- Thần Chú Đại Bi
- Viên Ngọc của Người Cùng Tử
- Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm Thành Đạo,
19/6.
Tâm Hà Lê Công
Đa
Cửa Phật có đến tám vạn bốn
ngàn pháp môn, một người học Phật dù cố gắng hành trì, tu tập trãi
qua hằng hà sa số kiếp cũng không dễ gì có thể lãnh hội hết tất cả
nội dung phong phú đó huống là chỉ một đời người. Cho nên, tùy theo căn
cơ, duyên nghiệp, một khi đã phát tâm đi vào con đường giải thoát,
hành giả hoặc nhờ phước duyên được chư Phật, chư Bồ Tát độ trì dẫn
dắt, hoặc do minh sư chỉ bảo, mỗi người cần nên tự chọn cho mình một
pháp môn để tu tập. Có rất nhiều pháp môn tu học phổ biến trong đại
chúng hiện nay như Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Định... Pháp môn tuy có thể
khác nhau, nhưng một khi đã tự xem mình là trưởng tử của Như Lai, hạnh
nguyện của mỗi hành giả đều giống nhau, đó là noi theo ánh sáng của
chư Phật, quyết tâm xé bỏ bức màn vô minh, đạp qua nẽo luân hồi sinh
tử để đi vào con đường giải thoát, tiến đến đạo qủa bồ đề, hầu
mang lại an vui, phúc lợi không những cho riêng mình mà còn cho toàn thể
chúng sanh.
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ", đó là tâm nguyện chung của một người mang hạnh nguyện Bồ tát
vào đời, dù khoác trên mình chiếc áo tăng sĩ hay hàng tại gia cư sĩ.
Nhưng một người dù có thiện tâm, hảo ý đến bao nhiêu mà không có khả
năng thực hiện được ý nguyện của mình thì thiện tâm hảo ý cũng trở
thành vô ích. Như một người trông thấy kẻ bị nạn sắp chết đuối
dưới dòng nước chảy xiết, nhảy xuống định cứu, thế nhưng bản thân
mình lại không biết lội, chẳng những đã không cứu được người, vừa
thiệt thân mạng mình một cách vô ích, lại còn gây trở ngại thêm cho
công tác cứu hộ. Cho nên, muốn độ người trước hết phải độ ta, có
nghĩa là phải xét xem ta có đủ khả năng, tư cách để độ người hay không?
Muốn thế mỗi người phải luôn tích cực, tinh tấn tu tập không ngừng
nghỉ mới có thể từng bước tiến dần đến ánh sáng giác ngộ.
Có thể nói một cách khẳng định
rằng, để đạt được cứu cánh giác ngộ không có con đường tu tập nào
khác hơn ngoài con đường Thiền định. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ
cũng đều đã phải trãi qua con đường đó. Chính Đức Thế Tôn đã từng
nhấn mạnh đến lợi ích quan trọng của thiền định: "Thiền định
là phương tiện duy nhất để thanh tịnh nội tâm, tiêu trừ phiền
não." (Samyutta, 16:13 - Tạp A Hàm), và chính Ngài cũng đã trải qua 49
ngày đêm thiền định rốt ráo trước khi chứng đạt được đạo quả bồ
đề. Chúng ta, những người học Phật, dĩ nhiên cũng không có một lựa
chọn nào khác hơn. Tuy nhiên, một vấn nạn lớn đặt ra cho những người
mới tập tểnh bước chân vào cửa Thiền, là làm sao tìm ra cho mình một
phương pháp thích ứng để con đường tu chứng của mình mau đạt được
kết quả mà không bị lạc lối trong rừng Thiền mênh mông, chẳng những
đã không đạt được cứu cánh giác ngộ mà đôi khi lại còn có thể bị
rơi vào con đường ma đạo.
Muốn học đạo phải tìm thầy.
Có rất nhiều minh sư ở khắp mọi nơi để Phật tử có thể tìm đến
tham cầu, nhưng nếu vì một lý do nào đó mà hành giả không có cơ duyên
hay phương tiện để gặp gỡ họ, hôm nay chúng tôi sẽ xin giúp hướng dẫn
qúy vị đến gặp một vị Đại minh sư, một "Người" rất quen,
luôn luôn gần gũi bên cạnh chúng ta, luôn luôn lắng nghe những lời khẩn
cầu của chúng ta với tất cả sự quan tâm và tấm lòng thương yêu rộng
lớn để sẵn sàng giúp đỡ mà không cần đòi hỏi một điều kiện thù
đáp nào. Vị minh sư đó không ai khác hơn là Đức Bồ Tát Quán Thế Âm
và với phương tiện thiện xão của Ngài, thần chú "Thiên Thủ Thiên
Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni", sẽ giúp đỡ cho bất cứ ai khi
trì tụng Thần chú này đúng phương pháp chắc chắn sẽ mau chóng bước
chân vào cõi Thiền, cũng như đạt được mọi điều sở nguyện.
Như người cùng tử, suốt một đời
rong ruổi ngược xuôi, đến khi mang chiếc thân tàn trở về lại ngôi nhà
cũ của Cha mình mới khám phá ra viên ngọc vô giá trong chiếc áo rách nát
tả tơi theo năm tháng mà ngày xưa người cha vì lòng yêu thương đã khâu
vào trước khi đứa con bỏ nhà đi hoang. Thần chú Đại Bi, chính là viên
ngọc vô giá đó và hôm nay, như người cùng tử năm xưa, chúng ta bất ngờ
khám phá lại kho tàng không những sẽ làm giàu có, phong phú cho tâm hồn
đang khô kiệt của chúng ta, mà còn là chiếc chìa khóa mở cho ta vào cánh
cửa thênh thang của đạo quả giác ngộ, vô thượng bồ đề.
- 1. Lý Do Ra Đời Của
Thần Chú và
- Phát Nguyện Của Bồ Tát Quán Thế Âm
Thần Chú Đại Bi được
rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên
Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói
trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh
chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp,
A-Nan... cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo
ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán
Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh
Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A
Nan "Như thế tôi nghe" cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa
ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế
Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho "chúng
sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được
giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng
nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất
cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy
đủ tất cả những chỗ mong cầu" mà nói ra Thần Chú này.
Ngài cho biết lý
do ra đời của Thần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật
Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh
nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên
thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong
đời vị lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa khi
nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước
oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: "Nếu trong đời vị
lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú
này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay". Lập
tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán
Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu
tuyệt của một vị Bồ Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất
cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại,
cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh
giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức
Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, "tiêu biểu cho hạnh tùy
thuận các sự mong cầu của chúng sanh".
Kinh và Thần chú Đại Bi sau đó đã
được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma (Bhagavaddharma: có nghĩa là Tôn Pháp) một Thiền
sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường
dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng
Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai lực và linh nghiệm
đã được chứng minh qua không gian và thời gian, thần chú Đại Bi đã
được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi thức tụng niệm
chính của các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như : Trung
Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,...
2. Công Năng,
Oai Lực của Thần Chú Đại Bi
Muốn biết công năng, oai lực của
Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ
Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã
phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần
chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các
cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không
thành chánh giác. Ngài còn nhấn mạnh: Nếu trì tụng thần chú Đại
Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa
ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại
trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí
thành. Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ
phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp,
báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ,
làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu
trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần
chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất
cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu
diệt.
Oai lực lớn lao của Thần Chú đã
được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:
-"Ngài A Nan bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi
là chi? Con nên thọ trì như thế nào?
- Đức Phật bảo : Thần chú này
có những tên gọi như sau :
- Quảng Đại Viên Mãn Đà-Ra-Ni
- Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni
- Cứu Khổ Đà-Ra-Ni
- Diên-Thọ Đà-Ra-Ni
- Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni
- Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni
- Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni
- Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni
- Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni."
Từ lời dạy trên của Đức Phật
với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú:
Bất cứ một ai khi trì tụng thần
chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả
những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng
khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới
này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và
sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước
muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa.
Một công năng khác của Thần chú
là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt
vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế
tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế
Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những
phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh
phúc. Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng
ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người
khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý
của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này
không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất
hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội,
bệnh hoạn, nghèo hèn,... là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây
nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở
dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì
công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở
trên.
Thần chú này còn có tên gọi là
Diệät Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất
sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng Thần chú Đại Bi vì
phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt
thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại
chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công
năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh sống của những
cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia
thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm,
beo, rắn rết... luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người.
Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ,
hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì
thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại
Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên
thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối
với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm
túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ
pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà
không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác
cũng đều phải lánh xa.
Tuy nhiên, đối với người quyết
chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của
Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang
gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần
trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành
thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn
không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu
quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu
lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới
thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta
thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh
hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc
chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng
Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ
ngôi sơ địa lên ngôi bát địa.
Vì những lý do trên mà thần chú
này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi
vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh
tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương
yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả
có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền
định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến
an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến
cứu cánh giải thoát, giác ngộ.
- 3. Hình Trạng, Tướng
Mạo của Đại Bi Thần Chú
- (Mười Đặc Tiùnh của Đại Bi Tâm)
Ta đang trì tụng Đại Bi
Thần Chú. Vậy trước tiên ta cũng nên biết Chú là gì? Đại Bi Thần Chú
liên hệ như thế nào đến Mật Tông?
Chú còn được biết dưới những
tên gọi khác là Thần Chú, Chân Ngôn hay Mật ngôn, tiếng Phạn là Đà La
Ni (Dhàrani), tức là những câu nói bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát. Những
mật ngôn này đối với phái Mật Tông được sử dụng như là những mật
mã để chuyển âm những lời cầu nguyện của người hành trì đến với
chư Phật, chư Bồ Tát trong khắp mười phương và được các ngài mau
chóng cảm nhận để giúp đỡ hộ trì.
Đà La Ni được dịch qua tiếng
Trung Hoa có nghĩa là Tổng Trì, tức là một loại thần lực có năng lực
thâu nhiếp cùng bảo trì tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian
không cho các thiện pháp bị tán loạn và ngăn che các ác pháp không cho
phát sanh.
Tuy thần chú là những lời nói nhiệm
mầu, bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát ta khó thể lãnh hội được nội
dung, ý nghĩa nhưng điều này không có nghĩa là khi trì tụng Thần chú Đại
Bi ta chỉ đọc tụng lên một cách máy móc. Một khi đã biết được công
năng và oai lực của Thần chú Đại Bi sẽ giúp ta hiểu được tướng mạo
của Thần Chú Đại Bi, hay nói một cách rõ ràng hơn, đặc tính của Đại
Bi Tâm. Những đặc tính này đã được Bồ Tát Quán Thế Âm giải thích
rõ ở trong kinh khi đáp lại lời thỉnh cầu của vua trời Đại Phạm Thiên
Vương, đó là :
- Tâm Đại Từ Bi
- Tâm Bình Đẳng
- Tâm Vô Vi
- Tâm Chẳng Nhiễm Trước
- Tâm Không Quán
- Tâm Cung Kính
- Tâm Khiêm Nhường
- Tâm không Tạp Loạn
- Tâm Không Chấp Giữ
- Tâm Vô Thượng Bồ Đề
Tâm là đối tượng của Thiền định.
An tâm hay định tâm là mục tiêu của hành giả khi hànhThiền. Trong những
giai thoại liên quan đến Thiền học chắc chắn ta đã từng được nghe
hơn một lần những mẫu chuyện liên quan đến đề tài này. Câu chuyện
"an tâm" giữa Bồ Đề Đạt Ma và Tổ Huệ Khả là một thí dụ nổi
tiếngï.
Hành giả tu tập thiền định có
thể nương vào thần lực của Thần Chú Đại Bi, như là một phương tiện
để định tâm và do khả năng chuyên chở mầu nhiệm của những âm thanh
vi diệu này, hoà nhập vào bản thể của chân tâm, đạt đến cứu cánh
giải thoát, niết bàn. Chân tâm là Phật tánh, vốn thường hằng, hiện hữu
trong mỗi chúng sanh. Ta không thấy được chân tâm của mình vì vô minh,
vì tội ác, nghiệp chướng như rong rêu tích tụ từ hằng hà sa số kiếp
đang bao phủ nó. Bồ Tát Quán Thế Âm hằng thương yêu lo lắng cho chúng
sanh đã giúp ta phương tiện diệu dụng là Thần chú Đại Bi, như chỉ cho
ta một con đường tắt để hành trì tu tập, mau chóng tiến đến niết bàn.
Trì tụng Thần chú Đại Bi chắc chắn sẽ làm vỡ ra những mảng tội
ác, nghiệp chướng đã đeo đẳng, dính cứng vào thân ta từ bao đời, oai
lực của nó sẽ như ngọn đuốc bùng lên giữa đêm dài vô minh tăm tối,
làm bừng sáng, tỏ ngộ chân tâm. Mỗi tướng mạo của Thần Chú Đại Bi
vì thế có thể là một đề mục lớn về Thiền quán cho hành giả suy gẫm
trong khi hành thiền đồng thời là một mục tiêu để vươn tới trong hành
trì tu tập.
Xuyên suốt và bao trùm lên tất cả
là Tâm Đại Từ Bi, tức là tâm thương xót và ý hướng, quyết tâm cứu
khổ. Khởi tụng thần chú Đại Bi cũng có nghĩa là khởi phát lòng thương
xót đến tất cả chúng sanh. Trong cuộc sống đấùu tranh đầy khắc nghiệt
để sống còn, khi "con người là chó sói của người", bất hạnh
của kẻ khác đôi khi mang lại lợi lạc cho chính ta, lòng từ của con người
đã bị thui chột. Nhưng nếu quả thật nhân loại cần tình thương như một
chất liệu để nuôi dưỡng đời sống và để thăng hoa, Thần Chú Đại
Bi chắc chắn sẽ là dòng nước cam lồ tưới lên cành cây khô thui chột,
và từ đó hạt giống từ bi sẽ nẩy mầm trong mỗi chúng ta.
Mối liên hệ giữa Từ Bi và Trí
Tuệ là một mối liên hệ duyên khởi. Thành tựu Tâm Đại Bi là điều kiện
để phát sinh Trí Tuệ Bát Nhã, và Tâm Bình Đẳng tức Tâm "Vô phân
biệt trí"cũng từ đó phát sinh. Tâm bình đẳng tức là tâm không
phân biệt trong nhận thức và đối xử đối với chúng sanh. Không còn
thân, không còn sơ, không còn màu da, chủng tộc, phái tính, không còn
nghèo giàu sang hèn, không còn loài này và loài khác, chư thiên, trời, người,
súc sanh, ngã quỹ... tất cả đều bình đẳng, đều là đối tượng được
thương yêu và cứu trợ khi cần thiết, bởi vì tất cả đều mang Phật tánh,
đều là những vị Phật tương lai. Với Tâm Bình đẳng phát triển, mỗi
hành giả sẽ là một hiện thân của Bồ Tát Thường Bấùt Khinh với đầy
đủ tâm cung kính, tâm khiêm nhường trong cung cách sống và cư xử với mọi
loại chúng sanh.
Có thể xem Tâm Đại Từ Bi, Tâm
Bình Đẳng là hành trang cần thiết để đi vào Tâm Không quán. Thực hiện
Tâm không quán tức là bước đầu đi vào triết học tánh Không của đạo
Phật, là bắt đầu bước vào cửa ngỏ "Vô Môn Quan", thấy được
chân như, tự tánh. Có thể coi Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một diễn
giải đầy đủ ý nghĩa của Tâm không quán: "Quán Tự Tại Bồ Tát -một
tên gọi khác của Bồ Tát Quán Thế Âm- hành thâm Bát Nhã, thường chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách": Bồ Tát Quán Thế
Âm khi chứng được Trí Tuệ thâm sâu, Ngài thấy vũ trụ muôn sanh kết hợp
trên dòng sông năm uẩn. Các pháp đều do nhân duyên sanh, không có tự
tánh, không có sanh diệt, không có thêm bớt, không có tạo tác. Nhờ vậy
Đức Quán Thế Âm thoát ra khỏi mọi khổ đau, ách nạn.
Tâm Không quán vì thế cũng bao gồm
cả Tâm không nhiễm trước, Tâm không tạp loạn, Tâm không chấp giữ, tức
là thực chứng Trí Tuệ Bát Nhã để từ đây hành giả sẵn sàng tiến
thêm một bước cuối cùng đạt đến Tâm Vô Vi, Tâm Vô thượng bồ đề,
tức cứu cánh giác ngộ, giải thoát.
Một cách tóm tắt, khi thấy được
tướng mạo của Thần chú Đại Bi, mỗi khi trì tụng thần chú này hành
giả phải phát tâm bồ đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, đối
với chúng sanh phải khởi lòng bình đẳng và phải thường nên trì tụng
chớ nên gián đoạn. Thần Chú Đại Bi chắc chắn sẽ là phương tiện diệu
dụng giúp hành giả mau chóng đạt đến kết qủa trong Thiền định.
4. Vận Dụng
Thần Chú Đại Bi vào Thiền Định
Như đã nói ở trên, muốn đạt đến
cứu cánh giác ngộ không thể không thông qua phương pháp thiền định.
Nhưng khi nghe nói đến Thiền, một người Phật tử bình thường khó hình
dung ra nổi và nghĩ đến nó như là một cái gì đó mông lung, trừu tượng,
huyền bí. Thậm chí Phật tử rất hoang mang vì trong thời đại hiện nay,
có rất nhiều loại "thiền" khác nhau xuất hiện trên thị trường,
được khai thác nhằm mục đích thương mãi hơn là giúp con người đạt
đến bến bờ giải thoát, và đôi khi biến Thiền trở thành một cái
"mốt" thời thượng làm người ta bối rối và dễ bị mê lầm.
Cho nên, để có thể tu tập đúng hướng, hành giả cần phải có một số
nhận thức căn bản đúng đắn về các loại Thiền Phật giáo.
- Khái niệm về
các loại Thiền Phật Giáo
- Thiền chỉ (Thiền định) và Thiền quán (Thiền
minh sát)
Thông thường khi nói đến
Thiền là người ta thường nghĩ ngay đến thiền đốn ngộ, đến "dĩ
tâm truyền tâm", đến những công án hóc búa... Hình ảnh của những
vị Thiền sư "hoát nhiên đạt ngộ" khi tâm thức bùng vỡ trước
tiếng thét của một bậc minh sư, khi soi mặt mình trên một vũng nước
mưa đọng trước hiên nhà... bỗng trở thành như những câu chuyện thần
thoại, người căn cơ thấp kém khó mà lãnh hội được ý nghĩa của sự
đạt ngộ này. Như vậy phải chăng Thiền là một thứ "xa xỉ phẩm"
chỉ dành riêng cho những bậc thượng căn đã đứng mấp mé ở bên bờ
giác ngộ, chỉ cần chờ một sự khai thị đúng lúc là tỏ ngộ chân lý?
Dĩ nhiên Thiền không phải hoàn toàn như thế, bởi lẽ nếu hiểu Thiền
theo cung cách này thì lịch sử của tông phái Thiền Phật giáo trong suốt
bao nhiêu thế kỷ qua chỉ sản xuất ra được mấy chục vị Tổ!
Phải nên hiểu rằng các pháp hành
thiền, như đã được lưu truyền đến nay trong kinh điển, đều được
căn cứ trên những phương pháp mà chính Đức Phật đã áp dụng, căn cứ
trên sự kinh nghiệm của chính bản thân Ngài trong suốt quá trình tu tập,
trau giồi và phát triển tâm, pháp môn hành thiền đó đã đưa Ngài đến
đạo quả Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn.
Để kiểm soát, uốn nắn và giải
phóng tâm Phật giáo có hai loại Thiền chính yếu sau đây:
- Thiền chỉ hay Thiền định(samatha
bhavana hay samadhi): là gom tâm vào một điểm, hay thống nhất, tập trung tâm
vào một đề mục (cittekaggata, Sanskrit là cittaikagrata, nhất điểm tâm), tức
là an trụ tâm.
- Thiền Quán hay Thiền Minh Sát
(vipassana, Sanskrit là vipasyana hay vidarsana), - cũng gọi là thiền tuệ – tức
là hướng tâm soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn
pháp.
Thiền quán đã được một vị
danh tăng Phật giáo đương đại, Đại Đức Piyadassi giải thích như sau:
"... Danh từ vipassanà (vi +
passanà), trong một biến thể, có nghĩa là "thấy một cách phi thường",
thấy khác với lối thấy thông thường, do hai thành phần "passati"
là thấy và "vi" hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường.
Như vậy, vipassanà là thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ.
Đây không phải là nhìn thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề
mặt, ở mặt ngoài mà nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống.
Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà
hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục
tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát (vipassanà bhàvanà) là loại thiền
mà chính Đức Phật đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban
truyền, trước kia chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..." (*)
Pháp hành "thiền chỉ"
trong Phật Giáo đưa đến tột đỉnh là đắc Thiền (Jhana), trong khi pháp
hành "thiền quán" dẫn đến bốn tầng Thánh mà bậc Thánh cuối
cùng là A La Hán, hay tiến thêm một bước nữa là đạt qủa vị Phật, giải
thoát.
Cứu cánh tu tập của chúng ta dứt
khoát là không nhắm đến trạng thái Định hay thư giản. Ta vận dụng công
năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi -bằng cách chuyên tâm trì tụng Thần
chú này một số biến nhất định- như là một pháp hành của Thiền Chỉ,
và chỉ xem đó như là một cổ xe đưa ta đến bến bờ giác ngộ. Cho
nên, khi tâm đã an trụ vững vàng, chúng ta bắt đầu bước vào Thiền
minh sát, lúc này dùng hình trạng và tướng mạo của Thần chú Đại Bi làm
nội dung thiền quán: Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng, Tâm Vô Vi,Tâm Không
Quán... và nên được bắt đầu bằng Tâm Đại Từ Bi.
Tại sao chúng ta bắt đầu nội
dung Thiền quán bằng Tâm Đại Từ Bi? Trước tiên, đây là một yêu cầu
của Bồ Tát. Trì Chú Đại Bi sẽ không linh nghiệm nếu không được phát
khởi bằng Đại Bi tâm. Thứ hai, khi chọn phương pháp thiền định dùng
Thần Chú Đại Bi như là phương tiện - vắn tắt xin được tạm gọi là
Thiền Quán Âm- chúng ta đã phát tâm noi theo hạnh nguyện ban vui cứu khổ
của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nguyện trở thành một cánh tay, một
chiến sĩ trong đạo quân tình thương của Ngài, đem gieo rắc ánh sáng từ
bi đến khắp muôn loài chúng sanh, góp phần xây dựng một cỏi Tịnh Độ
Nhân Gian trên cõi thế. Thiền Quán Âm như thế là một loại thiền tích cực,
đi thẳng vào đời sống, tác động vào đồng loại, chúng sanh và môi trường
sống. Hành giả khi dùng Thiền quán sẽ vận dụng Tâm Đại Bi làm ngọn
đuốc soi đường, rọi chiếu vào tất cả ngỏ ngách tâm linh và hành động
của chính mình trong từng mỗi phút giây hiện tại.
Làm Thế
Nào Để Thực Hiện Đại Từ Bi Tâm Quán?
Từ Bi Quán là phương thức để huân
tập lòng Từ Bi. Trong Phật giáo có rất nhiều phương pháp Từ bi quán mà
cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng rõ trong cuốn "Phật Học Phổ
Thông", ở đây xin được tóm tắt lại bằng ba phép quán từ thấp đến
cao như sau :
1. Quán chúng sinh duyên từ : Quán
sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi dục giới mà phát khởi lòng từ.
- những kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị
hành phạt, loài ngạ quỷ đói khát..
- loài súc sanh (trâu, bò heo, gà...) bị hành hình,
phân thây xẻ thịt làm thức ăn cho loài khác...
- loài a tu la phải đấu tranh chém giết
- chúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng
phải bị đọa lạc
- những cảnh khổ của kiếp người...
Thấy được những cảnh khổ của
chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi, Phật dạy ta phải xem tất cả
chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại gia đình. Nhân loại như
đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài khác cũng là thành
phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể họ đã
là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ
ta trong những kiếp tương lai...
- Quán Pháp duyên từ :
Cao hơn một bậc, hành giả có thể
quán sát thấy tất cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như
ngài Duy Ma Cật, "vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh", chúng sanh khổ
nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng
không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng không chấp rằng ta
đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồøng một bản thể, đồng một
pháp giới tánh.
3. Quán Vô duyên từ : Đây là lòng
từ bi của chư Phật, theo thể tánh chơn tâm mà phát ra, bao la trùm khắp,
không thiên lệch một nơi nào như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp gần
xa một cách vô tư, không dụng công và không bỏ sót một nơi nào. Loại
này chúng ta chỉ biết qua chứ không áp dụng vào thiền tập vì quá cao
siêu.
5. Thần Chú Đại Bi, Một Con đường tắt đến Tịnh
Độ
Nói đến Thần Chú Đại Bi, nói đến
tu tập Thiền định, ta không thể không nói đến Tịnh Độ. Tại sao? Bởi
vì chuyện sinh tử là chuyện quan trọng của đời người. Ta nhận thức
được rằng kiếp sống thế gian rất ngắn ngủi và ta cũng không muốn luẩn
quẩn mãi trong cảnh luân hồi sinh tử cho nên ta tu tập để mong cầu
vươn đến một cảnh giới đích thực, vĩnh cữu. Cảnh giới đó có thể
mang tên là Niết Bàn. Cảnh giới đó cũng có thể là Tịnh Độ.
Trước hết, khi nói đến Tịnh Độ,
Phật tử thường liên tưởng ngay đến một cảnh giới cực lạc. Đó là
một cảnh giới lý tưởng, đẹp đẽ, an lành mà bất cứ người con Phật
nào cũng thường ước mơ được vãng sanh đến sau khi từ giã cõi đời.
Đức Thế Tôn đã tuyên xưng rất nhiều cảnh giới Tịnh Độ trong các
kinh sách, mà đặc biệt là cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A
Di Đà. Để đạt đến cảnh giới này, pháp môn Tịnh Độ đặt nền móng
tu tập trên ba nguyên tắc căn bản: Tín, Nguyện và Hạnh. Trước hết là
lòng tin. Ta tin có sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Tây phương do Đức A
Di Đà làm giáo chủ. Tin như thế ta Nguyện sẽ được vãng sanh về cảnh
giới này. Nguyện được thể hiện bằng Hạnh qua phương thức trì danh, tức
là trong suốt hành trình tu tập của mình ta phải hành trì pháp môn niệm
Phật A Di Đà cho đến "nhất tâm bất loạn", thì chắc chắn sẽ
được Ngài tiếp dẫn ta về cảnh giới này sau khi ta từ giã cõi đời.
Một cảnh giới Tịnh Độ khác cũng
thường được Đức Thế Tôn nhắc tới đó là cung trời Đâu Suất
(Tutsia) của Di Lặc, vị Bồ Tát đã được Phật Thích Ca thọ ký sau này
sẽ trở xuống cõi trần thành lập hội Long Hoa và trở thành vị Phật tương
lai. Nỗ lực của Ngài là hóa độ quần sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh
Độ. Quan niệm Tịnh Độ này rất phù hợp với niềm tin và hạnh nguyện
của người tu tập theo pháp hành Thiền Quán Âm bởi tính tích cực của
nó. Bắt nguồn từ phương châm "Học Phật đạo, hành Bồ Tát đạo",
ta sẽ không bao giờ mong cầu mình được sanh về một thế giới cực lạc,
hoặc Niết Bàn cho riêng mình. Đây là thông điệp chính yếu của Thần
chú Đại Bi, tiếng Phạn là Maha Karuna, mà Karuna có nghĩa là "ngưng tìm
kiếm hạnh phúc". Ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc, Niết bàn cho chính ta
khi muôn loài chúng sanh chưa hạnh phúc, an lạc, chưa đạt được cảnh giới
Niết Bàn, như Đức Di Lặc đã thuyết trong kinh Trang Nghiêm Minh Giác:
"Với từ bi ta không trụ nơi cực lạc an bình", có nghĩa là với
Đại Từ Bi ta không mưu cầu sự giải thoát cá nhân.
Như vậy, nếu hiểu Tịnh Độ là
pháp môn dựa trên căn bản Tín, Nguyện, Hạnh, thì phương pháp hành Thiền
sử dụng Thần Chú Đại Bi cũng không xa lìa pháp môn Tịnh Độ, chỉ khác
một điểm nhỏ là thay vì trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, chúng ta trì
tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Bi Thần Chú. Đến đây, những
hành giả bị ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng Tịnh Độ -những người
thường lo lắng đến hậu sự- chắc chắn sẽ nêu ra câu hỏi: Nhưng rồi
sau khi quá vãng, chúng ta, những người tu tập Thiền định -Thiền Quán
Âm, nếu không đạt được giác ngộ trong hiện kiếp sẽ vãng sanh về đâu?
Thưa bạn, câu hỏi đặt ra thật đúng lúc, vì qủy vô thường có thể đến
thăm viếng ta bất cứ lúc nào, tốt hơn hết là ta nên chuẩn bị. Tuy
nhiên, bạn cũng đừng phí thì giờ để lo nghĩ nhiều đến vấn đền này
vì bạn nhớ không, trong kinh Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa với
chúng ta rằng những người trì tụng thần chú Đại Bi chắc chắn sau khi
chết sẽ không bị rơi vào con đường ác đạo. Những điều Bồ Tát đã
hứa là chắc chắn không thể nào thay đổi, có nghĩa là bạn đã biết chắc
một điều rằng mình sẽ không bao giờ bị rơi vào con đường ngạ quỹ,
địa ngục hay súc sanh. Như vậy vấn đề còn lại quả thật rất đơn giản:
Bạn có quyền tự do lựa chọn cảnh giới Tịnh Độ mà mình mong muốn để
được vãng sanh kể cả về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Tuy nhiên, do noi theo hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế
Âm, người hành Thiền Quán Âm như đã nói ở trên, không phải chỉ mưu cầu
giải thoát cho riêng cá nhân mình mà còn muốn bắt tay vào việc cãi thiện
xã hội, môi trường, xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian trên cõi thế,
cho muôn loài chúng sanh, trong thời đại mà chúng ta đang sống cho nên gần
gũi hơn với Tịnh Độ Di Lặc. Do tính cách tích cực đó, xin được đề
nghị thêm với bạn ba cảnh giới sau đây để suy nghĩ và chọn lựa. Sau
khi đã có quyết định, bạn phải phát nguyện ngay cùng Bồ Tát Quán Thế
Âm để Ngài thọ ký cho và chắc chắn bạn sẽ được Ngài hiện đến tiếp
dẫn trước phút lâm chung, hướng dẫn bạn đến cảnh giới mong cầu:
- Tái sanh trở lại cõi trần tiếp tục hành Bồ
tát đạo, hoằng pháp lợi sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ.
- Về cảnh giới của Bồ Tát Địa Tạng, tức là
xuống cõi địa ngục tiếp tục tu tập cùng Bồ Tát, thực hành công hạnh
theo lời nguyện: "Nếu con hướng về cõi địa ngục, địa ngục liền
mau tự tiêu tan".
- Về cõi Trời Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc để
tiếp tục tu học, cho đến khi nào Bồ Tát giáng trần ta sẽ cùng theo
chân Ngài trở lại cõi thế dự hội Long Hoa.
Tuy nhiên, xin được nhắc lại một
lần nữa, điều quan trọng nhất là chúng ta hiện đang sống trong cõi thế
này, trong giây phút hiện tại này, cho nên công việc trước mắt của người
Phật tử chúng ta là phải bắt tay ngay vào việc xây dựng một cõi Tịnh
Độ Nhân Gian, tức cũng là cõi Tịnh Độ Di Lặc mà mọi Phật tử đều
mong cầu, mơ ước. Đó cũng chính là thông điệp của Thần Chú Đại Bi.
Xin chắp tay trì tụng và hồi hướng
công đức vô lượng của Thần Chú này đến muôn loài chúng sanh...
(*) trích dẫn từ bản dịch của Cư
sĩ Phạm Kim Khánh.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/160-chudaibi.htm