyên lý linh động. Đem giáo lý sống trong cuộc đời
ta mới trực nhận được những nguyên lý linh động ấy. Giáo lý
đặt xa cuộc đời thì chỉ là giáo lý mà không phải là sự thực
hiện đạo Phật. Mà đạo Phật không phải chỉ là giáo lý : đạo
Phật là sự thực hiện giáo lý, là kết quả của sự thực hiện
giáo lý trong bản thân cuộc đời.
Có những giai đoạn mà trong đó
đạo Phật gần như vắng mặt trong cuộc đời. Ở mọi cơ cấu
sinh hoạt của xã hội như giáo dục, kinh tế, văn học, nghệ
thuật
đạo Phật đã vắng mặt. Đạo Phật đã lùi về một góc
riêng biệt của xã hội, một cái góc khác ấm cúng và riêng tư cho
một số các vị tăng sĩ và một số quần chúng đệ tử chỉ chuyên
lo cầu nguyện cúng tế. Phận sự gần nhất là giáo dục và vun bón
niềm tin cho một xã hội thác loạn, đạo Phật (của hầu hết các
nước Đông Nam Á) cũng đã hầu như buông thả, bất lực. Bởi vì
đạo Phật đã tự làm nghèo mình về nội dung Phật chất. Đạo
Phật hầu như không còn muốn hiện diện trong lòng cuộc đời nữa
mà chỉ muốn đứng bên cạnh cuộc đời. Trong những giai đoạn
như thế, người Phật tử có nhiệt tâm thường có mặc cảm rằng
đạo Phật bị xã hội bỏ quên : mặc cảm đó thôi thúc họ làm
một cái gì để chứng minh sự có mặt của đạo Phật trong xã hội.
Họ lo tổ chức những cuộc lễ thật lớn và huy động quần chúng
tham dự đông đảo. Nhưng những tổ chức rầm rộ ấy chỉ có tác
dụng nhất thời và giây phút ấy càng rầm rộ bao nhiêu thì những
giây phút kế tiếp lại càng ảm đạm bấy nhiêu. Thật giống như
người đi gom hết giấy vụn thành một đống to để đốt lên cho
sáng, đống giấy chỉ cháy bùng lên một lát rồi lưu lại tro tàn
nguội lạnh. Đạo Phật không nhờ thế mà lấy lại sinh khí.
Bằng những cố gắng khác, người
Phật tử đã muốn tô điểm cho tổ chức Phật giáo một ít hình
thái tân thời như ký nhi viện, bệnh viện, trường học, - mô phỏng
hình thức tổ chức của một vài tông giáo Tây phương. Những cố
gắng ấy được thúc đẩy do mặc cảm nói trên thì nhiều, do ý
thức chuyển hiện đạo Phật vào thời đại thì ít. Đạo Phật không
thể biểu lộ được sinh khí mình bằng những hoạt động xã hội
căn cứ trên ý niệm tự ái tôn giáo. Không thoát xác được,
đạo Phật mang những thứ trang sức ấy vào như mang những thứ trang
sức không phù hợp với chính mình, và do đó lúng túng - cái
lúng túng của một bà cụ già mặc áo tân thời.
Kỳ thực, vấn đề đặt ra cho đạo
Phật là vấn đề hiện đại hóa (actualisation) mà không phải là vấn
đề tân thời hóa (modernisation). Hiện đại hóa có nghĩa là một
sự thoát xác, một sự cởi bỏ xiềng xích hình thức để giải
phóng cho nội dung Phật chất (nội dung bản chất Phật giáo). Phải
sống trong cuộc đời với một ý thức hệ sáng tỏ, đáp ứng
được với xã hội, đưa đạo Phật vào ngự trong lòng người,
đánh tan mọi nghi nan, thắc mắc, khổ đau, vượt được những tà
thuyết và thái độ hiện đang dày xéo và hăm dọa tự do an lạc
của con người. Phải dựng nên cho đạo Phật một hình thái sinh hoạt
mới, hợp lý, làm hiển lộ được Phật chất và nắm giữ được
những truyền thống tốt đẹp của đạo Phật trong lịch sử.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/134-dpnn.htm