...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Lời nói
- Cư sĩ Chính Trực
- Lời nói chẳng mất
tiền mua
- Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau.
- Tâm buồn chẳng nói lời nào,
- Tâm vui lời nói ngọt ngào dễ
thương.
- Có thương yêu, bao nhiêu cũng
được,
- Hết thương rồi, nói ngược nói
xuôi.
- * * *
- Lời nói dễ mích lòng nhau.
- Lời nói chân thật ngọt ngào
tình thương.
- Có tình thương nói gì cũng dễ.
- Hết thương rồi bất kể nói
chi.
- Nói nhiều tâm khởi sân si.
- Bằng như không nói từ bi ai tường.
Trong cuộc sống hằng ngày, để có thể hiểu nhau biết
nhau, trao đổi tin tức, phổ biến văn hóa, con người dùng ngôn ngữ, tức
là: chữ viết và tiếng nói. Đôi khi, không cùng chữ viết, cũng không
cùng tiếng nói, nhưng con người cũng có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu,
cử chỉ, nét mặt, thái độ, hay giọng nói. Một vấn đề lớn đối với
các gia đình người Việt sống ở hải ngoại chính là: Vấn Đề Ngôn Ngữ.
Đối với thế hệ trước, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, cho nên rành rẽ
rõ ràng, còn tiếng địa phương thì không thông thạo. Đối với thế hệ
sau, tiếng địa phương thì thông thạo, tuy tiếng Việt cũng là tiếng mẹ
đẻ, nhưng nói thì vấp váp, gượng gạo, ngọng nghịu. Tại sao như vậy?
Bởi vì thế hệ sau hấp thụ văn hóa tây phương, tiếp xúc với xã hội
bên ngoài nhiều hơn, còn trong gia đình, thế hệ trước muốn tập nói tiếng
địa phương với thế hệ sau, cho nên thế hệ trước quên lửng chuyện dạy
dỗ tiếng Việt cho thế hệ sau, dù người mẹ đẻ là người Việt. Hai
thế hệ nói hai thứ tiếng khác nhau, tiếng Việt và tiếng địa phương,
cho nên không thể thông cảm nhau dễ dàng. Chuyện không cảm thông nhau thường
đưa tới việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức nhiên cuộc sống phiền
não khổ đau, không sao tránh khỏi được.
Hai người nói hai thứ tiếng khác
nhau, thực khó cảm thông nhau như vậy. Còn hai người cùng nói một thứ
tiếng thì sao, có dễ cảm thông nhau chăng, hoặc là ngược lại, có dễ
đụng chạm nhau chăng? Tại sao như vậy? Bởi vì, tuy cùng nói một thứ tiếng,
nhưng tùy theo lời nói, tùy theo giọng nói, hay tùy theo cách nói, hai người
có thể cảm thông nhau, hoặc là đụng chạm nhau. Lời nói có ảnh hưởng
rất nhiều đến sinh hoạt đời sống của mọi người trên thế gian này.
Dù quen biết trước, hay chưa quen biết, khi gặp mặt nhau, con người thường
hay: chào hỏi với nhau. Một lời chào hỏi, khéo léo lịch thiệp, vui vẻ
cởi mở, có thể khởi đầu, một mối quan hệ, tốt đẹp lâu dài. Có người
mở miệng nói, dù chỉ một lời, người nào cũng ưa, cũng thương cũng mến,
cũng có cảm tình, cũng tin tưởng được, cũng đều nghe theo. Cũng có người
mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin, cũng không ai nghe, cũng
không ai ưa, cũng không ai thích. Có những lời nói đem lại sự mát dịu
trong tâm hồn người nghe. Người nghe có cảm giác như vừa uống được một
ngụm nước cam lồ tươi mát. Cũng có những lời nói khiến người nghe phải
đi xức dầu cù là, hoặc là, phải uống thuốc nhức đầu, có khi ngất xỉu,
hay là, nghỉ thở luôn!
Như vậy, chúng ta đồng ý với
nhau rằng: lời nói rất là quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn lao, trong
cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta. Nếu người nào
cảm thấy cuộc đời nhiều đau khổ, lắm thương đau, không vui vẻ, chẳng
bình yên, tức là chính người đó cần phải điều chỉnh lại lời nói,
cho vừa dễ nghe, cho vừa dễ thương. Tại sao như vậy? Bởi vì, chính người
đó cũng muốn nghe những lời nói dễ nghe dễ thương như vậy. Hoặc là,
người đó cần phải điều chỉnh lại âm thanh, cho vừa đủ nghe, để khỏi
làm phiền lòng người khác, đang cần sự yên tĩnh, để tâm hồn được
thanh tịnh, hay để nghỉ ngơi được thoải mái.
Theo các sách vở chỉ dạy cách xử
thế của người đời, có rất nhiều phương pháp để thu phục nhân tâm,
bằng lời nói. Chẳng hạn như: Làm sao khuyên bảo người khác, khi biết họ
làm sai, nói sai, hay nghĩ sai? Chẳng hạn như: Nói cách nào cho khỏi phiền
lòng người nghe? Chẳng hạn như: Có nên nói cho gia đình người khác biết,
khi một người trong gia đình đó đang làm một việc sai trái? Có hàng bao
nhiêu nguyên tắc, bao nhiêu phương pháp, bao nhiêu kỷ thuật, bao nhiêu sách
vở, bao nhiêu tác giả, đã đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, trong
đạo Phật, vấn đề này được giải quyết một cách đơn giản hơn: Nếu
muốn nói với tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả, hay tâm thanh tịnh,
thì chúng ta nên nói. Nếu muốn nói với tâm ma, tức là vọng tâm
hay ác tâm, thì chúng ta không nên nói. Tại sao như vậy? Bởi vì, khi chúng
ta bị tâm ma điều khiển để nói năng, tức là chúng ta đang tạo khẩu
nghiệp, để rồi mãi mãi, chính chúng ta bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi,
khổ đau nhiều kiếp. Mình còn chưa giúp gì được cho mình, làm sao giúp
gì được cho ai đây? Sách có câu: "Chuyện ai nấy lo. Đèn nhà ai nấy
sáng" chính là nghĩa đó vậy.
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta xét vấn đề lời nói,
qua giáo pháp của nhà Phật mà thôi. Trong giáo lý của đạo Phật, vấn đề
lời nói được đề cập đến nhiều nơi: Một là trong Tứ Nhiếp Pháp,
đó là: "Ái Ngữ". Hai là trong Bát Chánh Đạo, đó là: "Chánh
Ngữ". Ba là trong Pháp Tứ Y, đó là: "Y Nghĩa Bất Y Ngữ".
1) Trước hết, chúng ta tìm hiểu lời
nói qua Tứ Nhiếp Pháp. Tứ Nhiếp Pháp là pháp môn có công năng nhiếp phục
nhân tâm, gồm có bốn điều: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Chúng ta hãy xét qua: Thế nào là "Ái Ngữ"? Ái ngữ chính
là: lời nói dịu dàng, êm ái ngọt ngào, dễ nghe dễ thương, phát xuất từ
lòng từ bi hỷ xả, phát xuất từ tâm thanh tịnh, phát xuất từ tấm
lòng thương người như thể thương thân. Ái ngữ không phải là lời nói
đầu môi chót lưỡi, không phải là lời nói hoa mỹ, không phải là lời
nói tâng bốc khách sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe, một cách không
thực, đôi khi hàm chứa dụng ý bên trong. Ái ngữ có tác dụng đem lại
an vui, bình yên thanh thản cho người nghe. Ái ngữ có tác dụng an ủi vỗ
về những tâm hồn nhiệt não, âu lo sợ sệt.
Bởi vậy, chúng ta biết lời nói,
cũng như tiếng cười, có khi gây được cảm tình tốt đẹp, cũng có khi
gây nên ác cảm, oán thù giữa con người với nhau. Chỉ cần lỡ một lời
nói, có khi hư hỏng việc lớn. Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi bị vạ
lây, bị thưa kiện, thậm chí, bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa
tai, cho nên đặt điều đi cáo gian! Điều này cũng tùy người, tùy lúc,
tùy tâm trạng, hay tùy cảm giác của người nghe nữa.
Trong sách có câu: "Bệnh
tòng khẩu nhập. Họa tòng khẩu xuất". Nghĩa là các bệnh, thường
từ cửa miệng, nhập vào cơ thể, gây nên tác hại. Tai họa xảy đến,
thường do lời nói, từ cửa miệng ra, gây nên tác hại.
Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi,
trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời
nói. Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không
nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới, tranh chấp cãi vã.
Người có trí tuệ là người thực
hiện được điều sau đây:
- Lời nói chẳng động tâm ta.
- Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.
Người có trí tuệ là người
không bị lầm lẫn, không bị mê hoặc, vì những lời nói ngọt ngào, đầu
môi chót lưỡi, không bị bực bội vì những lời nói trực ngôn thẳng thắn.
Những lời nói đường mật ngọt ngào, chót lưỡi đầu môi, đôi khi dẫn
dắt chúng ta đến cạm bẩy không ngờ, đến chỗ tan nát hạnh phúc gia đình,
đến chỗ thân tàn ma dại, đến chỗ thân bại danh liệt, đến chỗ tán
gia bại sản, đến chỗ tiêu tan sự nghiệp, có khi chết chẳng kịp ngáp,
chẳng kịp hiểu tại sao! Những lời nói trực ngôn ngay thẳng, tuy không
khéo léo, nhưng thường giúp đỡ chúng ta tỉnh ngộ, thoát khỏi những cơn
mê lầm, không còn vướng vòng tà đạo! Khi tâm bình tĩnh thản nhiên trước
mọi hoàn cảnh, chúng ta mới có thể làm chủ được lời nói, kiểm soát
được hành động và chế ngự được tư tưởng của mình. Còn khi tâm loạn
động, chúng ta càng nói càng tức giận thêm, càng làm càng sai trái thêm,
càng suy nghĩ càng rối trí thêm. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:
- Muốn nói bớt bảy còn ba.
- Bớt hai còn một, mới là an vui.
Chư Tổ có dạy:
- Nội cần khắc niệm chi công.
- Ngoại hoằng bất tranh chi đức.
Nghĩa là bên trong, chúng ta luôn
luôn, chế ngự khắc phục, thúc liễm tâm niệm, lăng xăng lộn xộn. Mỗi
khi những niệm, lăng xăng lộn xộn, khởi lên trong tâm, chúng ta liền biết,
bỏ đi không theo. Mọi chuyện sẽ yên, an vui lợi lạc. Lúc đó gọi là: "Bản
tâm thanh tịnh". Còn thế nào là: Tâm niệm lăng xăng? Đó là tâm
niệm: phân biệt kỳ thị, tranh chấp hơn thua, tự cao tự đại, tự đắc
tự ái, tự phong tự mãn. Nói chung, những niệm do tâm: chấp ngã và chấp
pháp, đều là vọng niệm, lăng xăng lộn xộn. Hiểu biết như vậy, chính
là công phu, tu tập thực sự, của người Phật Tử, tại gia xuất gia. Đối
với bên ngoài, chúng ta luôn luôn, giữ hạnh nhẫn nhịn, luôn luôn thực
hành, hạnh nguyện lắng nghe, không lời phê phán, không hề tranh cãi, dù
là chuyện lớn, chuyện nhỏ cũng vậy. Hiểu biết như vậy, chính là đức
độ, tu tập thực sự, của người Phật Tử, tại gia xuất gia. Người nào
muốn có, công đức thực sự, phải nên triệt để, thực hành lời dạy,
của chư Tổ Sư, chứ không phải là: đi chùa thiệt nhiều, cúng kiến thiệt
nhiều, lễ lạy thiệt nhiều, làm phước thiệt nhiều, tưởng rằng như vậy,
được nhiều công đức, phước đức hàng đầu. Thực chẳng phải đâu!
Trong sách có câu:
- Lời nói đổi trắng thay đen.
- Thiên đàng địa ngục bon chen lối nào?
- Trực ngôn tâm chẳng lao xao.
- Giữ tâm thiền định, biết bao an lành.
Người đời gọi mình: là Ngài
là Thầy, Cụ Ông Cụ Bà, Cô Bác Cậu Mợ, Chú Thím Dì Dượng, gì gì chăng
nữa, thậm chí là "Thằng", thực cũng chẳng sao, người có lòng
nào, tự họ biết lấy, mình chẳng bận tâm, an nhiên tự tại, dại gì lại
giận, người dửng người dưng, không thân không thích, cũng chẳng mích
lòng, lòng vòng thêm mệt!
Người đời thường nói: "Cái
lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo". Nghĩa là: cái lưỡi của
con người không có xương, cho nên con người muốn nói kiểu nào, muốn
nói cách nào, muốn nói thế nào, tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh,
tùy theo nhân cách của mỗi người. Những người thường hay, nói ngược
nói xuôi, không giữ uy tín, không giữ tư cách, không giữ lời hứa, người
ta mỉa mai: đó là hạng người, trở mặt nuốt lời, như người đời trở
bánh tráng!
Trong sách có câu: "Một người
nói ngang, ba làng không cãi lại".
Nghĩa là: khi có một người, nói năng
ngang tàng, bất kể lẽ phải, bướng bỉnh cố chấp, đi khắp ba làng, chẳng
ai đếm xỉa, chẳng ai thèm cãi, chẳng ai ngu dại, phí công phí sức, phí
cả thời gian, hơn thua với họ. Chứ không phải: ba làng cãi không lại!
Ngày xưa có chuyện: Một người vô
minh, chưa hiểu Chánh Pháp, cho nên luôn luôn, buông lời chỉ trích, gièm
pha mạ lyﬠphỉ báng đủ điều. Cho đến ngày kia, nhờ đủ nhân duyên, bỗng
dưng hiểu biết, người đó ăn năn, hối hận vô cùng. Người đó nghĩ rằng:
chỉ còn có cách, cắt đứt vứt đi, cái lưỡi của mình, mới mong có thể,
chuộc lại lỗi lầm, quá sức to lớn, đã làm trước đây. May mắn lắm
thay, khi sắp thực hiện, ý định cắt lưỡi, người đó gặp lại, anh ruột
của mình, vốn là một vị, thiền sư đắc đạo. Người anh khuyên rằng:
Ngày ngày trước kia, vì không hiểu biết, đã dùng cái lưỡi, phỉ báng
Chánh Pháp, tạo tội tạo nghiệp. Giờ đây hiểu được, mọi sự mọi việc,
hãy dùng cái lưỡi, xiển dương Chánh Pháp, đem lại ích lợi, cho thực
nhiều người. Cũng một cái lưỡi, giúp người hại người, tùy theo tâm
tánh, của mỗi cá nhân: Con người thực ra, sống với tâm ma, hay là tâm
Phật? Trong sách có câu:
- Tại mình thường nói đâm hơi.
- Làm sao tìm được người chơi với mình?
Hoặc:
- Tại mình kênh kiệu điêu ngoa.
- Thì đừng trách móc người ta chơi mình!
Nghĩa là: Bởi vì lời nói của
mình khó nghe, người đời thường gọi là nói đâm hơi, nói móc họng,
cho nên không có ai muốn kết bạn với mình, không có ai dám làm thân với
mình, không có ai dám tâm sự với mình. Tại sao như vậy? Bởi vì, sống
ở trên đời, đâu có ai thích, bị người khác chơi, bới móc đời tư,
bươi móc dòng họ, tổ tiên của mình, khai ra lý lịch, đưa lên mặt báo,
bàng dân thiên hạ, mọi người đều biết. Cũng vậy, nếu mình kênh kiệu
điêu ngoa, đốp chát thẳng thừng, chẳng ngưng chửi bới, lên mặt thầy
đời, khuyên người lương thiện, hiền lành dễ thương, còn mình thì
không, chơi người không ngừng, tưng bừng đăng báo, làm thơ lếu láo, nhắn
gửi chửi người, chắc chắn có ngày, người ta chơi lại, chết chẳng kịp
ngáp, chẳng kịp niệm thầm: Mô Phật, cứu con!
Lời nói đôi khi có những tác dụng
không thể lường trước được. Có những lời nói có thể đem lại an
vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem lại sự ly tán,
tan nát hạnh phúc của người khác, đôi khi đổ vỡ hạnh phúc của chính
người nói nữa. Có những lời nói, làm cho người nghe, mỉm cười tươi
tắn, vui vẻ khỏe khoắn. Có những lời nói, khiến cho người nghe, nhăn mặt
nhíu mày, đau đầu nhức óc, lộn gan lộn ruột, nhói tim mất ngủ! Có những
lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói có thể hại người,
một cách dễ dàng. Thí dụ như là: Lời nói của vị, luật sư lương tâm,
khó kiếm khó tầm, chức nghiệp cao quí, có thể cứu người, thoát khỏi
tội oan, còn như mưu toan, khai gian lời nói, của một nhân chứng, làm cho
người khác, phải bị tù tội. Một vị bác sĩ, khéo lựa lời nói, khuyến
khích khuyên lơn, an ủi động viên, làm dịu tinh thần, giúp được bệnh
nhân, yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua hiểm nghèo, sớm được bình phục. Bằng
như ngược lại, lời nói vô ý, có thể làm cho, bệnh nhân kích động, bệnh
tình trầm trọng, tắt thở tức thì.
Cũng như lời nói, của nhà ngoại
giao, hay các sứ thần, hoặc các sứ giả, có thể đem lại, hòa bình hai nước,
hoặc gây chiến tranh, binh lửa lan tràn, khắp cả mọi nơi. Nhiều khi lời
nói, của một con người, sức mạnh lớn hơn, cả một đoàn quân. Có người
thường nói năng ngọt ngào với người dưng bên ngoài, nhưng đối với những
người thân thích, bên trong gia đình, không bao giờ lời nói được ngọt
ngào như vậy. Con người thường thường, không ưa thích nhau, làm mích
lòng nhau, chỉ vì lời nói, ngay cả bạn thân, hay giữa vợ chồng, cha mẹ
con cái. Tuy nhiên đến khi, một người bất hạnh, chẳng may qua đời, người
khác kể lể, dài dòng văn tự, khóc lóc thảm thiết, nói lời tha thiết,
nhớ nhung da diết, dù có hối hận, cũng quá muộn màng!
Có chuyện lạ đời, trên thế gian
này, chuyện đó chính là: con người thường chỉ, có thể nói chuyện, ngọt
ngào dễ thương, với người nằm xuống, chỉ còn nằm yên, bất động để
nghe, không còn đối đáp, cãi cọ được nữa, hoặc là nói chuyện, hằng
ngày hằng giờ, với tấm mộ bia, ở ngoài nghĩa địa. Nhưng khi người đó,
còn sống hiện tiền, con người chẳng thể, mở miệng nói ra, nói được
lời nào, cho thiệt dễ nghe, cho thiệt dễ thương! Tại sao như vậy? Có lẽ
bởi vì, con người thường không, sợ người còn sống, nhưng hay sợ người,
đã chết trở về, bóp cổ mình chăng?
Con người có thể, thương yêu súc
vật, chó mèo chim chuột, cho đến côn trùng, nhưng có lắm khi, không thể
chịu đựng, không thể nhịn được, những người chung quanh, cha mẹ anh
em, vợ chồng con cái, bạn bè gần xa, hàng xóm láng giềng, chỉ vì một
điều: Lời Nói Của Họ. Tại sao như vậy? Bởi vì súc vật, không hề biết
nghe, không nói tiếng người, cho nên không bị, con người mích lòng! Người
đời thường nói: Hai gà ghét nhau, chỉ vì tiếng gáy. Hai chó ghét nhau, chỉ
vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ, bao giờ thương nhau!
Có câu chuyện của hai con chim như
sau: Một hôm, con chim cú vọ, sửa soạn dọn tổ, dời sang nơi khác. Con
chim bồ câu, thấy vậy hỏi thăm: Chẳng hay chị định, dọn tổ đi đâu?
Cú vọ đáp rằng: Con người ở đây, ác ôn quá xá, cứ hễ thấy tôi, đậu
ở nơi đâu, họ liền ném đá, hoặc lấy cây đập. Tôi không chịu nổi,
định dọn tổ đi, qua ở phương tây, hy vọng bên đó, dân chúng hiền
lành, không như ở đây. Bồ câu bèn nói: Ở chỗ hàng xóm, thân tình lâu
nay, nói thiệt chị nghe, đừng giận tôi nhé. Nếu chị không sửa, tiếng
kêu ghê rợn, đinh tai nhức óc, thực là khó nghe, dù chị đến đâu, cũng
bị bạc đãi!
Ở những xứ có nhiều sắc dân
khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không hiểu người khác nói
gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể đoán được người
khác muốn nói gì, qua sắc mặt, cách nói và giọng nói. Cho nên sắc mặt,
cách nói và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng,
trong các cuộc giao thiệp, hay tiếp xúc hằng ngày. Giọng nói êm ái, lễ
độ tế nhị, ngọt ngào từ tốn, sắc mặt hiền hòa, dễ thương dễ mến,
nhiếp phục lòng người, hơn là giọng nói, ồn ồn ào ào, ồm ồm rào
rào, chanh chua khế chát, the thé khó nghe, mặt mày đỏ ké, khoa tay múa
chân. Lời nói hiền từ, hòa nhã thanh tao, thân thiết thành thật, ngay thẳng
rõ ràng, sáng suốt khôn khéo, cởi mở vui vẻ, rất là dễ dàng, cảm hóa
lòng người, có thể hướng dẫn, người vào chánh đạo. Trong sách có
câu:
- Chim khôn hót tiếng thanh nhàn.
- Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Khi thực hành hạnh bố thí, đồng
thời, chúng ta nên thực hành ái ngữ. Nghĩa là: Khi cho vật gì, giúp đỡ
việc gì, chúng ta nên làm, với cả tấm lòng, từ bi bình đẳng, và dùng
lời nói, êm ái dịu dàng, khuyên nhủ an ủi, khuyến khích động viên.
Chúng ta hiểu rằng: người cho nên cám ơn người nhận, chứ không mong cầu
người nhận nhớ ơn. Tại sao như vậy? Bởi vì, nhờ có người nhận,
người cho mới có cơ hội làm phước. Hiểu được như vậy, chúng ta đã
thực hành hạnh bố thí một cách thanh tịnh, bất cần vụ lợi, bất cầu
báo đáp, bất kể ơn nghĩa, trong kinh sách gọi là "bố thí ba la mật".
Trong sách có câu:
- Miếng khi đói gói khi no.
- Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.
Ơn nghĩa ngàn trùng đó, chẳng
qua do lời nói ái ngữ, khi đem cho một miếng vậy. Nói một cách khác, ơn
nghĩa tạo được từ cách đem cho, và, lời nói khi cho, chứ không phải
hoàn toàn do của đem cho. Sách cũng có câu: "Cách cho hơn của
cho", chính là nghĩa đó vậy.
Bằng như ngược lại, người nào
bố thí với tâm mong cầu sự đền đáp, hay trông đợi việc báo ơn, hoặc
luôn miệng kể lể chuyện ơn nghĩa đã làm, với nhiều người khác, người
đó chắc chắn sẽ nhận sự phủ phàng từ kẻ thọ ơn. Và việc làm phước
như vậy mất đi ý nghĩa cao đẹp. Phước báo nếu có, cũng rất hạn hẹp,
như tâm nhỏ hẹp, của người làm ơn. Người đời mỉa mai, như vậy gọi
là: Bố thí ba la làng, hay: Bố thí la ba làng. Nghĩa là: người đó bố
thí tiền bạc, hay đem của cải cho người khác, rồi la to lên cho cả ba
làng, làng trên hay xóm dưới, xóm giữa, đều biết. Nhiều khi không khéo
dùng lời nói, trong khi bố thí, thay vì được nhớ ơn, trái lại, người
cho bị thù oán, mà chẳng hề hay biết! Trong nhiều trường hợp, việc đó
xảy ra, ngay trong gia đình, giữa những người thân, ngay cả vợ chồng,
cha mẹ con cái, hay anh chị em!
Trong các gia đình, nếu không thông
cảm, vợ chồng xung khắc, chỉ vì lời nói, không ai nhịn ai, nên kiếm người
ngoài, mời về đãi tiệc, tiệc lớn tiệc nhỏ, có dịp chuyện trò, nhỏ
to đủ chuyện, trên trời dưới biển, thực phí thời gian, đáng lẽ dành
cho, tu tâm dưỡng tánh. Có những lời nói, trong các bửa tiệc, trà dư tửu
hậu, tác hại vô cùng, nguy h婠khôn lường!
Sách có câu: "Nhất ngôn ký
xuất, tứ mã nan truy". Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi
theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng
tựa núi non. Có những lời nói như vậy, nhưng thực không phải vậy. Sửa
đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách
nói, tức là chúng ta đã sửa đổi được tâm tánh, giảm bớt được khẩu
nghiệp.
Thực hành được "ái ngữ"
tức là tăng trưởng tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả. Thực hành được
"ái ngữ" tức là dẹp được tâm ma, như là: tâm tham lam, tâm sân
hận, tâm ganh ghét, tâm đố kyﬠtâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố,
tâm hơn thua, tâm ngã mạn, tâm khinh người, tâm khen mình. Thực hành được
"ái ngữ" tức là tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi của
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh thường
đau khổ vì những lời nói của nhau. Cho nên thực hành được "ái ngữ"
tức là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước
cam lồ trong bình thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những
tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những âm thanh êm ái dịu dàng, có
công năng chuyển hóa những con người đang phiền muộn, những tâm hồn
đang phiền não khổ đau, thành những con người vui tươi, những tâm hồn
an lạc hạnh phúc.
Tất cả những thứ hạnh phúc
trên đời đều bắt đầu từ lời nói của chính chúng ta. Chúng ta khởi
đầu tất cả mọi sự mọi việc. Chúng ta sinh sự thì sự sẽ sinh. Chúng
ta hòa bình thì cuộc sống bình yên tự tại. Đừng mong người khác nói lời
dễ nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.
Tây phương có câu: "Nothing
will change if we do not change anything".
Các bậc cha mẹ, thường dùng ái
ngữ, tử tế dịu dàng, ngọt ngào dễ thương, để dễ cảm thông, cùng với
con cái. Nhưng cũng đôi khi, cha mẹ phải dùng, những lời cứng rắn,
nghiêm cấm khắt khe, không có bao che, để mà khuyên dạy, cho con nên người.
Như vậy đó cũng là một dạng khác của ái ngữ, thực hiện với tâm từ
bi của bậc Bồ Tát. Nói một cách khác, người không có lòng từ bi bác
ái, không thể nào có "ái ngữ" được. Thực hành được "ái
ngữ" tức là dùng lời nói để an ủi, trấn an những tâm hồn âu lo
sợ sệt. Đó là hạnh vô úy thí của Bồ Tát Quán Thế Âm. Muốn được
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ, trước tiên chúng ta phải thực hiện theo
hạnh nguyện của Ngài. Chứ không phải chỉ van xin cầu khẩn mà được
toại nguyện đâu! Chúng ta thích nghe, lời nói thế nào, thì hãy nói ra, lời
nói thế ấy, cho người khác nghe.
* *
2) Bây giờ, chúng ta tìm hiểu lời
nói qua Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là con đường đưa chúng sanh đến
chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
và chánh định. Chúng ta hãy xét qua: Thế nào là chánh ngữ? Chánh ngữ là lời nói chân chánh, hợp với Chánh Pháp, có lợi
ích thiết thực, đem lại yên vui cho mọi người, hòa bình cho mọi nơi. Chánh
ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt, ngay thẳng và bình đẳng, hợp
tình và hợp lý, hòa nhã và rõ ràng, chơn chất và giản dị, khuyến tấn
và nhứt như.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Tâm Khẩu Nhứt Như.
Nghĩa là: Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy.
Tâm khẩu không khác. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy,
mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một
đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có
hình tướng nào, cũng chỉ là người xạo.
Hoặc tệ hơn nữa, đó chỉ là người:
- Miệng thì nói tiếng nam mô.
- Trong lòng chứa cả một bồ dao găm.
Hoặc nguy hiểm hơn, đó là hạng
người:
- Bề ngoài đon đả nói cười.
- Bề trong nham hiểm giết người không dao.
Trong sách có câu: "Hãy uốn
lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi
nói luôn. Lúc đó gọi là "ngộ đạo". Bởi vì: "Đạo Bổn
Vô Ngôn Thuyết". Hoặc: "Ngữ Ngôn Đạo Đoạn".
Nghĩa là: Đạo lý cao siêu, vốn không thể nói, không có lời nào, diễn
đạt được cả. Khi còn nói được, chỉ là phương tiện, hướng dẫn mà
thôi. Cho nên những ai, muốn được kiến đạo, đừng chấp lời nói, đừng
chấp văn tự. Thí dụ như có, người dùng ngón tay, để chỉ mặt trăng,
cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là: phương tiện mà thôi. Mặt trăng mới
là: mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng, gọi là thấy đạo, hay
là kiến đạo. Cho nên những ai, muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón
tay, thế này thế nọ, thế kia thế khác. Trong sách có câu:
- Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri.
- Người biết không nói. Người nói không biết.
Tức là: Người đã biết đạo,
trong kinh sách gọi là "người ngộ đạo", thường khi ít nói, hoặc
là không nói. Người không biết đạo, thường hay nói nhiều, nhiều khi
nói bậy, như vậy mích lòng, dễ gây tai họa, dễ gặp phiền não, dễ tạo
khổ đau!
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Dù nói hàng ngàn lời vô ích,
không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người
nghe được an tịnh.
Ai thực hành được, "ái ngữ"
như vậy, tức là người đó, đang tiến trên đường, giác ngộ giải
thoát. Giải thoát ra khỏi, sanh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền
não khổ đau. Có vị thiền sư, chơn tu đắc đạo, uy tín rất cao, được
rất nhiều người, ở gần ở xa, kính trọng nể vì. Những lời tán
thán, truyền tụng đến tai, Ngài nói: Vậy sao? Có người ganh ghét, đặt
điều nói xấu, gặp phải tai nạn, bởi vì có kẻ, vu khống cáo gian,
Ngài vẫn tự tại, bình tĩnh thản nhiên, có người hỏi Ngài, chỉ nghe đáp
lại, hai tiếng: Vậy sao? Trong sách có câu:
- Lời nói chẳng mất tiền mua.
- Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Trong cuộc sống trên thế gian
này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng và luôn luôn thực hành câu
trên đây, cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, cuộc đời tươi đẹp
biết là bao nhiêu. Dầu cù là và thuốc nhức đầu chỉ còn được dùng
khi trái gió trở trời mà thôi! Làm được như vậy, trong các gia đình, vợ
chồng con cái, trên thuận dưới hòa, an vui hạnh phúc, không có tranh cãi,
không có xào xáo. Làm được như vậy, trong các xã hội, trật tự an ninh,
luôn luôn bảo đảm, những cuộc cãi vã, đưa đến ấu đả, án mạng
rùng rợn, không thể xảy ra. Làm được như vậy, trong các quốc gia, hòa
bình chắc chắn, bền vững lâu dài. Một lời nói ra, người nghe hoan hỷ,
mỉm cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó là chánh ngữ.
Bằng như ngược lại, lời nói bất
chánh, hay là tà ngữ, đó là lời nói, không được chánh đáng, ngược ngạo
phi lý, tổn hại đời sống, cùng danh dự người. Một lời nói ra, khiến
cho người nghe, nhức óc nhói tim, tâm trí quay cuồng, hồn phi phách tán,
có khi ngất xỉu, đó là lời nói: sâu độc hiểm ác, đay nghiến nguyền
rủa, nhiếc mắng thô tục. Có nhiều trường hợp, ngay trong gia đình, hay
ngoài xã hội, ở khắp mọi nơi, lời nói đơn giản, rất dễ hiểu lầm,
người nào hay giận, chỉ khổ tâm thôi, chẳng ích lợi gì!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có
dạy:
Không nên nói lời vô nghĩa. Phải
giữ gìn lời nói.
Lời nói phải chân thật, đúng
lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người.
Tuy nhiên trên đời, có rất nhiều
người, chỉ biết chửi nhau, đem gieo thương đau, cho bao người khác, nói
bóng nói gió, nói xiên nói xỏ, nói cho ghét bỏ, nói lời khiêu khích, lăng
nhục mạ lyﬠsuốt đời không biết, không bao giờ nói, bất cứ lúc nào,
chẳng kể đúng sai, chẳng hề mở miệng: nói lời xin lỗi, nói tiếng
cám ơn! Lời nói phát xuất từ tâm ý con người. Tâm ý con người, thay đổi
đổi thay, tùy theo hoàn cảnh. Cho nên lời nói, cũng thay đổi theo. Tâm thiện
lời hiền. Tâm ác lời thô. Trong sách có câu:
- Tâm buồn cảnh được vui sao.
- Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
Trong năm giới của người Phật Tử
tại gia gồm có: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Giới thứ tư là giới về lời
nói. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời
nói để lợi mình hại người, gọi là vọng ngữ hay tà ngữ, dù người
đó là người thân hay kẻ thù. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia
chân chánh, nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là chánh ngữ,
dù người đó là người thân hay kẻ thù. Tại sao như vậy? Bởi vì trước
hết, khi dùng lời nói, để hại người khác, tâm của chính mình, chắc
chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở
nên vô ích. Kinh sách gọi đó: chính là khẩu nghiệp!
Một lời nói ra, làm cho tan vỡ, hạnh
phúc gia đình, của những người khác, làm cho mọi người, nghi ngờ lẫn
nhau, đó là lời nói: mập mờ không rõ, đặt điều thêm bớt, thay trắng
đổi đen, nước lã khuấy hồ, lộng giả thành chơn, có lại nói không,
không lại nói có, đều do tâm tưởng. Nhiều khi nói lời, cố ý hại người,
người chưa bị hại, mình đã lảnh đủ, hậu quả tức thì. Trong sách
có câu:
- Gậy ông lại đập lưng ông.
- Gậy bà chưa trúng thẳng xông lại bà.
Nhiều ông nhiều bà, tuổi tác
đã già, gần đất xa trời, sống nay chết mai, vẫn tạo khẩu nghiệp, ngậm
máu phun người, bươi chuyện cộng đồng, khích động bên đông, kiếm
chuyện bên tây, chuyên đâm bị thóc, khoái thọc bị gạo, chọc ghẹo mọi
người, không nhớ có lời: "Ngậm máu phun người, trước dơ miệng
mình". Có rất nhiều người, nói lời khích tướng, hướng tâm bất
thiện, cho người kiện nhau, ghét nhau thù nhau, phiền não khổ đau, người
ngu mắc bẩy.
Sách có câu: "Lời nói thốt
ra, người ta ghim trong bụng". Nghĩa là: Lời nói lỡ phun ra rồi,
không thể nào lấy lại được. Có nhiều người, nghe một lời, sống để
dạ, chết mang theo! Thực khủng khiếp! Tuy nhiên, ai ai cũng biết rằng:
- Ghim nhiều chỉ nặng trong lòng.
- Ngày ăn đêm ngủ đừng hòng được yên.
Như vậy chính là pháp môn tu
theo "hạnh xả", một trong tứ vô lượng tâm của đạo Phật, gồm
có: từ, bi, hỷ, xả. Người giữ gìn chánh ngữ là người nói lời thật
thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Người giữ
gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không
bao giờ nói sai sự thực, không nói lời thiên vị, không nói lời xuyên tạc,
không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa, không đổi trắng thay đen, không
thêu dệt thêm bớt. Người giữ gìn chánh ngữ là người không nói láo,
không nói xấu người khác, không thích nghe nói láo nói xấu, và không tin
những lời nói láo nói xấu. Người nào hay nói láo, nói xấu người khác,
hậu quả sẽ là không ai tin cậy, không ai thèm nghe nữa. Trong sách có
câu:
- Lời nào nghe được thì im.
- Bằng nghe không được, đừng ghim trong lòng.
Làm được như vậy, cuộc sống
khỏe re. Bằng không như vậy, nhọc nhằn phiền lụy, phiền não khổ đau,
bảo sao chẳng mệt, hít thở phì phò, như bò kéo xe, chẳng ích lợi gì!
Chánh ngữ chính là: lời nói sao
cho, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, không hại một ai, tất cả
bình yên, an vui tự tại. Còn như tà ngữ, cùng là ác ngữ, là các lời
nói, bé xé ra to, đem chứa đầy kho, oán thù sân hận, tức giận bực
mình, khổ thân khổ não, khổ mình khổ người! Một lời nói ra, khiến
cho người khác, mang họa vào thân, đó là lời nói: vu khống cáo gian, vu
oan giá họa, không biết tiếc thương, hại người hiền lương, kiếm tiền
bồi thường, vài ba triệu bạc. Thực là thất đức, ác nhân vô cùng! Một
lời nói ra, khiến cho người khác, mê muội lầm lẫn, đó là lời nói:
không đúng sự thực, không có ngay thẳng, thiên vị dua nịnh, xuyên tạc
ngụy biện, trau chuốt bóng bẩy, mục đích thủ lợi. Một lời nói ra,
khiến cho người khác, xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời
nói: dối trá điêu ngoa, gây ra chia rẽ, thích đâm bị thóc, khoái thọc bị
gạo, di hại nhiều người, và cả muôn vật. Những người tự ái, khó
lòng nhịn được, khi nghe những lời, trái ý nghịch tai, không thuận theo
mình, thường hay tranh cãi, bằng bút bằng mồm, hoặc bằng thư rơi, gửi
khắp mọi nơi, cho mọi người biết.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
- Không nên quan tâm chuyện thế gian.
- Không nên loan truyền các tin đồn.
Tây phương dịch như sau: "You
should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours". Tại
sao như vậy? Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhơn
ngã thị phi, phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua. Các loại tin đồn,
thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm
chứng được, chỉ nhằm làm hại, thanh danh người khác. Những chuyện thế
gian, các loại tin đồn, thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an dao
động, có hại mà thôi, chẳng ích lợi gì, đem đi rao truyền! Chúng ta
không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những
lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc,
phải làm sáng tỏ. Những kẻ xấu mồm, những người xấu miệng, lấy làm
thích thú, khi thấy chúng ta, bực bội bất an, vì những lời nói, cố ý của
họ. Đó chính là điều, mà họ mong muốn. Nếu như chúng ta, bình tĩnh thản
nhiên, như không có chuyện, gì xảy ra cả, những lời vu oan, sẽ tan biến
dần, đi vào quên lãng. Chúng ta chỉ nên, dành hết thì giờ, tập trung lo
chuyện, tu tâm dưỡng tánh, cho đến khi được: giác ngộ giải thoát.
Trên cuộc đời này, có những chuyện
không có giải đáp nào thích hợp, không có giải pháp nào thỏa đáng,
không có lời khuyên nào chính xác, một cách tuyệt đối. Lúc đó, im lặng
lắng nghe, tâm không phán xét, không hề tranh cãi, đúng là thượng sách,
nên coi như vàng. Bởi vậy có câu: "Lời nói là bạc. Im lặng là
vàng". Lời nói đúng lúc, thực có ích lợi, đã là chuyện khó. Nhịn
được nín được, giữ được im lặng, tạo nên hòa khí, lại càng khó hơn.
Khi một người thốt lời nói lên, người khác có thể đoán hiểu được,
trong tâm người đó muốn gì nghĩ gì. Nhờ yếu tố này, các ông thầy
bói, các bà xủ quẻ, tiên đoán tương lai, vận may hay rủi, số hên số
xui, dù thầy bói đui, dựa theo kinh nghiệm, dựa theo tâm lý, xuyên qua lời
nói, của người khách hàng, đang có tâm sự. Trong sách có câu:
- Chẳng ai vui vẻ trong lòng.
- Đi xem xủ quẻ đục trong làm gì.
Trong các gia đình, có rất nhiều
khi, lời nói cần thiết, để hai vợ chồng, thông cảm với nhau, cha mẹ
con cái, hiểu biết lẫn nhau, để anh chị em, hòa thuận chung sống. Nhưng
có nhiều người, già trẻ lớn bé, tự ái quá cao, quan trọng bản ngã, lại
không chịu nói, giữ sự im lặng, một cách lạnh lùng, làm cho cuộc sống,
ở trong gia đình, nặng nề khó thở, bực bội bất an. Phiền não khổ
đau, bắt đầu từ đó. Thực ra nhiều lúc, chính sự im lặng, rất là cần
thiết. Nhưng cũng có nhiều lúc, lời nói cần thiết hơn. Nói ra một lời,
thông cảm cảm thông, không còn phiền não, chấm dứt khổ đau, tại sao không
nói? Người nào cũng vậy, chẳng ai toàn thiện, luôn luôn nói đúng, chẳng
có lỡ lời, tại sao lại chấp, lời nói người khác? Bởi vậy cho nên,
kinh sách có câu:
- Nói năng đúng Chánh Pháp.
- Im lặng đúng Chánh Pháp.
Chúng ta nên biết: Người nào đạt
được: "Trạng Thái Vô Tâm", nghĩa là trong tâm, không một
niệm khởi, tức là bên trong, không tâm nghĩ ngợi, lăng xăng lộn xộn, bên
ngoài không nói, im lặng từ bi. Không ai có thể, có đủ khả năng, đoán
được trong tâm, người đó muốn gì, hay đang nghĩ gì! Tại sao như vậy?
Bởi vì: Người Đó Vô Tâm! Thực là đơn giản!
Trong sách có câu:
- Người nào đạt được vô tâm.
- Cuộc đời an lạc không tâm lụy phiền.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ
Huệ Năng có dạy: Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa.
Nghĩa là: Những chuyện, thương
thương ghét ghét, không làm bận lòng, chẳng có bận tâm, chúng ta sẽ nằm,
duỗi thẳng hai chân, mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc, lăn qua lộn
lại, trăn trở trở trăn, thấu suốt năm canh, nằm đếm suốt đêm, từ một
đến ngàn! Khỏe re, khỏe ru!
Cũng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ Huệ Năng có dạy:
- Nhược ngôn hạ tương ứng.
- Tức cộng luận Phật nghĩa.
- Nhược thực bất tương ứng.
- Hiệp chưởng linh hoan hỷ.
Nghĩa là:
- Nếu lời nói hòa hợp.
- Cùng nhau bàn nghĩa Phật.
- Nếu như chẳng hòa hợp.
- Chấp hai tay hoan hỷ.
Lời nói thường có ngụ ý, ẩn
ý, thâm ý, diệu ý, có khi chánh ngữ, có khi tà ngữ. Nếu thực sự, lời
nói không hòa hợp được, ý kiến bất đồng, chúng ta không nên tranh
cãi. Tại sao như vậy?
Bởi vì, cũng trong Kinh Pháp Bảo Đàn,
Lục Tổ Huệ Năng có dạy: Thử tông bổn vô tránh. Tránh tức thất đạo
ý. Tông này vốn không tranh. Tranh cãi mất ý đạo.
Con người muốn thấy được đạo,
tức là muốn cuộc sống được an lạc hạnh phúc, hãy bớt quan tâm chuyện
tranh cãi, hãy bớt bàn chuyện chuyện thị phi! Bớt được bao nhiêu, an lạc
bấy nhiêu! Cổ nhơn có dạy:
Nghe lời nói phê bình chê bai mà
tức giận, tức là châm ngòi cho người khác gièm pha.
Nghe lời nói khen ngợi tán dương mà
mừng rỡ, tức là làm mồi cho người ta nịnh hót.
Người biết cách nói là người
đi gieo tư tưởng, kinh nghiệm. Còn người biết cách nghe là người đi thu
lượm kho tàng. Có những lời nói, hết sức cao quý, hết sức tác dụng,
ý nghĩa thâm trầm, người đời ghi lại, ở trong sách vở, gọi là
"Danh Ngôn", hay Tư Tưởng Đẹp, Lời Hay Ý Đẹp, Hoa Thơm Cỏ Lạ.
Ngược lại cũng có, những lời nói ra, người đời gièm pha, gọi là Ranh
Ngôn. Trong sách có câu:
- Trăm năm bia đá cũng mòn.
- Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Hoặc là: "Cọp chết để
da. Người ta chết để tiếng". Điều này chứng tỏ, lời nói con
người, thực có hậu quả, khó thể đo lường! Trí tuệ con người, phát
triển thiền định, ở trong tĩnh lặng. Còn như nhân cách, tư cách con người,
phát triển ở trong, phong ba bão táp, nghịch cảnh thử thách, những bước
thăng trầm, vinh nhục được mất, trong sức chịu đựng, lời khen tiếng
chê. Trong kinh sách gọi đó là "bát phong".
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
- Như ngọn núi vững vàng.
- Trong phong ba bão táp.
- Người trí cũng như vậy.
- Bình thản trước khen chê.
* *
3) Trong Pháp Tứ Y, Đức Phật có dạy:
"Y Nghĩa Bất Y Ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến
ý nghĩa, không nên chấp ngôn ngữ, không nên chấp lời nói hay bài viết,
không có ý nghĩa gì. Làm được như vậy, chúng ta bớt nhiều, phiền não
khổ đau, trên thế gian này. Có những lời nói thực ra vô nghĩa, nhưng
cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng hạn
như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Chẳng hạn
như có người nói mình chép bài của người khác, rồi để tên mình là
tác giả. Nếu thu nhận các câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận
tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Các loại câu nói
như vậy không có căn cứ vào đâu cả, chúng ta để tâm giận tức làm
gì cho mệt. Thực ra, lời nói đó vô nghĩa, bởi vì mình không ngu, bởi
vì mình không phải là con bò, bởi vì mình không chép bài của ai hết, cho
nên không cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy.
Thí dụ có người, hỏi chúng ta rằng:
Tại sao dạo này, anh hay là chị, bị mất uy tín, quá xá như vậy? Câu hỏi
thế đó, không có ý nghĩa, chỉ nhằm mục đích, chọc tức mà thôi.
Chúng ta nghe rồi, thì thôi đừng nhớ, có thể lờ đi, như không nghe thấy,
bởi vì nếu hiểu, một cách tường tận: thế nào là "vô ngã",
không có "bản ngã", nên không thu nhận, những lời như vậy, vào
trong tâm trí. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta không
còn, cảm thấy bực bội, phiền não khổ đau. Hoặc khiêm nhường hơn, từ
tốn đáp rằng: Chúng tôi đâu có, uy tín hồi nào, để mất cơ chứ! Hoặc
là có người, phê bình chúng ta, thường hay nóng tánh, chúng ta lập tức,
phản ứng tức thì, lên tiếng cãi chánh, quả thực người ta, nói chẳng
có sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí có người, viết bài phê phán, miệt thị
chỉ trích, mạ lyhưởi bới, vu khống sỉ vả, khiêu khích lăng nhục, bôi
lọ chụp mũ, đặt điều bịa chuyện, nhưng chúng ta chỉ: "y nghĩa bất
y ngữ", họ không thể nào, xúc phạm đụng chạm, gây ra phiền não, tạo
thêm khổ đau, cho chúng ta được.
Người ta cố ý, đưa lửa tới đốt,
mình không đáp ứng, không đưa thân tâm, ra để lãnh đủ, thì họ chỉ
đốt, "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì, đến chúng ta cả.
Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy
động đậy, về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi, phí
công tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu ngược lại, chúng ta phản
ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, nói gần nói xa, biện bạch
phải quấy, cho rõ đúng sai, cũng giống như là, thổi hơi vào lửa, cho
bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây thêm cảm hứng, tạo thêm duyên cớ,
cho họ làm tới, chuốc thêm phiền não, khổ đau mà thôi. Lúc Phật tại
thế, gặp người ngoại đạo, đi theo quấy rầy, nhưng vẫn thản nhiên, cất
bước khoan thai, như không có chuyện, xảy ra gì cả. Người đó thấy Phật,
tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua
chưa? Lúc đó Đức Phật, từ tốn nói kệ:
- Người hơn thì thêm oán.
- Kẻ thua ngủ chẳng yên.
- Hơn thua đều xả hết.
- Giấc ngủ được an lành.
Lại còn thêm nữa, tâm của chúng
ta, luôn luôn tưởng tượng, cho nên gây ra, phiền não khổ đau. Một lời
nói ra, diễn giải kiểu nào, tùy tâm người nghe. Có người nói ra, một
câu thực là: vô-thưởng-vô-phạt, vô-ý-vô-tứ, chẳng ngụ ý gì, chúng
ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc lấy,
giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong mọi cuộc
sống, của các gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường xuyên. Trong cuộc
nói chuyện, bàn cãi thảo luận, thường dễ mích lòng, chỉ vì câu nói, của
một con người, cộng thêm tâm trí, tưởng tượng phong phú, của các người
khác.
Nếu như trong gia đình, người vợ
hay người chồng, nói ra một lời nào, đều được hiểu theo khía cạnh tốt,
đừng tưởng tượng khía cạnh xấu, cuộc sống của gia đình đó chắc
chắn hạnh phúc. Dễ chịu một chút, cảm thông một chút, tha thứ một
chút, cuộc sống chắc chắn, vui vẻ khỏe khoắn, nhiều hơn một chút! Khi
chúng ta nói tốt cho người nào, người đó sẽ ráng giữ gìn được tốt
như vậy. Người đó sẽ phát huy khía cạnh tốt, bỏ đi khía cạnh không
tốt. Chẳng hạn như là: cha mẹ rầy la, nhiếc mắng con cái, nhưng không
bao giờ, mở lời khen thưởng, cũng không bao giờ, nói tốt con cái, thậm
chí nhiều khi, đem các tật xấu, của con cái mình, nói với người ngoài,
trước mặt con cái. Tác dụng giáo dục, sẽ rất tiêu cực!
Có câu chuyện đáng cho các bậc phụ
huynh nghiền ngẫm sau đây: Có một chú tiểu, sống trong tu viện, đợi khi
trời tối, thường hay leo tường, đi ra ngoài chơi. Vị sư trụ trì, biết
được việc ấy, nhưng chẳng nói gì. Hôm nọ sau khi, đi chơi trở về, chú
tiểu leo tường, trở vào bên trong, bởi vì trời tối, không có đèn dầu,
đặt chân ngay đầu, của vị sư phụ, thay vì chiếc ghế, dùng để trèo
tường, ra chơi bên ngoài. Vị thiền sư đó, chẳng nói nửa lời, quở phạt
trách móc, còn ân cần khuyên: Con đi ngủ đi, đã khuya rồi đó! Từ đó về
sau, chú tiểu quyết tâm, hết lòng hết sức, tận tâm tận tình, tận lực
tận sức, tu học tinh tấn. Về sau trở thành, một vị thiền sư, nổi tiếng
khắp nơi, giúp ích đạo đời, nhiều người lợi ích. Bởi vậy, sách có
câu:
- Tha thứ thì thư thái.
- Thư thái thì thành tựu.
- Thành tựu thì thanh thản.
- Thanh thản thì thảnh thơi.
Có rất nhiều khi, người ta nói
xong, lời nói khó nghe, làm mình khó chịu, ngày này sang ngày khác, tháng
này sang tháng khác, năm này sang năm khác, trong khi người nói, quên mất
lâu rồi, còn mình thì sao, lúc nào cũng nhớ, ôn đi lập lại, làm khổ lỗ
tai, vợ chồng con cái. Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói
vô nghĩa, những câu văn bài viết, xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị
đố kyﬠghen ghét hơn thua, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói
tim, khỏi cần uống thuốc, chẳng cần xức dầu, nghĩa là chúng ta không
phiền não và khổ đau. Chẳng hạn như khi: chúng ta đi dự, mãn tiệc ra về,
chủ nhà gói quà, đem ra biếu tặng, chúng ta không nhận, tức nhiên chủ
nhà, giữ quà đó lại. Cũng y như vậy, người đời thường tặng, lời
khen tiếng chê, đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận, tức nhiên sẽ
được: ăn ngon ngủ yên, an lạc hạnh phúc.
Trong sách có câu:
- Thần khẩu nó hại xác phàm.
- Người nào nói quá họa làm khổ thân.
Hoặc:
- Lỡ chân gượng được đứng lên.
- Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.
Hoặc:
- Nước đổ còn khó hốt thay.
- Nói rồi hối hận chẳng hay chút nào.
- Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, ít ai hối hận
vì ít nói.
- Nhưng nhiều người hối hận vì nói nhiều, và
nói quá lời.
Trong gia đình nào, vợ chồng đồng
lòng, tu tâm dưỡng tánh, nếu vợ hay chồng, nói lời khó nghe, người kia
vui vẻ: Nói bớt chút đi, giảm 50% nhe, sao mắc quá vậy? Người vợ hay chồng,
nghe qua liền tỉnh, nở nụ cười tươi. Thế là mọi sự, mọi việc bình
yên, vui vẻ khỏe khoắn, gia đình hạnh phúc, chắc chắn không nghi! Gia đình
như vậy, khỏi coi thầy bói, khỏi tới luật sư, khỏi thăm bác sĩ, mặt
không như khỉ, tâm hồn phơi phới, thanh thản thảnh thơi, vui tươi suốt
ngày!
Trong lòng chất chứa, quá nhiều lời
nói, thường là khó nghe, nên khó tiêu hóa, tâm của chúng ta, sẽ bị bất
an, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên, thành tiên mắc đọa, thực là
tai họa, cuộc đời kém vui. Nếu chúng ta hiểu, lời nói người khác,
khía cạnh tốt đẹp, chắc chắn cuộc đời, sẽ vui vẻ hơn. Như trong gia
đình, vợ chồng con cái, nói lên lời nào, đều được mọi người, hiểu
theo ý tốt, vui vẻ đón nhận, chắc chắn gia đình, luôn luôn hạnh phúc,
không có tranh cãi, khỏi phải cầu nguyện, khỏi cần van xin, thần linh
phù hộ. Người nào đang mang, mắt kiếng màu hồng, sẽ thấy cuộc đời,
hồng hồng vui tươi, sáng sáng trong trong. Bằng như ngược lại, người nào
đang mang, mắt kiếng màu đen, sẽ thấy cuộc đời, u ám tối thui, nhìn thấy
người nào, cũng tưởng là ma, đen thủi đen thùi! Hạnh phúc thối lui, phiền
não khổ đau, khởi đầu như vậy!
Trong kinh sách có, câu chuyện như
sau: Chú tiểu theo sau, hầu vị hòa thượng, cả hai đang đi, trên con đường
làng. Nhìn thấy cảnh tượng, các người nông dân, làm lụng vất vả,
các con trâu cày, cực nhọc vô cùng, nhiều con côn trùng, bị lưỡi cày cắt,
đau đớn oằn oại, khắp nơi trên ruộng, chú tiểu phát tâm, đại từ đại
bi, thương xót chúng sanh, bèn thốt lên rằng: Con quyết tâm tu hành, cho đến
thành chánh quả, để độ tận chúng sanh. Vị hòa thượng tán thán: Con vừa
phát tâm Bồ Tát, vậy hãy đi trước, để thầy đi sau, con chớ đi mau, thầy
không theo kịp. Đi thêm một đoạn, cảm thấy mệt quá, chú tiểu bèn
than: Tu hành quả thiệt là khổ! Không tu có lẽ sướng hơn! Vị hòa thượng
phán: Con thối thất tâm Bồ Tát, hãy đi theo sau, để thầy đi trước!
Nghĩa là: Nói lên nhiều chừng nào, thố lộ tâm mình động nhiều chừng
ấy! Đơn giản như vậy!
Trong kinh sách các từ ngữ như
"vô học", "hư thân", có ý nghĩa rất thâm sâu. Người muốn
tu tâm dưỡng tánh phải tìm học kinh điển và đem áp dụng vào đời sống
hằng ngày. Cho đến lúc không chứng đắc, không còn phải học nữa, được
gọi là bậc vô học, tức là bồ tát đó vậy. Còn từ ngữ hư thân có
nghĩa là thân tứ đại của tất cả chúng ta đều giả tạm, hư dối, không
thực, tạm bợ, biến đổi theo thời gian cho đến lúc bị hư hoại và mất
đi, trở về với cát bụi. Ở ngoài thế gian, cũng những chữ đó, nhưng
có nghĩa khác, có ý xấu và tiêu cực, thường dùng để miệt thị người
khác.
Trên đời có rất nhiều người thích
thần thông phép lạ, chứ không thích tu tâm dưỡng tánh. Chẳng hạn như họ
thích được thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Tức là mắt thấy được
xa ngàn dặm, tai nghe được xuyên sơn cách vách. Những người như vậy, nếu
đạt được thần thông, chắc chắn sẽ đau khổ vô cùng vô tận. Tại
sao như vậy? Bởi vì, những lời nói sau lưng, những lời nói sau vách tường,
những lời nói ở nơi xa, thường là những lời nói khó nghe, nặng như bò
kéo xe, không dám nói trước mặt, những lời nói phát xuất từ tâm ma,
không phải tâm Phật, chẳng hạn như: tâm ganh tị đố kyﬠtâm hơn thua phải
quấy, tâm tham lam sân hận si mê. Sách có câu: "Tiếng lành đồn gần.
Tiếng dữ đồn xa". Khi nghe được những lời nói như vậy, bởi vì
không biết tu tâm dưỡng tánh, chắc chắn con người sẽ khởi tâm tức giận,
cuộc sống bất an, bắt đầu cho những phiền não khổ đau, xảy ra sau đó,
do tâm ma của chính mình, sai khiến mình phản ứng, đối chọi lại những
điều nghe được, do thiên nhĩ thông!
Do đó cho nên, đạo Phật chủ
trương: tu tâm và dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chuyển hóa
cuộc đời, biến phiền não khổ đau, thành an lạc hạnh phúc. Trong đạo
Phật, không quan trọng chuyện thần thông phép lạ, không cần biết tượng
đá khóc, thiệt hay không, không cần biết bức tranh chảy nước mắt, thiệt
hay không, không cần biết thần thánh hiện trên vách tường, trên đám
mây, trên ngọn cây, trên nóc nhà, trên cánh đồng, trong giáo đường,
trong chùa miễu, thiệt hay không. Tại sao như vậy? Bởi vì, những chuyện
thần thông không tưởng đó, chẳng đem lại ích lợi gì, cho việc tu tâm
dưỡng tánh, chẳng đem lại an vui lợi lạc nào, cho bất cứ ai. Người nào
chỉ biết, quan tâm đến chuyện, thần thông phép lạ, linh thiêng huyền
bí, mơ mơ hồ hồ, cầu nguyện van xin, tức là người đó, lạc vào tà
giáo, hành theo ngoại đạo, không phải Chánh Pháp, đúng của đạo Phật,
dù người đó là: tu sĩ tại chùa, Phật Tử tại gia! Hơn nữa chúng ta, cần
lưu ý rằng: chính con người thường, làm việc cứu xét, phong thánh phong
thần, cho nhiều người khác, qua đời trước kia, vì không giữ được, mạng
sống của họ, nên phải hy sinh. Để rồi sau đó, cũng chính con người, cầu
nguyện thần thánh, trở lại giúp đỡ, phù hộ độ trì, bảo vệ gìn giữ,
chính thân mạng mình, và linh hồn mình! Thực là lẩn quẩn! Thực là loanh
quanh! Thực là ngây thơ! Như người đang mơ, chưa chịu tỉnh thức!
Đối với lời nói, sách vở cổ
kim, từ đông sang tây, ca dao tục ngữ, truyền miệng thế gian, có thực
là nhiều, chẳng hạn như là: "Ăn phải nhai, nói phải nghĩ".
Như là: "Người khôn nói ít hiểu nhiều. Người ngu nói mấy cũng
liều tấm thân". Như là: "No ăn mất ngon. Giận nói mất
khôn". Như là: "Hay làm hơn là hay nói. Hay nói không bằng
nói hay". Như là: "Người khôn nói ít mà hay. Người nào nói
lắm dù hay cũng nhàm". Người ta thường chê những kẻ "Năng
thuyết bất năng hành", tức là những kẻ chỉ biết nói suông, nhưng
không biết làm như vậy. Như là: "Thân giáo hơn là khẩu giáo".
Như là: "Nên làm gương hơn là nói bằng lời". Như là: "Deeds
speak louder than words". Chẳng hạn như là: sống trong gia đình, muốn
có hạnh phúc, người làm cha mẹ, nên phải làm gương, cho con bắt chước,
người nào hổn xược, con cũng làm theo, người nào gian dối, con cũng dối
gian, làm sao đàng hoàng, thẳng ngay cho được? Nhân nào quả nấy! Hình
nào ảnh nấy!
Trong sách có câu: "Trên đường
chó sủa mặc chó, đoàn người đi vẫn cứ đi", có ngụ ý rằng:
người đời thường hay, lắm lời nhiều chuyện, lắm miệng to mồm, thường
xen vào chuyện, của nhiều người khác, thường hay chơi trò, thọc gậy
bánh xe, thường thích ngậm máu, phun người lấm lem, thường phao tin đồn,
rêu rao nhảm nhí, nản chí người ngay, thường hay phê phán, cho người đâm
chán, chẳng muốn làm gì, ích lợi mọi người. Người đời cho đó, là hạng
chó sủa, chẳng đáng quan tâm, vững lòng tiến bước, đoàn người cứ
đi, chẳng vì chó sủa, đâm ra nản lòng, thối chí uổng công. Tuy nhiên,
đối với người biết, tu tâm dưỡng tánh, thường không ví họ, tệ hại
như chó, theo thói thường tình. Tại sao như vậy? Bởi vì, nếu làm như vậy,
tâm mình bị động, bực bội bất an, công phu tu tập, khó mà khá được.
Trái lại, chúng ta nên coi, họ như những bực, thiện hữu tri thức, những
vị giám khảo, trên đường tu đạo, thử thách tâm mình, tu tập đến đâu,
nếu biết chăn trâu, hãy giữ tâm mình, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự
tại, trước mọi sóng gió, mọi tiếng khen chê, phê bình chỉ trích, nói
khích nói trêu, vững tâm bồ đề, chẳng hề lay chuyển. Làm được như vậy,
công phu tu tập, mau chóng đạt thành, kết quả mỹ mãn.
* * *
Tóm lại, ái ngữ,
chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, là các pháp môn, rất thiết yếu, rất
thực tế, rất thông dụng, cho bất cứ ai, không riêng Phật Tử, trên thế
gian này, muốn xây dựng được, cuộc sống ý nghĩa, muốn được sống
trong, an lạc hạnh phúc. Ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, giúp
con người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên hành vi bất
chánh, ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng, sống
theo tà đạo, làm chuyện bất lương. Trái lại, nếu con người biết thực
hành ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, sẽ chuyển hóa được phiền
não khổ đau, kiến tạo được đời sống chân chánh ích lợi. Cổ nhơn có
dạy: "Điều ác thiên hạ nói về ta, đối với tâm hồn ta, cũng
như lưỡi cày đối với mặt đất. Lời nói ác cày xới tâm hồn ta, nhưng
làm cho tâm hồn ta thêm phì nhiêu". Chúng ta nên nhớ: các bậc
thánh hiền, kim cổ đông tây, thường bị lời nói, phê phán thị phi, thậm
chí kết án, gièm pha phỉ báng, tuy nhiên các ngài, nhân cách cao quý, bình
tĩnh thản nhiên, cho nên giữ được, bản tâm thanh tịnh.
Ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất
y ngữ, giúp con người cải tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh phản ánh tự tâm.
Tự tâm tức là tâm của mình. Tự tâm bình thản, hoàn cảnh an vui. Tự
tâm rối loạn, hoàn cảnh bất an. Trong kinh sách, tự tâm được gọi là
chánh báo, hoàn cảnh được gọi là y báo. "Chánh báo thế nào thì
y báo thế ấy". Người có tâm lương thiện thì sống trong cảnh hiền
lành. Người có tâm gian ác thì luôn luôn sống trong cảnh âu lo căng thẳng,
thấp thỏm phập phồng. Trên thế gian này, sở dĩ có những hoàn cảnh khổ
đau, bởi vì con người không biết sống với chân tâm. Chân tâm là tâm
chân thật, không dính mắc với cảnh trần. Nếu mọi người đều biết sống
với chân tâm, thì thế gian này chính là thiên đàng, là cực lạc. Đừng
đứng núi này trông qua núi nọ. Nghĩa là: thân đang sống ở trần đời,
ở thế gian này, nhưng tâm thường mơ ước cảnh thiên đàng cực lạc. Những
người như vậy, mơ ước như vậy, chỉ làm khổ thân, khổ tâm mà thôi.
Trong kinh sách, Chư Tổ có dạy: "Hãy
tùy theo chỗ ở thường an lạc".
Trong kinh sách có câu: "Nam
Mô Nhất Thiết Chúng Sanh Hoan Hỷ Kiến Bồ Tát". Nghĩa là: Người
nào muốn sống cuộc đời an lạc, không phiền não, chẳng khổ đau, như các
bậc Bồ Tát, hãy thực hành ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, vào
trong đời sống hằng ngày, tất nhiên sẽ được mọi người hoan hỷ khi
gặp mặt. Trong nhà Phật, mỗi câu niệm hồng danh chư Phật, hoặc chư Bồ
Tát, như câu nói trên, đều có ý nghĩa dạy chúng ta một hạnh tu, một
pháp môn tu, một công phu tu tập, chứ không phải chỉ để chúng ta đọc
tụng rầm rầm, mà chẳng hiểu gì hết, cho nên chẳng thực hành được
trong đời sống hằng ngày, để đem lại an lạc và hạnh phúc. Ngày xưa,
một nhà hiền triết có bà vợ, thường ngày nói nhiều. Một hôm, bà vợ
bị bệnh, không nói chuyện được, nhà hiền triết than, hôm đó ông mất,
cơ hội thực hành, hạnh tu nhẫn nhịn, và hạnh lắng nghe.
Chư Tổ có dạy:
- Tu mà không học là tu mù.
- Học mà không tu là đãy sách.
Nghĩa là: Người phát tâm thực
hành việc tu tập, sửa đổi tâm tánh của mình, nhưng không chịu học hỏi
giáo lý, không chịu tìm hiểu Chánh Pháp, ai nói gì cũng nghe, ai bảo gì cũng
tin, người đó dễ bị dụ vào ngoại đạo, dễ bị lạc vào tà đạo, đúng
là mù quáng. Còn người nào chỉ biết lo nghiên cứu tìm tòi, học rộng
hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng tánh, không chịu quán sát tự tâm, chỉ
lo phê bình chỉ trích người khác, chỉ thấy lỗi người, không thấy lỗi
mình, đúng là cái tủ, cái đãy, hay cái bị đựng sách mà thôi, chẳng
ích lợi gì cho ai cả. Thí dụ như có người suốt ngày đếm tiền ở nhà
băng của chủ, có người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng cho chủ, chiều
về đến nhà, tiền không có, trâu cũng không!
Chẳng hạn như người, phát tâm tu
hành, nhận thấy nói nhiều, chỉ gây phiền não, gặp nhiều khổ đau, không
ích lợi gì, bèn thực hành theo, pháp tu tịnh khẩu, nhưng không chịu học,
kinh sách giáo lý, nhắm mắt nín thinh, bất cứ ai hỏi, bất cứ điều gì,
đều không trả lời, nhứt định ngậm miệng, không hề hé môi, dù nửa
lời thôi, cũng không chịu nói. Bên ngoài trông qua, có vẻ khá lắm, bên
trong rối rắm, nội tâm xáo trộn, bão táp tơi bời, tức giận cành hông.
Tại sao nông nổi? Bởi vì người đó, còn nghe biết hết, nhưng không nói
được, lại không chịu xả, chất chứa lâu ngày, kho tàng tâm thức, đầy
tràn ắp lẫm, những chuyện thị phi, những chuyện chánh tà, những chuyện
lớn nhỏ, đủ moi mọi thứ, có ngày ứ hự, không thể nhịn được, không
thèm tu nữa! Hành mà không học, đáng sợ như là: nọc độc chết người!
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật
có dạy:
"Tuy học rộng hiểu nhiều
mà không tu hành, cũng đồng như người không học không hiểu.
Chẳng khác nào người nói ăn mà
không ăn, trọn không thể nào no được".
Theo quan điểm của Phật giáo,
không cần phải thờ phượng Đức Phật Thích Ca, hay bất cứ vị Phật
nào, vị Bồ Tát nào, chỉ cần thực hành ái ngữ, chánh ngữ và y nghĩa bất
y ngữ, một cách đúng đắn, trong cuộc sống hằng ngày, bất cứ người
nào cũng đều được an lạc và hạnh phúc, cao hơn nữa, đều được giác
ngộ và giải thoát. Bằng như ngược lại, lập bàn thờ Phật, tại chùa
tại gia, đi chùa lễ lạy, lập chùa chiền to, tạo pho tượng lớn, mà
không thực hành, ái ngữ chánh ngữ, y nghĩa bất y ngữ, một cách đúng đắn,
ở trong cuộc sống, dù là Phật tử, tại gia xuất gia, cũng chẳng lợi gì!
Đó mới thực là: chí công vô tư, là chánh đạo vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/145-chinhtruc-loinoi.htm
|
|