- Đối Diện với Sự
Thật Vô Ngã
- Thích Nguyên Hùng
Một trong những giáo lý căn bản nền
tảng của đạo Phật là giáo lý Vô ngã. Một vấn đề đã gây nên không
ít những dư luận, bàn cãi và đi đến kết luận cho rằng Thế Tôn là người
chủ trương chủ thuyết hư vô, đưa loài người đến chỗ huỷ diệt, mặc
dù vấn đề đó là sự thật của cuộc đời, chứ không phải là một học
thuyết do đức Phật sáng lập. Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết giáo pháp
mà Ngài chứng ngộ, thể nghiệm, Ngài đã cân nhắc nhiều lắm, vì Ngài sợ
rằng những điều Ngài nói không ai có thể kham nhận được, dù đó là sự
thật. Một sự thật phủ phàng đánh đổ tất cả những gì là chân lý
mà loài người đang theo đuổi: chân lý về một cái Ngã (Atman) hay linh hồn
tồn tại trong mọi người (tiểu ngã), và một "Tối thượng ngã"
hay "đại ngã" (Brahman) là Thượng đế, đấng đã sáng tạo ra thế
giới và những ảo hoá của nó. Trong khi đó, chân lý mà đức Phật chứng
ngộ là Duyên sinh vô ngã: tất cả mọi sự mọi vật đều nương vào nhau
mà có mặt, tồn tại và hoại diệt. Cái này có vì cái kia có, cái này
sanh vì cái kia sanh, cái này diệt vì cái kia diệt; vạn vật trong vũ trụ
vạn hữu đều nắm tay nhau mà ra đời.
Trong bản chất của nó, không có vật
gì giữ được tính cách đồng nhất (ngã), bất biến. Mọi vật đều
theo quy luật vận hành và biến đổi trong từng phút từng giây, cho nên gọi
là vô thường, tên gọi khác của vô ngã, và cũng gọi là không. YÙ niệm
về không trong đạo Phật được triển khai từ giáo lý vô ngã. Và đây
là vấn đề dễ bị ngộ nhận nhiều nhất. Không (sunyata) có nghĩa là sự
trống rỗng, sự vắng mặt của tính cách đồng nhất trong lòng sự vật,
chứ không phải là sự vắng mặt sự vật như người ta vẫn hiểu một cách
sai lầm. Không là không một sự một vật nào có ngã tính, có tính cách tồn
tại biệt lập ngoài sự vật khác. Đây là chân lý của cuộc đời.
Nhưng con người không thể, không dám tin rằng đó là sự thật. Hoặc họ
phủ nhận đức Phật, hoặc họ hoang mang không quyết đoán được. Làm
sao có thể chấp nhận được rằng mọi sự vật hiện tượng kể cả con
người đều là vô ngã, trong khi mà mọi thứ vẫn hiện hữu ra đó, mắt
thấy, tai nghe và xúc chạm được! Làm sao có thể nghe và chấp nhận được
lời Thế Tôn tuyên thuyết rằng "cái này không phải là ta, không phải
của ta, không phải tự ngã của ta" khi mà nhà cửa, vợ con và hình
hài ta đây đang hiện hữu bằng xương bằng thịt ?
Người ta đâm ra hoang mang, lo sợ
giáo lý của đức Phật. Chối bỏ, hoang mang là điều tất yếu! Sự nghi
ngờ của đại đa số quần chúng về vấn đề vô ngã do đức Phật diễn
thuyết bắt nguồn từ những kiến chấp về ngã và ngã thể. Trong tư tưởng
của mọi người luôn tồn lại một ý niệm về ta và của ta. Họ cho rằng,
con người ta phải có một cái "ngã tối thượng" (Đại ngã,
Brahman), tức linh hồn, đằng sau cái thân thể huyễn hoá này. Nhưng Thế Tôn
nói rằng, không có ngã, không có ngã tối thượng nào cả. Thế thì, con
người đang hiện hữu đây bằng xương bằng thịt với tất cả các tâm
sinh lý vui cười, buồn giận… là cái gì?
Nương vào đâu mà hiện hữu? Nếu
phủ nhận tất cả tức là chủ trương hư vô? Nói chính xác đây là cuộc
đấu tranh giữa hai phạm trù tư tưởng có và không. Một mặt đấu tranh
với chính mình, với những tư tưởng đan xen chồng chéo lên nhau giữa
cái "ta" và "của ta", giữa "ngã" và "ngã thể";
mặt khác là với giáo lý Vô ngã của đạo Phật, giữa cái "làm thế
nào để hiện hữu và tồn tại" trong khi mọi cái đều không? Không
phải chỉ riêng xã hội thời đức Phật hoang mang và nghi ngờ vấn đề này,
mà ngàn năm trước đó, và cho đến hôm nay, vẫn không ra khỏi vòng luẩn
quẩn của tư duy về thế giới và con người. Con người và thế giới hiện
hữu như thế nào? Con người sinh ra từ đâu và có còn tồn tại sau khi chết?…
Đó là những phạm trù siêu hình mà nó đã giày xéo tư duy của con người
để rồi bao nhà ham thích nó đã sản sinh ra các trường phái triết học,
tôn giáo. Vấn đề này, đức Phật không đề cập đến, nhưng nếu có ai
hỏi, Ngài trả lời "Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ",
những vấn đề khác không liên quan đến giác ngộ và giải thoát, không
chấm dứt được khổ đau, không liên quan đến phạm hạnh, Ngài không
nói. Ví như một người bị tên độc bắn trúng, nhiệm vụ của người bị
tên cũng như những người có thể giúp đỡ anh ta là làm thế nào để lấy
mũi tên độc ra và tìm thuốc chữa trị, mà không phải là đi tìm nguồn
gốc của mũi tên, ai bắn, tên làm bằng vật liệu gì…
Bởi vì, nếu có tìm cũng không
được, giả dụ có được, thì người bị trúng tên cũng đã chết trước
khi tìm thấy. Hơn nữa, đó là việc làm không cần thiết, nếu không muốn
nói là dại khờ. Cũng vậy "Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ",
vấn đề thiết yếu của con người là làm thế nào để cuộc sống có
an lạc, hạnh phúc, cho nên đức Phật dù biết cũng không nói đến nguồn
gốc của vũ trụ vạn hữu. Có nói, có biết cũng đâu hết được khổ
đau?! Tuy nhiên trong khi tuyên giảng giáo lý đem đến an lạc, hạnh phúc
cho con người đức Phật cũng đã phần nào giải thích nguyên nhân của sự
hiện hữu con người và thế giới.
Đó là DUYÊN SINH, VÔ NGÃ. Chúng ta
làm sao có thể nói là có hay không được khi mà vũ trụ vạn hữu kể cả
con người đều từ nhân duyên mà sanh ra, tồn tại, và hoại diệt. Vì từ
nhân duyên mà sanh cho nên bản chất của mọi sự hiện hữu đều là
không, không tự tính, không có trong lòng nó một tự ngã đồng nhất bất
biến. Không là không như thế, chứ không phải là sự phủ định những
hiện tượng hiện hữu trong thế giới này. Vì vậy, không hề có chủ
thuyết hư vô, và không bao giờ phủ nhận sự hiện hữu của con người,
nhưng nó hiện hữu VÔ NGÃ, bởi vì chúng hiện hữu theo nguyên lý DUYÊN
SINH. Bằng chân lý ấy, cái nhìn của bậc trí giả đối với cuộc đời
tất cả đều hiện hữu lung linh mầu nhiệm trong chu kỳ tiếp nối có và
không.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/159-suthavonga.htm