Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Phật Giáo – Bức Thông Điệp Vượt Thời Gian
Ven. Dr. K. Sri  Dhammananda

 

          Một vài người thích gọi Phật giáo là một tôn giáo, số khác lại cho rằng đó là một nền triết học, song vẫn còn có một số gọi Phật giáo vừa là tôn giáo lẫn triết học. Tuy nhiên, có thể gọi Phật giáo là một cách sống (way of life) thì đúng hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là Phật giáo chỉ là một qui tắc luân lý đạo đức nhưng Phật giáo còn vượt xa hơn đó nữa. Phật giáo là một cách sống rèn luyện về mặt luân lý đạo đức, tâm linh và tri thức đưa đến sự hoàn toàn tự do giải thoát của tâm (mind) chính Đức Phật gọi những lời dạy của ngài là “ Dhamma – Vinaya”- Phật pháp và giới luật, nhưng xét theo một ý nghĩa chân xác nhất thì không đuợc  gọi là một tôn giáo, bởi vì nếu theo ý nghĩa của thuật ngữ tôn giáo thì đó có nghĩa là một hành động biểu hiện niềm tin  vào, tôn kính cho, và mong muốn để được thỏa mãn, một bậc cai trị có quyền năng thần thánh, hành động hoặc sự thực hành các lễ nghi liên quan đến tôn giáo này; sự công nhận con người là một bộ phận của những đấng toàn năng cao hơn điền khiển vận mệnh của anh ta, và buộc anh ta phải vâng lời tôn   kính và sùng bái thờ phụng , Phật giáo chắc chắn không phải là một tôn giáo như thế .

          Theo quan điểm của phật giáo, không có một sự nhận thức hoặc cả tin về sự hiện hữu của một đấng sáng tạo ở bất kỳ hình thức nào, có quyền thưởng phạt những hành động tốt, xấu những chúng sanh mà ngài đã tạo ra. Người phật tử quy y Đức Phật nhưng không trông mong, hy vọng rằng anh ta sẽ được bậc đạo sư cứu thoát cảnh đọa lạc. Đức Phật chỉ  là một bậc đạo sư đã mở ra con đường và hướng dẫn chư đệ tử ngài đạt đến sự giải thoát cá nhân của họ.

          Chẳng hạn một bảng hiệu trên các con đường có tác dụng chỉ dẫn phương hướng cho người đi đường , và nó được bỏ lại để cho người đi đường tự đi trên con đường mà mình đã hướng tới. Dấu hiệu, bảng hiệu chắc chắn sẽ không đưa anh ta đến nơi mà anh ta mong muốn.

          Một bác sĩ chẩn đoán bệnh và kê toa; còn phần của bệnh nhân là phải kiểm tra và thực hành theo toa thuốc. Thái độ của Đức Phật đối với chư đệ tử của Ngài cũng giống như thái  độ của một người thầy hoặc lương y hiểu biết và thương xót.

          Sự sùng bái ở mức độ cao nhất và thành kính nhất được dành cho những bậc cao thượng nhất của nhân loại, những con người có một tinh thần vĩ đại và dũng cảm, bằng sự thể nhập vào thực tại, xóa tan đám mây vô minh, và nhổ sạch gốc rễ của các cấu uế, ô nhiễm. Những con người đã nhìn thấy chân lý là những con người thực sự có ích, nhưng giới Phật tử không cầu nguyện ở nơi họ. Họ chỉ tôn kính những bậc đã làm hiển lộ chân lý vì các Ngài đã chỉ ra con đường đưa đến cái chân hạnh phúc và chân giải thoát. Hạnh phúc là những gì mà chính bản thân anh ta đạt được chứ không ai khác có khiến cho người ta trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn. “ Sự thanh tịnh và nhiễm ô tùy thuộc ở nơi mình. Không ai có thể làm cho ai thanh tịnh hoặc nhiễm ô” .

TÌM CẦU CHÂN LÝ

          Trong khi đang nằm tại rừng SALA song thọ tại KUSINARA, Đức Phật ở tuổi 80  nhìn thấy những bông hoa được dâng cho Ngài, dạy ANAN như sau: “ Này ANAN những ai sống chánh hạnh, sống theo pháp – đó chính là những bậc đáng  được tôn kính, thân trọng, cũng dường – Đức Như Lai, Thế Tôn (Bậc Hoàn Hảo) xứng đáng được tôn kính nhất. Do vậy, này Anan hãy sống chánh hạnh, sống theo pháp. Vì vậy, các vị hãy tu tập cho chính bản thân  mình”.

          Lời khuyên của Đức Phật cho chúng ta “ Hãy sống theo pháp” chỉ ra rõ ràng rằng những gì  quan trọng nhất là sự tu tập thân, khẩu, ý, không phải chỉ dâng hương hoa cho một Đấng Giác Ngộ thì người ta có thể đạt  được sự giải thoát. Do vậy, sự nhấn mạnh, đề cao ở đây là “ hãy sống một cuộc sống chân chính ".

          Liên quan đến câu hỏi liệu Phật giáo có phải là một triết học chăng ? Điều đó tùy thuộc vào định nghĩa của thuật ngữ; và liệu có thể đưa ra một định nghĩa bao hàm tất cả các hệ thống tư tưởng triết học hiện hành là một điều nghi ngờ.

          Từ nguyên của triết học có nghĩa là yêu mến ( to love – Gr. Philein) trí tuệ (wisdom – sophia) . “ Triết học bao hàm vừa việc tìm cầu trí tuệ và trí tuệ được tìm cầu”. Theo tư tưởng Aán Độ, triết học được đặt tên là “ Darsana”, con mắt của chân lý. Tóm lại, mục đích của triết học là phải tìm ra chân lý tối hậu.

          Phật giáo cũng tán thành việc tìm cầu chân lý. Nhưng đó không chỉ là một sự suy luận tự biện, một cấu trúc lý thuyết, một sự thâu nhận và cất chứa kiến thức. Đức Phật nhấn mạnh khía cạnh thiết thực lời dạy của người và sự ứng dụng tri thức này vào thực tiễn cuộc sống – xem xét cuộc đời chứ không phải chỉ nhìn đời.

          Đối với Đức Phật, toàn bộ lời dạy của Ngài chỉ là một sự hiều biết về bản chất vô thường của tất cả các hiện tượng hiện hữu và la sự tu tập, thực hành con đường đưa đến sự giải thoát khỏi trạng thái vô thường khổ đau này. Đây là nền triết học của Ngài.

          Trong Phật Giáo, trí tuệ là một trong những nhân tố quan trọng nhất bởi vì sự thanh tịnh nhờ vào trí tuệ và sự hiểu biết. Nhưng Đức Phật  chưa bao giờ khen ngợi việc chỉ thâu nhậân kiến thức. Theo Ngài, tri thức, kiến thức nên đi song song với sự thanh tịnh của tâm, với sự hoàn hảo về giới luật. Tri tuệ đạt được thông qua tri kiến và sự phát triển những phẩm chất của tâm và tâm là trí tuệ.

          Đó là một sự tích trữ tri kiến, kiến thức chứ không phải là một sự duy suy đoán, lôgich và một sự suy luận bên ngoài. Do vậy, rõ ràng là đạo phật không phải  là một thứ yêu mến, hoặc là một khích lệ tìm cầu chân lý đằng sau trí tuệ, hoặïc là một sự nhiệt tâm, nhưng nó là một sự khuyến khích của việc ứng  dụng những   lời dạy vào thực tế cuộc sống và những lời dạy này có thể đưa hành giả tiến đến sư ly tham, giác ngộ và sự giải thoát tối hậu.

          Mặc dù chúng ta gọi giáo pháp của Đức Phật là: “ Buddhism” , do vậy bao gồm trong nó là “ Isms” (Nhữõng học thuyết), song thực sự không liên quan gì đến cái nhãn hiệu chúng ta gán cho nó. Có thể gọi nó là một tôn giáo, triết học, Phật Giáo hay bất kỳ một   cái tên nào khác mà bạn thích. Những cái nhãn hiệu này không có ý nghĩa lắm đối với những ai muốn tìm cầu chân lý và giải thoát.

          Khi Upatissa và Kolita (sau này là Xá Lợi  Phất  và Mục Kiền Liên, hai vị đệ tử xuất chúng của Đức Phật) đang lang thang trên đường tìm cầu chân lý giải thoát, Upatissa nhìn thấy Tỳ Kheo Assaji (một trong năm vị đệ tử của Đưc Phật ) đang đi khất thực. Upatissa bị gây ấn tượng mạnh mẽ bởi phẩm chất, dáng điệu của vị trưởng lão. Nghĩ rằng không phải lúc để hỏi thăm và tìm hiểu, vì vậy Upatissa theo trưởng lão Assaji về trú xư ùcủa Ngài, và sau đó đến gần và chào hỏi Ngài và muốn tìm hiểu những lời dạy của bậc đạo sư của Ngài. Trưởng lão Assaji hơi miễn cưỡng để nói nhiều và nói một cách khiêm tốn “ Tôi không thể giảng giáo pháp và luật một cách cặn kẽ cho hiền hữu được, nhưng tôi có thể nói một cách vắn tắt cho hiền hữu nghe về ý nghĩa của giáo pháp ấy”. Lời đáp lại của Upatissa thật là thú vị : “ Này,hiền hữu hãy nói ít hay nhiều tùy theo khả năng ; những gì tôi muốn nghe chính là ý nghĩa tinh túy của học thuyết. Tại sao không ?  - Nói vài câu đi hiền hữu”. Sau đó tôn giả Assaji lập lại một bài kệ khéo tóm  tắt toàn bộ học thuyết của Đức Phật về Lý Duyên Khởi:

                   “ Tất cả các pháp phát sinh từ một nhân,
                     Nhân ấy đức Như Lai đã giảng rõ.
                     Và cả sự đoạn diệt của chúng,
                     Bậc Đại  Sa Môn đã giáo huấn như vậy”.

          Upatissa liền giác ngộ nghĩa lý của bài kệ ngay lập tức và chúng đắc quả Tu Đà Hoàn và thấu hiểu “ Tất cả các pháp, thuộc bản chất của sanh khởi, đều thuộc bản chất của đoạn diệt”.

 

MỘT BẬC THẦY THIẾT THỰC 

          Nói nhiều hay bàn luận nhiều không hướng đến sự hiểu biết chân chánh sẽ không đưa chúng ta đến sự giải thoát. Những gì cần thiết là chánh kiến và chánh tư duy. Thậm chí chúng ta có thể đạt được sự giác ngộ thông qua những yếu tố như thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, sông núi    có rất nhiều trường hợp mà người ta đã chứng đắc giác ngộ và giải thoát khỏi các lậu hoặc chỉ bằng cáh nhìn một chiếc lá rơi, một con suối đang chảy, một đám cháy rừng, một ngọn đèn bị gió thổi tắt. Điều này đã đánh  đúng  vào tâm họ và nhận ra bản chất vô thường của các pháp, từ đó họ có thể đạt được sự giải thoát. Vâng, hoa sen chờ đợi ánh nắng mặt trời và khi mặt trời tỏa sáng thì hoa sen nở ra và mang lại niềm vui, sự hân hoan cho tất cả.

          Đức Phật không quan tâm đến những vấn đề siêu hình chỉ làm cho con người lúng túng và mất đi sự thăng bằng về trạng thái tâm lý tình cảm của anh ta. Giải pháp của chúng chắc chắn sẽ không giải thoát nhân loại ra khỏi khổâ đau và bệnh tật. Đó là lý do tại sao Đức Phật  chần chừ khi trả lời những câu hỏi như thế và đôi khi tránh né giải thích những câu hỏi thường được diễn đạt trên cơ sở cái sai. Đức Phật là một bậc thầy thực tế. Mục đích duy nhất của Ngài là giải thích cặn kẽ chi tiết vấn đề của Khổ ( Dukkha)một hiện tượng phổ  quát của cuộc đời, để mà làm cho con người nhận được bản chất của nó một cách sâu sắc. Ngài đã nói với chúng ta rõ ràng những gì Ngài giải thích và những gì Ngài không giaiû thích.

          "Khi Đức Phật đang trú tại Kosambi ( gần Allahabad ) Ngài cầm một nắám lá trên tay và dạy các Tỳ Kheo.

          Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá simsapa mà ta nắm lấy trong tay hay lá trong rừng simsapa?

          Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá simsapa mà Thế Tôn nắm lấy trong tay và thật là quá nhiều lá trong rừng simsapa.

          Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, thật là quá nhiều những gì ta đã liễu tri mà không nói cho các ông! Thực là quá ít những gì ta đã nói ra!

          Nhưng tại sao, này các Tỳ Kheo, ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỳ kheo, những điều ấy là vô dụng, không phải là căn bản cho đời sống phẩm hạnh; chúng không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ , Niết bàn. Do vậy, đó là lý do tại sao ta không nói lên những điều ấy.

          Và này các Tỳ Kheo, điều gì mà ta đã nói ? “ Đây là khổ” – là điều ta đã nói “ Đây là nguyên nhân của khổ” là điều ta đã nói “ Đây là sự đoạn diệt của khổ đau”, là điều ta đã nói  “ Đây là con đường đưa đến sự diệt tận của khổ đau”, là điều ta đã nói .

          Nhưng tại sao này các Tỳ kheo , Ta lại nói ra những điều ấy ? Vì rằng này các tỳ kheo những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho đời sống phạm hạnh ; chúng ta đưa đến yếm ly,ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí giác ngộ, Niết Bàn. Này các Tỳ kheo đó là lý do tại sao ta nói lên những điều ấy,  Đức Phật đã thuyết như vậy."

( Tương Ưng V -phẩm Rừng simsapa)

          Tuy nhiên, một số học giả không đề cao, tán thành thái độ này của bậc đạo sư , thậm chí họ còn nghi ngờ về sự giác ngộ của Ngài và gán cho Ngài một nhãn hiệu là người theo thuyết bất khả tri. Giới học giả luôn thích tranh luận và hoài nghi  đây không phải là những câu hỏi của ngày hôm nay hay hôm  qua, mà chúng là những vấn đề được nêu ra trong thời kỳ của Đức Phật.  Chẳng hạn khi được hỏi về quá khứ và tương lai, câu  trả lời của Đức Phật quả quyết:

          “ Quá khứ là quá khứ, tương lai là tương lai, ta sẽ dạy ông Pháp Duyên Khởi:

          Khi cái này có, cái kia có,
          Với sự sinh khởi của cái này , cái kia sinh khởi,
          Khi cái này không, cái kia không,
          Với sự đoạn diệt của cái này, cái kia đoạn diệt”.

          Đây là lời giải thích trọng  điểm của Phật Giáo về Thuyết Duyên Sinh  và điều này hình thành nên nền tảng Tứ Thánh Đế, trọng diểm của Phật giáo.

 

BẬC LƯƠNG Y VÔ SONG SỰ THẬT CỦA CUỘC ĐỜI

          Theo phật giáo, cuộc đời là khổ đau; khổ đau ngự trị tất  cả sự sống. Đó là vấn đề cơ bản của cuộc đời. Thế gian là khổâ đau, và triền phược; không có chúng sinh tự do thoát khỏi sự trói buộc của khổ đau, và đây là một  chân lý phổ quát rằng không một con người có nhận thức, nhìn thấy sự vật đúng với sự thật của chúng, có thể từ chối song sự nhận tthức được chân lý phổ quát này không phải là một sự từ chối  tất cả sự sung sướng hay niềm hạnh phúc. Đức Phật, bậc  vượt qua khổ đau, chưa bao giờ từ chối  niềm hạnh phúc trong cuộc đời khi ngài nói về đặc tính phổ quát của khổ đau. Trong kinh Tăng Chi Bộ, có một sự liệt kê dài những thứ hạnh phúc mà những chúng sanh có thể hưởng thọ.

                   Khi trả lời câu hỏi của Mahali Licchavi, Đức Phật dạy:

          "Này Mahali nếu: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ( như ngươi biết, những thứ này là những đối tượng của các giác quan do tiếp xúc với các căn) hoàn toàn bị khổ đau chi phối, đầy rẫy khổ đau mất hết toàn bộ an lạc và hạnh phúc, chúng sanh sẽ không lấy làm vui mừng đối với các đối tượng của các giác quan này, nhưng này Mahali, bởi vì có sự vui sướng, thích thú và hạnh phúc ở nơi chúng nên chúng sanh lấy làm vui mừng đối với chúng và chấp thủ chúng; bởi vì sự chấp thủ này cho nên chúng sanh bị nhiễm ô bất tịnh. "

          Thông qua các căn, chúng sanh bị lôi cuốn vào các đối tượng của các giác quan, lấy làm vui sướng thích thú đối với chúng và phát sinh sự thích thú. Đó là một sự thực mà không thể từ chối bởi vì chúng ta thưởng thức nó. Song, tất cả đều là vô thường biến hoại. Chúng phải chịu sự thay đổi. Bây giờ khi một  người không thể duy trì, giữ được hoặc thiếu thốn niềm vui, sự thích thú mà làm cho anh ta phấn khởi vui mừng, thì anh ta thường trở nên buồn chán và không vui vẽ. Anh ta không thích sự đơn điệu, buồn tẻ, bởi vì thiếu đi sự đa dạng khiến anh ta bất hạnh và muốn tìm kiếm những niềm vui tươi mát, mới mẻ này cũng giống như gia súc tìm kiếm những đồng cỏ tươi xanh, song những thú vui tươi mát, mới mẻ này cũng mang bản chất phù du trôi nổi và thoáng qua mà thôi. Do vậy, tất cả những sự vui sướng cho dù chúng ta thích nó hay không đều là sự kiện mở đầu cho khổ đau và nhàm chán. Tất cả các thú vui thế gian đều phù du trôi nổi giống như viên thuốc độc được phủ bên ngoài lớp đường, chúng lừa và làm hại chúng ta.

          Một món ăn không vừa ý, một thức uống không ngon, một thái độ không đáng yêu, và hàng trăm chuyên vặt khác, mang lại khổ đau và bất thỏa mãn cho chúng ta dù phật tử hay người thế gian, giàu hay nghèo, cao hay thấp, sang hay hèn, có học hay vô học.

          “ Khi buồn rầu khổ đau đến với chúng ta, chúng đến không chỉ với một vài tên gián điệp mà còn với một vài tiểu đoàn”. ( Shakespeare – Hamlet ).

          Vì rằng con người không thấu hiểu khía cạnh này của cuộc đời, các sự tạm bợ của những thú vui này, anh ta trở nên thất vọng và nản lòng, thậm chí có thể hành động một cách ngu xuẩn, không có suy nghĩ và phán  đoán, thậm chí mất cả sự thăng bằng của tâm lý. Đây là sự hiểm nguy và hậu quả xấu xa sẽ xảy ra. Nhân loại thường đối đầu với hai bức ảnh này củûa cuộc đời. Tuy nhiên, con người nổ lực để loại trừ sự say mê sâu sắc các sự vật có sức sống và không sức sống thì sẽ nhìn đời với một quan điểm ly tham, không chấp thủ. Những ai nhìn đời, sự vật đúng với bản chất triển vọng của chúng, thì sự tu tập tâm linh của họ sẽ thúc giục họ luôn giữ bình tĩnh, chánh niệm cho dù trải qua sự thăng trầm của cuộc đời; họ có thể mỉm cười khi sự vật có thể đi vào con đường sai trái và duy trì một trạng thái cân bằng của tâm, xóa tan tất cả mọi sự ưu thích và ghét bỏ. Tất cả những hạng người như trên sẽ không bao giờ lo lắng, mà sẽ được giải thoát tự tại.

          Tất cả các yếu tố được miêu tả trên là những sự thật kinh nghiệm – một bức ảnh chân thật của những gì chúng ta gọi là cuộc đời.

          Khi trả lời câu hỏi của Mahali, Đức Phật tiếp tục: “ Này Mahali, nếu sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp hoàn toàn chịu sự vui thích, đầy dẫy vui sướng và không có khổ đau, thì các chúng sanh sẽ không nhàm chán với những đối tượng của các giác quan này nhưng, này Mahali, bởi vì có sự đau khổ và lạc không thường hằng trong những đối tượng của các giác quan này, họ cảm thấy nhàm chán, do nhàm chán họ không lấy làm thích thú và không chấp thủ chúng; do không chấp thủ, họ trở nên thanh tịnh”.

          Khổ đau có ba phương diện:

·        Hành khổ;

·        Hoại khổ;

·        Khổ khổ;

          Tất cả các sự khổ đau thuộc vật lý hay tinh thần chẳng hạn như: sanh, lão, bệnh, tử, oán tắng hội, aí biệt ly, cầu bất đắc là những nỗi khổ đau thông thường trong cuộc  sống hàng ngày và được gọi là khổ khổ (dukkha – dukkhata). Không cần khoa học để tìm hiểu sự thật này của cuộc đời.

          Sankhara – Dukkhata ( hành khổ), các pháp do duyên sinh nên vô thường biến hoại từng sát na mà khổ đau. Đây là ý nghĩa mang tính triết lý.

          Mặc dù từ “ sankhara” ám chỉ tất cả các pháp chịu sự chi phối của luật  nhân quả trong bối cảnh này, nó kết hợp với “ Dukkha”  mang nghĩa là cái khổ của Ngũ Thủ Uẩn.Chúng là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hàng uẩn và thức uẩn. Chúng được gọi ngắn gọn là danh sắc – là thực thể tâm – vật lý.

          Sắc bao gồm: vật lý uẩn và danh là 4 uẩn còn lại. Sự kết hợp của 5 uẩn tạo thành môt chúng hữu tình, một ca ùthể.

          Một chúng sanh và thế giới thực tại đều luôn thay đổi, vô thường. Chúng hiện hữu rồi biến mất. Tất cả đang chuyển động, không có một vật gì thoát khỏi sự thay đổi mãi không thể ngừng lại được và bởỉ vì các bản chất vô thường giả tạo này không có cái gì thật sự là lạc thù. Có hạnh phúc hiện hữu nhưng trong một khoảnh khắc rất ngắn, nó tan thành mây khói như những bông tuyết và mang lại sự biến hoại, vô thường.

          Viparinama Dukkha(Hoại khổ) do sự thay đổi đột ngột mà khổ đau. Tất cả các cảm giác lạc hay hạnh phúc mà con người có thể hưởng thụ sẽ tàn phai và tan biến.

          Như Đức Phật dạy: Thậm chí những cảm thọ mà một thiền giả hưởng thọ do chứng đắc thiền thứ 4 đều phải chịu hoại khổ bởi vì chúng là vô thường, khổ và chịu qui luật vô thường chi phối. Nhưng khổ ở đây chắc chắn không phải là khổ đau mà con người thường chịu đựng. Những gì Đức Phật chỉ ra là tất cả các pháp hữu vi đều vô thường và biến hoại.

          Con người luôn chịu sự thay đổi trong mỗi niệm và sự thay đổi này mang lại sự hủy hoại, tan biến bởi vì những gì vô thường đều tan biến, khổ đau. Có nghĩa là không có một hạnh phúc thường hằng bất diệt.

          Đức Phật là một con người giải thoát khỏi khổ đau nên khuôn mặt của Ngài luôn tỏa sáng một niềm hạnh phúc, hân hoan và tươi cười bởi vì nó biểu hiện tâm giải thoát của Ngài:

                     Sung sướng thay chúng ta sống,

Không bị điều gì chướng ngại,

Ta thường sống với những điều hỷ lạc,

Như những vị trời quang âm.

                           (Kinh pháp cú – 200)

          Ngài khuyên nhủ chư vị đệ tử của Ngài không nên u sầu buồn bã, nhưng hãy tu tập tất cả những phẩm chất quan trọng của hỷ lạc (piti) một yếu tố đưa dến sự giác ngộâ. Một sự tu tập ly tham sẽ cho chúng ta biết rằng Đạo Phật là một bức thông điệp tỏa chiếu niềm an lạc và hạnh phúc, chứ không phải là một nền triết học bi quan thất bại chủ nghĩa.

 

CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN NIỀM HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG 

          Tất cả nhân loại đều muốn được hạnh phúc. Tất cả đều tìm cầu hạnh phúc. Sự tìm cầu hạnh phúc của con người đã kéo dài tiếp nối từ đời này sang đời khác  nhưng không bao giờ tìm thấy theo phương cách mà hạnh phúc được tầm cầu và đó chỉ là một cách thích nghi với những điều kiện của thế giới khách quan bên ngoài mà quên đi thế giới nội tâm. Lịch sử của thế giới đã chứng minh điều này. Nhưng công cuộc cải cách xã hội, kinh tế, luật pháp, chính trị, cho dù chúng  nhằm đến mục đích nào đi nữa, cũng không bao giờ mang lại niềm hạnh phúc  hoàn toàn và chân thật cho con người. Tại sao?

          Khi con người đã giải thoát khỏi hàng loạt các điều kiện, khổ đau khác ngóc đầu lên và khi khổ đau đó được đoạn trừ khi những cái khác cứ tiếp tục xuất hiện. Sự xuất hiện và tái xuất hiện, sự thăng trầm này là bản chất của tất cả các hiện tượng thế gian.  Sẽ không bao giờ có được một niềm hạnh phúc chân thật cho đại đa số. Nó là một gì thuộc riêng tư và cá nhân. Nó bắt nguồn từ bên trong chứ không ở thế giới bên ngoài .

          Con người sẽ tìm thấy hạnh phúc nhiều hơn ở thế giới nội tâm so với thế giới bên ngoài.

          Khoa học hiện đại tuyên bố rằng không có điều gì trong vũ trụ này là tĩnh tại. Mọi thứ đều năng động, mọi thứ đều ở trạng thái chuyển động. Không có gì đứng yên tại một chỗ. Chúng ta trở nên tốt đẹp hơn và hạnh phúc  hơn hoặc là đi theo con đường xấu xa tội lỗi và do vậy buồn rầu khổ đau ngày càng tích lũy nhiều. Để được hạnh húc phải vượt qua buồn rầu khổ đau, Đức  Phật đã  chỉ ra cho nhân loại con đường đưa đến sự đoạn tiệt tất cả các buồn rầu khổ đau.

          Con đường đưa đến sự hạnh phúc là Bát Thánh Đạo. Con đường này phải được chúng ta thực hành, tu tập trước khi nó được gọi là con đường. Có một cái gì cổ hữu trong từ “con đường” một ý tưởng mà chúng ta đã thực hành nó trước kia.

          Một con đường không thể hiện hữu môt cách ngạc nhiên. Trước tiên chúng ta phải chặt cây, dọn đường và khai phóng nó rồi dạo trên  nó. Tương tự như vậy, Bát Thánh Đạo được thực hành trước đây bởi vô lượng Đức Phật trong quá khứ. Trước kia con đường này cũng được chư vị Bồ Tát và Alahán thực hành tu tập. Đức Phật chỉ khám phá con đường chứ Ngài không tạo ra nó, bởi vì nó đã hiện hữu từ vô lượng kiếp về quá khứ. Thực sự nó là môt con đường cổ xưa.

          Bát Thánh Đạo là một con đường phải được thực hành, tu tập. con đường này rất thiết thực trong cuộc sống của chúng ta. Để hiểu và chứng nghiệm chân lý, chúng ta phải thực hành con đường này.

          Con đường này bao gồm một sự sưu tập cẩn thận và khôn khéo của tất cả các điều kiện quan trọng tiên quyết, cần thiết cho sự phát tiển tâm linh của chúng ta.

          Bát Thánh Đạo được chia làm 3 nhóm nhỏ:

Giới (sila), Định (samadhi) và Tuệ (panna) .Con đường này là  độc nhất vô nhị của Phật giáo và nó là nhân tố cơ bản để phân biệt vơí những tôn giáo và triết học khác. Chính qui tắc của Phật giáo về sự tu tập tâm linh và vật lý mới có thể đưa đến sự chấm dứt đau khổ, buồn rầu, thất vọng và đưa đến sự an lạc tuyệt đối, Niết Bàn.

          Tám yếu tố của con đường là:

1.      Chánh kiến (samma – ditthi)              

2.      Chánh tư duy (samma - samkappa)

3.      Chánh ngữ (samma – vaca)

4.      Chánh nghiệp ( samma – kammanta)

5.      Chánh mạng (samma – ajiva )

6.      Chánh tinh tấn ( samma – vayama)

7.      Chánh niệm ( samma – sati )

8.      Chánh định ( samma – samadhi)

          Liên quan đến con đường này trong bài pháp đầu tiên tại vườn Nai, Đức Phật gọi con đường này là Trung đạo (Majjimha patipada) bởi vì nó tránh xa hai cực đoan: tham đắm vào dục lạc, thuộc hạ liệt thấp hèn, đưa đến nguy hại là một cực đoan; tự ép xác trong việc tu tập khổ hạnh, đau đớn, thấp hèn và đưa đến nguy hại là một cực đoan khác.

          Phải luôn ghi nhớ trong tâm rằng từ “con đường” chỉ là một thuật ngữ mang nghĩa bóng . Mặc dù theo qui ước thông thường chúng ta nói về  việc thực hành một con đường, theo ý nghĩa tuyệt đối, 8 bước có nghĩa là 8 yếu tố tâm linh. Chúng thì tương quan tương duyên với nhau, và ở cấp độ cao nhất, chúng đồng thời hoạt động; và chúng không được tu tập thực hành từng cái một theo số thứ tự. Thậm chí ở cấp độ thấp nhất mỗi một yếu tố nên được kết  hợp một ít với một vài mức độ của chánh kiến; bởi vì chánh kiến là yếu tố chủ đạo trong Đạo phật.

          Đức Phật dùng ngôn ngữ mạnh mẽ để cảnh báo cho chư đệ tử Ngài đề phòng thái độ chỉ chú trọng vào việc học sách vở lý thuyết như vầy:

          “ Dù tụng đến ngàn câu kệ vô nghĩa ,

          Chẳng  bằng một cậu kệ có nghĩa lý,

          Nghe xong tâm liền tịch tịnh.”

(PC-101)

Mặc dù anh ta tụng chỉ một vài câu kệ, kinh điển, nhưng hành theo giáo pháp; từ bỏ tham, sân, si, có chánh kiến, tâm của anh ta hoàn toàn được giải thoát và không chấp thủ ở đời này và đời sau; thì nhất định anh ta liền được qủa vị của một vị tâm được tịch tịnh.

          Sự chứng đắc mục tiêu cuối cùng của Đạo Phật   - Niết Bàn (Nibbàna) không đòi hỏi một sự thấu hiểu nền triết lý thâm uyên và khó hiểu của đạo Phật. Những gì được yêu cầu, đòi hỏi một sự phát triển tiếp tục của tâm thông qua một quá trình tu tập tâm hành  giả có thể đạt được tri kiến đưa đến sự giải thoát , Đức Phật đã tuyên bố.

GIỚI LUẬT ( SILA)

          Giới luật được căn cứ trên cơ sở tình thương và lòng từ bi, bao gồm 3 yếu tố trong Bát Thánh Đạo chính là : Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng.

          Đức phật tuyên thuyết giáo pháp của Ngài  vì lợi ích của của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng cho đời .”

          Giới (sila) giai đoạn đầu tiên của con đường được hình thành trên cơ sở tình thương, lòng từ bi. Tại sao chúng ta nên tránh làm hại và cướp lấy của người khác? Đó có phải là tình thương cho chúng ta và những người khác chăng? Tại sao chúng ta cứu giúp, bố thí người nghèo, người bần cùng cần sự giúp đỡ, và những kẻ rơi vào cảnh khốn cùng? Đó có phải là tình thương của chúng ta dành cho họ chăng?

          Tránh làm các điều ác, làm các điều lành là chức năng của giới, là nguyên tắc tu tập giới được dạy trong Phật giáo. Chức năng này thì không bao giờ vắng mặt tình thương lòng từ bi. Giới bao hàm những phẩm chất của tâm như tình thương, khiêm nhường, khoan dung, cảm thông, lòng độ lượng và hạnh phúc đối với sự thành đạt của những người khác.

          Theo Phật giáo để cho một người được hoàn hảo có hai phẩm chất mà anh ta nên tu tập ngang bằng với nhau: một là từ bi; hai là trí tuệ. Từ bi ở đây biểu trưng cho tình thương, lòng độ lượng , khoan dung, tử tế và những phẩm chất cao quý như thế thuộc về mặt tình cảm, cảm xúc hoặc những phẩm chất của tâm. Nếu chúng ta  chỉ tu tập, phát triển mặt cảm xúc tình cảm mà quên đi mặt tri thức, thì chúng ta có thể ttrở thành một người tốt bụng nhưng ngu xuẩn, không có trí, ngược lại, nếu chỉ tu tập phát triển mặt trí thức, tuệ mà lãng quên đi mặt  tình cảm thì có thể trở thành một con người có trí nhưng lòng dạ cứng rắn, sắt đá, không có cảm xúc đối với những người khác. Do đó, để trở nên hoàn hảo chúng ta nên tu tập cả hai yếu tố ngang nhau.

                   CHÁNH NGỮ có nghĩa là tránh né không:

·        Nói vọng ngữ.

·        Nói đâm thọc, nói nhảm nhí, lời nói có thể mang lại sự câm hận, thù địch, sự chia sẻ và bất hòa giữa những cá nhân hoặc nhóm người .

·        Nói  ác khẩu , thô lỗ, mất lịch sự, và lăng mạ xỉ nhục.

·        Tán gẫu vô ích nhảm nhí, nhàn rỗi và phí thời gian.

          Khi chúng ta tránh né những lời nói sai lầm và tai hại này, thì tự nhiên chúng ta phải nói sự thật, phải dùng từ ngữ,  câu cú thân thiện và nhân  đức, dễ chịu và nhã nhặn, có ý nghĩa và hữu ích. Chúng ta không nên phát ngôn cẩu thả: nói đúng nơi, đúng lúc không nên không phải thời mà nói. Nếu chúng ta không thể nói ra điều gì hữu ích thì nên giữ "sự im lặng của bậc Thánh."

                     CHÁNH NGHIỆP là tránh:

·        Sát sinh;

·        Trộm cắp của không cho, và

·        Tham đắm vào quan hệ tình dục bất chính. Do vậy, chúng ta phải tu tập từ bi, chỉ lấy những gì khi được cho phép, sống phạm hạnh và giản dị.

                     CHÁNH MẠNG      có nghĩa là từ bỏ lối sống tà ma nó mang lại sự tai hại và khổ đau cho tha nhân :

-         Mua bán trái phép khí giới và vũ  khí hạt nhân   nguy hiểm đến tính mạng con người ;

-         Mua bán các loại động vật có thể giết lấy thịt;

-         Mua bán trái phép con người thường là nô  lệ, rấùt thịnh hành ttrong thời kỳ của Đức Phật;

-         Các thứ chất men rượu và thuốc độc;

          Và sống cuộc sống chân chánh bằng nghề nghiệp không thể chê trách được và không làm hại mình và tha nhân. Chúng ta có thểà nhìn thấy rõ ràng ở nơi đây rằng Phật giáo phản đối mạnh mẽ bất kỳ loại chiến tranh nào, khi phật giáo đưa ra rằng việc kinh doanh khí giới và các loại vũ khí giết người là một tội ác và phi phương tiện của cuộc sống.

          Chúng ta nên nhận ra rằng đạo đức và luân lý của Phật giáo nhằm mục đích đề cao cuộc sống hạnh phúc và hòa hợp cả cho cá nhân và cho xã hội. Nền đạo đức luân lý này được xem như là một nền tảng không thể thiếu được cho sự chứng đắc cao hơn về mặt tâm linh. Không có một sự phát triển tâm linh nào có thể đạt được mà không cần đến nền tảng tâm linh này. Những nguyên tắc luân lý này nhắm đến xây dựng xã hội an toàn bằng cách đẩy mạnh sự hợp nhất , hài hòa và những mối quan hệ chân chánh giữa con người với con người.

          Trong phật giáo, luân lý đạo đức không phải là một cứu cánh xét về bản thân. Nhưng nó là một phương tiện để đạt đến sự giải thoát cức cánh. Nền luân lý hoàn hảo tách rời khỏi một mục tiêu, không được hướng đến sự giải thoát  cứu cánh được mong muốn, chỉ có một ý nghĩa tương đối theo quan điểm của Phật giáo. Không chỉ ác mà còn thiện phải được vượt quá. Thậm chí giáo lý của Đức Phật cũng phải siêu việt. Đức Phật so sánh giáo pháp của Ngài giống như một chiếc bè được chúng ta dùng để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn và không phải dùng nó cho mục đích nắm vát trên vai mà đi.

          Một khi chúng ta đã đạt đến bờ bên kia, chúng ta không phải mang chiếc bè trên vai  mà đi chiếc bè phải được bỏ lại.

         ĐỊNH ( SỰ TỤ TẬP TÂM LINH – MENTAL DISCIPLINE)

          Tiếp đến là định, bao gồm 3 yếu tố khác trong Bát Thánh Đạo chính là : Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định .

            CHÁNH TINH TẤN là cố gắng chơn chánh, chi thứ 6 của Bát Thánh Đạo, chia làm bốn:

-         Cố gắng ngăn chặn cái ác và bất thiện pháp chưa phát sinh trong tâm của chúng ta.

-         Cố gắng ngăn chặn cái ác bất thiện pháp đã phát sinh.

-         Nổ lực thúc đẩy và phát triển cái thiện pháp đã hiện hữu.

          Do vậy, chức năng của tinh tấn phải cảnh giác, thận trọng và kiểm tra tất cả các pháp bất thiện, và tu tập, thúc đẩy và duy trì các thiện pháp và tư duy thanh tịnh phát sinh trong tâm của chúng ta.

          Một con người khôn khéo có trí , kiềm chế được lời nói và hành động về thân của anh ta, thông qua giới luật, luôn nổ lực xem xét tỉ mỉ những tư duy suy nghĩ của anh ta, những yếu tố tâm linh và tránh những tư duy điên cuồng. 

               CHÁNH NIỆM là tỉnh giác, chánh niệm và chú tâm liên quan đến :

-         Những hành động của thân (kaya);

-         Các cảm thọ (vedana);

-         Những hành động của tâm (cita) và

         -      Ý tưởng tư duy, khái niệm và các pháp.

-          Việc thực hành tập trung vào hơi thở là mộât trong những bài thực hành rất phổ biến và được nhiều người biết đến, liên quan đến thân, cần thiết cho sự phát triển của tâm linh. Có nhiều phương pháp khác nhau để tu tập phát tiển chánh niệm trong mối liên hệ với thân thể.

          Liên quan đến các cảm thọ, chúng ta nên chú ý tỉnh thức về tất cả các hình thức, loại cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, và chú ý về sự xuất hiện và biến mất của các cảm thọ này ngay chính trong thân của chúng ta.

          Liên quan đến những hành động của tâm chúng ta nên ý thức liệu tâm có tham hay không tham, có sân hay không sân, có si hay không si tán loạn hay định … Theo cách này, chúng ta nên ý thức tất cả các sự chuyển động của tâm, và chúng sanh khởi và đoạn diệt như thế nào.

          Đối với các ý tưởng, tư duy,khái niệm và các pháp chúng ta nên biết được bản chất của chúng, chúng xuất hiện và biến mất như thế nào, chúng được tu tập như thế nào, chúng được kiềm chế và hủy diệt như thế nào…

          Yếu tố thứ 3 và cũng là yếu tố cuối cùng của định là chánh định đưa đến thiền thứ 4.

          Ở thiền thứ nhất, tham và các ác bất thiện pháp như tham dục, sân hận, trạo cử, hôn trầm, và nghi được đoạn trừ và các cảm thọ của hỷ lạc được duy trì, cùng với một vài hành động của tâm. Ởû thiền thứ 2, tất cả các hoạït động của tri giác bị đè nén, chỉ còn khinh an và nhất tâm và các cảm thọ hỷ lạc vẫn còn được duy trì. Ởû giai đoạn thiền thứ 3, cảm giác hỷ thọ, một cảm giác năng động cũng biến mất, trong khi đó bản chất của lạc vẫn còn duy trì cộng với xả niệm thanh tịnh.Ởû thiền thứ 4, tất cả các cảm thọ, lạc thọ và khổ thọ, hỷ và buồn rầu đều tan biến chỉ còn xả niệm thanh tịnh và tỉnh giác được duy trì.

          Do vậy, tâm được tu tập, định  phát triển nhờ vào Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

               TUỆ (PANNA)

          Hai yếu tố còn lại là Chính  kiến và Chánh tư duy hình thành nên Tuệ .

          Tư duy bao gồm tư duy xuất thế, tư duy thiện ý và tư duy từ bi, vô hại. Những tư duy này phải được trau dồi tu tập và hướng đến tất cả các loại chúng sinh, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp tầng lớp. Bởi vì chúng bao hàm tất cả các loài có sự sống không có giới hạn thỏa thuận nào cả. Sự tỏa chiếu những tư duy cao thượng, thánh thiện như thế thì không thể xảy ra đối với những ai có tâm ích kỷ và coi trọng bản thân mình .

          Một con người có thể thông minh, uyên bác và có học thức, nhưng nếu anh ta thiếu đi chánh tư duy, thì theo lời dạy của Đức Phật, anh ta là một người ngu, chứ không phải là mộât người có sự hiểu biết vềø tri kiến. Nếu chúng ta nhìn các pháp với một khả năng suy  xét chính xác ly tham, thì chúng ta sẽ hiểu rằng ước muốn ích kỷ, sân hận và bạo lực không thể đi cùng với trí tuệ chân thật. Chánh kiến hoặc trí tuệ chân thật thì luôn luôn có sự hiện hữu của chánh tư duy và không bao giờ vắng mặt được.

          Chánh kiến và sự hiểu biết về các pháp, các sự vật đúng với thực tại  chúng đang là, và đó chính là Tứ Thánh Đế cắt nghĩa, giải thích thật tướng của các pháp. Do đó, chánh kiến được giảm thiểu đến mức tột cùng là sự hiểu biết về Tứ Thánh Đế. Sự hiểu biết này, cái nhìn này là trạng thái trí tuệ cao nhất mà  có thể   nhìn thấy được thực tại tối hậu.

          Theo phật pháp, có 2 loại kiến. Những gì chúng ta thường gọi  “ kiến”  là tri thức, sự hiểu biết, một trí nhớ được tích lũy, sự nắm bắt một chủ đề theo một dữ liệu đã cho nào đó. Cái này được gọi là “ biết theo” (knowing accordingly). Nó không uyên thâm lắm. Sự hiểu biết thực sự uyên thâm được gọi là sự thể nhập (penetration), nhìn thấy các pháp đúng như chân bản chất của chúng không có một danh xưng hay nhãn hiệu nào. Sự thể nhập này chỉ có thể khi tâm được hoàn toàn thanh tịnh, không cấu uế và được phát triển hoàn toàn nhờ vào thiền định.

          Chánh kiến hay trí tuệ thể nhập là kết quả của quá trình hành thiền không gián đoạn và kiên cố, hoặc là sự tu tập tâm một cách cẩn thận. Đối với người có chánh kiến thì không thể có những quan điểm, cái nhìn về sự vật hiện tượng bị mây vô minh che phủ; bởi vì anh ta đã giải thoát khỏi các nhiễm ô, bất định và  đã chúng đắt tâm giải thoát bất động.

                     HÃY ĐI ĐÚNG CON ĐƯỜNG

          Những lời dạy của Đức Phật về con đường này giải thích chức năng và mục đích của việc tu tập Giới (sila), Định (samadhi) và Tuệ (panna). Giải thoát tự do có nghĩa là kinh nghiệm sống không có sự hiện hữu của giặc tam độc: tham lam, sân hận và si mê (lobha, dosa và moha) tấn công tâm của chúng ta. Nhưng giặc  tam độc này được đoạn trừ, nhổ sạch nhờ vào sự tu tập tam vô lậu học : Giới- Định và Tuệ.

          Do vậy, rõ ràng là những lời dạy của Đức Phật nhắm đến sự thanh tịnh hóa cao nhất, một trạng thái sức khỏe tinh thần hoàn hảo, tự do giải thoát khỏi các lậu hoặc.

          Trong hiện tại sự giải thoát khỏi các lậu hoặc của tâm, sư tự do khỏi các bệnh tật của thân và tâm tùy thuộc tuyệt đối và hoàn toàn vào mỗi người, chứ không một ai khác, là con người hay các thiên thần. Thậm chí một Đức Phật tối thượng cũng không thể cứu giúp con người ra khỏi các kiết  sử của hiện hữu ngoại trừ cách chỉ cho anh ta một con đường. Con đường của Giới – Định – Tuệ. Đôi khi còn được liên hệ đến như là một sự tu tập tam vô lậu học và không có cái nào trong chúng tự thân là cứu cánh giải thoát; mỗi yếu tố trong đó là phương tiện để đạt đến giải thoát cứu cánh. Một yếu tố trong tam vô lậu học không thể hoạt động tách rời, riêng biệt với hai yếu tố còn lại. Như trong trường hợp một cái kiềng ba chân bị mất đi một chân thì không thể đứng vững được, ở đây cũng vậy mộât yếu tố không thể hoạt động mà không có sự hổ trợ của các yếu tố khác. Ba yếu tố này đi với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Giới củng cố định, và ngược lại định  thúc đẩy tuệ phát triển. Tuệ giúp cho chúng ta đoạn trừ kiến bị vô minh che khuất  nhìn thấy đời và tất cả các pháp liên  quan đến cuộc đời khi chúng sinh khởi  và hủy diệt.

          Thay vì những tri thức khoa học, nhân loại trên thế giới càng ngày càng trở nên bất an, lo lắng và có cảm giác sợ hãi và bất mãn. Họ say sưa với ước muốn để đạt được danh vọng, giàu co,ù quyền lực  và hài lòng với những ý nghĩa đó.

          Đối với thế giới phiền nhiễu, ô trược này vẫn còn đầy dẫy sân hận, ích kỷ nghi ngờ và bạo lực, đúng lúc nhất cho chúng ta truyền bá thông điệp của Đức Phật về tình thương và sự hiểu biết, bát thánh  đạo đưa đến sự chứng đắc an lạc – niết bàn cho nhân loại học hỏi.

          Duy chỉ có trí thức về con đường, cho dù hoàn hảo đến đâu đi nữa cũng sẽ không thể được an lạc. Trong trường hợp này, nhiệm vụ của chúng ta là phải thực hành và duy trì nó.

          Con đường thì thực sự khó hành, nhưng nếu chúng ta, với nổ lực tinh tấn thường xuyên, và hoàn toàn tỉnh giác, đi trên con  đường và theo dõi từng bước chân của chúng ta, thì một ngày nào đó chúng ta sẽ đạt đến điểm đích. Một đứa trẻ tập đứng và đi dần dần. Cũng vậy tất cả chúng ta phải đi từng bước một từ thất bại nhiều lần cho đến thành  công cuối cùng. Đó là một con đường đưa đến sự chứng đắc thực tại tối hậu, hoàn toàn tự do, giải thoát  qua sự thành đạt mỹ mãn của Giới , Định, Tuệ.

          Tóm lại, chúng ta có thể nhìn thấy rằng đó là một con đường của cuộc sống phải được tu tập, thực hành và phát triển bởi mỗi cá nhân. Đó là một sự kiềm chế thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, tự phát triển và thanh tịnh hóa. Nó là một con đường độc nhất  không liên quan gì đến niềm tin cầu nguyện, thờ phụng hoặc lễ nghi tôn giáo.

http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/162-thongdiep.htm

 


Cập nhật: 15-8-2001

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang