- Hạnh Phúc, Khổ Đau và
Niết-bàn
- Venerable Ajahn Sumedho
- Mỹ Thanh dịch
Mục đích của Thiền Phật Giáo
là Niết Bàn. Chúng ta hướng đến Niết Bàn và tránh xa những rắc rối của
thế giới dục lạc - vòng tròn không dứt của những thói quen. Niết Bàn
là mục đích mà ta có thể đạt được ngay hiện đời. Chúng ta không cần
đợi lúc lià đời mới biết Niết Bàn hiện hữu.
Các giác quan & thế giới dục lạc
là cõi của Sanh, Già, Bệnh, Chết. Cái thấy là một thí dụ, nó dựa vào
rất nhiều nguyên nhân : cho dù là ngày hay đêm, cho dù mắt tốt hay không
tốt. Chúng ta hay bám víu vào màu sắc, hình dáng mà ta cảm nhận được bằng
mắt và bắt đầu đồng hóa với chúng.
Kế đến là lỗ tai và cái nghe.
Khi chúng ta nghe những âm thanh chói tai thì chúng ta chán ghét. Cái ngửi
thì cũng vậy. Chúng ta tìm kiếm những mùi thơm tho, và không ưa những mùi
hôi thối.
Với cái nếm cũng thế, chúng ta kiếm
những vị thơm ngon và tránh những vị dở. Kế nữa là sự xúc chạm --
có bao lần trong đời, chúng ta trốn chạy những xúc chạm khó chịu, đau
đớn và tìm kiếm những xúc chạm dễ chịu. Cuối cùng là sự suy nghĩ, sự
phân biệt . Cái suy nghĩ và phân biệt nầy đem lại cho chúng ta bao niềm
vui cũng như nỗi khổ. Bời vì đây là những cảm giác, cảm xúc.
Chúng ta đang ở trong thế giới dục
lạc - Thế giới của Sanh Tử. Do đó đau khổ, bất toàn, và bất như ý
là những điều hiển nhiên. Bạn không bao giờ tìm được hạnh phúc hoàn
toàn, không bao giờ hài lòng và an bình trong thế giới dục lạc. Nơi đây
chỉ có thất vọng và sự chết. Thế giới dục lạc là bất như ý, do đó
khi chúng ta tìm 'sung sướng' nơi đây - chúng ta chỉ được kết quả đau
khổ mà thôi. Chúng ta sẽ đau khổ nơi thế giới nầy khi mà chúng ta đòi
hỏi nơi đây nhiều hơn là nó có thể mang lại cho chúng ta. Chẳng hạn như
đòi sự an toàn tuyệt đối, tình yêu vĩnh viễn, và mong đời sống của
chúng ta chỉ toàn niềm vui và không có đau buồn.
" Nếu chúng ta có thể đoạn
diệt được bệnh hoạn và tuổi gìa." Tôi còn nhớ hai mươi năm trước
ở Mỹ Quốc, người ta hy vọng vào khoa học tiên tiến để loại trừ hết
bệnh tật. Họ nói : ' Tất cả bệnh về tâm thần là do hóa chất trong cơ
thể không được cân bằng. Nếu chúng ta có thể tìm ra công thức của những
hợp chất và chích những hóa chất mà ta thiếu vào trong cơ thể thì bệnh
tâm thần như 'phân tán tâm thần ' (schizophrenia) sẽ được chữa lành.' Sẽ
không còn bệnh đau lưng hay đau đầu nữa. Chúng ta có thể thay thế tất
cả bộ phận bên trong bằng những bộ phận tốt hơn làm bằng 'plastic'.
Tôi còn đọc một bài báo của Úc Châu nói là họ sẽ làm thế nào để
chiến thắng tuổi gìa ! Như hiện giờ dân số của thế giới cứ tiếp tục
gia tăng, chúng ta cứ tiếp tục sanh con và nếu không ai già và không ai chết...
Thử xem thế giới sẽ hỗn loạn đến mức nào. Thế giới sắc dục là bất
như ý và điều nầy là hiển nhiên. Khi mà chúng ta bám víu vào thế giới
nầy, thì chúng ta chỉ có thất vọng - vì bám viú nghĩa là muốn được
như ý-- chúng ta muốn thế giới nầy làm vừa lòng chúng ta, làm cho chúng
ta sung sướng và hạnh phúc, an toàn. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại bản chất
của hạnh phúc -- Chúng ta có thể hạnh phúc trong bao lâu ?
Hạnh phúc là gì ? Bạn có thể nghĩ
là khi mà bạn có được những gì bạn mong muốn, đó là hạnh phúc. Người
nào đó nói điều gì, hay làm điều gì mà bạn hài lòng và bạn cảm thấy
vui, cảm thấy hạnh phúc. Người nào làm đồ ăn ngon đãi bạn- bạn vui.
Bạn vui khi trời đẹp, có nắng ấm. Nhưng bạn có thể vui trong bao lâu ?
Ở Anh Quốc, thời tiết thay đổi liền liền, sự sung sướng, vui thích
lúc nắng ấm bên Anh là một việc không hoàn toàn được như ý vả lại
chúng ta đâu phải lúc nào cũng vui khi được thời tiết đẹp. Tóm lại,
đau khổ là khi không được cái mà ta mong muốn. Muốn trời đẹp, mà trời
mưa. Người ta làm những việc mà mình không vừa ý, đồ ăn không ngon
v...v... Đời sống nhàm chán, độc điệu khi mà ta không vừa ý với đời
sống ta đang có. Do đó hạnh phúc và khổ đau dựa trên những gì ta muốn
và được, hoặc không muốn mà phải chịu 'có ' .
Nhưng hạnh phúc là mục đích của
mọi người trong cuộc sống nầy. Trong luật nhân quyền của Mỹ, có nói
đến ' tự do tìm hạnh phúc ' . Làm cho được những gì mình mong muốn,
và đây là mục đích của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Nhưng hạnh
phúc lúc nào cũng đưa đến đau khổ vì nó là 'Vô Thường'. Bạn có thể
hạnh phúc được trong bao lâu ? Ráng thu xếp, điều khiển, làm mọi cách
để có những gì ta muốn, luôn nghe được những điều ta muốn nghe, thấy
những gì ta muốn thấy, để cho ta không phải nếm đau khổ hay thất vọng
-- Nhưng đây chỉ là một việc làm vô ích. Một điều không thể thực hiện
đưọc, phải không ? Vì thế đây không phải là một điều mà ta có thể
dựa vào hay lấy đó làm mục đích cho đời sống.
Hạnh phúc luôn luôn là thất vọng
vì nó hiện hữu một cách ngắn ngủi và tiếp theo là đau khổ. Hạnh phúc
lúc nào cũng tùy thuộc vào những nguyên nhân khác-- Chúng ta hạnh phúc khi
chúng ta mạnh khỏe, nhưng cơ thể con người luôn bị đổi thay ; chúng ta
có thể mất sức khỏe một cách nhanh chóng. Lúc ấy chúng ta thiệt là khổ
vì bệnh hoạn làm mất đi cảm giác mạnh mẻ, đầy sức sống. Do vậy, mục
đích của người Phật tử không phải là tìm hạnh phúc vì biết nó
không thật.
Mục đích thật , nằm ngoài thế
giới dục lạc. Không có nghĩa là chối bỏ thế giới nầy, nhưng mà là
hiểu được nó một cách cặn kẻ để mà thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn.
Chúng ta không còn chờ đợi 'nó' mang hạnh phúc lại cho chúng ta nữa.
Chúng ta không còn đòi hỏi quá đáng và bắt đầu ý thức về bản chất
thật của thế giới mình đang sống. Chấp nhận bản chất thật của nó
trong mọi trường hợp và hoàn cảnh. Ta không còn bám víu vào những cảm
xúc nhất thời lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ.
Niết Bàn không phải là trạng
thái 'trống vắng' mà là một trạng thái 'tỉnh thức' - khi mà ta không
còn bị lôi cuốn theo những pháp trần. Bạn sẽ không còn đòi hỏi thứ
gì nơi cõi dục lạc nầy. Bạn chỉ nhận biết tất cả là những hiện tượng
của 'có' và 'không.'
Trong hiện tại được thân người,
chúng ta không thể tránh khỏi gìa, bệnh, chết. Một lần, có một người
đàn bà trẻ ẳm con đến Thiền Viện ở Anh Quốc. Đứa bé bệnh đã hơn
một tuần và bị ho rất nhiều. Người mẹ nhìn con với vẻ thất vọng
và khổ sở. Bà ngồi ôm con, đưá bé bắt đầu ho và la khóc đỏ cả mặt
mày. Bà mẹ nói : " Ôi! Thầy Sumedho, tại sao con tôi phải khổ như thế?
Nó chưa từng hại ai, chưa làm gì sai trái. Tại sao ? Chẳng lẻ kiếp trước
nó đã làm gì nên tội, nên bây giờ phải chịu khổ như thế ?" Thật
ra đứa bé khổ vì nó đã ra đời ! Nếu nó không ra đời thì đâu phải
chịu khổ. Khi mà chúng ta được sanh ra tức là chúng ta sẽ phải gánh chịu
bệnh hoạn, đau đớn, già và chết.
Đây là một điều quan trọng cần
suy ngẫm. Chúng ta có thể đoán chừng là kiếp trước, đứa bé nầy có lẻ
đã bóp cổ mèo, chó gì đó, và bây giờ phải chịu trả nghiệp mà nó đã
gieo. Nghĩ và đoán chừng như thế nầy cũng chẳng lợi ích gì. Ta chỉ cần
biết là khi được sanh ra là do Nghiệp.
Mỗi người trong chúng ta đều phải
chịu bệnh, đau, đói, khát, già, và cuối cùng là chết. Đây là định luật
của Nghiệp báo! Cái gì có bắt đầu thì phải có kết thúc, có sanh thì
có tử, có sum hợp thì có chia ly. Chúng ta không phải chán đời vì những
điều nêu trên, nhưng chúng ta nên chiêm nghiệm để mà đừng đòi hỏi
nhiều nơi cuộc sống ở đây. Nhờ vậy ta mới có thể đương đầu với
cuộc sống, chịu đựng khi gặp trở ngại , hài lòng khi mọi việc êm
xuôi. Nếu hiểu được như thế, chúng ta có thể sống vui và không trở
thành 'nạn nhân' của cuộc sống. Bao nhiêu đau khổ xảy ra trong đời sống
con người cũng chỉ vì chúng ta đòi hỏi quá đáng. Chúng ta có những ý tưởng
lãng mạn như là gặp đúng ý trung nhân, thương nhau và sống với nhau hạnh
phúc suốt đời; nghĩa là chúng ta sẽ không cãi nhau, một liên hệ hoàn hảo.
Nhưng còn cái chết thì sao ? Bạn có thể nghĩ, " nếu hai chúng ta có
thể chết cùng lúc." Đây chỉ là hy vọng phải không ? Hy vọng và rồi
thất vọng khi một người thân yêu vĩnh viễn ra đi--trước khi bạn đổi
ý bỏ đi theo một người nào khác.
Bạn có thể học được rất nhiều
từ nơi trẻ em, bởi vì trẻ em không biết che dấu những cảm xúc. Khi
chúng vui thì cười, khi chúng buồn thì khóc. Một lần tôi đến nhà một
cư sĩ - Khi chúng tôi đến , đứa con gái trông thấy cha nó thì rất là
vui mừng. Người cư sĩ nói với con :" Cha phải đi với Thầy Sumedho,
chỉ một chút thôi - sẽ trở lại trong vòng một tiếng." Đứa bé chưa
đủ trí khôn để hiểu câu ' trở lại trong vòng một tiếng ', và nó bắt
đầu la khóc. Bởi vì sự chia ly đột ngột của người thân yêu là một
nỗi khổ lớn. Hãy để ý xem trong cuộc sống của chúng ta, khi nào có khổ
đau là lúc mà ta phải chia ly với người thân yêu, hay mất đi một vật gì
mà ta yêu thích; hoặc phải rời xa một chỗ mà ta hằng yêu mến. Là người
lớn chúng ta có đủ sáng suốt để hiểu rằng chúng ta đi rồi sẽ trở
lại - nhưng nỗi buồn vẫn man mác đâu đây. Từ tháng ll đến tháng 3,
tôi du lịch khắp nơi... mỗi lần đến phi trường, gặp người đón tôi
' chào anh / chị', và vài ngày sau thì ' chào tạm biệt '-- Lúc nào cũng có
ý 'sẽ trở lại' và tôi nói ' vâng, tôi sẽ trở lại'... và như vậy tôi
hứa với tôi sẽ trở lại năm sau. Ta không thể nói
' chào vĩnh biệt ' với người mà
chúng ta mến thương, phải không nào?
Vì vậy, chúng ta nói ' tôi sẽ gặp
lại anh / chị ; tôi sẽ điện thoại, tôi sẽ viết thư, và hẹn gặp lại...'
Chúng ta nói lên những câu nầy để che đậy phần nào cảm giác buồn xa
cách. Đây là cảm giác tự nhiên.
Trong Thiền định chúng ta bắt đầu
chứng nhận đau khổ, để hiểu rõ nó hơn, và không đè nén, hoặc bỏ
nó qua một bên. Bên Anh, người ta có khuynh hướng đè nén đau khổ khi
người thân qua đời.
Họ tránh không khóc, và ráng giữ
bình tỉnh. Và khi họ bắt đầu thực tập Thiền thì họ thấy, họ tự
nhiên khóc cho một người đã chết cách đây 15 năm. Họ đã không khóc
và chờ 15 năm sau mới giải tỏa nỗi lòng. Khi mà người thân qua đời,
chúng ta không muốn chấp nhận nỗi khổ, và không khóc vì khóc là yếu
đuối, và mắc cỡ với mọi người chung quanh. Do đó, chúng ta đã đè
nén và giữ lại những cảm xúc, không nhận thức được đây là một hiện
tượng tự nhiên. Trong Thiền định, chúng ta để cho tâm trí rộng mở và
để cho những gì bị đè nén, chèn ép, được nhận diện, và khi mà những
vấn đề được nhận diện thì chúng sẽ tự dưng chấm dứt. Chúng ta để
cho mọi việc trôi theo tiến trình của nó--Sanh và Diệt. Chúng ta để nó
tự nhiên mất đi hơn là chúng ta xua đuổi nó đi. Thông thường thì chúng
ta hay đẩy những vấn đề qua một bên, từ chối không chấp nhận hoặc
không chịu ý thức sự hiện diện của chúng. Khi chúng ta ngắm nhìn hoa đẹp,
trời xanh, đọc sách, xem TV, tức giận, chán chường, hoặc làm việc gì
đó. Chúng ta không khi nào nhận thức được một cách hoàn toàn những việc
nầy. Chúng ta không nhận thức được nỗi buồn, nỗi thất vọng của chính
mình vì chúng ta thường tìm cách khỏa lấp chúng bằng cách :
ta có thể ăn bánh, kẹo, và nghe nhạc.
Rất dễ dàng để thấm hồn vào âm nhạc, tránh được sự nhàm chán, thất
vọng. Chúng ta lệ thuộc vào việc xem TV, và đọc sách. Có rất nhiều
sách đến nỗi ta cần phải đốt bớt, vì có bao sách vô bổ. Mọi người
thi nhau viết về mọi thứ mà không có thứ nào đáng để nói cả. Ngày
nay có bao tài tử viết và làm phim về cuộc đời của họ. Rồi có những
đề mục về tán gẫu. Con người muốn tránh sự nhàm chán của đời sống
riêng mình, cho nên đọc những chuyện về thiên hạ, chuyện liên quan đến
tài tử nổi tiếng và những nhân vật quan trọng. Chúng ta không bao giờ
nhận thức được bản chất thật của sự nhàm chán. Khi mà sự nhàm
chán xuất hiện thì tức thời chúng ta chạy tìm những cái hấp dẫn, những
thú vui khác để khoả lấp nó. Nhưng trong lúc Thiền định, chúng ta để
cho sự nhàm chán bộc lộ. Chúng ta để cho thất vọng, chán chường, ganh
tyﬠgiận dữ, oán ghét... xuất hiện và ý thức nhận diện 'chúng' với bản
chất thật của chúng không thêm không bớt.
Bằng vào ' từ tâm ' và trí tuệ,
chúng ta để cho những điều nầy tự ' Sanh và Diệt'-- tốt hơn là đè
nén chúng theo thói quen. Nếu chúng ta cứ muốn đè nén những cảm xúc thì
đây là một thói quen không tốt. Khi chúng ta thất vọng và chán chường,
chúng ta không thể nào thưởng thức được những vẻ đẹp; vì bình thường
chúng ta chưa bao giờ nhận thức được bản chất thật của cái đẹp.
Tôi còn nhớ một kinh nghiệm trong
năm đầu thực tập Thiền ở Thái Lan. Trong năm đó, tôi sống một mình
trong chòi lá và những tháng đầu thật là khủng khiếp... Bao nhiêu là thứ
nổi lên trong tâm thức--ham muốn, sợ hãi, khủng hoảng và ganh ghét. Chưa
bao giờ tôi cảm thấy mình có nhiều ganh ghét đến thế. Tôi chưa bao giờ
nghĩ rằng mình ghét ai, nhưng trong những tháng đầu Thiền định, tôi
hình như ghét tất cả mọi người. Tôi không thể nghĩ tốt về ai hết, có
rất nhiều phản kháng hiện ra trong tâm thức. Cho đến một buổi trưa, tôi
bắt đầu thấy một điều lạ... Lúc đó, tôi nghĩ là tôi điên--Tôi thấy
người ta đi ra khỏi óc của tôi---Tôi thấy mẹ tôi bước đi khỏi óc
tôi và tan vào trong hư không. Rồi cha và chị tôi bước đi kế tiếp. Đây
là một kinh nghiệm rất là khó chịu. Sáng hôm sau thức dậy nhìn quanh,
tôi cảm nhận và thấy rằng tất cả mọi vật đều tuyệt đẹp. Tất cả,
kể cả những cái bất toàn cũng đẹp. Tôi trong tình trạng ngạc nhiên cực
điểm. Cái chòi được dựng nên rất thô sơ, nhưng lúc ấy tôi như sống
trong cung điện. Những cây cằn cỗi trông như khu rừng xanh tươi, đẹp đẽ.
Ánh nắng tràn ngập qua cửa sổ chiếu lên một cái dĩa plastic--trông thật
là đẹp vô cùng. Tôi sống trong cảm giác tươi đẹp ấy trong vòng một
tuần lễ và chiêm nghiệm nó; và tôi đột nhiên hiểu rằng mọi vật có
chu trình của nó và chỉ khi nào tâm thức thật sáng suốt thì ta mới cảm
nhận được một cách đầy đủ.
Trong bao tháng, cửa sổ có rất nhiều
bụi bám, nhưng tôi không hề hay là cửa sổ dơ. Mãi cho đến lúc đó,
tôi mới nhận ra rằng mình đã nhìn thấy mọi việc qua khung cửa sổ dơ
bẩn. Và vì thế, cho nên tất cả những gì tôi thấy đều mang màu sắc
xám, xấu xí. Thực hành Thiền là 'lau chùi cửa sổ', là thanh lọc tinh thần,
để cho mọi việc đến và đi không chút vướng bận.
Một khi đạt 'Giác ngộ', kiến
tánh, chúng ta sẽ nhận xét một cách rốt ráo bản chất thật của sự vật.
Không còn bám víu vào cái sắc tướng
nữa. Nhờ vậy chúng ta không còn bị cuốn theo thói quen qua cái nhìn của
Vô minh mà thật sự thấy rõ lẻ 'tự nhiên' của tạo hóa.
Có sanh là có già, có bệnh và có
chết. Nhưng đây là nói về thân thể của bạn, không phải bạn. Thân thể
của bạn không thật là của bạn. Không cần biết bạn có những đặc
điểm gì, cho dù bạn có khoẻ mạnh hay đau yếu, đẹp hay không đẹp, trắng
hay đen--tất cả đều là Vô Ngã. Đó là ý nghĩa của Anatta. Thân thể con
người thuộc về thiên nhiên, nó bị chi phối bởi thiên nhiên, sanh ra, lớn
lên rồi già, rồi chết. Biết là biết như thế, nhưng chúng ta vẫn bám
víu vào thân thể nầy rất nhiều. Ta có thể nói : " Tôi là người sáng
suốt, tôi sẽ không khi nào bám víu vào thân nầy." Như vậy thì là ta
đã quá lý tưởng rồi. Tựa như chúng ta muốn leo lên ngọn cây, ta nói :
" Tôi đáng lý phải ở ngọn cây, không phải ở dưới đất."
Nhưng thật ra ta phải khiêm mình chấp nhận là ta hiện ở gốc cây, phải
nhìn lại những việc xem như tầm thường, trước khi ta biết nhận diện
được cái gì là ngọn cây. Đây là chiêm nghiệm một cách sáng suốt. Khi
mà tâm thần được chút gì trong sáng, ta cũng không nên bám vào cái mà gọi
là thanh tịnh, sáng suốt. Bởi vì cả đến những cảm giác, ý tưởng cao
tột, trong sáng nhất cũng là Vô thường, vì chúng đều dựa vào những yếu
tố khác để mà hiện hữu.
Niết Bàn thì khác. Những nguyên
nhân xấu hay đẹp, hay hoặc dở, thanh cao hay gì gì đi nữa--chúng xuất hiện
và rồi biến mất, không dính dáng gì đến bản thẻ của Niết Bàn.
Chúng ta không nên chán bỏ thế giới nầy, vì khi chúng ta cố gắng loại
bỏ những cảm xúc thì chúng ta có thể sẽ trở nên thờ ơ, lãnh đạm .
Chúng ta cần phải kiên nhẫn. Cuộc sống của con người là một cuộc sống
trong Thiền định. Hãy xem phần cuối cuộc đời ta như là một buổi thực
tập Thiền dài hơn là 10 ngày. Khi mà bạn Thiền và 'đạt' đến trình độ
cao hơn, thì những việc tầm thường hằng ngày dường như là trở nên
nhàm chán. Bạn đang ' lên cao' và khi trở về với cuộc sống thực tại,
với những công việc độc điệu, thì còn tệ hơn là lúc bạn chưa Thiền,
phải không nào ? Khi đến mức độ cao thì tự nhiên sinh hoạt hằng ngày
trở nên quá tầm thường, thô kệch, và khó chịu.
Sự sáng suốt ( Giác ngộ ) không
phải là thích thanh cao và chán ghét những cái thô kệch, nhưng nhận chân
ra là dù thanh cao hay thô kệch thì cũng chỉ là những giai đoạn của Vô
thường. Vô thường thì là bất như ý. Vì vậy, chúng sẽ không bao giờ
làm ta hài lòng vì chúng là Vô ngã --- Chúng không phải là ta và ta không
phải là chúng.Vì vậy giáo lý của Bụt dạy thật là đơn giản -- có gì
đơn giản hơn là ' cái gì có sanh thì có diệt ' . Đây đâu phải là một
triết lý cao siêu gì, kể cả dân bộ lạc thiếu học cũng biết điều nầy.
Bạn không cần phải vào đại học mới biết được điều nầy.
Khi ta còn trẻ, ta nghĩ " Tôi
còn những bao năm của tuổi trẻ và hạnh phúc ". Nếu ta nghĩ ta đẹp
thì " Tôi sẽ trẻ , sẽ đẹp hoài hoài ". Nếu ta 20 tuổi, đang
vui chơi, thì cuộc sống thật là tuyệt vời và nếu có ai đó nói : "
Anh ngày nào đó sẽ chết ". Ngay khi ấy, ta nghĩ đây là một kẻ đang
chán đời, không nên mời anh ta đến nhà mình nữa. Chúng ta không muốn
nghĩ đến cái chết, chỉ lo nghĩ đến cuộc sống là đẹp, là vui. Chúng
ta có thể có được bao nhiêu niềm vui trong
đời ? Khi là Thiền sinh, chúng ta
suy ngẫm về già và chết. Đây không phải là ý nghĩ chán đời, bệnh hoạn
hay u ám, nhưng mà là bắt đầu hiểu được chu kỳ của cuộc sống, để
sống một cách thận trọng hơn. Bao người làm những việc rất dã man,
vì họ không chịu suy nghiệm về cái chết của chính họ. Họ chỉ chạy
theo những dục vọng và cảm thọ nhất thời, chỉ muốn được phần mình
và rồi thì tức giận, chán chường khi mà cuộc sống không đem lại cho họ
những gì họ mong muốn. Hãy suy ngẫm lại cuộc đời của bạn, suy ngẫm
về cái chết, cũng như những tiến trình tự nhiên của tạo hóa . Ta nên
chiêm nghiệm lại niềm vui cũng như niềm thất vọng. Hãy nhận xét xem
chúng ta cảm giác như thế nào lúc được cũng như lúc mất, lúc ưa cũng
như lúc ghét. Khi mà chúng ta đang buồn, chúng ta đọc một quyển sách và
chợt có niềm hứng thú cao độ. Nhưng nên nhớ là cho dù cảm giác cao đến
đâu đi nữa, tất cả cũng chỉ là vô thường. Chẳng hạn như muốn được
cảm giác vui vẻ, bạn phải tập như thế nào để có được niềm vui ấy
hoài hoài. Nhưng một khi công việc ấy trở nên máy móc, độc điệu thì
bạn không còn cảm thấy vui thú nưã. Do đó, dựa vào hứng thú tôn giáo
thì chắc chắn là thiếu xót. Bởi vì khi bạn quá bám vào sự hứng thú
tìm hiểu về Phật Giáo chẳng hạn; khi bạn nhàm chán thì sao ? Bạn sẽ tức
khắc chạy đi tìm một tôn giáo mới để gây cảm hứng cho mình . Chẳng
hạn như là bám víu vào tình yêu, một khi một mối liên hệ vừa chấm dứt
thì bạn bắt đầu đi tìm một tình yêu mới . Vài năm trước ở Mỹ, tôi
có gặp một cô đã lập gia đình những đến sáu lần, cô ấy chỉ mới
33 tuổi. Tôi nói : " Cô đáng lý đã phải học hỏi được nhiều nơi
lần đỗ vở thứ 3, thứ 4. Tại sao cứ tiếp tục cưới rồi ly dị
?" Cô trả lời :
" Vì Tình Yêu, tôi không thích
mặt trái của tình yêu. Nhưng tôi yêu 'tình yêu' ."
Ít ra cô ta cũng thành thật, nhưng
không sáng suốt mấy. Tình yêu, sự hứng thú, sự náo nhiệt, phiêu lưu ,
luôn hiện hữu, khi đạt đến tột đỉnh của nó, rồi thì mặt trái của
những thứ nầy xuất hiện, giống như khi chúng ta hít vào thật sâu rồi
thì phải thở ra. Thử tưởng tượng sự hít vào. Y như là có nhiều tình
yêu, cái nầy nối tiếp cái kia . Bạn có thể hít vào trong bao lâu ? Hít
vào thì phải có thở ra, cả hai đều cần thiết. Sanh thì Tử, hy vọng
thì rồi thất vọng... Vì thế khi chúng ta bám vào niềm hy vọng thì tất
nhiên là chúng ta sẽ thất vọng. Khi ta bám vào sự náo nhiệt thì nó sẽ
đưa ta đến sự chán chường. Khi ta bám vào tình yêu thì sẽ vỡ mộng
và ly dị là điều không tránh khỏi. Khi ta bám vào sự sống thì nó đưa
ta đến cõi chết. Vì vậy, nên nhận thức rằng sự bám víu vào bất cứ
cái gì đều là đau khổ, vì chúng là vô thường, là vô ngã. Đừng đòi
hỏi nơi chúng những gì mà chúng không thể cho ta được. Có bao người lúc
nào cũng dường như chờ đợi, hy vọng vào một sự thành công, hay niềm
hoan lạc nào đó; hoặc giả lo lắng, sợ hãi về một điều bất tường
sẽ xảy ra trong tương lai.
Nhưng hy vọng nhiều thì cũng sẽ
thất vọng nhiều. Do đó, khi ta suy ngẫm và bắt đầu hiểu rằng cái gì
làm cho ta đau khổ . Ta thấy rằng chính mình là người làm cho mình đau khổ.
Vì Vô minh, vì không hiểu rõ lý vô thường của sự vật, chúng ta đã đồng
hóa mình với sự vật và do đó đã đau khổ, thất vọng. Khi mà ta có thể
buông bỏ, không một chút vướng bận thì đây là Giác ngộ. Khi chúng ta
hiểu rõ được thế giới dục lạc, ta có thể sống chung với nó mà
không bị lệ thuộc. Ta không còn đòi hỏi thế giới nầy phải làm hài
lòng chúng ta, hay cho chúng ta sự an toàn tuyệt đối vì biết rằng, càng
đòi hỏi thì chúng ta sẽ càng thất vọng, khổ đau. Ta biết dùng thế giới
nầy để thực tập bố thí, để thực tập từ tâm.
Khi chúng ta không còn đồng hóa với
sự vật, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả là Vô ngã. Khi sự vật đổi
thay, ta có thể an tâm chịu đựng cái bất toàn của nó. Ta có thể âm thầm
chịu đựng bệnh hoạn, đau đớn, đói lạnh, thất bại hay chê bai. Khi ta
không còn bám víu vào thế giới nầy thì dù cho nó có thay đổi đến đâu
đi nữa,dù tốt dù xấu, ta cũng có thể thích ứng. Khi ta còn bám víu thì
ta khó có thể thích ứng được như ý, chúng ta luôn luôn phản kháng, chống
đối, muốn điều khiển mọi thứ theo ý mình, nhưng hoài công, chỉ còn cảm
giác bất mãn, sợ hãi và thất vọng vì cuộc đời sao mà hão huyền đáng
sợ.
Khi ta không có thời gian tìm hiểu,
chiêm nghiệm về cuộc đời thì cuộc đời là một nơi đáng sợ. Cuộc
đời giống như là một khu rừng vậy : bạn không biết sau cái cây kia,
sau cái bụi kia, một con dã thú, một con cọp, rắn độc hay rồng dữ
đang chờ bạn. Niết Bàn là rời khỏi khu rừng đó. Khi chúng ta hướng về
Niết Bàn tức là chúng ta đang trên đường tìm an lạc cho bản tâm .
Trạng thái của tinh thần có thể
là vui, buồn, khổ, phấn chấn, hoặc thất vọng, thương hay ghét, lo lắng
hoặc sợ hãi. Hãy tưởng tượng một căn phòng, ví dụ cho tinh thần,
chúng ta bỏ thời gian để soi mói những người trong căn phòng, để xem là
ta ưa hay không ưa, họ như thế nầy, như thế kia, nhớ lại họ đã làm
gì trong quá khứ, và sẽ làm gì trong tương lai... Nếu ta chịu khó đừng
để ý mọi người trong căn phòng; nhưng hãy để ý khoảng không trong
phòng. Khoảng không gian nầy có thể chứa đựng tất cả người, vật, và
những trạng thái khác nhau . Hãy xem tinh thần ta là khoảng không đó, cho
dù là trống không hay chứa đầy sự vật, chúng ta chỉ để ý đến hư
không. Khi ta sống với khoảng không nầy thì những gì đến cũng như đi
không còn lôi kéo ta được nữa. Chúng ta tập buông bỏ. Chúng ta từ bỏ
không đồng hóa mình với sự vật, vì biết là chúng vô thường, vô ngã.
Đây là môn Thiền Vipassana. Chỉ cần nhìn lại, nhận thức, lắng nghe, soi
xét những gì đến cũng như đi. Mọi vật dù thô thiển hay thanh cao, tốt
hay xấu, chúng đến rồi đi. Chúng ta không phải nam cũng không phải nữ,
nói chi đến xấu hay đẹp -- những trạng thái đổi thay nầy là vô ngã.
Hiểu được như vậy thì đây là con đường giác ngộ của người Phật
tử, tiến dần đến Niết Bàn. Bây giờ bạn có thể hỏi, " Nếu tôi
không phải là những trạng thái của tinh thần, không nam cũng không nữ, vậy
thì tôi là cái gì ?" Câu hỏi nầy ví như con mắt muốn nhìn thấy con
mắt. Bạn chỉ cần biết cái gì không phải là mình thì đã giải quyết
được phần nào vấn đề rồi, phải không nào ? Chẳng hạn tôi nói '
Tôi là ai? Tôi phải đi tìm tôi', thế rồi tôi kiếm dưới bàn thờ, dưới
thảm, sau màn cửa... bạn sẽ nghĩ, ' Thầy Sumedho chắc điên rồi. Ông
đang tự kiếm mình.' Khi ta đồng hóa với sự vật thì ta sẽ đau khổ và
thất vọng. Vấn đề nằm ở chỗ biết buông bỏ hay là bám víu. Bạn
không cần loại bỏ những cảm giác, chỉ cần theo dõi và học hỏi, đừng
để cho mình bị lôi cuốn theo chúng. Tiếp tục theo dõi, lắng nghe, tỉnh
thức, có chánh niệm, thì trí tuệ sẽ dần sáng suốt. Hãy dùng trí tuệ
nầy để nhận thức sự vật đến và đi, bạn không cần làm gì hết, chỉ
cần tỉnh thức trong từng giây phút hiện tại và những giây phút kế tiếp.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/136-nietban.htm