- ÐỊNH NGHIỆP TRONG PHẬT
GIÁO
- HT.
Thích Thiện Siêu
Ðịnh
mệnh và định nghiệp là hai vấn đề thường được các nhà bình giảng
truyện Kiều nêu lên khi đọc những câu:
"Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao".
Hay:
"Ðã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa".
Rồi cho đây
như là tư tưởng chủ đạo của truyện Kiều, là năng lực chi phối suốt
cuộc đời Kiều, để suy rộng ra cũng có nghĩa là năng lực chi phối suốt
cuộc đời của mọi người. Nếu chỉ nhìn vội bên ngoài, thì người ta
không khỏi cho rằng thuyết định mệnh "Bắt phong trần phải phong trần"
hay theo thuyết định nghiệp "Ðã mang lấy nghiệp vào thân, đều có
cùng một sự thể chỉ cho các năng lực chi phối cuộc đời con người, bắt
sao chịu vậy, con người phải bó tay nhận lãnh, không có quyền can dự
thay đổi. Do đó đã không ít người đinh ninh rằng định nghiệp cũng
như định mệnh, có đúng vậy không? Ở đây cần phải duyệt lại xem Ðịnh
mệnh là thế nào? định nghiệp là thế nào?
Chắc có
nhiều người đã thấy rõ, định mệnh là một mệnh lệnh thiêng liêng, một
sức mạnh vô hình từ đâu không rõ, nó đặt định cho con người này thế
này, người kia thế kia, phải sao chịu vậy, tự mình không có thể nào
can dự thay đổi. Rõ như trong Trung văn đại tự điển giải thích:
"Ðịnh mệnh giã thần tiên định chi mệnh giả". "Ðịnh mệnh là mệnh do thần quy định từ trước".
Như vậy định mệnh là một sức mạnh từ bên ngoài áp đặt bắt buộc
con người phải tuân theo thứ tự; mình là vật thụ động hoàn toàn,
không thể cưỡng lại được. Con người hoàn toàn không tự do, "Bắt
phong trần phải phong trần". Con người chỉ như một chiếc bóng mờ
nhân ảnh như người đi đêm bởi con quay búng sẵn lên trời!
Còn định
nghiệp là sao? Ðịnh nghiệp mới xem bề ngoài cũng có phần tương tự
như định mệnh. Ðã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão.
Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không quả,
hay có quả mà không nhân. Ðó là một quy luật đương nhiên. Tuy nhiên luật
nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự
con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp
nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Do vậy
dù ở trường hợp thụ quả báo có lúc khắt khe khó cưỡng lại được,
nhưng tự bản chất đã do tự con người thì nó không phải là cái gì cứng
rắn bất di dịch; trái lại nó vẫn là pháp vô thường chuyển biến và
chuyển biến theo ý chí mạnh hay yếu, tốt hay xấu của con người.
Nghiệp là
nhân, báo là quả. Chúng lại gọi là nghiệp báo. Nghiệp báo là một định
luật luân lý đạo đức.
Nguyên nhân
của sự không bình đẳng giữa xã hội loài người là gì? Vì sao người
này lại sinh trưởng trong cảnh xa hoa, mà bẩm tánh ngu dốt, người nọ thì
bị chìm đắm trong cảnh nghèo khó mà bẩm tánh thông minh, người thì vừa
nghèo vừa chậm chạp, kẻ nọ đã giàu lại lanh lợi? Có người suốt cuộc
đời làm gì cũng gặp trắc trở, có người làm gì cũng thông suốt? Vì
sao người nay là bậc Vĩ nhân Thánh thiện, người kia là kẻ điêu trá
sát nhân? Người này là một nghệ sĩ tài ba, nhà toán học, nhạc sĩ từ
khi mới lọt lòng, người kia sinh ra đã mù điếc què quặt? Người này vừa
trông thấy đã có cảm tình, người kia vừa trông thấy đã khó chịu?...
Ðối với những sự sai khác không bình đẳng này, cần phải có một hoặc
nhiều nguyên nhân hay chỉ là một sự ngẫu nhiên hoàn toàn? Không một thức
giả nào lại cho rằng sự không bình đẳng này chỉ là một sự may rủi
mù quáng hay là sự ngẫu nhiên tình cờ. Tất cả sự hưởng thụ của một
người nào cũng vậy đều do vì nguyên nhân, và nguyên nhân này có thể ra
ngoài sự hiểu biết tầm thường của chúng ta. Cái nguyên nhân chính đáng
vô hình của những hiện tượng hữu hình có thể không ở trong hiện tại
mà ẩn núp trong một quá khứ gần hay xa.
Nếu hạn
cuộc trong phạm vi tương đối của các giác quan, có thể rằng những sự
sai khác bất bình đẳng này chính do nguyên nhân của sự di truyền và
hoàn cảnh. Nhưng sự di truyền và hoàn cảnh dù có thể thuộc trong sự
sinh hoạt đến mấy cũng không đủ để cắt nghĩa những sự sai khác nhỏ
nhiệm giữa người và người. Ví dụ vì sao những anh em sinh đôi về
hình thể rất giống nhau lại được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh như
nhau mà tính tình, tư tưởng, học thức, cuộc đời, lại trái ngược hẳn
nhau. Theo đạo Phật, tất cả những sự cách biệt sai khác, không những
do chỉ sự di truyền, hoàn cảnh chung quanh và của thức ăn uống mà thâm
sâu cốt tủy nhất là do nghiệp lực của tự mỗi người. Nói cách khác,
do gia tài chúng ta hưởng thụ từ những nghiệp chúng ta đã tạo ra ở
quá khứ và tạo ra từng giây từng phút trong hiện tại cộng lại. Chúng
ta chịu trách nhiệm đối với hạnh phúc hay sự đau khổ của chính chúng
ta (cá nhân và tập thể) thiên đường hay địa ngục đều do ta tạo nên.
Tóm lại, chúng ta là kết tinh của tất cả những nghiệp do chúng ta đã
gây ra.
Theo đạo
Phật, nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất, nhưng là nguyên nhân chủ
yếu của mọi sự sai biệt trên cõi đời này. Nếu đời sống hiện tại
hoàn toàn do nghiệp quá khứ của chúng ta quy định chi phối, ta không có một
chút quyền gì can dự thay đổi, thời như vậy nghiệp cũng tương tự như
định mệnh, thiên mệnh, và vấn đề tự do ý chí chỉ còn là một hư
danh. Ðời sống trở thành hoàn toàn máy móc, thụ động. Ðức Phật
không bao giờ dạy một lý thuyết nghiệp khó khăn cố định như vậy.
Theo Hòa thượng Narada Mahathera (Tích Lan, "Ðức Phật và Phật
Pháp") dẫn từ bộ luận Abhidhamavatara có năm Niyamas hay là năm môn loại
hoặc năm luận, thường chi phối trong cảnh giới vật chất và tinh thần:
1. Uta
Niyama (Vật chất luận): thuộc các vật chất không có cơ quan, như những
hiện tượng thời tiết, vận chuyển, những nguyên nhân của gió mưa, sức
nóng v.v...
2. Bija
Niyama (Chủng nhân luận): thuộc các loại cơ quan (hữu cơ) như các mầm
giống, cây cỏ... Ðịnh lý khoa học về tế bào và về chủng tử, sự tương
đồng giữa anh em sinh đôi có thể thuộc loại này.
3. Kamma
Niyama (Nhân quả luận hay Nghiệp luận): thuộc loại hành động và quả
báo. Như những hành vi thiện ác phát sinh quả báo tốt xấu cũng thiết thực
như nước tìm sự thăng bằng của nước, nghiệp cũng tìm đến kết quả
tất nhiên của nó. Không phải dưới hình thức một sự thưởng phạt nào
mà chỉ là một liên tục đương nhiên theo luật nhân quả, như sự tàn diệt
của gì sinh nở, sự phản ứng của các giác quan trước một kích động.
4. Dhamma
Niyama (Danh thực luận): thuộc về phân loại các nguyên tắc như những
hiện tượng thiên nhiên phát sinh khi một vị Bồ-tát ra đời hay khi vị
ấy nhập Niết-bàn. Sự hấp dẫn, sức chuyển vận và những định lý tương
tự của trời đất v.v... có thể thuộc loại này.
5. Citta
Niyama (Tâm trí luận): phân loại của tâm trí hay là của những định
lý, sự vận chuyển hay sự sinh diệt của tâm thức. Tất cả hiện tượng
về tâm lý học đều thuộc loại này. Sự giao cảm, sự phản ứng của
nhận thức, sự tiên liệu, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông
đều bao trùm bởi định lý này. Tất cả hiện tượng về tâm lý, vật
lý hay luân lý đều có thể do một hay nhiều trong năm phân loại này cắt
nghĩa.
Nhưng nghiệp
là gì? Tiếng Pali: Kamma, tiếng Phạn: Karma, có nghĩa là hành vi
hay hành động. Tất cả những hành động cố ý của một sinh
vật dù thuộc về thân, hay miệng hay ý đều gọi là nghiệp. Còn những
hành động không cố ý thì không đủ sức gây ra quả, nên không gọi là
nghiệp. Ðây để ngoài những hành động của các đức Phật và A-la-hán,
vì rằng các Ngài đã thoát ly ngoài sự thiện ác và đã dứt sạch nguồn
gốc của những thiện ác đó, tức là những dục vọng và chấp ngã. Bởi
vậy, khi ý chí buông lung thời các hành vi về thân, miệng, ý đều không
được kiểm soát chặt chẽ, mà bị sa ngã vào điều tội lỗi, chìm đắm;
khi ý chí được kiểm soát chặt chẽ thời các hành vi về thân, miệng,
ý được hướng dẫn đi vào con đường trong sáng, lợi lạc, từ đó
nâng dần lên đến khi trở thành những hành vi thuần thiện bắt nguồn từ
trí tuệ vô ngã, thì đây thuộc về nghiệp vô lậu, không đưa đến quả
báo trong vòng luân hồi mà đưa đến cảnh giới Niết-bàn an lạc giải
thoát.
Theo định
lý nghiệp nói trên, tạo nhân tốt hưởng quả tốt, gây nhân xấu hưởng
quả xấu. Khi nhân đã thuần thục và sự thọ quả đã đến kỳ thì nó
trở thành như một sức mạnh ngoài ý muốn, bấy giờ muốn thay đổi liền
kết quả của nó cũng không thể nào kịp được. Như thế là định nghiệp.
Ví như người học trò làm biếng học suốt năm, đến giờ vào thi muốn
thay đổi kết quả thi hỏng ra thi đậu, cũng khó mà thay đổi cho kịp.
Tuy khó thay đổi chứ không phải không thể thay đổi. Trái lại những
nghiệp chưa đến lúc thuần thục, chưa đủ khả năng gây quả thì gọi
là bất định nghiệp, nếu muốn thì còn đủ thì giờ để thay đổi được.
Tuy nhiên
chúng ta không phải luôn luôn bị một định nghiệp khắt khe chi phối, bởi
vì nghiệp không phải là số mệnh, định mệnh hay thiên mệnh bắt ta phải
nhắm mắt tuân theo. Chính do ý chí của ta mà ta có thể thay đổi nghiệp
để thay đổi đời sống của mình.
Như vậy nếu
hiểu chữ Nghiệp trong đạo Phật một cách đúng đắng thì định lý Nghiệp
đã không làm cho chúng ta nhụt chí, trái lại làm cho chúng ta tự tin hy vọng,
sự nhận thức ý nghĩa trách nhiệm và can đảm nhận lãnh khi bị những sự
khó khăn gần như không thể vượt qua nổi, hay gặp sự thử thách không
thể kham nổi với ý chí rằng đó là kết quả của những hành động mình
đã gây ra hoặc gần hoặc xa, chứ không mù quáng để buông xuôi chịu đựng.
Khi đã biết rõ nó do mình gây ra thì cũng do mình thay đổi chứ không thể
cậy ai thay đổi giúp. Khi đó ta sẽ cố gắng lập chí sửa đổi theo ý
chí tự do của mình. Hẳn nhiên đây không phải là điều dễ hay khó, mà
dễ hay khó là tự ta. Như một triết gia đã nói: "Cảnh khổ là nấc
thang có những người anh tài, là kho tàng cho những người khôn khéo, nhưng
cũng là hố thẳm cho những kẻ yếu hèn".
Nghĩa chữ
Nghiệp trong đạo Phật rất sâu rộng, muốn rõ chữ Nghiệp được đầy
đủ hơn, hãy đọc tiếp sau đây những giải thích về Nghiệp trong các
kinh luận.
Chữ Nghiệp trong các kinh:
* Kinh
Pháp Cú:
"Trong
các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu tạo nghiệp nói
hay làm với tâm ô nhiễm sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn
theo chân con vật kéo xe".
"Trong
các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu tạo nghiệp nói
hay làm với tâm trong sạch, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo
hình".
"Lành dữ
bởi ta, ô nhiễm cũng bởi ta; làm lành bởi ta, thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh
hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể thanh tịnh cho ai được".
*
Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt:
Thanh niên
Subha bạch Thế Tôn: "Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa
loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt,
có người ưu? Có người đoản thọ, có người trường thọ? Có người
nhiều bệnh, có người ít bệnh? Có
người đẹp sắc, có người xấu sắc, có người trí tuệ yếu kém, có
người đầy đủ trí tuệ? v.v...
Này Thanh
niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp,
nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Nghiệp
phân chia các loại hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu. Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay đàn ông sát sanh tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm
chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng
sanh. Do nghiệp ấy, khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
địa ngục. Ở đây, khi mạng chung nếu được đi đến loài người, chỗ
nào nó sinh ra, nó phải đoản mạng. Nhưng nếu có người đàn bà hay đàn
ông từ bỏ sát sanh, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả
chúng sanh. Do nghiệp ấy, khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện
thú, thiên giới, ở đời. Ở đây, khi mạng chung nếu nó đi đến loài người,
chỗ nào nó sinh ra, nó được trường thọ v.v...".
*
Kinh Phân Biệt Ðại Nghiệp:
Này A Nan, vị
Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
"Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh, chắc chắn
không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta không
chấp nhận cho vị ấy". Này A Nan vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như
sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác hạnh; chắc chắn có
thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta chấp nhận cho vị
ấy.
Này A Nan, vị
Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người
sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị
ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh, lấy của
không cho... có tà kiến, tất cả đều sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục".
Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu
vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của
không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào
thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta chấp nhận cho vị
ấy. Nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh,
lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tất cả đều
sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta không chấp
nhận cho vị ấy".
Này A Nan, nếu
vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không
cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào thiện
thú thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.
Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất
cả đều sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta
cũng không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu
vị ấy nói: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ
lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị
ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không
cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất cả đều sinh vào
cõi dữ ác thú, địa ngục". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị
ấy.
Này
Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp,
có khả năng đưa đến lạc thọ, nó sẽ cảm giác lạc thọ; nếu một ai
có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến
khổ thọ, nó cảm giác khổ thọ, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, nó
cảm giác bất khổ bất lạc thọ.
Này A Nan,
người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi mạng chung,
nó sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Hoặc là một ác nghiệp đưa đến
cảm giác khổ thọ do nó làm từ trước,
hay do nó làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được nó chấp
nhận và chấp chặt. Do vậy nó sinh vào cõi dữ, nó phải lãnh thọ quả
báo được khởi lên ngay hiện tại trong một đời khác. Này A Nan, người
nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến sau khi mệnh chung được
sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Hoặc là một thiện nghiệp
đưa đến cảm giác lạc thọ do nó làm từ trước, hay do nó làm về sau,
hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được nó chấp nhận và chấp chặt.
Do vậy nó sinh vào thiện, có phải thọ quả báo được khởi lên ngay
trong hiện tại hay trong một cuộc đời khác.
(Ðoạn này
ý nói một người: phải thọ quả báo dữ ngay trong hiện tại hay trong một
đời khác bởi các nghiệp ác của họ tạo ra từ trước, hay tạo ra về
sau, hay tạo ra vì là ác niệm khởi lên trong giờ phút lâm chung. Trái lại,
có những người cả đời tạo nghiệp ác nhưng do thiện nghiệp của họ
tạo ra từ trước, hoặc tạo về sau, hoặc trong giờ phút lâm chung mà khởi
lên chánh kiến hướng về điều thiện, thì họ tạo được thọ quả bảo
vui ngay trong hiện tại hay trong một đời khác chớ không phải thọ khổ.
Ðây là trường hợp làm ác mà thọ vui vậy. Kinh còn dạy về người làm
lành được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này, nhưng cũng có người
làm lành mà phải đọa ác thú, địa ngục, ý nghĩa cũng tương tự như vừa
giải thích trên đây. Ðó là do trong giờ phút lâm chung họ khởi lên tà
kiến hướng về việc ác, và cái ác niệm này rất mạnh nên phải bị đọa
lạc. Bởi nghiệp do tâm tạo, trong giờ lâm chung tâm khởi lên chánh kiến
thiện niệm hoặc tà kiến ác niệm mạnh hơn các nghiệp đã tạo ra lúc sống,
thì các nghiệp này sẽ chuyển theo tâm niệm khi lâm chung mà thọ báo).
*
Kinh Tăng Chi tập I:
Ai nói như
sau: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả
như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời
không có đời sống phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ
được chân chính đoạn trừ. Và này, ai nói như sau: "Người này làm
nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả báo
như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có
đời sống phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chân chính
đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, có những người làm nghiệp ác nhỏ mọn,
và nghiệp ấy đưa nó vào địa ngục. Có người làm nghiệp ác nhỏ mọn
tương tự, và nghiệp ác ấy đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại cho
đến chút ít cũng không được thấy trong tương lai.
Hạng người
như thế nào, làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục? - Ðó là hạng
người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không
tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít ỏi. Người như vậy,
làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục.
Hạng người
như thế nào làm nghiệp ác tương tự, đưa đến cảm thọ ngay trong hiện
tại, cho đến chút ít cũng không thấy được trong tương lai? - Ðó là hạng
người thân được tu tập, giới, tâm, tuệ được tu tập, không có hạn
hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy làm việc ác
tương tự đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại.
Ví như có
người bỏ một nhúm muối vào trong một chén nước nhỏ, nước trong chén
nước nhỏ ấy vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn. Vì nước trong chén nước nhỏ này ít, do nhúm
muối này, nước trở thành mặn, không uống được.
Này các Tỷ-kheo,
ví như có người bỏ một nhúm muối vào sông Hằng, sông Hằng ấy có vì
nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không? - Thưa không, bạch
Thế Tôn. Vì khối nước sông Hằng rất lớn, khối nước ấy không vì
nhúm muối này trở thành mặn và không uống được.
Như nhúm muối,
sông Hằng không làm cho nước sông Hằng bị mặn không thể uống được.
(...)
Này các Tỷ-kheo,
đối với các Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm
có cảm giác gì con người lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất
cả đều do nhân nghiệp quá khứ". Ðối với vị ấy, ta đến và
nói: "Chư Tôn giả, có thiệt chăng, chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp
kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì... (như trên)... đều do nhân nghiệp
quá khứ?" - Ðược Ta hỏi như vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có
như vậy". - Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời các Tôn giả
do nhân nghiệp quá khứ sẽ trở thành người sát sanh, trộm cắp, tà dâm,
nói láo v.v..." nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào
nghiệp quá khứ và lý do viên thực, với những người ấy sẽ không có
ước muốn, không có tinh tấn, không có "đây là việc phải làm"
hay "đây là việc không nên làm". Như vậy sự cần thiết cần phải
làm hay không cần phải làm, không được tìm thấy là chân thật, là đáng
tin cậy, thời danh tư ø Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các ngươi
được, vì các ngươi sống thất niệm và các căn không được hộ trì.
Như vậy, đây là sự chỉ trích đúng pháp của Ta đối với các vị
Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.
(Ðoạn này
đức Phật chỉ trích những người cho nghiệp quá khứ giống như một định
mệnh. Nhất thiết những cảm thọ gì, hành vi gì trong hiện tại cũng đều
cho rằng do nghiệp quá khứ quy định cả, thế thì hiện tại chỉ quay
theo quá khứ. Sát sanh, trộm cắp, nói láo v.v... đều do nghiệp quá khứ
sai khiến, chứ hiện tại không có trách nhiệm gì. Vậy thì không còn sự
lựa chọn: đây là việc nên làm, đây là việc không nên làm, đây là tu,
đây không phải tu; thời danh từ Sa-môn, người tu, trở thành vô nghĩa; bởi
không thể kể đây là một công phu của một ý chí tự do lựa chọn, mà
chỉ là một sự thụ động tuân theo nghiệp quá khứ sai sử, hiện tại
chẳng có công lao gì).
Nghiệp
được giải thích theo Luận Cu Xá:
a. Thể
tánh của nghiệp - Thuyết minh về thể tánh của nghiệp là đề cập
đến hai nghiệp, ba nghiệp, năm nghiệp. Hai nghiệp là Tư nghiệp và Tư dĩ
nghiệp. Chính sự hoạt động phân biệt suy từ trong nội tâm, đó là Tư
nghiệp. Từ đó phát sinh ra hành động và nói năng nơi thân và miệng, đó
là Tư dĩ nghiệp. Lại từ hai nghiệp này chia ra làm ba nghiệp là Thân nghiệp,
Ngữ nghiệp và Ý nghiệp. Thân nghiệp, Ngữ nghiệp tức là Tư dĩ nghiệp.
(Do tư duy, cố ý rồi mới phát sinh ra hành động) còn ý nghiệp tức là tư
nghiệp. Lại từ ba nghiệp này chia ra
năm nghiệp, tức từ Thân nghiệp chia ra Thân biểu nghiệp, và Thân vô biểu
nghiệp, từ Ngữ nghiệp cũng chia ra Ngữ biểu nghiệp và Ngữ vô biểu
nghiệp. Như đồ biểu dưới đây:
Tư nghiệp |
Ý nghiệp |
Ý nghiệp |
Tư dĩ nghiệp |
Thân nghiệp |
Thân biểu
nghiệp |
Thân vô biểu
nghiệp |
Ngữ nghiệp |
Ngữ biểu
nghiệp |
Ngữ vô biểu
nghiệp |
- Năm
nghiệp này như thế nào?
Bất luận
làm một việc gì, trước tiên ta suy nghĩ tính toán việc đó và cố ý
làm cho được, đó là ý nghiệp. Khi sự tính toán cố ý được phát động
ra nơi thân với những nét biểu lộ rõ rệt trông thấy được, đó gọi
là Thân biểu nghiệp. Nhưng trong khi đang khởi lên Thân biểu nghiệp, bên
trong nội tâm vẫn có một năng lực vô hình không biểu lộ rõ rệt, nó cứ
theo luật nhân quả kích động thúc đẩy thân hành động hoặc đừng hành
động, đó là Thân vô biểu nghiệp, vì năng lực này tiềm ẩn khó trông
thấy được, Ngữ biểu nghiệp và Ngữ vô biểu nghiệp cũng tương tự
như vậy.
Năm nghiệp
vừa kể trên đây lấy gì làm thế?
Nghiệp là
sự hoạt động tư duy của nội tâm, cố nhiên lấy tâm sở Tư làm thế.
Tâm sở tư này có ba giai đoạn: Ðầu tiên là thẩm lự tư, tức sự suy nghĩ lựa chọn, tiếp đó
là quyết định tư tức sự quyết định sau khi đã phân biệt chọn lựa,
sau hết là phát động tư tức tư trong khi phát động ra nơi thân và khẩu.
Tư tâm sở có khả năng khiến thân thể vận động gọi là động thân tư.
Chính cái động thân tư là thể của thân biểu
nghiệp. Tư tâm sở có khả năng phát động ra ngôn ngữ gọi là phát ngữ tư. Chính cái phát ngữ
tư này làm thể của ngữ biểu nghiệp.
Nghiệp có
nghĩa là tạo tác, mà tạo tác tức
là tư tâm sở, hay sự cố ý. Chính cái tư tâm sở đó dựa nơi thân phát
hiện, gọi là thân nghiệp, dựa nơi miệng phát hiện gọi là ngữ nghiệp,
dựa nơi ý phát động gọi là ý nghiệp. Ba nghiệp sở dĩ khác nhau vì có
thân, ngữ, ý khác nhau, chứ thực thể không ngoài tư tâm sở.
Tánh chất
của Nghiệp:
Nghiệp có
thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh. Tuy nhiên chỉ có ác và thiện tánh mới
là nghiệp, chứ vô ký tánh không đủ sức mạnh tạo thành quả nên không
gọi là nghiệp.
Nhưng sao gọi
rằng thiện, ác, vô ký?
Luận Bà Sa
cuốn 11 nói: "Nếu pháp gì hay chiêu cảm quả khả ái, khả lạc thì gọi
là thiện, nếu chiêu cảm quả báo không khả ái, không khả lạc thì gọi
là ác; trái với cả hai sự đó thì gọi là vô ký".
Luận Cu Xá
15 nói: "Nghiệp an ổn hay chiêu cảm quả báo khả ái, và Niết-bàn, tạm
thời và vĩnh viễn xa lìa thống khổ gọi là thiện. Nghiệp không an ổn
hay chiêu cảm quả báo bất khả ái gọi là ác. Còn nghiệp trái hai tánh
trên gọi là vô ký. Ðây là căn cứ vào sự cảm quả để phân biệt ba
tánh thiện, ác, vô ký.
Luận Cu Xá
13 lại còn căn cứ vào nguyên do để chia ba tánh thiện, ác, vô ký, mỗi
tánh đều có bốn thứ là: Thắng nghĩa, Tự tánh, Tương ưng, Ðẳng khởi.
1. Thắng
nghĩa thiện: Chỉ có Niết-bàn, vì Niết-bàn an ổn vĩnh viễn bặt dứt
dấu vết thống khổ. Thắng nghĩa có nghĩa là tuyệt đối.
2. Tự tánh
thiện: Chỉ cho năm tâm sở: Tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si. Năm tâm sở
này tự thể nó là thiện chứ không phải nhờ vào cái khác mới thiện. Mọi
sự thiện đều lấy nó làm gốc.
3. Tương
ưng thiện: Chỉ những tâm sở như: Tín, cần, khinh an v.v... nhờ tương
ưng, tương hợp với năm tâm sở tự tánh thiện trên kia mà thành chứ tự
thể nó không phải là thiện.
4. Ðẳng
khởi thiện: Chỉ cho thân ngữ thiện nghiệp là do sự phối hợp bằng
nhau giữa tự tánh thiện và tương ưng thiện mà có.
Bốn thứ
ác là:
1. Thắng
nghĩa ác: Chỉ cho sanh tử luân hồi. Vì sanh tử tự bản chất nó là rất khổ, xấu xa.
2. Tự
tánh ác: Chỉ cho năm tâm sở vô tàm, vô quý, tham, sân, si. Vì tự tánh
nó là ác chứ không phải chờ tương ưng, đẳng khởi mới ác.
3. Tương
ưng ác: Chỉ cho các tâm sở mà tự tánh không phải ác, nhưng vì tương
ưng với năm tâm sở tự tánh ác mà hóa ra ác.
4. Ðẳng
khởi ác: Chỉ cho thân ngữ ác nghiệp do sự phối hợp bình đẳng của
tự tánh ác và tương ưng ác mà khởi lên.
Vô ký tánh
thì chỉ có thắng nghĩa vô ký, đó là chỉ cho hư không vô vi, phi trạch
diệt vô vi. Hai vô vi này thể nó thường trú nên gọi là thắng nghĩa.
Nhưng nó không phải là kết quả chứng đắc của sự tu đạo, nên không
phải là thiện mà chỉ là vô ký. Ngoài ra trong 46 tâm còn lại, không có
thứ nào thuần là vô ký, nên không lập tự tánh vô ký, và đã không có
tự tánh vô ký thì cũng không có tương ưng và đẳng khởi vô ký.
Các loại
nghiệp:
1. Hữu lậu
nghiệp là nghiệp ác hoặc thiện, tạo ra bởi động cơ của tâm chấp
ngã, tham ái, nó chỉ đưa quả báo loanh quanh trong vòng ba cõi sáu đường.
Trái lại nghiệp thiện tạo ra bởi động cơ của tâm vô ngã, của trí tuệ
Bát-nhã thì gọi là vô lậu nghiệp, bởi nghiệp này không làm chúng sanh rơi
vào trong ba cõi sáu đường nhưng lại làm cho giải thoát khỏi ba cõi sáu
đường, chứng được Niết-bàn an lạc.
2. Phước
nghiệp là nghiệp lành thọ quả báo ở cõi Dục: phi phước nghiệp là
nghiệp ác thọ quả báo khổ ở cõi Dục; bất động nghiệp là nghiệp tu
Thiền thọ quả báo ở cõi Sắc và Vô sắc.
3. Tam thọ
nghiệp là nghiệp thuận theo lạc thọ ở cõi Dục và Sơ, Nhị, Tam Thiền;
là nghiệp thuận theo khổ thọ ở cõi Dục, là nghiệp thuận theo bất khổ
lạc ở Tam Thiền trở lên đến cõi trời Hữu đảnh.
4. Tam thời
nghiệp tức là nghiệp thọ quả báo trong ba thời kỳ: Có nghiệp thọ
quả ngay trong hiện tại, có nghiệp thọ quả trong đời kế tiếp, có nghiệp
thọ quả từ đời thứ ba trở đi. Về điểm này có hai chủ trương như
sau:
a. Nhà bốn nghiệp, chủ trương có Thuận hiện nghiệp,
Thuận sanh nghiệp, Thuận hậu nghiệp và Thuận bất định nghiệp.
b. Nhà tám nghiệp, chủ trương trong bốn cách thọ quả
nêu trên, lại chia ra có quả báo (dị thục) nhất định mà thời kỳ thọ
quả không nhất định, có thời ký thọ quả nhất định mà quả báo
không nhất định, có cả quả báo và thời kỳ thọ quả đều nhất định
v.v... nhân lên thành tám nghiệp.
Trong Luận
Tỳ Bà Sa cuốn 114 ghi có ba thuyết:
a. Hai nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ có đủ cả
tánh chất Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp. Còn hai nghiệp Thuận hiện thọ và
Thuận bất định thọ thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
b. Ba nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ, và Thuận
bất định thọ đều có đủ cả Dẫn nghiệp, Mãn nghiệp, còn Thuận hiện
nghiệp thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
c. Cả bốn nghiệp đều có đủ Dẫn nghiệp và Mãn
nghiệp.
5. Mười
nghiệp tạo ác là thân sát sanh, trộm cắp, dâm dục; miệng nói dối,
nói hai lưỡi (ly gián); nói thô ác, nói thêu dệt; ý tham lam, sân hận, tà
kiến.
Mười
nghiệp tạo thiện là thân xa lìa ác, xa lìa trộm, xa lìa dâm, xa nói dối,
xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa nói thô ác, xa lìa thêu dệt; ý không tham,
không sân, chánh kiến.
Tất cả việc
lành dữ phát động ở thân, khẩu, ý đều trải qua ba giai đoạn là Gia hạnh,
Căn bản, Hậu khởi. Gia hạnh là tiền phương tiện, Căn bản là ngay lúc
sự việc hoàn thành, Hậu khởi là những hành động kế tiếp sau đó như
bắt thú, lột da, xẻ thịt... Trong ba phần Gia hạnh, căn bản, hậu khởi
đó, chỉ phần căn bản mới gọi là nghiệp đạo, chứ không phải phần
gia hạnh hay hậu khởi. Như Luận Câu Xá 16 nói: "Về bất thiện, thân
ác nghiệp đạo trừ một phần của thân ác hành không kể vào, đó là
các thân nghiệp ác thuộc gia hạnh và hậu khởi, và các việc như uống
rượu, đánh, trói... Vì những việc ác này không thô bạo rõ rệt bằng
những thân ác hành làm kẻ khác mất mạng, mất của, mất vợ... mà chư
Phật dạy đặc biệt phải xa lánh. Chỉ mấy việc ác chính như làm mất
mạng, mất của v.v... này mới gọi là nghiệp đạo. Ngữ ác nghiệp đạo
không kể những ngữ ác hành thuộc gia hạnh, hậu khởi và khinh vi. Ý ác
nghiệp đạo, không kể những ý ác hành thuộc tư duy ác và lòng tham nhẹ...
Về thiện, Thân thiện nghiệp đạo trừ một phần của thân Diệu hạnh
không kể vào, đó là thân thiện nghiệp thuộc gia hạnh, hậu khởi và
các việc khác như sự lìa uống rượu, bố thí, cúng dường. Ngữ thiện
nghiệp đạo, trừ một phần của ngữ Diệu hạnh như ái ngữ, thật ngữ
v.v... không kể vào. Ý thiện nghiệp đạo, trừ một phần của ý Diệu hạnh
như các tư duy thiện không kể vào.
* Hỏi:
Vì sao chỉ cứ vào phần căn bản để lập nghiệp đạo?
-- Vì chính
phần căn bản của các hành động thiện, ác như sát sanh, trộm cắp..., mới
là thô bạo rõ rệt, làm cho vật bên trong bên ngoài có sự tăng giảm, còn
phần gia hạnh thì chỉ vì phần căn bản mà khởi lên, phần hậu khởi cũng
từ phần căn bản mới có nó không thô bạo rõ rệt, làm cho vật trong
ngoài có sự tăng giảm, vì vậy không gọi nó là nghiệp đạo.
* Hỏi: Tại
sao ba nghiệp Thân, bốn nghiệp Khẩu, ba nghiệp Ý gọi là nghiệp đạo?
-- Ðạo là
đường đi. Trong mười ác nghiệp, tham, sân, tà kiến là đường đi của
tư tâm sở; ba nghiệp thân, bốn nghiệp ngữ tự nó là nghiệp và cũng là
đường đi của tư nghiệp (Ý nghiệp), nên gọi nó là nghiệp đạo, hoặc
gọi đủ là nghiệp đạo. Nghĩa mười thiện nghiệp đạo cũng chiếu theo
đó để hiểu.
* Hỏi:
Mười điều lành, mười điều ác làm sao trở thành nghiệp đạo?
Trước nói
mười điều ác trở thành nghiệp đạo:
1. Thành
nghiệp đạo sát sanh, do có đủ năm duyên: (a) Có tâm muốn giết. (b) Ðối
với loài hữu tình. (c) Tưởng đó là loài hữu tình. (d) Dùng sức giết.
(đ) Không giết lầm.
2. Thành
nghiệp đạo không cho mà lấy (trộm), do có đủ năm duyên: (a) Móng tâm lấy
cắp. (b) Ðối với tài vật kẻ khác. (c) Tưởng đó là tài vật kẻ
khác. (d) Dùng sức lấy. (đ) Không phải lấy lầm đem về làm của mình.
3. Thành
nghiệp đạo tà dâm do có đủ bốn duyên: (a) Ðối với không phải cảnh
(vợ hầu) mà làm việc không đáng làm. (b) Ðối với không phải thê (đạo)
mà làm việc không đáng làm. (c) Ðối với không phải nơi mà làm việc
không đáng làm. (d) Ðối với phi thời mà làm việc không đáng làm.
4. Thành
nghiệp đạo vọng ngữ (hư cuống ngữ) do có đủ bốn duyên: (a) Tâm ô
nhiễm. (b) Tư tưởng và phát ngôn trái với điều được đem nói. (c) Người
bị lừa dối hiểu rõ điều được nghe. (d) Người nói dối biết rõ
mình nói dối.
5. Thành
nghiệp đạo hai lưỡi (ly gián ngữ) do có đủ bốn duyên: (a) Tâm ô nhiễm.
(b) Phát lời nói hại kẻ khác. (c) Người nghe hiểu rõ. (d) Người nói biết
rõ mình nói hai lưỡi.
6. Thành
nghiệp đạo nói thô ác (ác khẩu do có đủ bốn duyên: (a) Tâm ô nhiễm.
(b) Phát lời cộc cằn thô bạo chửi mắng kẻ khác. (c) Người nghe hiểu
rõ. (d) Người nói biết rõ mình nói thô ác.
7. Thành
nghiệp đạo nói thêu dệt (ỷ ngữ - tạp uế ngữ) do có đủ hai duyên:
(a) Tâm ô nhiễm. (b) Phát ngôn lời lẽ tà vạy, thêu dệt, vẽ vời, dua nịnh,
tạo những từ khúc ca ngợi sự sai trái, dâm ô... phạm vi ỷ ngữ rất rộng,
trừ ba thứ hư cuống ngữ, thô ác ngữ, ly gián ngữ trên, tất cả những
ngôn từ điên đảo, tà vạy phát ra, với tâm ô nhiễm đều thuộc loại
ỷ ngữ này.
8. Thành
nghiệp đạo tham, do đối với tài vật của người khác - sanh lòng tham
mong cầu nghĩ tưởng làm sao vật đó thuộc về mình, chứ không còn thuộc
người khác.
9. Thành
nghiệp đạo sân, do đối với loại hữu tình sanh lòng giận dữ muốn
làm hại cho được.
10.
Thành nghiệp đạo tà kiến, do mê lầm bài bác lý nhân quả chính đáng,
và chấp theo nhân quả không chính đáng.
* Hỏi:
Trên đã nói đến mười nghiệp đạo ác, còn thành tựu 10 nghiệp đạo
thiện như thế nào?
-- Ðây nói
về người Cần (Sa-di) sách thọ Cụ túc giới. Khi lên giới đàn, lễ đại
Tăng, phát lời thành khẩn thỉnh thân giáo sư truyền giới, cho đến xong
lần Yết-ma thứ ba, ngay ở sát-na
này thành tựu mười nghiệp đạo thiện.
* Hỏi: Dựa
vào tâm nào thành tựu mười nghiệp đạo thiện và ác ấy?
-- Gia hạnh
của mười nghiệp đạo ác đều dựa vào ba căn bất thiện là tham, sân,
si mà phát sanh. Nhưng rốt cuộc chính thức thành nghiệp đạo thì do tâm
sân nhuế mà thành nghiệp đạo sát sanh; do tham dục mà thành trộm cắp,
tà dâm; do cả tham sân si mà thành hư cuống ngữ, ly gián ngữ, tạp uế ngữ;
do sân nhuế mà thành thô ác ngữ; do tham phiền não mà thành nghiệp đạo
tham; do sân phiền não mà thành nghiệp đạo sân; do si phiền não mà thành
nghiệp đạo tà kiến.
Còn mười
nghiệp đạo thiện, theo luận Câu Xá cuốn 16 nói: "Các nghiệp đạo
thiện, vô luận là gia hạnh, căn bản hay hậu khởi đều từ ba thiện
căn vô tham, vô sân, vô si mà phát khởi. Bởi dù gia hạnh, căn bản, hậu
khởi đều là thiện tâm, mà thiện tâm tất nhiên tương ưng với ba thiện
căn vậy.
11. Ba tà hạnh,
tức tà ngữ (nói tà), tà nghiệp (hành động tà), tà mạng (nuôi sống
tà) tà ngữ là ngữ nghiệp do sân và si phát sanh, tà mạng là thân ngữ
nghiệp do tham và si phát sanh.
* Hỏi:
Ngoài tà ngữ, tà nghiệp còn lập thêm tà mạng là tại sao?
-- Luận Bà
Sa cuốn 16 nói: "Như trong ngữ
nghiệp tạo bất thiện nếu do lòng tham mà phát khởi thì gọi là tà ngữ,
cũng gọi là tà mạng, bởi vì trong đó gồm có mục đích nuôi sống nữa;
nếu do tâm sân si mà phát khởi, thì chỉ gọi là tà ngữ chứ không gọi
là tà mạng, bởi không vì mục đích nuôi sống. Về thân nghiệp đạo bất
thiện cũng vậy, nếu do lòng tham phát khởi gọi là tà nghiệp, cũng gọi
là tà mạng; nếu do sân si phát khởi chỉ gọi là tà nghiệp chứ không gọi
là tà mạng. Lại hỏi: "Nếu vậy vì sao đức Phật lại dạy riêng
hai thứ chánh mạng, tà mạng? - Vì tà mạng là cuống hoặc lòng người,
vi tế khó nhận thấy, cũng khó trừ cho sạch được. Như thế, lối nuôi sống tà vạy là hành vi
khó cấm chế, nên đức Phật nêu riêng nó ra để nhắc nhở cần phải cố
gắng sống theo lối sống chánh đáng.
Ngoài các
loại nghiệp nói trên, luận Câu Xá cuốn 17 còn đề cập hai thứ Dẫn
nghiệp và Mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dẫn đến quả báo chung (cựu
dịch là Tổng báo nghiệp); Mãn nghiệp là nghiệp dẫn đến quả báo
riêng (Cựu dịch là Biệt báo nghiệp). Ví như loài người tuy không đồng
nhau về cơ thể trai, gái, lớn, bé, mập, gầy, xấu, đẹp, cao, lùn, mạnh,
yếu; về trí tuệ sáng, tối, lanh, chậm; về tánh tình lành, dữ, nhiều
tham sân si ngã mạn, ít tham sân si ngã mạn, cho đến sang, hèn, thọ, yểu,
cuộc đời suông sẻ hay gặp khó khăn... nhưng vẫn là đồng nhất dưới
dạng con người chứ không phải trời, hay thú vật. Nguyên nhân đưa đến
kết quả đồng nhất đó gọi là Dẫn nghiệp. Còn mọi sự bất đồng về
cơ thể, trí tuệ, tánh tình giữa người này và người khác, đó gọi là
biệt báo và nguyên nhân đưa đến biệt báo đó gọi là Mãn nghiệp. Vậy
khi nghiệp thiện hoặc ác mà phải sanh đến cõi lành hay cõi dữ, đó là
do Dẫn nghiệp. Tuy đồng sanh ra ở cõi lành hoặc dữ nhưng từ cơ thể đến
tánh tình, không ai giống ai, đó là do Mạng nghiệp gây nên.
* Hỏi:
Nhưng Dẫn nghiệp ấy do nhiều nghiệp hợp lại hay chỉ do một nghiệp dẫn
sanh đến cõi này cõi nọ? Và chỉ dẫn sanh ra một đời hay nhiều đời?
-- Luận Câu
Xá 17 giải thích rằng: "Nhất nghiệp dẫn nhất sanh, đa nghiệp năng
viên mãn". Do một nghiệp dẫn sanh một đời, do nhiều nghiệp làm cho
trọn vẹn.
Ví như người
thợ vẽ, phác họa hình dáng một đồ hình tổng quát là một con người
hay một con trâu chẳng hạn, đó ví dụ cho Dẫn nghiệp; lại từ trên đồ
hình đó tô vẽ thêm đủ các bộ phận, màu sắc đây ví dụ cho Mãn nghiệp.
* * *
Tóm lại,
nghiệp có nhiều thứ nhưng không ngoài ba thứ
thân, ngữ, ý, hoặc thiện hoặc ác hoặc trung dung, thuộc hữu
lậu hay vô lậu. Thiện hữu lậu tánh nó có ít nhiều mùi vị bất lương,
vị ngã trong đó, còn thiện vô luận trái lại, hoàn toàn thanh tịnh,
thoát hẳn mùi vị bất lương vị ngã. Ðấy là diệu thiện.
Nay đây, gọi
rằng nguyên nhân của mê không những chỉ ba nghiệp ác, mà cũng luôn cả
ba nghiệp thiện hữu lậu, vì nó là nguyên nhân chiêu cảm quả báo tốt
lành trong cõi người, cõi trời. Nhưng đồng thời nó cũng làm trợ duyên
tiến lên thiện vô lậu, mở đường cho sự giác ngộ, nên không thể xem
thường được.
Theo tân Thượng
tọa bộ như Ngài Phật Minh (Budhaghosa), căn cứ trên ba điểm là thời
gian, công dụng và quả báo nặng nhẹ để phân loại các nghiệp như sau:
1. Căn cứ
trên thời gian, chia nghiệp ra bốn thứ:
a. Cấp hiệu nghiệp, là nghiệp chỉ thọ quả báo ngay
trong đời này. Nếu vì một tha lực nào đó ngăn chận không thể thọ quả
thì nghiệp đó không còn hiệu lực để thọ quả nữa. Như người thợ
săn bắn mũi tên đến con vật, nhưng không trúng thì mũi tên đó coi như bỏ,
con vật không bị thương. Nghiệp này tương tự Thuận hiện thọ nghiệp nói
trên.
b. Hoãn hiệu nghiệp, là nghiệp sẽ thọ quả báo vào
đời sau, nếu đời sau vì một tha lực nào đó ngăn chận không thực hiện
được, thì nghiệp ấy vĩnh viễn không thực hiện ra được.
c. Vô định kỳ hiệu nghiệp, là nghiệp sẽ thọ quả
báo vào bất cứ một thời gian nào trong tương lai, trừ phi trước khi thọ quả báo người đó chứng
được Niết-bàn, nghiệp ấy mới trở thành vô hiệu. Ðây cũng tương tự định nghiệp nói trên.
d. Vô hiệu nghiệp, hay là "Dĩ hữu nghiệp", đây
chỉ chung cả ba nghiệp trên, mà hoặc vì tự nó bạc nhược không thể
sanh kết quả, hoặc bị nghiệp lực khác mạnh hơn làm tiêu hủy, thì nghiệp
này trở thành vô hiệu.
2. Căn cứ
trên công dụng, (hành tướng) chia nghiệp ra bốn thứ:
a. Năng sanh nghiệp, đây chỉ cho (hữu chỉ) trong 12 chỉ
nhân duyên, nó tiềm ẩn chờ cơ hội thuận hay nghịch mà phát sanh quả
hay không phát sanh quả. Nghiệp này có tánh chất giống như Hoãn hiệu nghiệp
trên kia.
b. Năng trì nghiệp, nghiệp này giúp cho Năng sanh nghiệp
được đứng vững.
c. Năng tiêu nghiệp, nghiệp này làm cho năng sanh, năng
trì nghiệp trên dù thiện dù ác, đều bị thủ tiêu.
d. Năng hủy nghiệp, nghiệp này còn nặng hơn năng tiêu
nghiệp, vì nó đủ sức nhổ tận gốc tất cả nghiệp đang phát hiện hay
sắp phát hiện.
3. Căn cứ
trên quả báo nặng nhẹ, chia nghiệp ra bốn thứ:
a. Cực trọng nghiệp, là nghiệp rất mạnh rất trọng,
đủ sức lôi cuốn các nghiệp khác theo nó về thiện cũng như về ác, nên nó có thể bao hàm bốn tánh
chất năng sanh, năng trì, năng tiêu, năng hủy nghiệp trên kia.
b. Cận tử nghiệp, là nghiệp có tánh chất quyết định
cho sự thọ sanh đời sau hiện lên trong khi sắp chết. Một người có cực
trọng nghiệp, tự nhiên đã quyết định sự thọ sanh về sau vào cảnh khổ
hay vui, nhưng nếu cực trọng nghiệp này không có thời kẻ sắp chết,
trong giờ phút đó bất cứ nghiệp gì hiện lên nơi họ, nghiệp đó đủ
khả năng quyết định cho sự thọ sanh về sau.
c. Tập quán nghiệp, là nghiệp do sự tập quán liên tục
về ngôn ngữ, hành động, suy tư, nó yếu thua cận tử nghiệp, nhưng nếu
nó chiến thắng các nghiệp khác thì nó trở thành cận tử nghiệp.
d. Tích lũy nghiệp, là nghiệp tích lũy từ vô thỉ mà
mỗi hữu tình đều có đủ cả toàn bộ trong mình. Có thể gọi nó như là
con chó săn thuộc Vô định kỳ hiện nghiệp. Nếu không có những nghiệp
mới làm thay đổi, thì tích lũy nghiệp sẵn sàng hiện lên trong giờ sắp
chết và trở thành cận tử nghiệp. Phi kẻ trí khó lòng nhận rõ được
nó, nên các nhà tân Thượng tọa bộ ví nó như một hòn đá được người
ngu ném đi, mà dù khi chưa ném thì hòn đá vẫn đã ném rồi, nghĩa là tự
nó rơi xuống không cần chờ ném mới rơi.
Theo Du-già tông còn căn cứ trên điểm dị, đồng, tự
biến, cộng biến, chia ra có cộng nghiệp và bất cộng nghiệp (biệt nghiệp)
như mọi người tương đồng tạo nghiệp đưa đến kết quả hiện thành
một thế giới, một xã hội tương đồng hoặc như mười người chung sức
dựng nên một ngôi nhà, thế giới, xã hội và ngôi nhà đó là cộng báo
do cộng nghiệp tức là công sức đồng nhau của mọi người trong đó tạo
ra. Ðó gọi là cộng nghiệp. Tuy ở trong một thế giới, xã hội, thái độ
ngôi nhà đồng nhau, nhưng mỗi người có mỗi cơ thể, thái độ tâm lý,
tình cảm khác nhau, hoặc mỗi người làm mỗi nghề, tập mỗi việc khác
nhau để đưa đến mỗi đời sống không giống nhau; đó gọi là Bất cộng
nghiệp và Bất cộng báo (biệt nghiệp, biệt báo). Nhưng hai thứ cộng
nghiệp, bất cộng nghiệp này cũng luôn luôn gắn liền nhau, nên lại diễn
ra nghiệp. "Cộng trung bất cộng", như cùng ở chung một ngôi nhà,
rủi bị bão nhà sập, có người chết, người gảy tay, người u đầu,
nhưng có người bình yên vô sự. Kiểu như đồng sàn dị mộng. Và nghiệp
"Bất cộng trung cộng", như trong ngôi nhà đó có một người tập
tánh uống rượu, nói khùng, gây gỗ, thậm chí châm lửa đốt nhà, và người
đó bị chết thiêu. Như vậy là nghiệp riêng người đó làm người đó
phải chịu, nhưng những người khác ở cùng nhà phải chịu họa lây.
- Chân
thành cảm ơn cư sĩ Bình Anson đã tặng bản điện tử