- Chánh Ngữ
Chánh ngữ là lời nói chân chánh,
không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, mà trái lại, dùng lời nói
để tạo các nghiệp thiện lành. Trong Bát Chánh Đạo, Chánh Ngữ là chi thứ
ba, và được định nghĩa như sau, như đã ghi trong Tương Ưng Bộ: "Thế
nào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ
nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm". Đó là về mặt
tiêu cực. Về mặt tích cực, Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta phải cố
gắng tu tập để có những lời nói chân thật, hòa hợp, dịu dàng, và
có ý nghĩa. Khi ta thực tập được những lời nói nầy, ta được nhiều
người quý mến. Để đáp lại, họ sẽ lắng nghe những gì ta nói ra, và
sẽ đáp ứng thân thiện và xây dựng.
Trong Tăng Chi Bộ 10.176, Đức Phật
dạy:
-- "Có bốn pháp tịnh hạnh về
lời nói:
1) Ở đây, có người đoạn tận nói
láo, từ bỏ nói láo. Nếu không biết, người ấy nói: "Tôi không biết";
nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết"; nếu không thấy, người
ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy".
Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc
nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một
vài quyền lợi gì.
2) Người ấy đoạn tận nói hai lưỡi,
từ bỏ nói hai lưỡi. Nghe điều gì ở chỗ này, người ấy không đi đến
chỗ kia nói, để gây chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ
kia, người ấy không đi nói với những người này, để gây chia rẽ ở
những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng
trưởng những kẻ hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến
hòa hợp.
3) Người ấy đoạn tận lời nói
độc ác, từ bỏ lời nói độc ác. Người ấy chỉ dùng những lời nói
nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều
người, vui ý nhiều người.
4) Người ấy đoạn tận lời nói
phù phiếm. Người ấy nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói
Pháp, nói Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời,
nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích".
Đó cũng là 4 thiện nghiệp về Khẩu
trong 10 thiện nghiệp (thập thiện nghiệp) mà Đức Phật thường giảng dạy
cho các vị đệ tử cư sĩ. Còn các thiện nghiệp khác là về Thân có 3:
các hành động không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; và về Ý có
3: các ý tưởng không tham, không sân, không si.
Cũng có trường hợp, khi ta nói
chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ khác, khiến họ
phật lòng. Tuy thế, đôi khi cần phải nói sự thật dù có mất lòng nhưng
hữu ích, có khả năng đem đến lợi lạc trên đường tu tập. Trong kinh số
58, Trung Bộ, Vương tử Vô Úy hỏi Đức Phật rằng có thể nào lời nói
của Ngài làm phật ý người khác hay không. Ngài trả lời:
-- "Này Vương tử Vô Úy, lời
nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với
mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không
thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như
thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến
những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như
thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những
người khác không ưa, không thích, ở đây, Như Lai biết đúng thời mà giải
thích lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là không
như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói
ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như
thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến
những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Và lời nói nào Như Lai biết là như
thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những
người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết đúng thời mà giải thích
lời nói ấy".
Như thế, chúng ta thấy rằng Đức
Phật chọn đúng thời để giảng dạy người khác, với những lời lẽ
như thật, như chân, đưa đến mục đích giải thoát giác ngộ, cho dù lời
ấy được người nghe ưa thích hoặc không ưa thích.
Trong kinh Lời Nói (Tăng Chi 5.198),
Đức Phật giảng 5 yếu tố của một lời nói thiện lành như sau:
--"Thành tựu năm chi phần, này
các Tỳ khưu, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có
phạm tội và không bị những bậc Hiền trí chỉ trích. Thế nào là năm?
Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời đem đến lợi
ích, nói với lời từ tâm".
1) Nói đúng thời: có khi một lời
chân thật nhưng không được phát biểu đúng lúc thì thành ra vô ích hoặc
làm cho người khác bực mình. Người thiện trí phải tế nhị để áp dụng
lời nói của mình đúng chỗ, đúng lúc.
2) Nói đúng sự thật: bậc thi?n
tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa
dối.
3) Nói lời nhu hoà: lời nói cần
phải dịu dàng, lễ phép, tạo không khí hòa hợp.
4) Nói lời đem đến lợi ích: lời
nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không
có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm,
vô dụng.
5) Nói lời với từ tâm: lời nói
phải phát xuất từ tấm lòng thương yêu, cẩn trọng.
Ngoài ra, trong bài kinh Khéo Thuyết,
Kinh Tập 78, Đức Phật giảng thêm:
-- "Thành tựu bốn chi phần,
này các Tỳ-khưu, lời nói được khéo nói, không phải vụng nói, không
có lỗi lầm, không bị người trí quở trách. Thế nào là bốn? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chỉ nói lời khéo nói, không nói lời vụng nói;
chỉ nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; chỉ nói lời khả ái,
không nói lời phi khả ái; chỉ nói lời đúng sự thật, không nói lời
không đúng sự thật. Thành tựu với bốn chi phần này, này các Tỳ khưu,
lời nói là được khéo nói, không phải vụng nói, không có lỗi lầm,
không bị người trí quở trách."
Trong Tăng Chi Bộ 10.69, Đức Phật
khuyên chúng ta chỉ nên bàn luận về những đề tài thiết thực, có ích
lợi trong sự tu tập:
-- "Có mười đề tài đáng
để đàm luận. Thế nào là mười? Đó là các câu chuyện về ít dục,
câu chuyện về biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về không tụ
hội, câu chuyện về tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định,
câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải
thoát tri kiến".
Ngài thiền sư Buddhadassa (Phật Lệ),
Thái Lan, giải thích thêm:
1) Giảm dục (Appiccha-gatha):
đàm luận để giảm lòng tham, dùng những từ ngữ khuyến khích ta tiết
giảm lòng ham muốn.
2) Biết đủ hay Tri túc (Santutthi-gatha):
đàm luận để đưa đến sự biết đủ, dùng những từ ngữ khuyến
khích ta thỏa mãn với những gì mình đang có, mà không còn chú ý đến các
tiện nghi xa hoa.
3) Viễn ly hay Ðộc cư (Paviveka-gatha):
đàm luận để đưa đến sự sống một mình, dùng những từ ngữ khuyến
khích việc sống và tư duy đơn độc, xa lánh các náo động.
4) Không tụ hội hay Giảm Tiếp (Asamsagga-gatha):
đàm luận để tránh các tiếp xúc vô ích, dùng những từ ngữ khuyến
khích ta tránh phí phạm năng lực và thì giờ.
5) Tinh tấn (Viriyarambha-gatha):
đàm luận để bảo tồn và gia tăng tinh tấn, dùng những từ ngữ khuyến
khích nỗ lực trong tu tập.
6) Giới đức (Sila-gatha): đàm
luận để giữ giới hạnh tốt, dùng những từ ngữ để khuyến khích
gìn giữ đức hạnh.
7) Thiền định (Samadhi-gatha):
đàm luận để tạo lập tâm an định, thăng bằng, chuyên chú, tổng hợp,
dùng những từ ngữ để khuyến khích tâm thêm trong sáng và ổn cố.
8) Trí tuệ (Panna-gatha): đàm
luận để tạo thông minh và trí tuệ, dùng những từ ngữ để khuyến khích
sự phát triển tuệ minh triết.
9) Giải thoát (Vimutti-gatha):
đàm luận để giải thoát, dùng những từ ngữ để khuyến khích sự giải
thoát tâm trí khỏi mọi phiền não, mọi mầm mống bất thiện.
10) Tri kiến Giải thoát (Vimutti-nanadassana-gatha):
đàm luận để tạo lập tri kiến giải thoát, dùng những từ ngữ để
khuyến khích sự chú tâm và hiểu biết về tri kiến giải thoát, xả ly khỏi
mọi tham thủ và phiền não.
Ðức Phật rất chê trách những cuộc
nói chuyện huyên thuyên, phí thời gian vô ích. Những lời gièm pha và đồn
đãi không đem đến lợi lạc gì, vì chúng làm quấy động sự yên tĩnh và
định tâm. Ngài cũng giảng thêm rằng người ta không thể trở thành bậc
trí chỉ vì nói nhiều, cũng không phải vì nói nhiều mà người ta được
gọi là bậc lão thông Pháp (Dhammadhara), như trong các câu Pháp Cú sau
đây:
"Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc." (PC 100)
"Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc trí." (PC 258)
"Không phải vì nói nhiều,
Là thọ trì chánh pháp.
Người nghe ít diệu pháp,
Nhưng trực nhận viên dung,
Chánh pháp không buông lung,
Là thọ trì chánh pháp." (PC 259)
Trong ngôn ngữ Pàli, danh từ
"Mâu-ni" (Muni) trong tên "Thích-ca Mâu-ni" (Sakya Muni)
có nghĩa là người luôn giữ sự yên lặng (bậc Tịch tịnh), thường được
dùng để gọi một vị Thánh. Đức Phật thường khuyên các vị tu sĩ đệ
tử rằng: "Này các Tỳ-khưu, khi quí vị hội họp với nhau, có hai
việc cần phải làm: một là đàm luận về Chánh pháp, hai là giữ sự im
lặng của bậc Thánh" (Phật tự thuyết, Ud 10).
Tóm lại, lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng,
không những tác động đến đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà
còn có thể tác động đến sinh hoạt của xã hội. Nếu có tỉnh giác và
định hướng tốt, lời nói qua các cuộc đàm luận, giao tiếp hằng ngày,
sẽ mang đến nhiều lợi ích cho sự tu tập của những người con Phật chúng
ta. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa Chánh Ngữ vào Bát Chánh Đạo,
con đường Tám Chánh dẫn đến giải thoát giác ngộ.
Bình Anson
Perth, Tây Úc, tháng 9-2004
(http://www.budsas.org)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/chanhngu.htm