- Ðức Phật và
Ðạo Phật
- Minh Châu và Ðặng Tấn
Hậu trích dịch
- (Từ "Con Ðường Xưa" của
Hòa thượng Piyadassi)
- -oOo-
Ðức Phật
Vào năm 623 trước Tây Lịch, một vị Bồ Tát đã giáng
sinh tại miền bắc Ấn Ðộ, họ ngài là Cồ Ðàm (Gotama), tên ngài là Sĩ-đạt-ta
(Siddhattha) tức là "đạt được ý nguyện". Cha ngài là vua Tịnh
Phạn (Suddhodana) thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyas) cai trị phần đất tại thành
Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) gần biên giới Népal. Mẹ ngài là hoàng hậu
Ma-ha Ma-da (Mahamaya).
Vào ngày trăng rằm tháng tư (âm lịch),
trên đường về quê cha để sanh nở, hoàng hậu Ma-da đã hạ sanh một
thái tử tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini) dưới cành cây Vô Ưu.
Vườn Lâm-tỳ-ni cách thành phố
Benares 100 dặm về hướng bắc, gần núi Hy-mã-lạp-sơn. 316 năm sau, vua A Dục
(Asoka) đã cho xây một cột trụ để đánh dấu nơi thái tử Sĩ-đạt-ta
ra đời. Ngày nay, chúng ta còn thấy cột trụ nầy tại vườn Lâm-tỳ-ni với
93 cổ ngữ:
"Hida Budhe Jate Sakyamuni"
(Nơi đây một vị Phật, bậc hiền triết của dòng họ Thích Ca Mâu Ni đã
ra đời)
Ngài Huyền Trang đã tìm thấy cột
trụ nầy vào giữa thế kỷ thứ 7 khi ngài đi Ấn Ðộ thỉnh kinh. Nhà khảo
cổ trứ danh Cunningham cũng đã khám phá cột trụ nầy tại vườn Lâm-tỳ-ni
vào năm 1896.
Ðây là chứng cớ Ðức Phật là một
nhân vật lịch sử đã sống và lưu lại thánh sản cho chúng sanh. Cuộc đời
ngài là nguồn cảm hứng vô tận và tấm gương lành để chúng sanh noi
theo.
Bảy ngày sau khi hạ sanh thái tử,
hoàng hậu Ma-da qua đời. Bà Ba-xà-ba-đề Gô-ta-mi (Pajapati Gotami) thay chị
nuôi cháu. Kinh điển ghi lại thái tử lúc trẻ tuấn tú, khôi ngô có đủ
32 tướng tốt 80 tướng phụ đẹp. Ðược vua cha chìu chuộng, mời các thầy
văn vỏ chỉ dạy, thái tử văn vỏ song toàn. Lúc thiếu thời, thái tử thường
trầm tư thiền định. Trong khi đó, vua cha ước muốn thái tử sẽ thành lập
gia đình, sanh con thừa kế ngai vàng. Vì sợ thái tử xuất gia sống đời
đạo sĩ, vua Tịnh Phạn đã cố gắng trói buộc ngài trong đời sống xa
hoa lợi dưỡng không để ngài thấy sự khổ thế gian. Sống trong cung
vàng điện ngọc, thái tử không biết cái gì gọi là sầu muộn.
Theo tục lệ lúc bây giờ, năm ngoài
16 tuổi, thái tử thành hôn cùng công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara), là con
gái duy nhất của vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita thuộc dòng họ Koliyas.
Sống trong cung vàng điện ngọc, tuổi
đời càng cao, thái tử càng trầm tư về ý nghĩa của đời sống con người.
Nhân một buổi du ngoạn, ngài chứng kiến ba cảnh khổ: một người già,
một người bệnh, một người chết. Sự khổ đau nầy đã chấn động tâm
tư ngài. Hình ảnh thứ tư ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với ngài là
hình ảnh một người tu sĩ, hiền hòa, thông thái, sống đời không nhà
đi tìm chân lý. Càng gần thế gian, càng thấy sự khổ đau, thái tử càng
nhận thức thế gian không có hạnh phúc lâu bền. Ngài nhận thức đời sống
con người hoàn toàn vô nghĩa nếu không tìm ra con đường đưa đến hạnh
phúc vĩnh cửu.
Thái tử tự nhủ: "Rồi một
ngày, tuổi thanh xuân sẽ chấm dứt với sự già nua cằn cỗi, cơ thể sẽ
hư hoại, yếu kém. Cuối cùng, cái chết sẽ đến một cách bất ngờ, chấm
dứt đời sống".
Nhận thấy sự khổ đau của đời
sống, ngài quyết định chiến thắng thần chết, tìm đường giải thoát
khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết cho ngài và nhân loại.
Năm ngoài tròn 29 tuổi, vào lúc
công chúa Da-du-đà-la vừa hạ sanh thái tử Rahula (sợi dây trói buộc),
thái tử Sĩ-đạt-ta quyết định từ bỏ cung vàng điện ngọc, vua cha và
vợ đẹp con thơ. Vì lòng từ bi đối với nhân loại, ngài phát tâm khước
từ đời sống lợi dưỡng cá nhân, dấn thân sống đời đạo sĩ tỉnh lặng
trong rừng sâu, đi tìm chân lý vĩnh cửu, giải thoát ra khỏi mọi sự
trói buộc, tìm giải thoát cho chính mình và nhân loại.
Trước hết, ngài đến tu học cùng
với hai vị thầy nổi tiếng đương thời là Alara và Uddaka Ramaputta. Sau thời
gian ngắn, ngài đắc tầng thiền cao nhất. Nhưng không thỏa mản vì biết
chưa đạt tới toàn giác. Ngài từ bỏ nơi nầy để tiếp tục con đường
vô định tìm chân lý.
Vào thời ấy, thực hành khổ hạnh
xem là phương pháp cao thượng tìm chân lý nên ngài quyết định tu khổ hạnh
tại rừng Uruvela Gaya (Khổ Hạnh Lâm) cùng với năm vị đạo sĩ - Kiều Trần
Như (Kondanna), Bạt Ðề (Bhaddiya), Thực Lực (Vappa), Ma-ha Na-ma (Mahanama) và
Át-bệ (Assaji).
Ngài đã tự chứng nghiệm pháp tu
khổ hạnh bằng cách ăn mỗi ngày một hột mè, mặc y bằng giẻ rách, ngủ
cạnh thây ma và nằm trên cây gai. Lối tu khổ hạnh nầy khiến thân thể
ngài suy nhược hoàn toàn. Sau sáu năm khổ hạnh, sự chết gần kề, ngài
vẫn không đạt tới mục tiêu tối thượng.
Do kinh nghiệm tự chứng, ngài nhận
biết lối tu khổ hạnh không dẫn đến giải thoát. Nhớ lại lúc thiếu
thời, trầm tư dưới gốc cây đã hưởng được nhiều phỉ lạc của tâm
định, ngài nhận thức thiền định là phương pháp dẫn đến giác ngộ.
Ngài quyết định từ bỏ lối tu khổ hạnh, bảo vệ sức khỏe và tâm thần
để tiếp tục công cuộc tìm chân lý.
Với ý chí mãnh liệt, không thầy
chỉ dạy, không bạn đồng hành, Bồ Tát đơn độc tìm chân lý. Băng qua
sông Ni-liên-thiền tại Gaya (ngày nay là Bồ Ðề Ðạo Tràng), dưới một
cội bồ đề mát mẻ thanh tịnh thích hợp cho thiền định, ngài lập thệ
nguyện: "Dù cho máu có cạn, da thịt có khô, ta sẽ không rời nơi nầy
cho đến khi đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (samma-sambodhi)".
Áp dụng thiền niệm hơi thở
(anapana sati), ngài đạt vào nhất thiền, kế đó là nhị thiền, tam thiền
và tứ thiền. Ngài nhớ lại tiền kiếp vào canh một (từ 6 giờ chiều đến
10 giờ đêm). Vào canh hai (từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng), ngài thấy
được lý nhân quả. Tâm ngài hoàn toàn trong sạch. Ngài thấy đây là khổ,
đây là nguồn gốc của sự khổ, đầy là sự chấm dứt khổ, đây là
con đường diệt khổ. Ngài nhận thức đây là ô nhiễm, đây là nguồn gốc
ô nhiễm, đây là sự chấm dứt ô nhiễm, đây là con đường diệt trừ
ô nhiễm. Ðến canh ba (từ 2 giờ sáng đến 6 giờ sáng), ngài đã chấm dứt
ý-muốn-tái-sanh và cắt đứt dòng sanh tử luân hồi. Ngài tuyên bố:
"Ðây là đời sống cuối cùng, ta không còn tái sanh luân hồi nửa".
Chính sự giác ngộ đã giúp ngài giải thoát khỏi ái dục (kamasava), khỏi
ý-muốn-tái-sanh (bhavasava) và vô minh (avijjasava).
Bồ tát Cồ Ðàm đã khám phá chân
lý Tứ Diệu Ðế và trở thành Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, Bậc Tối Thượng
Y Vương (bhisakko) trị tất cả bệnh khổ thế gian. Lúc đó là đêm trăng
tròn tháng tư âm lịch, ngài vừa đúng 35 tuổi.
Sau khi chứng ngộ, Ðức Phật dùng
huệ nhãn quan sát khắp thế gian, thấy chúng sanh vô minh chìm đắm trong bể
khổ nhưng cũng có người có trí tuệ có thể lãnh hội được chân lý.
Vì lòng từ bi vô lượng, ngài quyết định truyền bá giáo pháp (Dhamma) chỉ
cho nhân loại Con Ðường Xưa (purana maggam) mà chư Phật quá khứ, hiện tại
và vị lai đã, đang, sẽ đi qua.
Ðược biết năm anh em Kiều Trần
Như đang tu khổ hạnh tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana (Sarnath ngày nay),
cách Bồ Ðề Ðạo Tràng 150 dặm, Ðức Phật đi đến nơi nầy để chuyển
pháp luân.
Tại vườn Lộc Uyển, vào đêm trăng
rằm tháng bảy, Ðức Phật dạy cho năm vị đạo sĩ như sau:
"Nầy chư vị, có hai thái cực mà chúng ta
phải tránh. Cái gì gọi là hai? Ðời sống lợi dưỡng và đời sống khổ
hạnh không dẫn đến giải thoát. Như Lai đã chứng nghiệm con đường
trung đạo sẽ dẫn đến giác ngộ, an lạc. Niết Bàn. Cái gì gọi là
Trung Ðạo? Ðó là Bát Chánh Ðạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tin tấn, chánh niệm, chánh định".
Sau đó, Ðức Phật giảng về Tứ
Diệu Ðế. Ðây là lần đầu tiên Ðức Phật chuyển bánh xe chân lý
(anuttaram dhammacakkam) và thành lập tăng già với năm anh em Kiều Trần Như
là đệ tử đầu tiên. Ðến cuối hạ, lúc mùa mưa chấm dứt, đệ tử
ngài gồm có thêm trưởng giả Yasa và phái đoàn 54 người tùy tùng. Ðức
Phật dạy cho 60 vị tỳ khưu đầu tiên như sau:
"Chư vị đã giải thoát. Hãy
vì lợi ích cho trời và người, mỗi người đi một ngả truyền bá giáo
pháp toàn hảo lúc ban đầu, toàn hảo lúc giữa, toàn hảo lúc cuối. Hãy
công bố đời sống đạo hạnh!".
Từ đó, với lòng từ bi và trí tuệ
vô lượng, Ðức Phật cùng với chư vị đệ tử đi hoằng pháp khắp nơi
trên xứ Ấn. Khi truyền bá chánh pháp, ngài không bao giờ phân biệt giai cấp,
chủng tộc. Nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo, người hạ tiện cũng
như bậc thượng lưu, người trí thức cũng như kẻ ít học, bậc bà la
môn cũng như người nô lệ, bậc vua chúa cũng như kẻ ăn xin, bậc hiền
triết cũng như kẻ tù tội - tất cả đến nghe pháp, xin quy y nơi ngài và
tu tập theo con đường hòa bình và giác ngộ. Con đường nầy mở cửa cho
tất cả chúng sanh.
Số tăng sĩ càng ngày càng đông,
các ngôi chùa, tu viện mọc lên khắp nơi, và các trường đại học phật
giáo được thành lập như Nalanda, Vikramasila và Odantapuri là nơi phát huy văn
hóa toàn cõi Á Châu.
Sau 45 năm hoằng pháp, Ðức Phật
nhập diệt ở Câu-thi-na (Kusinara) tại rừng Sala vào lúc ngài 80 tuổi. Lời
nhắn nhủ cuối cùng của ngài cho các hàng đệ tử là:
Vayadhamma samkhara, appamadena sampadetha
Cái gì do duyên hợp sẽ tan rã. Hãy tinh tấn giải thoát.
Ðạo Phật
Ðiểm đặc biệt đầu tiên trong Phật Giáo là Ðức Phật
không phải một vị trời hóa sanh, cũng không phải là Thượng Ðế hay bậc
siêu nhân. Ngài là một chúng sanh, là một con người, nhưng là con người
phi thường (accariya mamussa), con người cao thượng bậc nhất (purisuttama).
Ðức Phật dạy: "Nầy chư vị
tỳ khưu, sen mọc từ trong bùn, vượt ra khỏi mặt bùn và không bị hôi
tanh mùi bùn. Cùng thế đó, Như Lai sanh từ thế giới sa-bà, sống trong thế
giới sa bà nhưng không bị ô nhiễm bởi thế giới sa bà".
Tự tinh tấn, không thầy chỉ dạy,
ngài đạt tới trí tuệ cao thượng, ngài trong sạch và thánh thiện hoàn
toàn. Ngài là hiện thân của lòng từ bi và trí tuệ; đó là hai đặc
tính trong giáo pháp của ngài.
Bằng đời sống và kinh nghiệm của
ngài. Ðức Phật đã chứng minh giác ngộ và giải thoát nằm trong tầm tay
của con người. Ngài là vị giáo chủ duy nhất trên thế gian chỉ dạy giải
thoát không từ bên ngoài mà từ thân-tâm của chính mình, và khuyến khích
con người "hãy nương tựa nơi mình. Như Lai là Phật đã thành, các
con là Phật sẽ thành".
Phật dạy: "Như Lai chỉ con
đường giải thoát. Giáo Pháp, Chân Lý chỉ có thể tự chứng ngộ".
Không một ai có thể giải thoát cho ta. Chư Phật, chư bồ tát, chư tổ từ
bi có thể giúp ta một cách gián tiếp bằng ân điển tha lực trợ duyên
cho ta tu học, nhưng chính ta tự giác ngộ, tự tỉnh thức, tự giải
thoát. Giác ngộ chỉ đến cho những ai không còn bị ô nhiễm. Mỗi cá
nhân phải tinh tấn phá vở cái còng trói buộc của mình bằng sức nhẫn
nại, tự lực và thiền định.
Con Ðường Xưa là con đường mà tất
cả chư Phật quá khứ đã thực hành. Ðó là Bát Chánh Ðạo, con đường
dẫn đến giải thoát. Những ai trau dồi phẩm hạnh nầy sẽ giác ngộ
(arahatta), giải thoát khỏi khổ đau. Những người nầy được Ðức Phật
nhìn nhận không còn bị ô nhiễm và đã giải thoát: "Chiến thắng như
ta, những người nầy đã diệt trừ ô nhiễm".
Một đặc điểm khác của đạo Phật
là phương pháp truyền dạy và học hỏi giáo pháp. Ðức Phật không đòi
hỏi hay chấp nhận đệ tử mù quáng tin nơi ngài hay giáo pháp của ngài.
Ngài nhấn mạnh đến sự suy luận và trí huệ. Câu chuyện người dân
Kalama luôn nhắc nhở ta về cách học pháp chân chánh như sau:
Kesaputta là thành phố nhỏ thuộc vương
quốc Kosala. Dân xứ nầy gọi là Kalama. Khi họ nghe Ðức Phật đến thành
phố của họ, họ đến gặp ngài và xin ý kiến:
- Bạch Ðức Thế Tôn, mỗi khi có
vị đạo sĩ đến, họ nói giáo lý của họ hay nhất, đầy đủ nhất và
họ chê trách giáo lý của người khác. Các vị bà-la-môn cũng nói như vậy.
Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con không biết ai là người chỉ dạy đúng".
Phật dạy: "Người dân Kalama,
các con đã làm đúng. Các con đừng tin những gì do tập tục, do kinh sách
chỉ dạy. Các con hãy tự hỏi cái gì là ô nhiễm, cái gì đáng chê trách
và cái gì không có lợi thì các con từ bỏ. Và các con tự hỏi cái gì
không ô nhiễm, không bị chê trách và có lợi thì các con nên theo".
Ðức Phật chỉ tiếp: "Khi nào
tham-sân-si phát sanh, chúng ta có lợi hay không ?
- Bạch Ðức Thế Tôn, không.
- Bây giờ, nếu chúng ta phải giải
thoát khỏi tham-sân-si, chúng ta có lợi hay không?
- Bạch Ðức Thế Tôn, có.
- Nầy người dân Kalama! đó là lời
dạy của Như Lai.
Ðạo Phật không dựa trên đức
tin mù quáng. Ðức Phật luôn nhắc nhở: "Ví như vàng, chúng ta phải
đốt, cắt, cọ xát để biết vàng thật hay giả. Cùng thế đó, các con
hãy suy niệm, nhận thấy lời dạy của ta có đúng hay không trước khi tin
theo".
Ðạo Phật là một lối sống dựa
trên giáo pháp và giới luật dẫn đến sự tự do hoàn toàn của tư tưởng.
Từ đầu đến cuối, đạo Phật mở rộng cánh cửa cho bất cứ ai có mắt
để thấy, có tai để nghe, có trí tuệ để hiểu giáo pháp.
Phật dạy ta nên nhận biết chân
lý giáo pháp qua thiền định thay vì đức tin mù quáng hay sợ sệt thần
quyền. Vì vô minh, có tôn giáo làm cho con người lo sợ, tin có vị thần
linh tối thượng kiểm soát tâm linh và đời sống của họ. Ðức Phật đả
phá thái độ nầy: "Trong sạch hay ô nhiễm chính tự ta. Không ai có thể
làm ta trong sạch hay ô nhiễm".
Ðạo Phật không tin có một vị thượng
đế tạo dựng vũ trụ và thưởng phạt con người. Phật tử quy y Phật
(Buddham saranam gacchami) chắc chắn không phải để cầu nguyện Ðức Phật
cứu rỗi. Ðức Phật là vị thầy chỉ ta con đường giải thoát như vị
bác sĩ chẩn bệnh và cho toa. Chính chúng ta phải cất bước trên con đường
mới đi đến đích, chính chúng ta phải uống thuốc mới hết bệnh.
Ðức Phật dạy: "Những người
tin ta, thương ta, họ sẽ được phước báu nhưng không đủ điều kiện
giải thoát. Những người thực hành giáo pháp, họ sẽ giác ngộ giải
thoát".
Trước khi nhập diệt, Ðức Phật
dạy: "Nầy Ananda, người thực hành giáo pháp là người biết cúng dường
Như Lai. Thực hành giáo pháp là cúng dường cao cả nhất".
Tất cả giáo lý nhà Phật chuyên dạy
về sự khổ của đời sống và trau dồi tu tập dẫn đến tự do, thoát
khổ. Ðó là triết lý Phật Giáo.
Chúng ta có thể gọi đạo Phật là
triết học, giáo thuyết, tôn giáo hay bất cứ danh từ chuyên môn nào. Ðiều
nầy không quan trọng cho người tìm chân lý và giải thoát. Cũng không cần
thắc mắc pháp nào là tiểu thừa, đại thừa hay kim cang thừa, càng không
nên so sánh pháp nào cao, pháp nào thấp.
Tất cả các Pháp Phật dạy đúng
lúc đều có thể dẫn đến giải thoát. Có nhiều trường hợp, chỉ cần
nhìn thấy lá rụng, nước chảy, mây trôi, rừng cháy, đèn tắc, chúng ta
giác ngộ sự vật vô thường, tức khắc giải thoát sanh tử.
Thế giới vô hạn hay hữu hạn? Ðức
Phật không bận tâm đến vấn đề siêu hình vì điều nầy không dẫn đến
giải thoát. Ðức Phật là vị thầy thực tế. Chủ đích của ngài là giải
thích về căn bệnh khổ, là bệnh chung của nhân loại và chỉ ra con đường
thoát khổ.
Vào thời Ðức Phật, du tăng
Sakuludayi hỏi ngài về quá khứ và vị lai. Ðức Phật khẳng định:
"Hãy bỏ qua quá khứ.
Ðừng mơ tưởng tương lai.
Hãy nghe Như Lai giảng giáo pháp.
Khi có nhân này, quả kia sẽ trổ.
Vì pháp nầy phát sanh nên pháp kia phát sanh.
Nếu pháp nầy chấm dứt, pháp kia sẽ chấm dứt."
Ðó là giáo lý nhân duyên (paticca sammuppada) cũng
là nền tảng Tứ Diệu Ðế, là cốt tủy đạo Phật
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/150phatphap.htm