- Ý NGHĨA VỀ TRỰC QUÁN, KIẾN
THỨC VÀ
- TRÍ TUỆ TRONG ĐẠO PHẬT
- Tác giả: Lama Anagarika Govinda
Bài này là chương
II "The Meaning of Insight, Khowledge, and Wisdom in Buddhism" trích từ quyển
Living Buddhism for the West do Maurice Walshe dịch từ tiếng Đức
(Buddhismus fur das Abendland), NXB Shambala, Mỹ, 1991, trang 30-53.
***
Lời giới
thiệu: Tác giả Lama Anagarika Govinda
Lama Anagarika Govinda là tu sĩ
Phật giáo, học giả, giáo sư Phật học, và họa sĩ người Đức. Thế
danh của ông là Ernst Hoffmann. Ông sinh năm 1898 ở Waldheim (Đức) và mất
1985 ở California (Mỹ). Ông tu theo đạo Phạⴠlúc 18 tuổi. Năm 30 tuổi
ông sang Tích Lan và Miến Điện học đạo rồi sau đó thực hành Mật
giáo Tây tạng. Ông sống ở Darjeeling, dưới chân dãy núi Hy Mã Lạp Sơn
trong nhiều năm, dạy ở Đại học Patna và Shantiniketan, vùng Tây Bengal, Ấn
Độ (Đại học do văn hào Ấn Độ Rabindranath Tagore thành lập), dạy Phạⴠhọc
tại nhiều đại học ở châu Âu, Á, Phi, và Mỷ, và thành lập đạo tràng
Arya Maitreya Mandala tại Ấn Độ, Đức và Mỹ. Ông sang Mỹ hành đạo từ
năm 1967. Ông được xem như một trong những người có công lớn đưa Phật
giáo vào phương Tây và là nhịp cầu hiện đại nối liền văn hóa Đông
Tây.
Ông để lại nhiều tác phẩm
Phật học có giá trị và đựơc dịch ra nhiều thứ tiếng. Tác phẩm
chính của ông là Nền tảng Mật giáo Tây Tạng (Foundations of
Tibetan Mysticism, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1969), Thái độ tâm lý trong triêt
học Phật giáo nguyên thuỷ (The Psychological Attitude of Early
Buddhist Pholosophy, NXB Rider,頁nh, 1969), Con đường mây trắng (The Way
of the White Clouds, NXB Shambala, Mỹ, 1988, được Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách
dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999), Cấu
trúc nội tại của Kinh Dịch (The Inner Structure of The I Ching,
NXB Weatherhill, Mỹ, 1981), Biểu tượng tâm lý và vũ trụ của các bảo
tháp Phật gí馣225;o (Psycho-cosmic Symbolism of the Buddhist Stupa, NXB
Dharma, Mỹ, 1976), Thiền định sáng tạo và tâm thức đa diện
(Creative Meditation and Multi-Dimensional Consciousness, NXB Quest, Mỹ, 1979), Suy
tưởng Phật giáo (Buddhist Reflections, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1991), Đạo
Phật đi vào cuọ⣍ sống phương Tây (Living Buddhism for the
West, NXB Shambala, Mỹ, 1990).
Khác với những tôn giáo
mà cơ sở niềm tin không thể minh xác được, niềm tin trong đạo Phật dựa
trên sự hiểu biết. Điều này làm một số nhà quan sát phương Tây
hiểu lầm rằng đạo Phật là một giáo thuyêt鍊 thuần túy dựa trên lý trí và người ta có thể
dùng những nguyên lý thuần trí thức để hiểu được hoàn toàn giáo thuyết
nầy. Tuy nhiên, trong đạo Phật, từ hiểu biết khác với nghĩa thông
thường được hiểu. Nó có nghĩa là cái nhìn trực tiếp và xuyên suốt
vào bản chất của thực tại và luôn là kết quả của kinh nghiệm thể
nhập thực tại, tại đây và ngay bây giờ.
Bắt đầu với kinh nghiệm
khổ đau như tiền đề căn bản và phổ biến, Đạo Phật quan niệm là chỉ
có những gì được chứng ngộ bằng kinh nghiệm, chứ không phải những
gì được lý luận bằng tư duy trừu tượng, mới có giá trị thực tế.
Với quan niệm nầy, Phật Pháp tự nó là một tôn giáo thật sự mặc dù
đạo Phật không hề kêu gọi người ta tin vào những điều không có cơ sở
xuất phát từ một cảnh giới siêu nhiên nào đó mà tín đồ của một tôn
giáo dựa chỉ trên niềm tin thường phải chấp nhận.
Vào đầu thế kỷ này, các
nhà Ấn độ học đã cố gắng trình bày đạo Phật như một hệ thống
triết học và đạo đức thuần túy, dựa chủ yếu trên cơ sở tâm lý học.
Nhưng tầm vóc của đạo Phật cao hơn triết học vì Đạo Phật頫hông hề xem thường tư duy
trừu tượng hoặc lô gích. Trái lại, Đạo Phật chủ trương sử dụng
tư duy trừu tượng và lô gích theo đúng chức năng và lãnh vực của nó.
Đạo Phật cũng vượt xa ranh giới của bất cứ khoa tâm lý học nào vì
đạo Phật không tự giới hạn ở việc phân tích và xếp loại những năng
lực và hiện tượng tâm lý mà con người có thể nhận biết được. Đạo
Phật còn dạy con người biết cách sử dụng, chuyển hóa, và vượt lên
trên những năng lực và hiện tượng tâm lý nầy. Chúng ta cũng không thể
xem đạo Phật như một hệ thống giá trị đạo đức mà thời nào cũng có
thể áp dụng được hay như một "loại sách học làm người", vì
đạo Phật vượt qua lãnh vực thiện và ác, đi xa hơn thế giới nhị nguyên
và đặt nền tảng đạo lý trên sự hiểu biết và cái nhìn sâu sắc nhất
từ trong nội tâm của con người.
Như vậy có thể nói rằng,
nếu chúng ta nhìn Phật Pháp như một kinh nghiệm tự chứng và một cách
thức hành trì trong cuộc sống thì đạo Phật là một tôn giáo; nếu
chúng ta nhìn Phật Pháp như một hệ thống tư duy lý luận đúc kết từ
kinh nghiệm tự chứng nầy thì Đạo Phật là một triết học;
và nếu chúng ta nhìn Phật Pháp như là một quá trình tự quán sát và
phân tích nội tâm con người một cách hệ thống, thì đạo Phật là một
khoa tâm lý học. Bất cứ ai đi trên con đường hành trì Phật pháp sẽ
có một phong thái đặc thù--một phong thái không bị chỉ định và ép buộc
từ bên ngoài mà là kết quả của một quá trình trưởng thành và thuần
thục nội tâm. Nhìn từ bên ngoài, chúng ta gọi phong thái này là đạo
đức. Nhưng trong đạo Phật, khác với những tôn giáo khác, cái mà
chúng ta gọi là đạo đức này không phải là điểm bắt đầu mà lại
là kết quả của một kinh nghiệm tôn giáo tạo nên những thay đổi có
tính quyết định đến nhân sinh quan của chúng ta. Đó là khi chúng ta nhìn
đời bằng đôi mắt khác hẳn.
Vì lý do này mà trong Bát
Thánh Đạo, Đức Phật đã không nêu việc thay đổi nếp sống và phong
cách của người Phật tử thành vấn đề hàng đầu. Trái lại, vấn đề
đầu tiên trong Bát Thánh Đaọ là làm sao có được cái nhìn như thật --cái
nhìn không bị sự đam mê chấp thủ chi phối-- về thế giới nội tâm và
thế giới chung quanh chúng ta; vì chỉ bằng cách này, chúng ta mới có được
cái nhìn như thật và không bị ràng buộc bởi thành kiến về bản chất
của cuộc sống và vạn thể. Và từ đó, qua sự thay đổi trong cách nhìn
nầy, chúng ta định hướng lại toàn bộ sinh lực của mình. Trong kinh tạng
Pali, cách nhìn và quán sát về vạn hữu này có tên là samma ditthi
(Phạn ngữ là samyak drsti) mà các nhà Ấn độ học dịch là
"cái nhìn đúng" hay "quan điểm đúng". Và trong ngôn ngữ
đạo Phật ViêﴠNam, chúng ta gọi là "chánh kiến."
Nhưng chánh kiến (samma
ditthi) không chỉ có nghĩa là sự đồng ý với một số tư tưởng đạo
đức hay giáo lý đã được chế đặt sẳn. Chánh kiến là cái nhìn vượt
lên trên những cặp蠦#273;ối lập thành hình từ cái nhìn nhị nguyên và quan
điểm một chiều của tư duy hữu ngã. Chánh hay Samma (Phạn ngữ
là Samyak) có nghĩa là toàn thiện, hoàn chĩnh, hay viên mãn, nghĩa là
không bị chia cắt cũng không nghiêng về một bên; nói đúng hơn, chánh kiến
là cái nhìn thấu đáo và đầy đủ ở bất cứ trình độ nhận thức nào.
Do đó, người có chánh
kiến (samma ditthi) là người không nhìn sự vật một chiều mà nhìn sự
vật một cách vô tư và không định kiến. Và trong mục tiêu, hành động
và lời nói, vị âý có khả năng nhìn thấy được và trân trọng quan điểm
của người khác cũng như của mình. Vì đức Phật đã ý thức rất rõ
tính duyên sinh hay tính tương đối của tất cả loại hình tư duy trừu
tượng nên Ngài không quan tâm đến việc công bố một chân lý trừu tượng
nào đó; trái lại, Ngài蠣hỉ quan tâm đến việc trình bày một phương pháp có
thể giúp con người tự tìm thấy chân lý, hay nói khác đi, tự mình thể
nghiệ⭠thực tại鮠Và như thế, Đức Phật không hề tuyên bố một đức
tin mới mẽ nào mà chỉ cố gắng giải phóng tư duy con người ra khỏi những
định kiến của tư tưởng giáo điều, và qua đó, có thể có cái nhìn như
thật về cuộc sống hiện tại.
Rõ ràng Đức Phật là người
đầⵠtiên trong số các nhà lãnh đạo tôn giáo và tư tưởng vĩ đại nhất
của loài người đã khám phá ra rằng những kết quả được đúc kết từ
quá trình tư duy trừu tượng của con người, nói khác đi, những kiến thức
được trình bày dưới dạng những ý kiến, tín điều, những "chân
lý đời đời bất diệt" hay dưới hình thức những "dữ kiện"
và những công thức khoa học không phải là điều quan trọng. Trái lại,
điều quan trọng chính là yếu tố giúp thành hình những loại tri thức nầy--nói
khác đi, điều quan trọng là cái phương pháp suy nghĩ và hành động
của con người. Khi chúng ta mù quáng tiếp thu thành quả tư duy của người
khác, cho dù thành quả nầy chỉ là những ‘dữ kiện đơn thuần’, điều
này vẫn là chướng ngại hơn là thuận lợi vì nó ngăn chặn quá trình thể
nghiệm trực tiếp cuộc sống, và qua đó có ảnh hưởng nguy hại đến sự
tìm cầu hiểu biết của chúng ta. Do đó, một nền giáo dục mà chỉ biết
tích lũy những kiến thức thuầ⮠túy dựa trên dữ kiện hay những mô
hình tư duy có sẵn sẽ dẫn đến sự cằn cỗi và khô héo về tâm linh.
Khi bị tách rời khỏi cuộc sống sinh động, kiến thức và niềm tin sẽ
trở thành sự ngu muội và mê tín. Điều quan trọng và cơ bản nhất đối
với con người trong sự tìm cầu hiểu biết là khả năng tập trung và tư
duy sáng tạo. Thay vì nhắm đến sự uyên bác về học thức, chúng ta cần
bảo tồn năng lực tìm cầu hiểu biết, nghĩa là cần giử
tâm trí chúng ta luôn cởi mở và tiếp nhận cuộc đời.
Mặt khác, đức Phật không
bao giờ phủ nhận tầm quan trọng của tư duy trừu tượng và lô gích. Nhưng
ngài đặt tư duy trừu tượng và lô gích vào đúng vị trí của nó và chỉ
cho các đệ tử của ngài thấy được tính duyên sinh của chúng: Đó là
việc tư duy trừu tượng và lô gích bị trói buộc trong một hệ thống tương
quan và sinh khởi không thể nào tháo gở được.
Có quan niệm thầm kín cho rằng
thế giới mà chúng ta xây dựng trong tư tưởng giống hệt với thế giới
mà chúng ta đang thể nghiệm trong cuộc sống, hay cái thế giới "như nó
đang thật sự hiện hữu." Nhưng đây là một trong những nguyên nhân
chính dẩn đến cái nhìn sai lầm về cái mà chúng ta gọi là "cuộc đời",
"cuộc sống" hay "thế giới" nầy. Thật ra cái thế giới
mà chúng ta đang thể nghiệm hay đang "sống" bao gồm cả cái thế
giới trong tư tưởng của chúng ta. Nhưng cái thế giới trong tư tưởng của
chúng ta thì không thể nào và không bao giờ có thể hiểu được trọn vẹn
cái thế giới mà chúng ta đang thể nghiệm vì trong cùng một khoãnh khắc
thời gian, chúng ta thể nghiệm cuộc sống nầy ở nhiều mặt, nhiều chiều,
nhiều tầng lớp, và nhiều mức độ khác nhau mà trong đó, thế giới tư
duy trừu tượng (hay những tư tưởng tạp loạn và vẩn vơ) chỉ là một.
Khi chúng ta dùng tư duy trừu
tượng để tái tạo lại những kinh nghiệm mà về bản chất nằm ở những
chiều, mức độ, và tầng lớp khác nhau trong cuộc sống, chúng ta đang làm
một việc giống như một họa sĩ cố gắng đưa không gian ba chiều của
cuộc sống vào không gian hai chiều của bản vẽ. Khi làm việc nầy, người
họa sĩ phải bỏ bớt đi những gì mà ông ta đã thể nghiệm ở những
chiều và tầng lớp cao hơn và khó thể hiện hơn trong cuộc sống và đưa
vào đó một hệ thống trật tự mới với những gam màu, tỷ lệ đối xứng,
và cái nhìn theo quy luật phối cảnh hội họa. Và giá trị của hệhống
trật tự mới này tùy thuộc vào sự hài hòa và thống nhất về thẩm mỹ
của bưc頴ranh và
góc độ nhìn của nhà họa sĩ về cuộc sống. Quy luật phối cảnh trong hội
họa nầy về cơ bản giống như quy luật tư duy trừu tượng: Cả hai người--nhà
họa sĩ và nhà tư duy trừu tượng đều hy sinh những điều được thể
nghiệm ở những chiều và tầng lớp cao hơn của cuộc sống và tự giới
hạn họ vào một cái nhìn nào đó, để rồi từ đó, đối tượng của họ
luôn được xem xét, phối cảnh và đặt trong một tỷ lệ tương xứng sao
cho thích hợp với cái nhìn mà họ đã chọn lựa.
Nhưng khi người họa sĩ cố
ý đưa những cảm nhận của mình từ một kích thước và góc độ nào đó
trong kinh nghiệm sống sang một kích thước và góc độ khác trên bản vẽ,
ông ta không có ý định sao chép lại nguyên si cái thực tế khách quan mà
ông đã thể nghiệm mà chỉ muốn diễn tả lại sự hồi đáp hay
phản ứng của mình với thực tế khách quan đó. Nhưng đối với nhà
tư duy trừu tượng thì khác. Ông ta thường bị rơi vào cái bẩy cho là
mình đã nắm bắt được thực tế khách quan bằng tư duy trừu tượng của
mình vì ông đã nhầm lẩn đồng hóa quy luật "phối cảnh thu nhỏ"
của tư duy lô gích một chiều với quy luật phổ biến và phủ trùm vạn
pháp.
Vận dụng lô gích trong quá
trình tư duy chắc chắn là cần thiết và đúng đắn, giống như việc sử
dụng kỷ thuật phối cảnh trong hội họa vậy. Nhưng chúng ta chỉ nên xem
nó như một phương tiện diễn đạt tư tưởng chứ không phải như một
tiêu chuẩn mẩu mực để thể hiện thực tại. Trong ý nghiã nầy, Đức
Phật đã sử dụng tư duy trừu tượng của mình trong tất cả các bài giảng
pháp nhưng Ngài rất cẩn thận để ý đến những giới hạn của loại
tư duy nầy, và từ đó, Ngài đã dạy các đệ tử của mình về cái nhìn
đi vượt lên trên tư duy trưù tượng: đó là chính kiến (samma ditthi) hay
trực quán--cái nhìn trực tiếp vào cuộc sống thực tại.
Đức Phật không tìm cầu
các đệ tử đến với đạo bằng niềm tin mù quáng và chỉ biết hành
trì giáo lý Ngài một cách máy móc mà không hiểu lý do cũng như sự cần
thiết của Phật Pháp. Đối với Ngài, giá trị hành động của con người
không nằm ở tác động bên ngoài của hành động nầy, mà ở cái động
cơ bên trong, ở thái độ xuất phát từ tâm thức của người đó.
Ngài mong muốn các đệ tử chọn đi theo con đường của Ngài vì bản
thân họ hiểu được cái thực tại nằm phía sau những lời dạy của
Ngài, chứ không phải chỉ vì lòng tin vào trí tuệ và nhân cách ưu việt
của Ngài. Niềm tin duy nhất mà Ngài mong mỏi từ các đệ tử là niềm
tin vào chính sức mạnh nội tâm của họ. Do đó, cái mà Ngài kêu gọi và
mong đợi ở các đệ tử không phải là việc đặt nặng tinh thần duy lý
khách quan và một chiều, mà là biết kết hợp hài hòa tất cả năng lực
của tâm thức, trong đó lý trí hay tư duy trừu tượng chỉ là mọⴠnguyên
tắc hướng dẩn và giúp con người phát huy kiến thức sai biệt của
mình.
Giáo lý của Đức Phật bắt
đầu với bài giảng về Tứ diệu đế. Nhưng do những giới hạn của nhận
thức cá nhân, chúng ta không thể cảm nhận được trọn vẹn ý nghĩa của
lời giảng này khi mới bắt đầu vào đạo. Nếu chúng ta thấu triệt ngay
lời giảng của đức Phật về Tứ diệu đế thì chúng ta đã được giải
thoát rồi và những bước đường tu tập còn lại sẽ không cần thiết nữa.
Nhưng sự thật giản đơn về nỗi đau khổ và những nguyên nhân đưa đến
đau khổ là những gì mà chúng ta ai ai cũng có thể cảm nhận được rất
rõ trong suốt cuộc đời mình. Do đó, chĩ một quá trình quán chiếu giản
đơn về sự khổ đau và phân tích kinh nghiệm khổ đau của chúng ta, dù rất
là giới hạn, cũng đủ để thuyết phục một người có chút ít suy nghĩ
rằng những luận điểm của Đức Phật là hợp lý và có thể chấp nhận
được. Do đó, nếu chúng ta bắt đầu đi vào đạo để tìm cầu "một
cái nhìn hoàn thiện", điều này không có nghĩa là chúng ta đã chấp
nhận đạo Phật như một giáo lý có thể đời đời áp dụng, hay một
tín điều tuyệt đối. Trái lại, điều nầy có nghĩa là chúng ta đang tìm
cầu một cái nhìn không định kiến và vô tư vào bản chất sự vật và
tất cả những gì đang xảy ra trong cuộc sống, như nó thật sự đang là
và đang xãy ra.
Do đó, chính kiến
không phải chỉ là chấp nhận tin tưởng vào những ý tưởng đạo đức
và tôn giáo đã có sẵn. Chính kiến là một cái nhìn không thiên lệch
và ngày càng hoàn thiện hơn về vạn pháp. Và phải chăng thế giới này
có quá nhièⵠphiền não chỉ vì mỗi người chỉ biết nhìn cuộc đời từ
góc độ của riêng mình mà thôi? Do đó, thay vì nhắm mắt và quay lưng lại
với tất cả những khó chịu và đau đớn trên cuộc đời nầy, có nên
chăng chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự khổ đau và tìm ra nguyên nhân của
nó--cái nguyên nhân mà thật ra nằm ngay trong chính chúng ta và chỉ có
chúng ta mới có thể khắc phục và vượt qua nó mà thôi?
Nếu tiến hành việc tu tập
theo cách này, dần dần trong chúng ta sẽ xuất hiện nhận thức về một
lý tưởng cao đẹp--lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát-- và nhận
thức về con đường thực hiện lý tưởng này. Do đó chính kiến
là sự thể nghiệm, chứ không phải chỉ là sự chấp nhận
thuần trí thức lời giảng của Thế Tôn về Tứ Diệu Đế. Chỉ với thái
độ nầy chúng ta mới có sự quyết tâm đúng đắng hay chính tư duy
(samma sankappa). Và khi chính tư duy đã thấm nhuần toàn bộ
nhân cách chúng ta, nó sẽ kêu gọi chúng ta hiến dâng toàn bộ tư tưởng,
lời nói, và hành động của mình cho đạo Pháp, thúc đẩy chúng ta đi xuyên
suốt con đường tu tập và chuyển hóa nội tâm, và để cuối cùng giúp
chúng ta đạt đến quả vị toàn giác.
Như đã đề cập ở trên,
khi mới bưóc vào Đạo, chúng ta không thể hiểu ngay và nhận thức đầy
đủ về ý nghĩa của giáo lý Tứ Diệu Đế. Trong ý nghĩa nầy và trong chừng
mực nào đó, lời giãng của Đức Phật cũng mang tính蠳iêu hình, và do đó, đòi hỏi người thiết tha
đến với đạo phải tin tưởng (Phạn ngữ la 輩>sraddha, Pali là saddha) đến một mức độ
nào đó rằng lời Phật dạy là đúng đắn mặc dù người nầy còn sơ
cơ và chưa có đủ kinh nghiệm tu tập để hiểu hết được giáo lý Phật.
Nói khác đi, Đạo Phật cũng đòi hỏi trước tiên người Phật tử phải
chấp nhận tin tưởng vào một số giáo lý vượﴠquá kinh nghiệm tu tập
ban đầu của họ, giống như mọi khoa học, và nhiều tôn giáo đã làm.
Tuy nhiên, có sự khác biệt
giữa một bên là những tôn giáo thần bí, các ngành khoa học và荊 một bên là Đạo Phật. Sự
khác biệt nầy bắt nguồn từ cách vận dụng tâm lý con người. Các tôn
giáo thần bí và khoa học nhấn mạnh vào lãnh vực nằm ngoài kinh nghiệm
của cá nhân vì cả hai đều dựa vào sức mạnh, hoặc của truyền thống
tôn giáo, hoặc của những thí nghiệm khoa học, hay những giả thiết liên
quan đến những truyền thống tôn giáo và thí nghiệm khoa học nầy. Đạo
Phật trái lại nhấn mạnh vào thế giới nội tâm của con người, trong
đo,頱ua kinh nghiệm
cá nhân của chính họ, con người phải hiểu rằng những gì mà lúc đầu
họ chấp nhận như một niềm tin nay đã trở thành sự thật. Đây không
phải là頦#273;ể
biện minh cho một niềm tin tôn giáo (niềm tin tôn giáo ở đây có nghĩa là
chấp nhận tuân theo một giáo điều chưa được minh xác), mà là một quá
trình nhận biết về cái thực tại mà ngày nào chúng ta vẫn không tự
mình chứng nghiệm, sẽ mãi mãi là một cái gì siêu hình và không thể
nào hiểu được.
Do đó, từ bên ngoài nhìn
vào, Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng siêu hình (bên cạnh những hệ
thống tư tưởng khác), nhưng từ bên trong nhìn ra, Đạo Phật là sự thể
hiện của những gì đã đượchứng nghiệm -- Đạo Phật là duy nghiệm.
Đức Phật không hề bát bỏ những gì siêu hình mà con người có thể
khám phá và cảm nhận được trong quá trình chứng nghiệm nội tại nhưng
ngài không bao giờ sử dụng những suy đóan thuần túy triết học siêu
hình. Tuy nhiên, Đức Phật đã vượt lên trên vấn nạn siêu hình cùng với
những vấn đề của nó bằng cách không chỉ dừng lại ở việc phản
bác nó mà còn tích cực mở rộng những gì con người có thể chứng nghiệm
được qua việc rèn luyện, phát huy, và nâng cao nhận thức của mình để
những gì siêu hình đều có thể trở thành thực nghiệm.
Do đó, việc rè讠luyện tâm thức là điều
kiệ⮠tiên quyết không thể trốn tránh được trong việc nâng cao sự hiểu
biết của con người. Tâm thức là chiếc xe chuyên chở mà con người phải
dựa vào để tiếp thu thực tế và chính nhờ vào những năng lực nhận
thức có sẵn mà con người có thể tiếp nhận những dữ liệu cần thiết
và xác định phương hướng thể nhập thực tại của mình. Tỉnh thức,
chú tâm, và chánh niệm (Phạn ngữ là smrti, Pali là sati) là
tối quan trọng để giúp con người tránh được những cái bẩy vọng tưởng
đến từ bên trong hoặc bên ngoài chúng ta.
Ngoài việc tu tập và rèn
luyên tâm ý, sự có mặt của truyền thống tín ngưỡng với những kinh
nghiệm và nhận thức của các thế hệ đi trước là rất cần thiết, bởi
vì nếu không mỗi cá nhân hành trì bắt buộc phải thể nghiệm và khám
phá lại từ đầu tất cả kinh nghiệm tâm linh cần thiết, và vì thế, chỉ
một số ít cá nhân có căn cơ đặc biệt mới có thể thành tựu quả vị
toàn giác. Nhưng sự lĩnh hội kiến thức hay những thành quả trí thức
(thường được thể hiện dướ驠dạng tư tưởng triết học) của các vị thánh hiền vẫn
không đủ. Ngay cả giáo lý tuyệt hảo của Đức Phật cũng cần được các
đệ tử kế thừà sắp xếp lại. Bởi vì dù rằng Đức Phật thiết lập
giáo lý của ngài một cách hoàn hảo nhưng người tiếp thu giáo lý của
ngài thường lại chưa được toàn thiện. Kết quả là những gì họ hiểu
và truyền đạt cho thế hệ đi sau phải được điều chỉnh lại cho
tương xứng với trình độ phát triển tâm linh của họ.
Chúng ta cũng cần nhớ là
để cho quảng đại quần chúng hiểu được lời dạy của mình, Đức Phật
đã phải dùng ngôn ngữ và các khái niệm phổ thông đương thời. Và ngay
cả nếu tất cả các đại đệ tử của Phật đã nghe, ghi chép lại lời
dạy của ngài và thật sự trở thành những bậc toàn giác như được ghi
lại trong các kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, điều nầy vẫn không làm
thay đổi một sự kiện: Đó là hình thức ngôn ngữ và tri thức mà họ
dùng để truyền đạt lời dạy của Đức Phật luôn bị điều kiện hóa
bởi xã hội đương thời. Do đó, họ không thể thấy trước được những
vấn đề sẽ xảy ra. Và ngay cả nếu họ thấy trước được những vấn
đề sẽ xảy ra, hình thức ngôn ngữ mà họ phải dùng để diễn tả những
vấn đề nầy cùng với các giải pháp cho nó vẫn chưa được thiết lập.
Và ngay trong trường hợp họ tự ý chế đặt ra ngôn ngữ mới để diễn
tả, cũng không ai có thể hiểu được những vấn đề này.
Nếu Đức Phật sống trong
thế kỷ thứ XX nầy, thay vì sống trong thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên, chắc chắn Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp của ngài khác đi.
Nhưng điều nầy không có nghĩa là chân lý hay nội dung giáo Pháp của
ngài sẽ thay đổi. Chỉ có khác là đối tượng mà Ngài thuyết giảng có
thêm 25 thế kỷ kinh nghiệm lịch sử, tu tập, và tâm linh trong nhận thức
của họ. Do đó, nhận thức mới nầy (với chiều dày lịch sử hơn 2,500
năm) không những đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nhiều phương cách và
khái niệm khác nhau và mới mẻ hơn để diễn tả nó. Nó còn có một
thái độ tinh thần, những cách nhìn và những vấn đề khác hẳn với thời
đức Phật, cùng với những khả năng giải quyết các vần đề sao cho thích
hợp với tinh thần mới này.
Dĩ nhiên, những người tin
tưởng mù quáng vào ngôn từ của kinh điển cũng như những người xem các
giá trị được lưu giử lâu đời trong lịch sử hay tính chất thiêng
liêng của truyền thống tín ngưỡng là quan trọng hơn chân lý sẽ không
chấp nhận điều nầy. Vì làm như thế cái thế giới quan được quy định
thành một hệ thống tinh vi và có thể sẵn sàng áp dụng ngay tại chỗ của
họ sẽ mất đi giá trị tuyệt đối cùng với sự chắc chắn rõ ràng của
nó. Từ đó, họ nghĩ rằng những trường phái Phật giáo về sau nầy đã
thay đổi lời Phật dạy bằng cách cố ý vượt quá giới hạn của những
điều Thế Tôn thuyết giảng.
Tuy nhiên, những người kế
thừa đức Phật theo cách này thật ra chỉ lưu lại cho hậu thế những khái
niệm giới hạn và bị điều kiện hóa bởi thời gian của các đệ tử
đương thời của Đức Phật--những đệ tử đã tìm cách tập hợp và
ghi chép lại những lời Phật dạy trong lần cuối cùng đó mà thôi. Nhưng
tư tưởng cũng giống như cuộc đời, nó không thể đứng yên một chỗ.
Và khi sự phát triển bị ngưng trệ, hình thức còn lại chỉ là một cái
xác không hồn. Những gì còn lại với chúng ta sẽ chỉ là một kho báo lịch
sử được ướp giữ và bảo quản kỷ lưỡng, nhưng sức sống một thời
của nó đã không còn nữa. Những người xem trọng giá trị xác thực của
hình thức nên tự hỏi xem có thể nào chúng ta mang và đưa y nguyên những
hình thức ngôn ngữ va tu tập cách đây hàng ngàn năm vào cuộc sống hiện
tại. Ngay cả thức ăn, nếu giữ quá lâu, chúng sẽ tở thành chất độc.
Và những thức ăn tinh thần cũng thế--giữ quá lâu, chân lý sẽ thành
giáo điều và niềm tin sẽ trở렴hành mê tín mù quáng. Cả hai thứ này--chủ nghĩa giáo
điều và sự mê tín mù quáng--đều không có sức sống, và do đó, là những
chướng ngại cho tư tưởng và quá trình thể nghiệm cuộc sống, và do
đo,頴rở thành chất
độc hại người.
Chân lý không thể dựa
trên niềm tin. Chân lý cần phải được liên tục phát hiện và tái lập
lại nếu chúng ta muốn duy trì nội dung tinh thần, sức sống và giá trị
bồi dưỡng của nó. Quy luật phát triển của đới sống tâm linh là chân
lý頰hải được liên
tục kinh qua và tư duy lại dưới những hình thức mới mẻ. Những thành tựu
của các thế hệ đi trước không quan trọng bằng những phương pháp nằm
phía sau và dẩn đến những thành tựu nầy, mà như những người đi sau,
chúng ta phải không ngừng tìm hiểu những phương pháp nầy, và đây
chính là điều mà chúng ta phải trao dồi và truyền đạt cho các thế
hệ tương lai.
Qua cách sống luôn
luôn thể nghiệm mới mẻ này, mỗi cá nhân trở thành cái gạch nối liền
quá khứ và hiện tại, hoàn chỉnh quá khứ bằng kinh nghiệm hiện tại,
và qua đó, chuẩn bị những hạt giống sáng tạo cho tương lai. Chỉ với
thái độ sống như thế, quá khứ mới có giá trị cho hiện tại và trở
thành một phần kiến thức của chúng ta, thay vì chỉ là một đối tượng
để nghiên cứu--một đối tượng bị tách rời khỏi quá trình phát triển
hữu cơ của cuộc sống, và do đo,頦#273;ã mất
hết nội dung thực tại鮼/font>
Khi đã hiểu được
ý nghĩa quá trình phát triển hữu cơ nầy của cuộc sống, chúng ta sẽ
không cho những giai đoạn phát triển riêng rẽ của nó là "đúng"
hay "sai", "giá trị" hay "vô dụng" nữa mà trái lại,
chúng ta sẽ khám phá ra rằng trong cùng một bản nhạc chủ đề, những biến
tấu có thể khác nhau về trọng âm và ngân nga, nhưng nó vẫn toát ra một
cái gì tiềm tàng, cơ bản và giống nhau. Khám phá nầy sẽ giup頣húng ta hiểu biết và khuyến
khích chúng ta vượt qua thái độ hẹp hòi và cố chấp, có được cái
nhìn vượt lên trên mọi khác biệt, và từ đó tiến đến một thái độ
tinh thần đầy cởi mở và bao dung.
Điều nầy không loại
bỏ khả năng, 蠮hư
là những cá nhân, chúng ta có thể cảm thấy gần gũi giới trào lưu nầy
hoặc trào lưu khác trong dòng phát triển của đạo Phật, hoặc những đặc
điểm của trường phái nầy có thể thu hút chúng ta nhiều hơn đặc điểm
của các trường phái khác, tùy vào tính khí, căn cơ, sự hiểu biết và
trình độ phát triển tâm linh hiện tại của chúng ta. Nhưng chúng ta không
nên bao giờ để sở thích riêng tư này thúc đẩy chúng ta đã phá những
gì không thích hợp với ý đồ riêng của chúng ta, và chúng ta càng không
có quyền tuyên bố là truyền thống của trường phái mà chúng ta lựa chọn
là duy nhất thật sự thể hiện chân lý.
Vì thế, ở phương Tây
Đạo Phật có trách nhiệm làm cho loài người hiểu được toàn bộ sự
phát triển của đạo Phật, và từ đó, có một cái nhìn tổng thể về
quá trình phát triển hửu cơ của những tư tưởng nền tảng hay những hạt
giống mà Đức Phật đã một thời gieo vào trong tâm đệ tử của ngài.
Trong những điều kiện khí hậu và bối cảnh văn hóa thật khác biệt,
và đễ thích ứng với tinh thần của các dân tộc và các nền văn hóa
khác nhau, những tư tưởng Phật giáo nền tảng nầy đã phát triển dưới
nhiều hình thức phong phú, mà vẫn không mất đi nội dung cơ bản của Phật
tâm, và trong quá trình phát triển, đã không mất đi "hương vị"
đặc biệt của nó--đó là hương vị của sự giải thoát, giác ngộ, và
tính thống nhất phổ biến.
Trong một ngàn năm đầu
của đạo Phật ở Ấn Độ đã xuất hiện ba trường phái lớn. Mỗi trường
phái nhấn mạnh đặc biệt vào một trong ba khía cạnh vừa nêu trên của
đạo Phật--giải thoát, giác ngộ, và tính thống nhất phổ biến. Trường
phái chú trọng vào "việthoát khổ" thì chối bỏ thế giới nầy
vì thế giới nầy là vô thường鮠Quan niệm nầy đưa con người đến nếp sống phần nào
ẩn dật. Nhiều người tìm cách thoát khổ bằng cách xa lánh cuộc đời
trần tục. Chính từ quan niệm nầy mà hệ thống tổ chức các tu viện
được thành hình.
Trường phái thứ hai
nhấn mạnh vào sự giác ngộ. Theo trường phái này, giác ngộ là mục
tiêu cao cả duy nhất của người Phật tử, cho dù điều này có nghĩa là
chúng ta phải chia xẻ và gánh vác nỗi đau khổ của toàn thế giới, bởi
vì nỗi khổ của chúng ta và nỗi khổ của tất cả chúng sanh là một. Bằng
cách này, cả thế giới đi vào một tiến trình giải thoát, và lòng từ
bi sẽ giúp con người vượt qua sự đau khổ--lòng từ bi nầy vô biên và
bao dung đến nỗi, dưới tác dụng của nó, tất cả những phiền muộn
cá nhân đều trở thành vô nghĩa, trừ khi nó trở thành niềm thôi thúc
chúng ta tiến bước trên đường đi đến quả vị giác ngộ tối thượng.
Tâm đại bi nầy (Phạn
ngữ là mahakaruna) là sự thể hiện trực tiếp của tinh thần giác
ngộ (bồ đề tâm hay bodicitta) đang lớn dần trong tâm thức của
con người. Nó không dựa trên trên bất kỳ đợt sóng tình cảm phù du
nào mà thực chất là sự hướng tâm về tất cả chúng sanh được nuôi dưỡng
bởi từ tâm (maitri) và trí tuệ bát nhã (prajna婬 trong đó người hành trì
thấy nỗi khổ đau của chúng sanh cũng chính là nỗi khổ đau của họ. Từ
tâm làm cho họ cả譠thấy một cách tự nhiên là "tất cả chúng sanh đều
bình bẳng" mà không thấy khởi lên bất cứ tình cảm tự tôn nào cho
là mình trội hơn người khác về mặt đạo đức hay tâm linh. Và trí
tuệ bát nhã giúp chúng ta thấy được tính duyên khởi và tùy thuộc lẫn
nhau của các pháp, và từ đó, thể nghiệm được tính "vô ngã" (anatman)
của tất cả các yếu tố cấu thành thực tại; Nó sẽ giúp chúng ta hiểu
về tính không của mọi hiện tượng, ý thức về tính tùy thuộc lẩn
nhau của tất cả hiện hữu, và qua đó, mở rộng con đường của lý tưởng
Bồ Tát trước mắt chúng ta--con đường mà cư sĩ tại gia và tu sĩ, ai
cũng có thể hành trì.
Trường phái thứ ba của
Phật giáo, qua việc nhấn mạnh tính thống nhất phổ biến của đạo Phật,
quan tâm nhiều đến những hệ quả tâm lý xuất phát từ tính thống nhất
và phổ biến tiềm tàng và cơ bản trong tâm lý con người. Hơn thế nữa,
trường phái này cho là họ có thể chuyển bất cứ đặc điểm nào trong
nhân cách con người thành một công cụ giải thoát, ngay cả những đặc
điểm mà lúc đầu dường như là những chướng ngại của sự giai렴hoát. Theo cách nhìn này, mỗi
biểu hiện của cuộc sống trở thành biểu hiện sự thống nhất cơ bản
của Luân hồi (samsàra) và Niết bàn (nirvàna), soi sáng mối tương
quan giữa thế giới vật lý và thế giới tâm lý, giữa thế giới cảm
giác và thế giới siêu nghiệm, giữa thế giới cá thể đặc thù và thế
giới phổ biến siêu việt.
Ba mặt khác nhau nầy
của đạo Phật, trong quá trình phát triển lịch sử của nó, đã thể hiện
dưới những những mức độ nhấn mạnh khác nhau, tương ứng với truyền
thống tam thừa hay3 cỗ xe (yànas) đưa chúng sanh đến bờ giải
thoát, mà trong lịch sử Phật giáo được gọi là "Tiểu thừa" (Hìnayàna),
"Đại thừa" (Mahàyàna), và "Kim cang thừa" (Vajrayàna).
Từ cỗ xe nhỏ, con người
bước sang cỗ xe lớn khi có sự thay đổi trong nội tâm của họ, trong đó
ước mong được giải thoát cho riêng họ khỏi thế giới vô thường nầy
được thay thế bởi ý niệm là thế giới nầy có thể chuyển hóa được
(y٠niệm này đến từ sự nhận biết rằng ở trình độ phát triển tâm
thức cao nhất và về bản chất, tất cả chúng sanh đêù bình đẳng.) Từ
‘cỗ xe lớn’, con người bước sang ‘cỗ xe kim cang’ vì không những họ
nhận biết rằng thế giới nầy có thể chuyển hóa được, mà còn hiểu
được tính duyên sinh của luân hồi và niết bàn mà về thực
chất là 2 mặt của cùng một thực tại. Vì thế trong Kim Cang Thừa, người
ta đã thiết lập nhiều phương pháp hành trì tinh tế và khác nhau nhằm
chuyễn hóa tất cả các loại năng lực tâm lý trong con người--đặc biệt
là những khả năng vô hạn của tâm thức con người, qua đó, người hành
trì sẽ nhận ra được tính thống nhất phổ biến của họ với tất cả
chúng sanh và cuối cùng sẽ làm hiển lộ tâm thức toàn thiện sẵn có
trong con người của họ.
Do đó, Tiểu thừa, Đại
thừa và Kim cang thừa là sự đại diện cho ba mặt khác nhau của tâm thức,
trong đó mặt đến sau không loại trừ mặt có trước mà trái lại, hàm
chứa và kết hợp những đặc tính của mặt có trước ở một bình diện
cao hơn hay tạo thành một hệ thống sâu rộng hơn. Trong ý nghĩa nầy, những
quy tắc Giới luật (Pali là sila, Phạn ngữ là s'ila),
cùng với giáo lý Tứ diệu đế (Pali là cattàri ariya saccàni,
Phạn ngữ là catvari arya-satyani) của Tiểu thừa là nền tảng trên
đó Phật giáo Đại thừa xây dựng các học thuyết triết học về Trí
tuệ Ba la mật (Prajnaparamitavada), Tánh Không (Sunyavada),
Duy Thức (Vijnanavada,, vân vân). Và rồi sau đó, Kim cang thừa kết hợp
triết học Trí tuệ Bát Nhã (Prajna) của Đại thừa và nguyên tắc Giới
luật (Sila) của Tiểu Thừa và biến nó thành một hệ thống thiền định
và thực hành yoga đặc biệt giúp người hành trì chuyển hóa và thống nhất
năng lực nội tâm, thành tựu đại định (Samadhi).
Giới (Sila), Tuệ
(Prjana) và Định (Samadhi)--Ba nguyên tắc của Bát thánh Đạo đưa
con người đến giải thoát-- có thể xem là những nét đặc trưng của tam
thừa: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cang thừa. Mỗi thừa đều bao gồm tất
cả蠢a nguyên tắc
trên, nhưng mỗi thừa có nét độc đáo của nó vì nó nhấn mạnh vào một
trong ba nguyên tắc lớn nầy, từ đó nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt và
có cách diễn giãi mới tùy theo sự lựa chọn của mình. Một cách khái
quát, chúng ta có thể nói rằng thái độ của Tiểu thừa mang tính hiện
thực và thiên về phân tích, thái độ của Đại thừa là duy tâm và nhất
nguyên, trong khi Kim cang thừa phát triển một hệ thống chặt chẽ những
quan hệ dựa trên tâm lý học và vũ trụ học, và từ đó, phát triển những
phương pháp thiền định có khả năng đi vào chiều sâu của tâm thức và
tạo một sự chuyển hóa sâu sắc trong nhân cách con người.
Tiểu thừa dạy chúng
ta hãy nhìn thế giới như nó đang là (yathàbhùtam) mà không cần
tìm hiểu thực tại khách quan và thực chất của cuộc đời. Mặt khác,
nó dạy chúng ta rằng cuộc đời, trong bối cảnh mà chúng ta thể nghiệm鬠được gói ghém trong "tấm
thân dài một mét sáu nầy." Nhưng cả tấm thân nầy và thế giới nầy
đều đau khổ. Trong Phật giáo Đại thừa, " thực tại khách quan"
của thế giời nầy được thế bằng một định lượng có sẵn trừu tượng
và siêu nhiên, không có đặc tính cũng không có tên gọi, và chỉ có thể
biểu thị bằng từ "Không" (Sunyata), mà chúng ta không thể
nào hiểu được bằng lý trí, nhưng đồng thời có tiềm năng vô tận.
Trong Kim cang thừa, chủ nghĩa hiện thực mang tính phân tích của Phật
giáo nguyên thủy và chủ nghĩa duy tâm trừu tượng và siêu hình của triết
học Đại thừa được quân bình bằng những hình tượng sáng tạo và tưởng
tượng từ nội tâm, qua đó toàn bộ nhân cách con người được chuyển hóa
bằng một quá trình dung nạp và hội nhập liên tục giữa con người và
những hình tượng sáng tạo và tưởng tượng nội tâm này.
Kim Cang thừa đại diện
cho giai đoạn cuối trong lịch sử phát triển Phật giáo ở Ấn Độ-- nước
bả讠địa của đạo
Phật. Trong chừng mực nào đó, nó là sự kết hợp của tất cả những yếu
tố đã được phát triển từ trước trong đạo Phật. Do đó, trong Kim Cương
Thừa Sunyata--hay "Tính Không" vô biên vượt thoát mọi
định nghĩa--được xem như bản tính uyên nguyên của tâm thức, tự nó
là蠳ự thể hiện
sau cùng của mọi tri kiến và quá trình chứng ngộ sáng tạo. Chúng ta
không thể vượt qua tâm thức bằng con đường tư duy hay kinh nghiệm nên
ngay cái mà chúng ta gọi là "giác ngộ" cũng chỉ là một hiện tượng
của tâm thức. Từ đó, chúng ta thấy rỏ rằng "thực tại" không
phải là một "chân như" trừu tượng cũng như không phải là một
nguyên lý cố định tuyệt đối mà là sự vận hành của tâm thức thể
hiện thành sức sống sáng tạo và phủ trùm vạn hữu. Chỉ khi nào tâm thức
con người nhận biết được tiềm năng và tính phổ quát uyên nguyên của
nó, con người mới có thể mở rộng kinh nghiệm thể nhập thực tại,
nâng cao trình độ nhận thức, và có được năng lực vũ trụ để xây dựng
thế giới một cách sáng tạo, chuyển hóa thế giới, dung nạp tất cả
và đạt đến quả vị toàn thiện.
Khi những trường phái
Tiểu thừa đầu tiên ra đời xem thân thể như một cái gì ác nghiệt mà
con người không thể trốn tránh được--giống như vết thương mà con người
phải điều trị và chăm sóc để sớm ngày thoát ra khỏi nó, Kim Cang thừa
chỉ cho chúng ta thấy thân xác là một thế giới thu nhỏ, một tiểu vũ
trụ, và một bộ máy chuyên chở sự chuyển hóa, trong đó tất cả những
năng lực cao cấp đã có sẵn và chỉ chờ đợi được đánh thức. Đó
là một Mạn đà la vĩ đại, một "vòng tròn kỳ diệu" trong đó sự
chuyển hóa vĩ đại đang vận hành.
Do đó, Tiểu thừa dạy
chúng ta quan sát sự thay đổi và biến dạng liên tục của thế giới hiện
tượng. Đại thừa giúp chúng ta nhận biết rằng thế giới nầy có thể
chuyển hóa được, trong khi Kim Cang thừa dạy chúng ta thực hiện sự chuyển
hóa nầy từ bên trong với tất cả những gì mà cuộc sống cho phép. Do đó,
con đường phát triển của đạo Phật, qua ba trường phái lớn này, dẩn
chúng ta đi từ sự khổ đau của cuộc đời vô thường nầy, xuyên qua tấm
lòng từ bi dành cho tất cả chúng sanh, và đến việc chấp nhận khổ đau
như phương tiện để thanh lọc và giải thoát chúng ta khỏi những sợi
dây ràng buộc của tự ngã. Để được tự thân thể nghiệm toàn bộ
giáo lý đạo Phật, mỗi cá nhân hành trì nên đi qua tất cả những chặn
đường trên bằng chính sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Vì mục
đích nầy mà sự hướng dẫn thân tình của một thiện tri thức 頣ùng với sự hiến dâng tất
cả năng lực trí thức và tình cảm của bản thân người tu tập là rất
cần thiết.
Chúng ta đã nói qua về
nguy hiểm của việc bị giới hạn và kiềm hãm bởi chủ nghĩa lịch sử
thuần túy, chủ nghĩa giáo điều, và chủ nghĩa duy lý thuần trí thức. Chỉ
bằng cách phát huy chính kiến (samyag-drsti) chúng ta mới tránh
được nguy hiểm này; nhưng chính kiến ở đây không phải là ý kiến hay
quan điểm "đúng" hay "sai" về mặt tri thức mà là cái
nhìn trực tiếp và bằng trực giác vào bản chất thật của các sự vật
và đặc biệt là vào bản chất của cái mà chúng ta gọi là "cái
tôi". Tuy nhiên, nếu cái thấy biết dựa trên trực giác hay trực quán
nầy vẫn không tạo được một thay đổi tương xứng nào trong tư tưởng
của chúng ta, nó sẽ không bao giờ có ảnh hưởng thật sự trên cuộc sống
chúng ta, bởi vì bất cứ sức mạnh tâm lý nào, dù mãnh liệt đến đâu,
vẫn sẽ không phát huy được tác dụng trừ khi nó được hình thành và hướng
về một mục tiêu nào đó.
Mặc khác, để có
được sức mạnh và khả năng thay đổi đời sống và nội tâm sâu thẳm
của chúng ta, những tư tưởng và quán sát được phát triển một chiều
trên bình diện trí thức phải được xác nhận bởi kinh nghiệm trực
giác. Những ai chỉ biết an trú trong tư duy trừu tượng sẽ mãi bị tù
hãm trong tư tưởng của chính họ, cũng như người chỉ biết bám díu vào
những trực giác mơ hồ hay những cơn sóng tình cảm sẽ bị giam cầm
trong những tâm trạng và tình cảm mong manh ngắn ngũi của họﮠVì thế鬠chúng ta phải biết phối hợp
và kết hợp hài hòa giữa tư tưỏng và tình cảm. Chỉ khi nào thành tựu
được việc này, chúng ta mới hưởng được hương vị tự do của tinh thần
trực giác, và làm việc mà không bị thành kiến và định kiến chi phối.
Lúc đó, chúng ta mới tự mình có được niềm vui sáng tạo và hài lòng,
có được cái nhìn phủ trùm cuộc đời nầy dựa trên những yếu tố của
trực quán, và liên tục mở rộng kinh nghiệm nầy mãi đến lúc bừng ngộ
và chứng được quả vị toàn giác.
Do đó, chúng ta không
cần phải chối bỏ năng lực trí thức, hay ức chế dòng chảy tự do của
tư tưởng và khả năng nghiên cứu suy luận của mình (vitarka-vicara),
miễn là chúng ta ý thức vê蠮hững giới hạn của những tư tưởng tản mạn và sử
dụng năng lực trí thức của chúng ta trong giới hạn thích hợp của nó.
Trong lãnh vực nầy, khả năng suy nghĩ có hệ thống và nhất quán là một
chức năng có giá trị của não bộ con người. Nếu không có sự hướng dẫn,
soi sáng, và ổn định của tư duy lý luận, cuộc sống của chúng ta chắc
sẽ là một giấc mộng hỗn loạn. Nhưng nếu chúng ta chỉ biết tư duy lý
luận trừu tượng và cho nó một vai trò độc lập, nó sẽ tạo ra một thế
giới hoang tưởng và thế giới nầy sẽ đóng chặt mọi cánh cửa dẫn đến
sự chứng nghiệm bằng trực giác và ngăn chặn mọi hiển lộ của đời
sống tâm linh.
Khi bắt đầu nghiên cứu
Phật pháp, chúng ta nên nhớ rằng giáo lý nầy được xây dựng trên tri
kiến và kinh nghiệm chứng ngộ thực tại. Mục đích duy nhất của Phật
pháp là kêu gọi và khuyến khích tất cả những ai tiếp cận với nó phả詠tự mình thể nghiệm thực tại. Bởi vì trong khi người
làm công việc tư duy lý luận dựa trên các hệ thống lý thuyết, cùng với
sự hỗ trợ của các khái niệm và phương pháp lô gích quy nạp, để gián
tiếp hiểu được thế giới nầy, người thễ nghiệm thực tại theo tinh
thần đạo Phật dùng trực giác đễ thấy và biết một cách trực tiếp
và toàn bộ về thế giới nầy. Rồi sau đó họ mới dùng tư duy lô gích
để diễn đạt lại tri kiến nầy﮼/font>
Nhiều nhà lô
gích phương Tây thường sử dụng những khái niệm trừu tượng mà không
ý thức rằng lô gích của ngôn ngữ chỉ là một trong những khả năng giúp
con người suy nghĩ một cách hợp lý và nhất quán. Con người thường sử
dụng ngôn ngữ và khái niệm như thể ngôn ngữ và khái niệm là những thể
hiện trực tiếp của thực tại. Chính từ quan điểm sai lầm này mà nhà
triết học Đức Emmanuel Kant đả đưa ra khái niệm "sự vật tự
nó" (Thing in itself hay Ding an sich) hay khái niệm về thực tại
đang diễn ra trong thế giới cảm giác của chúng ta. Nhưng giống như tất
cả những khái niệm tuyệt đối độc lậﰬ "sự vật tự nó"
chỉ là một khái niệm và chỉ tồn tại trong tư tưởng con người mà
thôi.
Do đó, như là một
tư tưỏng mang tính cách lý luận và phân tích, khái niệm "sự vật tự
nó" có giá trị rất giới hạn. Nó không tồn tại trong thực tế, hay
nói khác đi, nó không có trong cái thế giới tồn tại bên ngoài người
suy nghĩ ra nó. Bởi vì không có "một vật gì" mà "tự
nó"頣ó thể tồn
tại được. Mọi vật khởi lên và nằm trong quan hệ tùy thuộc với những
sự vật khác và tất cả đều nằm trong những quan hệ thay đổi không ngừng.
Và chỉ trong ý nghĩa nầy, chúng ta mới nói đến "lý duyên sinh"
trong Đạo Phật, mà không hề đồng hóa khái niệm "duyên sinh" với
khái niệm "không có thật"; Lý duyên sinh trong đạo Phật nhằm để
chỉ thẳng vào bản chất của tất cả các pháp không ngừng khởi lên, vận
hành, và diệt tận trong quan hệ hỗ tương và tùy thuộc lẩn nhau.
Thí dụ như nói
thời gian là duyên sinh không có nghĩa là nói thơì gian không có thật mà
để nói là thơì gian có rất nhiều mặt và kích thước trong cuộc đời.
Do đó, cùng một sự vật, nhưng nếu chúng ta nhìn nó từ những quan điểm
khác nhau, nó sẽ thể hiện rất khác nhau. Và do đó, cái gọi là "sự
vật tự nó" không thể tồn tại được, vì mọi vật chỉ có thể tồn
tại trong bối cảnh và tùy thuộc vào những sự vật khác, nghĩa là trong
môi trường biến đổi không ngừng của những quan hệ cũng thay đổi không
ngừng trong pháp giới muôn màu muôn vẻ này.
Từ quan điểm của
đạo Phật, chúng ta không thể chấp nhận khái niệm "lý trí thuần
túy" (lý thanh tịnh hay pure reason) vì khái niệm này mâu thuẫn với thực
tại được thể nghiệm. Với cùng nguyên tắc nầy, chúng ta cũng bác bỏ
hệ thống lô gích trừu tượng mà người đời thưòng gán cho nó một
giá trị tuyệt đối. Trong lịch sử nhân loại, đã có nhiều hệ thống
lô gích khác nhau, thí dụ như lô gích ở phương Tây, Ấn độ, Trung quốc
và Nhật bản. Mỗi hệ thống lô gích đều có tính nhất quán riêng của
nó. Chúng ta có thể chọn bất cứ hệ thống nào để bắt đầu, miễn là
chúng ta nhất quán trong cách sử dụng nó, chúng ta đều có thể gọi cách
thức tiến hành của mình là hợp lý hoặc lô gích.
Lô gích ở phương
Tây dựa vào tính nhị nguyên hay nhị phân, như chúng ta thấy trong ‘quy luật
mâu thuẫn’. Lô gích Ấn Độ căn cứ trên mệnh đề bốn mặt: "là",
"không là", "không là và nhưng là", "là và nhưng không
là." Lô gích Trung quốc không bị giới hạn bởi ngôn từ nhưng bởi
những hình tượng hay biểu tượng diễn đạt những ý nghĩa phức tạp.
Trong khi đó, lô gích Nhật bản ra đời từ sự tiếp xúc gần gũi của
con người với thiên nhiên và sử dụng những hình ảnh tương quan đối
chiếu thu nhận từ quan hệ nầy .
Tuy nhiên, trong
cùng môi trường văn hóa, luôn có những trường hợp ngoại lệ, luôn có
những người suy nghĩ và hiểu biết khác với đa số còn lại. Ở phương
Tây, trong khi các triết gia và các nhà tư tưởng phần lớn sống trong thế
giới của các khái niệm trừu tượng hay những ‘tư tưởng thuần túy’,
vẫn có một số nhà khoa học và nghệ sĩ thật sự vĩ đại chuyên tâm
tìm hiểu toàn bộ cuộc sống bằng cách quan sát và tư duy. Nhưng sự hiểu
biết của các nhà khoa học và nghệ sĩ nầy bao hàm ý nghĩa là họ đã đồng
hóa với đối tượng, có khả năng đặt mình vào vị trí của đối tượng,
hay nói khác đi, có khả năng chuyển hóa không những đối tượng nghiên cứu
mà còn chính bản thân của họ nữa.
Dưới mắt chúng
ta, thế giới hiện ra như một môi trường gồm những cặp thái cực mà mới
thoạt nhìn có vẽ đối nghịch nhau chẳng hạn như ánh sáng và bóng tối,
gần và xa, lạnh và nóng, ồn ào và yên tĩnh, tốt và xấu. Đây là những
điều mà chúng ta không thể nào giải thích một cách đơn giản được.
Chúng ta cũng không nên xóa bỏ thái cực nầy và thiên về thái cực kia,
hay ra sức cải đổi toàn bộ thế giới này theo hướng nầy hoặc theo hướng
đối nghịch lại. Trái lại, điều quan trọng chúng ta cần làm là tìm ra
được một trung tâm sáng tạo nằm giữa các thế lực đối lập nầy để
đưa đến sự hợp tác hài hòa giửa chúng với nhau. Đây là điều có thể
làm được vì thực chất các lực đối lập này luôn cùng tồn tại trong
những quan hệ hỗ tương và tùy thuộc lẫn nhau.
Chúng ta hãy mượn
một ví dụ để làm sáng tỏ vấn đề này. Một sợi dây đàn vi-ô-lông
nối hai điểm đối lập ở hai đầu của cây đàn. Nếu chúng ta kéo quá
căng, tiếng đàn sẽ rít lên như tiếng thét. Nhưng nếu sợi dây quá
chùn, cây đàn sẽ không phát ra một âm thanh nào cả. Tuy nhiên, ở độ
căng vừa phải, không quá căng cũng không quá chùn, sợi dây sẽ phát ra một
âm thanh hài hòa và rõ ràng. Trong lãnh vực tâm linh cũng thế, chúng ta cần
tìm một quan hệ với độ căng thẳng vừa phải để tránh những cực
đoan, một bên là sự đình trệ, uể oải và bên kia là sự căng thẳng tột
độ.
Tính năng động
của vũ trụ tùy thuộc phần lớn vào sự tác động qua lại của một bên
là lực bám díu và một bên là lực buông thả. Lực bám díu thể hiện
ở sức đề kháng lại sự thay đổi mà chúng ta có thể gọi là "lực
bất biến" hay " ỳ lực". Ngoài ra, ở thế giới nhìn từ góc
độ vi mô hoặc vĩ mô, lực bám díu vận hành theo hướng quy tâm nhằm thu
hút mọi vật về phía nó. Trái lại, lực buông thả hình như luôn luôn hướng
về những vị trí và điều kiện liên tục thay đổi, còn được gọi là
sự biến thiên, thay đổi và hoán chuyển không ngừng, và trong thế giới
nhìn từ góc độ vi mô hoặc vĩ mô, chúng ta nhận ra lực buông thả nhờ
sức ly tâm của nó. Sự đấu tranh giữa hai lực đối lập bám díu và
buông thả nầy tạo thành một dòng vận động không ngừng kết hợp những
thay đổi và bất biến, hay nói khác đi, một dòng vận động theo hình
tròn xoắ鮠ốc
luôn trở về khởi điểm của nó, rất rõ nét và có thể dự đoán được.
Nó phô bày sự bất biến trong thay đổi, và do đó, hàm chứa không phải
sự hủy diệt mà là sự chuyển hóa, hay nói khác đi, sự thay đổi theo
quy luật nội tại của nó.
Dựa trên quy luật
vận động kết hợp lực bám díu và buông thả nầy, tất cả thiên thể
đều tự quay chung quanh cái trục của chính nó và di chuyển theo một quỹ
đạo ở những vị trí khác nhau nhưng khoảng cách giữa những thiên thể
nầy và quỹ đạo của nó thì luôn cố định (nguyên lý tĩnh lược hay
ellipse). Các thiên thể không bao giờ di động theo một đường thẳng. Tất
cả sự di động theo đường thẳng chỉ là hư cấu của tư duy trừu tượng.
Chỉ có tư duy trừu tượng mới chế đặt ra những khái niệm "thường
còn," "vĩnh hằng'" và nâng chúng lên thành những lý tưởng
tuyệt đối. Nhưng gần như mọi tôn giáo đều bắt nguồn từ loại tư
duy trừu tượng này. Chúng dựa trên những tư tưởng mơ mộng, lừa dối
con người bằng những lời hứa hảo huyền hoàn toàn đi ngược với thế
giới tự nhiên và những gì có thể quan sát được. Cái tệ hại nhất
là chúng làm con người tin rằng chỉ có con ngườiới thoát được khỏi
sự chi phối của quy luật tự nhiên và con người có một linh hồn ‘bất
tử’ có thể trường tồn vượt qua tất cả sự thay đổi và chuyển
hóa mà không một chúng sanh nào khác có được.
Trái lại, tư
tưởng Ấn độ xem mọi vật, hữu tình hay vô tình, là một thể hiện độc
đáo của một bản thể toàn thiện#273;ược cấu tạo bằng vô số quan
hệ chằng chịt. Đây chính là "thuyết duyên sinh"mà Đức Phật đã
dạy. Tất cả những gì nằm ngoài những quan hệ này, và tất cả những
gì không có quan hệ sinh khởi với nhau, đều là không thật vì nó chỉ tồn
tại trong tư tưởng con người chứ không có liên hệ gì đến thực tế
cuộc sống. Do đó, thật là phi lý khi có người đưa ra một khái niệm về
một đấng "tuyệt đối". Vi荊 thực chất đây là một suy đoán hoàn toàn trừu
tượng và chỉ được sử dụng bởi những người tránh không dám xác định
nó là cái gì vì bản thân họ không thể đưa ra một lời giải thích
trung thực nào.
Vì thế, Ngài
Long Thọ (Nàgàrjuna) đã nhất quán khi áp dụng cái nhìn cơ bản của Đức
Phật về vạn pháp--đó là tất cả các Pháp (tất cả các nhân tố cấu
thành thực tại) là "vô ngã" (anatman) để tìm hiểu về
thực tại khách quan của cuộc sống. Ngài Long Thọ làm việc này không phải
là để "Ấn hóa" đạo Phật một lần nữa như một số nhà văn
thuộc trường phái Radhakrishnan đã lên án, mà chỉ để phản bát ý kiến
của Nhất thiết Hữu bộ (Savàstivàdin) cho là các pháp đều có "bản
chất tồn tại của riêng nó" (sarva asti hay mọi vật là như nó
đang tồn tại). Điều nầy (ý kiến của Nhất thiết Hữu bộ) dường
như mâu thuẫn với lời Phật dạy là "tất cả các pháp là vô ngã’
(sabbe dhammà anattà). Tôi nói "dường như’" bởi vì mọi vật
mà chúng ta nhận biết được chỉ tồn tại thuần túy như một nhận biết
mà không có một thực chất nào gắn liền với nó. Nó tồn tại như một
hiện tượng tự nó liên tục tái diễn. Nhưng nếu chúng ta bắt đầu với
khái niệm thực chất thì chúng ta phải đồng ý về mặt lô gích rằng
không có gì tồn tại ‘tuyệt đối’ (nghĩa là tự nó tồn tại ngoài
lãnh vực nhận biết của chúng ta), và vì thế về bản chất mọi thứ đều
trống không (sunya) nghĩa là không có bản ngã đơn lẻ tự nó
như được nói trong lý thuyết của Ấn độ giáo về linh hồn (atman).
Về sau nầy có
sự kiện các nhà tư tưởng theo Ấn độ giáo bổ sung của học thuyết tính
không trong kinh Vệ Đà (sunyavada)ﬠbằng cách lấy triết học của
Ngài Long Thọ làm cơ sở cho thuyết Vô nhị (Advaita) của họﬠvà biến tính
không (sunyata) thành một lý tưởng tuyệt đối. Đây không phải là lỗi
của Ngài Long Tho mà là lỗi của Sankaràcàrya, người đã cố ý bóp méo lời
dạy của Ngài Long Thọ để đưa nó vào thuyết Vô nhị của mình. Rồi
sau đó, ông dùng lý thuyết này để diễn giải kinh Vệ đà mà không nhận
rằng mình đã ăn cắp học thuyết ti鮨 không (sunyavada) của ngài Long Thọ. Để phủ
lấp vấn đề này, Sankaràcàrya đã nói nói xấu Phật giáo và thô bạo tấn
công đức Phật, và qua việc làm nầy, ông ta đã tự mình đứng ngoài
truyền thống bao dung vốn rất được tôn trọng ở Ấn độ. Sankaracarya
chắc chắn là một học giả vĩ đại, nhưng ông còn "vĩ đại
hơn" trong việc ăn trộm văn chương và tư tưởng của người khác. Người
nào tìm cách vu khống Ngài Long Thọ là một "người mạo danh đạo Phật
để Ấn hóa đạo Phật," và cho khái niệm tính không của ngài Long
Tho là tuyệt đối (nghĩa là tồn tại ngoài thực tại thể nghiệm của
chúng ta) quả thật người nầy không hiểu chút nào về sự khác biệt giữa
học thuyết vô nhị trong trong đạo Phật và học thuyết vô nhị của Ấn
giaó. (Footnote: Ngài Long Tho luôn cho sự thành hình của khái niệm tính
không là "không..." và khuyên chúng ta nên xem khái niệm tính không
cũng là không hay không-không hay sunyata-sunyata)
Khi nói đến tánh
không (sunyata), ngài Long Thọ muốn chứng minh rằng chúng ta không thể
nào dùng những khái niệm trừu tượng và không thể nào dùng triết học
đễ hiểu được cái chân lý tuyệt đối (chân đế), vì trong cảnh giới
của chân lý tuyệt đối, chỉ có kinh nghiệm phủ trùm và sự cảm nhận
về những quan hệ vô cùng tận: do đó, "tính không" thoát ra khỏi
mọi định nghĩa bằng khái niệm và hàm ý về một cảnh giới "trùng
trùng duyên khởi."
Chìa khóa để
hiểu giáo lý Trung Luận và Tính Không (madhyamaka-sunyavada) của
ngài Long Thọ nằm trong thuyết Thập nhị nhân duyên (pratitya-samutpada),
một công thức nổi tiếng về duyên khởi đồng thời, nhân quả nghiệp
báo, và tính tương tác và tương nhập của tất cả các pháp. Về cơ bản,
giáo lý Trung Luận và Tính Không chủ trương lọai bỏ bất cứ niềm
tin nào vào khái niệm tuyệt đối cũng như mọi tư duy suy đoán trừu tượng,
bởi vì khái niệm tuyệt đối và tư duy trừu tượng luôn vận hành ngoài
lãnh vực của sự thể nghiệm. Thái độ đó chứng minh rằng Phật giáo
là một hệ thống giáo lý thành hình từ kinh nghiệm chứng ngộ, chỉ quan
tâm đến những gì xảy ra trong thực tại, và trong ý nghĩa đó, chỉ quan
tâm đến những gì đang vận động và không để ý đến thành
quả của những tư tưởng suy đoán. Việc tự bác bỏ mọi tư duy suy đóan
trừu tượng nầy làm cho Phật giaó có một giá trị phổ biến cho tất cả
mọi người và giúp đạo Phật thoát khỏi chủ nghĩa giáo điều thần học
mà thật ra chỉ xuất phát từ lòng tin mù quáng và những mơ ước ảo huyền.
Phật giáo không hề
bác bỏ khả năng có thể đạt đến những trình độ tâm thức hay những
cảnh giới tâm linh cao cấp. Nhưng Phật giáo chỉ quan tâm đến những điều
mà con người có thể chứng ngộ và đạt đến trong khả năng của họ,
không phải bằng những học thuyết hoàn toàn mang tính suy đoán về thế
giới thần thánh, hay về một đấng toàn năng sáng tạo ra vũ trụ mà thật
ra chỉ là một hình ảnh con người được lý tưởng hóa và chỉ khác ở
chỗ là hình ảnh con người lý tưởng nầy được thổi phòng lên thành
vô hạn. Mặt khác đức Phật không bao giờ phản đối bất cứ niềm tin
vào nhất thần hay đa thần miễn là niềm tin nầy giúp con người trở렮ên tốt hơn. Và Đức Phật cũng không bao giờ bàn cãi
về những vấn đề thần học. Ngài là người vô thần không phải theo
nghĩa của chủ nghĩa hư vô hay duy vật, và ngài cũng không phải là người
theo thuyết nhất thần. Ngài cũng không thuyết về thuyết nhất thần duy
tâm hay duy vật, nhưng ngài trân trọng niềm tin của mọi ngườiﬠbởi vì
ngài biết rằng điều quan trọng không phải là những gì con người tin
tưởng-- mà trái lại, những gì con người làm (hành động) mới
là điều quyết định. Nhưng những gì con người làm phải đi đôi với
những gì họ tin tưởng, nói khác đi, vơí những gì họ thuyết giảng và
thể hiện qua cách sống﮼/font>
Nhưng ý
nghĩa của chữ "hành động" trong Phật giáo là gì? Chính đức Phật
đã cho chúng ta một định nghĩa. Theo định nghĩa nầy, hành động không
có nghĩa là một hành vi được thể hiện ra bên ngoài mà luôn luôn là những
gì chúng ta làm vơi頣hủ tâm và hoàn toàn ý thức về việc nầy. Cái khác
biệt giữa hành động (trong nghĩa nầy) và hành vi thể hiện ra bên ngoài
là cái ý chí nằm phía sau đó. Chỉ khi nào hành động có ý thức, nó mới
là một hành động có tác dụng thật sự, hay nghiệp (karma), sinh khởi từ
quyết định có chủ tâm (cetana hay tác ý) như đọ⮧ cơ của hành động.
Chỉ trong ý nghĩa này chúng ta có thể hiểu những gì mà Tỳ kheo Na Tiên
(Nàgasena), trong quyển Những câu hỏi của vua Milinda, muốn nói
khi ông cho rằng một người sát hại với tâm không cố ý không phải là
kẻ sát nhân, nhưng nếu ai đó dùng gươm đâm xuyên qua một tổ ong vi蠣ho rằng tổ ong là một con
người thì, với sự cố tâm này và về mặt nghiệp báo, người đó mang
tội cố sát. Chính vì thế mà chủ tâm là cái quyết định về cái nghiệp
trung tính (không thiện không ác), hoặc thiện hay bất thiện của một
hành động.
Thế giới
quan của Phật giáo dựa trên nhận thức rằng mọi tồn tại đều vô thường
(thay đổi liên tục) và tính vô thường này tiến hành theo một quy luật
vận hành phổ biến trong vũ trụ. Chúng ta có thể thấy rõ ràng sự vận
hành của quy luật vô thường này trong giáo lý Thập nhị nhân duyên
(pratitya-samutpada), trong giáo thuyết về Nghiệp và tái sanh, trong
trách nhiệm đạo đức của con người và trong sự tự do quyết định của
cá nhân mà quy luật này đề cập đến.
Khái niệm
về vô thường (anicca) trong kinh tạng Pali (Phạn ngữ là anitya),
mà ở đây chúng ta dịch là "sự thay đổi," thường được đồng
nghĩa với "sự chóng qua" hoặc "tạm thời." Thật ra, nghĩa
thật của nó là "không kéo dài" hay "không mãi mãi." Vì thế,
từ vô thường (anicca) không chỉ bao gồm khái niệm "tạm thời
và mau qua" với ít nhiều ý phủ định và tiêu cực mà còn chứ đựng
khái niệm "đang trở thành" một cái gì mới mẻ và khác lạ đầy
sáng tạo tích cực và hướng về phía trước. Do đó, nếu chúng ta đau khổ
vì không thể giữ lại, nắm bắt, và bám díu vào những gì vượt khỏi tầm
tay chúng ta, đó không phải là lỗi của cuộc đời mà là kết quả của
thái độ sai lầm, bị sai sử bởi lòng ích kỷ của chúng ta đối với cuộc
sống hiện tại. Mục tiêu của Đức Phật là làm cho chúng ta thấy rõ thực
tại như nó đang hiện hữu, để mà chúng ta nhận thức được và chấp
nhận nó. Vì thế, Đức Phật đã bác bỏ tất cả những niềm tin dựa
trên những mơ tưởng ảo huyền và không đúng chút nào với chân lý được
thể nghiệm một cách vô tư và không định kiến.
Như chúng
ta đã thấy, thực tại là một tiến trình thay đổi và chuyển hóa liên tục.
Không gì có thể thoát khỏi tiến trình nầy, ngay cả cái mà chúng ta gọi
là cái ‘tôi’, ‘linh hồn’ hay ‘tự ngã’ của chúng ta. Vì thế, thật
là phi lý và ngớ ngẩn nếu có những ai đó muốn bàn cải về sự đầu
thai và luân hồi (Seelenwanderung) của một linh hồn bất tử trong Phật
giáo. Nếu bị bắt buộc phải dùng những từ ngữ đại loại như thế,
thì có lẽ tốt nhất, chúng ta nên dùng từ "chuyển hóa của linh hồn"
(seelenwandlung). Nhưng ‘linh hồn’ trong nội dung nầy không có nghĩa
là một cái gì sống rày đây mai đó, bất tử, trường tồn, bất biến,
mà là một tổng thể, hay đúng hơn, là toàn bộ những năng lực tâm lý
hay xung lực tâm lý mà đạo Phật đã đề cập và thuyết giảng trong
hàng ngàn năm và ngày hôm nay, cũng đã được công nhận bởi khoa tâm lý頨ọc hiện đại.
Trong thế
giới tâm linh đa dạng và phong phú của thời đức Phật còn tại thế, sở
dĩ Phật Pháp có được vị trí cao hơn tất cả các trường phái tôn
giáo khác là nhờ đức Phật đã nhận ra được tính chất năng động của
cuộc sống bằng chính kinh nghiệm chứng ngộ của ngài. Nhìn lại quá khứ,
chúng ta thấy rằng Đức Phật đã nhìn cuộc đời hoàn toàn trái ngược
lại với cái nhìn của người đời thường. Đó là cái nhìn bắt nguồn
từ nhân sinh quan "vô ngã", trong đó cuộc sống là một dòng chảy
liên tục sinh sinh diệt diệt của các Pháp hay của tất cả các yếu tố
cấu tạo thành sự hiện hữu (Dharmas). Trong thế giới nầy, không có chỗ
cho những khái niệm như "có" và "không". Khi Đức Phật biến
học thuyết vô ngã (anatman) thành trung tâm giáo lý của mình,
ngài đã làm một cuộc chuyển đổi từ cái nhìn tĩnh hay bất động
(như được trình bày trong Áo Nghĩa Thư, Upanisads) sang cái nhìn
động hay năng động về thế giới nầy, từ việc nhấn mạnh
vào sự tồn tại (Sat) sang việc nhấn mạnh vào tiến trình
trở thành (bhava), từ khái niệm về một cái ngã bất biến
thường hằng sang việc công nhận sự tùy thuộc và điều kiện hóa
lẫn nhau của tất cả các hiện tượng đời sống trong quá trình sinh
diệt của nó (học thuyết duyên sinh vô ngã)--từ quan niệm về
một quá trình phát triển hoàn toàn máy móc sang khả năng phát triển và tự
vượt lên chính mình của con người.
Do đó, từ
niềm tin vào sự tái sinh và luân hồi của linh hồn bất tử trong Áo
Nghĩa Thư , ở đây, chúng ta tìm thấy sự khẳng định chắc chắn bằng
kinh nghiệm thực chứng về sự chuyển hóa của linh hồn. Nhưng chính ở
điểm nầy mà nhiều Phật tử phương Tây gặp khó khăn. Họ muốn nói về
thuyết ‘tái sanh không có linh hồn’. Nhưng điều này là vô lý giống như
khi chúng ta nói về "tâm lý học mà không đề cập đến thế giới tâm
linh của con người." Đã đến lúc chúng ta hãy chấm dứt thành kiến
của những Phật tử đầu tiên ở Âu châu đã đồng hóa khái niệm ‘linh
hồn’ với khái niệm về cái tôi hoặc cái ngã biệt lập và thường hằng.
Làm như thế, họ đã lấy mất đi khỏi văn minh phương Tây một từ ngữ
rất đẹp và sâu sắc--như từ Psyche trong tiếng Hy lạp (tạm dịch là
Tâm linh hay Tâm thức) hàm ý nghĩa về một tổng thể toàn vẹn và mang
tính hữu cơ bao gồm tất cả năng lực tâm linh đang vận hành và phát triển
bên trong mỗi người chúng ta.
Có quan niệm
cho rằng đối với đa số các Phật tử phương Tây, thuyết tái sanh chỉ
là một giả thiết cần được minh chứng. Những người theo quan niệm nầy
đã không thấy rằng phần lớn những người đến với Phật giáo chính
là vì họ tin tái sanh là có thật và tin ở tác động của quy luật nghiệp
báo. Vì nếu không tin ở tái sinh và nghiệp báo, lời dạy của đức Phật
sẽ thành phi lý vì điều này hàm ý là cái chết頳ẽ tự động hủy diệt và chấm dứt tất ca,렶à điều nầy sẽ làm cho tất
cả sự phấn đấu của con người trên đường tu tập là hoàn toàn vô
nghĩa.
Từ vô
ngã (anatman) chiếm một vị trí then chốt trong giáo lý nhà Phật.
Trong đạo Phật, Vô ngã có nghĩa là không tuyệt đối hoàn hảo, là
tất cả các yếu tố cấu tạo thành thực tại và tất cả các hiện tượng
tự nó không có thực chất, và do đó, bao hàm ý nghĩa là, tất cả những
yếu tố cấu thành thực tại và các hiện tượng là vô biên, tùy thuộc
lẫn nhau, và luôn tiềm tàng khả năng thay đổi và chuyển hóa. Khả năng
biến đổi, chuyển hóa, và luân lưu nầy chính là sự sống; trái lại, bất
động và cứng nhắc là đặc tính của sự chết chóc và hủy diệt. Ngày
nào chúng ta càng bám díu vào "sự hiện hữu của chính chúng ta",
ngày đó chúng ta càng tự đưa mình đến gần với cái chết. Bởi vì cái
mà chúng ta gọi là "sự hiện hữu" thật ra là một tiến trình
sinh diệt liên tục bị điều kiện hóa, một tiến trình chuyển hóa trong
đó không có cái đứng yên cũng không có cái đổi khác, không có cái nào
hoàn toàn mới mẻ và củng không có nào bị tuyệt đối tận diệt.
Thuyết duyên
khởi trong đạo Phật nên được hiểu theo nghĩa khả năng nhân duyên là
vô tận, chứ không phải là tương đối, và qua đó, chúng ta sẽ không
làm suy giảm hay hạ thấp các giá trị hay hiện tượng đang tồn tại. Chúng
ta có thể giải thích thuyết duyên khởi về cả hai mặt không gian và thời
gian, hay nói khác đi, thuyết duyên khởi có thể vận hành vừa trong khuôn
khổ thời gian và không gian vừa vượt qua mọi không gian và thời gian, nghĩa
là nó vận hành một cách đồng bộ. Trong quá khứ, nhiều học giả đã
không hiểu được nghĩa lý thâm sâu của giáo lý duyên khởi và những người
diễn giaỉ Phật pháp từ nhiều gốc độ khác nhau nhưng hơì hợt đã
luôn giai렴hích thuyết
duyên khởi như là một công thức dựa trên "nhân quả". Họ nghĩ
rằng giải thích như thế, họ sẽ biến đạo Phật thành một tôn giáo
"khoa học." Nhưng họ không thể hiểu rằ讧 quan hệ nhân quả và quan hệ đồng thời không
loại trừ lẫn nhau--đây là điểm mà chính Đức Phật trở lại khi ngài
tuyên bố là lý Duyên khởi (pratitya-samutpada) phải được hiểu sâu
sắc hơn và không thể chỉ hiểu như một chuỗi tương quan nhân quả trên
bình diện không gian và thời gian, nói khác đi, phải được hiểu như là
sự tuỳ thuộc nội tại của tât頣ả mọi hiện tượng vào tất cả mọi hiện tượng khác.
Trong Trường bộ kinh (Digha Nikaya15), khi tôn giả Ànanda tuyên bố rằng
giáo lý duyên khởi là dễ hiểu và thỏa đáng về mặt lý thuyết, và từ
đó, diễn giải nó thuần túy theo quan hệ nhân quả dựa trên thời gian,
Đức Phật đã phản bác và khuyên tôn giả nên chú ý đến sự thâm sâu
và khó hiểu của giáo lý này.
Thuyết
Duyên khởi (pratitya-samutpada) luôn được xem là một trong những giáo
lý trung tâm của Đạo Phật. Như chúng ta có thể thấy được trong phần
bình luận giới thiệu (karikas) về Trung Đạo của Ngài Long Thọ,
thuyết Duyên Khởi chính là nền tảng của giáo lý nầy. Trong triết học
Trung đạo, ngài Long Thọ phản bác cách diễn giải một chiều về giáo
lý Duyên khởi dựa trên thời gian và không gian và phục hồi lại ý nghĩa
sâu sắc hơn của từ sam-utpada, tạm dịch là sinh khởi như Đức Phật
đã dùng để thuyết giảng lúc đầu. (Foot note Samutpada (Phạn ngữ)
và Samuppada (Pali) có nghĩa là "sinh khởi": sam- là tiền
tố có nghĩa là viên mãn và thống nhất; utpada có nghĩa là "nảy
sinh và xuất hiện.") Theo nghĩa nầy, duyên khởi bao hàm ý nghĩa vừa
quan hệ nhân quả vừa quan hệ điều kiện đồng thời. Điều nầy giải
thích tại sao đức Phật không luôn khe khắt giữ cho được theo thứ tự
thời gian từ chi phần thứ nhất (vô minh) đến chi phần cuối cùng (sanh
lão tử sầu bi khổ ưu não) trong giáo lý Thập nhị nhân duyên
(pratitya-samutpada). Làm như thế, Ngài chỉ rỏ tính tương đối của yếu
tố thơì gian trong giáo lý duyên khởi. Và cũng vì thế mà Ngài Long Thọ
đã xưng tán một cách chính xác như sau:
- Không khởi cũng không diệt.
- Không thường cũng không
đoạn.
- Không cùng cũng không
khác.
- Không đến cũng không
đi.
- Do vậy Ngài dạy mọi vật
có quan hệ và xảy ra đồng thời,
- Hãy yên lặng dập tắt
mọi hý luận, tranh cãi,
- Trước Đấng Giác Ngộ,
bậc tối thắng trong các đại đạo sư,
- Con quy phục tự thân.
Khi đã
chấp nhận những tiền đề nầy, chúng ta đã bắt đầu đi đúng hướng
trên đường tu học. Chúng ta sẽ nắm bắt cái căn bản then chốt của Phật
Pháp, và chúng ta có thể vững tâm đi trên con đường thiền định. Đạo
Phật luôn xem tư duy trừu tượng (ý căn) như căn thứ sáu trong sáu căn của
chúng ta và dạy chúng ta sử dụng nó một cách đứng đắn. Nhựng tư duy
con người ngày nay đã bị nứt vở ra và đi lạc hướng. Tư duy của con
người đã trở thành "tư duy về tư duy," và bị cuốn hút trong
nhiều tầng lớp tư duy về tư duy về tư duy về tư duy.... Vì thế nó đã
mất hết sự gần gũi và trực tiếp với cuộc đời và như vậy cũng mất
đi khả năng chuyển tải những biểu tượng thể hiện trực tiếp từ cuộc
sống.
Vì thế,
bây giờ chúng ta phải trở về với việc sử dụng tối đa khả năng tư
duy trừu tượng bằng cách áp dụng nó một cách đúng đắn, vì trí thức
mà chỉ phát huy một nửa là một chướng ngại lớn nhất cho con đường
phát triển tâm linh. Chỉ khi nào chúng ta vượt qua được giới hạn của
tư tưởng bằng chính tư tưởng, và khi tri thức có thể nhận định và
phê phán chính nó, lúc đó, tri thức mới hỗ trợ thật sự cho đới sống
tâm linh. Rồi nó sẽ vận hành như bánh lái của một con tàu, chỉ hoạt
động khi con tàu chuyển động để đi tới và hoàn toàn bất lực nếu
con tàu đứng yên một chỗ. Nói khác đi, tri thức và tư tưởng chỉ có
giá trị khi nó được thúc đẩy bởi một động lực tâm lý sinh khởi từ
kinh nghiệm chứng ngộ nội tại, nghĩa là khi con người đang có những tiến
bộ trong tu tập nội tâm và đang tìm cách vượt lên trên chính mình. Chỉ
với sự vận công tu tập như thế, tư duy trừu tượng mới hoàn thành đúng
những nhiệm vụ của nó, đó là việc sắp xếp thứ tự, so sánh và phân
biệt, lựa chọn với tinh thần phê phán, và duy trì đúng hướng đi đã
chọn.
Một người
chỉ biết hành động vì tình cảm thì giống chiếc tàu không lái. Còn người
chỉ biết có tư duy trừu tượng thì giống như con tàu không có nhiên liệu,
và vì thế, bánh lái của nó không thể làm gì khác hơn là tạo ra những
chuyển động đi tới đi lui không định hướng cho đến lúc kiệt quệ như
một bánh xe răng cưa bị sút khỏi guồng máy mà thôi. Và nếu chúng ta tiếp
tục sử dụng hình ảnh nầy, một người suy nghĩ nửa chừng giống như một
vị thuyền trưởng chỉ biết bẻ tay lái về một phía và vì thế chiếc
tàu cứ xoay vòng vòng. Nhưng tư duy nửa vời chính là khả năng tư duy của
một người bình thường ở đời. Để vượt qua vấn nạn này, chúng ta
không được quăng bỏ đi tri thức của mình mà phải làm cho nó hoàn chỉnh
hơn, nghĩa là, không một chiều bằng cách giải phóng tư duy chúng ta ra khỏi
những lối mòn và tìm cách sử dụng tối đa những khả năng sẵn có của
nó. Chỉ với cách tu tập này, chúng ta mới có thể phá vở được vòng
luân hồi đơn điệu nghiệt ngã, liên hệ và tiếp xúc được với tất cả
những gì đang hiện hữu, để rồi khi đạt đến giới hạn cuối cùng của
khả năng tư duy và tưởng tượng, chúng ta sẽ can đảm bước vào cảnh
giới viên mãn và toàn thiện ngay chính trong con người của chúng ta.
Nếu chúng
ta muốn khắc phục thái độ trí thức giới hạn của mình, trước hết,
chúng ta phải phát huy tối đa năng lực tư duy và khả năng phân biệt. Con
người không thể nào vượt lên trên tri thức nếu người đó chưa có
được tri thức hoặc chưa bao giờ kiểm soát được tri thức. Tư tưởng
rất cần để giúp con người vượt qua trạng thái đa cảm hay tâm thần rối
loạn giống như trực giác rất cần để giúp con người vượt lên trên
những giới hạn của tri thức và sự trói buộc của các khái niệm trừu
tượng.
Thoạt nhìn
thì dường như là một nghịch lý khi Thiền tông, một trường phái Phật
giáo ở Viễn Đông đặc biệt xem thường vai trò của tri thức, lại được
sự hưởng ứng của giới trí thức nhiều hơn là của giới bình dân. Tuy
nhiên, cũng như tất cả蠣ác trường phái khác trong Đạo Phật, Thiền tông có cơ
sở hợp lý của nó. Nó không dựa trên niềm tin hay trên những giáo điều
cứng nhắc, mà chỉ dựa trên kinh nghiệm trực tiếp (thực chứng) và sự
quán sát vô tư không bị định kiến ràng buộc. Tuy nhiên, như là một trường
phái Phật giáo, Thiền tông lấy trực quán làm nền tảng như tất
cả các trường phái Phật giáo khác. Nếu không có trực quán, Thiền
tông sẽ không phải là "Thiền tông." Cái nền tảng chung nầy dựa
trên sự thể nghiệm, mà sự thể nghiệm là nơi mà khoa học và sự huyền
bí gặp gỡ. Sự khác biệt duy nhất giữa khoa học và sự huyền bí là
chân lý khoa học, nhắm vào đối tượng bên ngoài và có thể chứng minh một
cách "khách quan", trong khi sự huyền bí hướng về bên trong chủ
thể và dựa trên kinh nghiệm "chủ quan" của người đó mà thôi.
Như tất cả
các trường phái Phật giáo, Thiền tông tránh xa những định kiến, giáo
điều, tín điều, cùng với tất cả những gì thường mệnh danh là"tôn
giáo". Thái độ nầy hấp dẫn nhiều người có khuynh hướng khoa học
và chống lại các hình thức tôn giáo hiện nay. Việc đặt nặng tính
cách cá nhân trong phương pháp tu tập--điểm nổi bật nhất của Thiền tông
Á Đông so với các tông phái Phật giáo khác, tạo ấn tượng lớn trên giới
trí thức cũng như việc nuôi dưỡng và vung trồng nét đẹp và tình cảm
gần gũi với thiên nhiên của Thiền tông cũng đã thu hút các nhà mỹ học
hiện đại. Nhưng vì Thiền tông chỉ có thể thỏa mãn phần nào thị hiếu
khoa học và mỹ học của con người hiện đại, có nguy cơ là người ta sẽ
hiểu và đánh giá Thiền tông một cách hời hợt, chỉ vay mượn những hình
thức thể hiện bên ngoài, và không thể hiểu đúng đắn nội dung sâu sắc
của giáo lý Thiền.
Ngay từ thời
kỳ đầu của lịch sử Phật giáo, các luận sư cũng dùng nguyên tắc nghịch
lý để phá vở và đánh đổ những giới hạn và ràng buộc của tư duy
trừu tượng. Toàn bộ văn chương kinh điển Đại Thừa có rất nhiều
thí dụ về hiện tượng nầy, như trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Chuyện
về các vị du tăng Mật giáo (Siddhas), và các bài chú niệm trong
Mật giáo. Nhưng tất cả những nghịch lý nầy đều nhằm mục đích gây
chấn động trong tư duy con người và tháo nó ra khỏi những mô hình tư
tưởng củ rích dựa trên những suy nghĩ ước lệ và giáo điều xơ cứng.
Đó là ý nghĩa, công dụng, và giá trị tâm linh của phương pháp nghịch
lý. Nhưng nếu việc sử dụng nghịch lý trở thành một trò chơi trí thức,
nó sẽ thất bại trong mục tiêu và chỉ dẫn đến sự hoài nghi yếm thế
và hủy diệt mọi giá trị tốt đẹp trong đạo Phật.
Đây là chỗ
mà các bộ phái Phật giáo Nguyên thủy khác với thái độ tự hào của
các nhà trí thức hiện đại luôn cho là mình không còn bị ràng buộc bởi
các giá trị truyền thống và tín ngưỡng. Tất cả trường phái Phật
giáo dù là Thiền tông Trung quốc hay Thiền tông Nhật bản bao giờ cũng đề
cao phẩm cách và giá trị của con người và tất cả chúng sanh khác dù những
chúng sanh nầy nhỏ nhoi và thấp bé đến độ nào, bởi vì họ đã nhận
ra rằng bất cứ hình thái nào của cuộc sống, với những nét độc đáo
của nó, đều là tụ điểm của tất cả sức sống tiềm tàng trong vũ trụ.
Đây là đặc điểm giống nhau của tất cả trường phái Phật
giáo--không theo thuyết bất khả tri và cũng không theo chủ nghĩa tự do tuyệt
đối như con người của thời hiện đại--những người mà thực chất đã
mất niềm tin ở chính họ và cuộc sống chung quanh họ. Do đó, Phật giáo
cho ngày hôm nay và hướng về tương lai phả詠luôn luôn khơi dậy những niềm tin sâu sắc và
lâu đời nầy trong nhận thức của nhân loại--niềm tin đến từ sự thể
nghiệm sức sống của vạn pháp (dharma) và cái nghỉa lý xuyên suốt
và phũ trùm vạn pháp trong đó, kinh nghiệm tự chứng của một cá nhân cũng
quan trọng như bất cứ quy luật trừu tượng nào. Điều nên nhớ là
chúng ta không nên lầm lẫn vạn pháp và nghĩa lý xuyên suốt của nó với
khái niệm "mục đích" trong chủ thuyết cho rằng thế giới nầy
được tạo ra và sẽ hoại diệt theo một kế hoạch và mục đích được
định sẳn (Teteology).
Đã đến
lúc phương Tây nhận ra rằng muốn biết tại sao các trường phái Đại thừa
thường hay phá ước lệ, chúng ta phải hiểu rằng Đại thừa là một hệ
thống tư tưởng siêu hình sâu sắc và đầy sức sống đến mức độ nó
có khả năng phá bỏ đi những khái niệm ước lệ. Các vị du tăng Mật
giáo (Siddhas) bác bỏ những lý thuyết giáo điều và hình thức tôn
giáo xưa cũ không phải vì họ là người theo chủ nghĩa hoài nghi hay thích
thú làm kinh động người khác bằng những lời nói và hành động có
tính xúc phạm, nhưng vì nội tâm của họ đã thuần thục và vững vàng
sau khi kinh qua một quá trình thể nhập thực tại sâu sắc. Người ta chỉ
"tin" vào những điều khi người ta chưa chắc về nó. Không ai cần
phải "tin" ở mặt trời, vì ai cũng thấy mặt trời, cảm nhận
được sức ấm của nó, và được sống trong ánh sáng của nó. Cũng thế,
người Phật tử sẽ không hoài nghi về giá trị của sự chứng ngộ cho
dù họ có thể hoài nghi về nhiều pháp môn đã được vận dụng trong lịch
sử phát triển của đạo Phật.
Như vậy trách nhiệmủa
các trường phái Phật giáo trong thời đại chúng ta là mở ra và giúp cho
loài người hiện đại tiếp cận trực tiếp với các giá trị và sức mạnh
đã tạo nên nền tảng văn hóa, tôn giáo, và các phương pháp hành thiền
Phật giáo. Nhưng những ai không thể tiếp cận và liên hệ với những sức
mạnh và giá trị Phật giáo nầy mà vẫn ra sức áp dụng những phương pháp
tu tập của Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, và Kim Cương Thừa trong sự
trống vắng tâm linh, họ sẽ không thể nào tiến xa hơn ngoài việc lẩn
quẩn với những trò chơi lý luận mang tính tôn giáo của người trí thức
hay những màn kịch tôn giáo màu mè mang tính thẩm mỹ hời hợt. Trong trường
hợp nầy, Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, hay những lời dạy của các
vị du tăng Mật giáo chỉ được dùng để biện minh cho nếp sống mà họ
đã chọn, họ chỉ mặc áo mới cho thái độ sống cũ rích của mìnhà
thôi. Trong lối sống tôn giáo hời hợt nầy, sự mất tự chủ hay thất
niệm được gán cho cái tên mới là tính hồn nhiên và tinh thần tự
phát, sự yếu đuối về tâm linh mang tên là tinh thần bất bạo động, sự
lười biếng giải đãi được ca ngợi là nếp sống vô vi, và sự phi lý
và không lô gích được xem là sự thành tựu sâu sắc về tâm linh và có
khả năng "vượt qua nhận thức tư duy trừu tượng", sự đa cảm
và tưởng tượng vu vơ, ngông cuồng và rồ dại được ca ngợi như là
" nguồn cảm hứng bất tận."輯font>
Do đó,
việc đưa Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, và giáo lý của các vị du
tăng Mật giáo vào toàn bộ truyền thống tín ngưỡng Phật giáo cho người
phương Tây làm cơ sở giáo lý cho việc tu tập phát triển tâm linh sẽ chỉ
thành công nếu chúng ta thực hiện điều này với một thái độ tín ngưỡng
chân thành, xem đây là cơ sở của truyền thống Phật giáo vẫn đang âm
thầm vận hành trong cuộc đời nầy, rôi蠴ừ đó xác định hướng đi của chúng ta, đi vào
tận chiều sâu của tâm thức và qua đó, chuyển hóa cuộc đời của chúng
ta. Chỉ bằng cách nầy thôi, chúng ta mới mong ngày càng mở rộng kinh nghiệm
chứng ngộ, có cái nhìn trực quán vào bản thể thực tại, để rồi cuối
cùng chứng đắc tri kiến như thật mang tên là Trí Tuệ Bát nhã Ba la mật
đa(Prajĩàpàramità).
Tổ
dịch thuật Trúc Lâm
Tổ dịch thuật Trúc Lâm (TDTTL) là
nhóm dịch thuật gồm một số tăng, ni, và cư sĩ Phật giáo. Mục đích
chính của TDTTL là giới thiệu những tác phẩm Phật học có giá trị về
kinh nghiệm tu tập cũng như về giáo lý Phật pháp của các tu sĩ Phật giáo
và tác giả Phật học phương Tây với đọc giả Việt Nam. TDTTL rất mong
nhận được sự góp ý và chỉ giáo của quý bạn đọc. Địa chỉ email: lotus@colba.net
Xin chân thành cám ơn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/138-trucquan.htm