Tôi muốn thảo luận chút ít về ý
nghĩa của thần chú OM MANI PADME HUM.
Mani tượng trưng cho phương
tiện và padme tượng trưng cho trí tuệ. Nói cách
khác, hai từ này gồm chứa toàn bộ con đường được Đức Phật Guru Thích Ca
Mâu Ni khám phá; toàn bộ con đường tiệm thứ dẫn tới giác ngộ.
Hai từ này bao gồm toàn bộ con đường dẫn tới Niết bàn – sự giải thoát khỏi
đau khổ và nguyên nhân đích thực của đau khổ. Tất cả những con đường của
các thừa thấp được bao gồm trong phương tiện và trí tuệ; do đó, chúng được
bao hàm bởi mani và padme. Toàn bộ con đường Ba La Mật thừa và con
đường Bồ Đề tâm đưa tới sự giác ngộ cũng được hoàn thiện bởi phương
tiện và trí tuệ; vì thế nó cũng hoàn toàn được bao hàm trong mani và padme.
Cuối cùng, toàn bộ con đường Kim Cương thừa – con đường của thừa (cỗ xe)
bất khả phân, tantra, hay mật chú cũng được bao hàm bởi những phạm vi này.
Tantra có bốn phần, hay cấp độ.
Cấp độ thứ nhất là kriya tantra, nó được chia thành tantra có biểu hiện và
tantra không biểu hiện. Loại tantra có biểu hiện là con đường của phương
tiện; loại tantra không có biểu hiện là con đường của trí tuệ; toàn bộ con
đường kriya tantra được bao gồm trong mani và padme. Những tantra khác thì
cũng thế. Nhờ thực hành loại tantra thứ tư là Yoga Tantra Cao cấp nhất (maha-anuttara
yoga tantra), chúng ta có thể đạt được giác ngộ - tâm toàn giác; trạng
thái siêu việt viên mãn trong mọi sự chứng ngộ và được tịnh hoá mọi ô
nhiễm – trong một đời người ngắn ngủi của thời đại suy hoại này. Có hai
giai đoạn trong Yoga Tantra Cao cấp nhất: giai đoạn phát sinh (đôi khi
cũng được gọi là giai đoạn sáng tạo, phát triển hay tiến triển) và giai
đoạn thành tựu (hay hoàn thành). Những giai đoạn này được bao gồm trong
mani và padme, phương tiện và trí tuệ. Giai đoạn thành tựu có bốn cấp độ:
sự tách biệt của tâm; huyễn thân; tịnh quang và sự hợp nhất. Huyễn thân,
con đường của phương tiện, được bao gồm trong mani; tịnh quang, con đường
của trí tuệ, được bao gồm trong padme. Cũng thế, có hai loại tịnh quang:
tịnh quang ý nghĩa và tịnh quang ví dụ.
Để chuyển hoá tâm thức thành
con đường trước tiên chúng ta phải đặt nền móng là ba phương diện chính
yếu của con đường: sự từ bỏ, Bồ Đề tâm và trí tuệ chứng ngộ tánh Không.
Sự từ bỏ samsara (sinh tử) là
tư tưởng hết sức nhàm chán sinh tử nhờ nhận ra rằng nó chỉ có bản tánh đau
khổ; thấu hiểu rằng dưới sự sai sử của những tâm thức và nghiệp tiêu cực
hỗn loạn, các uẩn của thân và tâm ta thì đau khổ tự bản chất. Thường thì
chúng ta không tỉnh giác về điều này. Chúng ta có ảo tưởng rằng những sự
vật có bản chất vô thường thì thường hằng; những gì nhơ bẩn tự bản chất
thì trong sạch; những gì đau khổ tự bản chất thì vui thú; và những gì
không có chút hiện hữu nào từ khía cạnh riêng của nó, là những gì chỉ đơn
thuần được dán cho một danh hiệu, thì hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó.
Đây là quan điểm thông thường, ảo tưởng của chúng ta về thực tại. Sự từ bỏ
là việc nhận ra sự thật là mọi sự hiện hữu có điều kiện đều có bản chất là
đau khổ.
Chúng ta giống như những con
bướm đêm nhìn thấy một ngọn lửa hừng hực như một nơi chốn đẹp đẽ để vui
sống mà không hiểu được điều gì sẽ xảy ra khi chúng chạm vào nó. Chúng ta
hoàn toàn ảo tưởng. Thậm chí nếu ngọn lửa bị che phủ thì chúng vẫn ráng
hết sức để lao vào cho bằng được. Cho dù chúng cảm thấy lửa nóng, chúng
vẫn cố gắng lao vào. Chúng cho rằng sự hỉ lạc phi thường nằm nơi phần chói
sáng. Do đó điều gì sẽ xảy ra khi chúng thực sự lọt vào trong đó? Chẳng có
chút xíu gì trong những điều chúng đã hy vọng. Hoàn toàn là một sự đối
nghịch.
Chừng nào mà chúng ta còn ở
trong luân hồi sinh tử, cuộc đời ta cũng liên tục lầm lạc như thế.
Chúng ta không hình dung rằng
tự bản chất cuộc đời ta thì hoàn toàn đau khổ; chúng ta theo đuổi tâm thức
ảo tưởng của mình như thể nó đúng đắn một trăm phần trăm, như thể những ý
niệm sai lầm của ta thật hoàn hảo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở những kế
hoạch, những ảo tưởng của ta. Chúng ta tin chắc rằng những ý niệm sai lầm
của ta thì hoàn toàn chân thật. Nó giống như việc nhìn một môi trường cháy
đỏ là một công viên đẹp tuyệt trần và cố gắng lao vào đó, không nhận ra
rằng ta sẽ bị thiêu đốt. Chúng ta nhìn cõi giới khổ đau này như một công
viên tráng lệ.
Sự từ bỏ là việc nhận ra rằng
luân hồi sinh tử của riêng ta chỉ là khổ đau tự trong bản chất; nhận ra
rằng việc sống trong sinh tử thì giống như bị nhận chìm bởi những ngọn lửa
hồng và cảm thấy không chịu nổi việc sống trong đó một giây phút mà không
đạt được giải thoát. Khi ta cảm thấy nỗi khổ của riêng ta không thể chịu
đựng nổi và tư tưởng tìm kiếm sự giải thoát xuất hiện một cách tự nhiên và
liên tục, thì khi ấy chúng ta chứng nghiệm được sự từ bỏ luân hồi sinh tử.
Khi chúng ta thay đổi đối tượng
và nghĩ về những người khác thay vì chính mình thì cảm xúc trở thành lòng
bi mẫn. Khi đã có niệm tưởng mạnh mẽ về sự từ bỏ luân hồi sinh tử của
riêng ta, khi ta quán chiếu về việc những người khác bị tóm bắt trong sinh
tử và đau khổ, chúng ta bắt đầu cảm thấy một lòng bi mẫn kỳ lạ, mãnh liệt,
không thể chịu đựng nổi; chúng ta cảm thấy không chịu nổi việc những người
khác đang nằm trong sinh tử dưới sự kiểm soát của nghiệp và những niệm
tưởng rối loạn của họ. Khi ta thấy những người khác bị tóm bắt trong sinh
tử thì ta cảm thấy hết sức bất nhẫn, giống như bị một ngọn giáo đâm thủng
trái tim, như một bà mẹ cảm xúc khi đứa con thân yêu duy nhất của bà rơi
vào đống lửa. Thật không thể kham chịu nổi những điều như thế.
Theo cách đó, ta phát khởi lòng
bi mẫn mãnh liệt phi thường ước muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Chúng
ta không thể ngơi nghỉ mà không làm điều gì đó để cứu giúp họ. Không có
cách nào để nghĩ về chính ta, hạnh phúc của riêng ta; không có cách nào để
tư tưởng quan tâm tới bản thân ta xuất hiện. Chúng ta không thể sống lặng
lẽ mà không làm điều gì để giải thoát chúng sinh. Ta không thể chịu nổi
việc họ phải ở trong sinh tử cho dù chỉ một giờ hay một phút. Đúng như thế,
với việc chứng nghiệm sự nhàm chán, chúng ta không thể đứng yên mà không
thành tựu sự giải thoát của riêng ta, không thể chờ đợi dù chỉ một giây
phút, mà giờ đây mục tiêu của chúng ta được nhắm vào những người khác. Khi
ước muốn này xuất hiện, chúng ta chứng ngộ lòng bi mẫn vĩ đại – ước muốn
tất cả chúng sinh có thể thoát khỏi mọi nỗi khổ và quyết định bản thân
mình sẽ thực hiện ước muốn này.
Bồ Đề tâm phát khởi từ thái độ
này. Chúng ta tự hỏi: “Giải pháp lúc này là gì? Ta nên làm gì? Phương pháp
nào tốt nhất cho ta để giải thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ?”
Chúng ta đi tới kết luận là phương cách duy nhất mà ta có thể dẫn dắt
chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi đau khổ là thành tựu tâm toàn giác.
Do đó ước muốn phát triển một
tâm toàn giác xuất phát từ cội gốc của lòng bi mẫn. Từ lòng đại bi, tâm vị
tha của sự giác ngộ - Bồ Đề tâm - được phát triển. Ở đây lòng bi mẫn phát
khởi tự nhiên đối với tất cả chúng sinh không có sự phân biệt giữa bằng
hữu, kẻ thù và những người xa lạ – là những người giúp đỡ ta, những người
đối xử tệ bạc và chỉ trích ta, và những người không giúp đỡ cũng không làm
hại ta. Đối tượng của nó là toàn bộ chúng sinh đau khổ và lòng bi mẫn ước
muốn tất cả chúng sinh thoát khỏi mọi sự che chướng.
Lòng đại bi ước muốn tất cả
những ai không có hạnh phúc vô song của sự giác ngộ được thành tựu trạng
thái của tâm toàn giác và tự mình nhận lãnh trách nhiệm trong việc nhìn
thấy họ thực hiện điều đó.
Với Bồ Đề tâm phát khởi tự
nhiên, chúng ta cảm thấy như người mẹ mà đứa con thân yêu duy nhất của bà
bị rơi vào ngọn lửa. Chúng ta không thể đứng yên.
Ngày lẫn đêm, trong mọi lúc,
tâm vị tha của sự giác ngộ phát khởi không chút nỗ lực. Vào lúc đó, chúng
ta đã chứng ngộ Bồ Đề tâm. Người chứng ngộ Bồ Đề tâm được gọi là người
“may mắn.” Một người như thế thật minh triết, thiện xảo và bi mẫn. Những
người trong tâm có một trái tim hết sức tốt lành, Bồ Đề tâm, thì thực sự
tuyệt hảo.
Trong phạm vi thế tục, những
người có thể kiếm rất nhiều tiền, có thể giết chết kẻ thù, những người có
nhiều căn nhà ở mọi nơi, được coi là người tài giỏi, khéo léo và khôn
ngoan. Những người có thể lừa gạt người khác để bồi đắp cho thanh danh hay
hạnh phúc của mình được cho là khôn ngoan, tài giỏi và tự lực. Những ý
niệm này hoàn toàn sai lầm.
Cho dù bạn có thể tự giải thoát
mình khỏi sinh tử bạn vẫn không hoàn tất công việc của bạn đối với bản
thân hay những người khác. Vì thế, những Bồ Tát không tất yếu là thiện xảo
hay bi mẫn, cho dù các ngài có thể tự giải thoát bản thân các Ngài ra khỏi
sinh tử. Do đó, trí tuệ của việc chứng ngộ tánh Không được thực hành sau
sự chứng ngộ Bồ Đề tâm.
Như thế, sau khi tâm thức bạn
được tu hành tốt đẹp trong con đường tổng quát, bạn nhận lãnh sự nhập môn
(quán đảnh) từ một guru kim cương đầy đủ phẩm tính, là vị có thể ban những
nhập môn Yoga Tantra Cao cấp nhất. Một khi nhờ việc nhận lãnh bốn loại
nhập môn Yoga Tantra Cao cấp nhất mà tâm bạn được thuần thục, bạn tu hành
tâm thức bằng cách thiền định về hai con đường của nó: những con đường
tiệm thứ của sự phát triển và thành tựu. Khi tâm bạn đạt tới cấp độ tịnh
quang ví dụ, bạn giải thoát khỏi sự hiểm nguy của cái chết – không có cái
chết không được kiểm soát, không có việc chết mà không có sự chọn lựa.
Như tôi đã đề cập ở trên, tịnh
quang được biểu thị bởi padme, trí tuệ, và huyễn thân được biểu thị bởi
mani, phương tiện. Nếu bạn có thể đạt tới giai đoạn này, bạn có thể đạt
được giác ngộ trước khi chết, nhưng nếu bạn không thể, bạn có thể thành
tựu tốt đẹp như thế sau khi chết, trong giai đoạn trung ấm, như nhiều Lạt
ma cao cấp và yogi vĩ đại như Milarepa – bậc đã giác ngộ trong một đời.
Công đức phải tích tập trong ba
vô lượng kiếp bằng cách đi theo con đường Ba La Mật thừa có thể hoàn toàn
được tích tập trong một đời ngắn ngủi bằng cách thiền định về huyễn thân.
Tịnh quang là thuốc chữa lành cho cái thấy nhị nguyên; những niệm tưởng
hỗn loạn và thậm chí cái thấy nhị nguyên vi tế có thể hoàn toàn ngừng dứt
bằng cách thiền định về tịnh quang với sự hỗ trợ của công đức rộng lớn mà
bạn tích tập bằng sự thiền định về huyễn thân. Theo cách này bạn thành tựu
sự hợp nhất thân hoàn toàn thiêng liêng thanh tịnh và tâm linh thánh của
vị Phật hay Bổn Tôn mà bạn đang thực hành và trở thành một vị Phật.
Khi mặt trăng mọc, nó không cần
phải nỗ lực để ánh phản chiếu của nó xuất hiện trên mặt nước: “Ta sắp phản
chiếu trong mọi mặt nước trên Trái Đất.” Bất kỳ nơi đâu có nước, ánh phản
chiếu của mặt trăng tự động xuất hiện. Tương tự như thế, sau khi bạn trở
thành một vị Phật, sau khi bạn thành tựu Bổn Tôn mà bạn từng thực hành,
bạn sẽ làm việc một cách tự nhiên không cần cố gắng cho lợi ích của tất cả
chúng sinh. Bạn sẽ làm việc liên tục với thân, khẩu và ý thiêng liêng của
bạn để dẫn dắt chúng sinh bao la như không gian tới hạnh phúc vô song của
tâm toàn giác.
Đây chỉ là một giải thích ngắn
gọn về ý nghĩa của thần chú OM MANI PADME HUM, nhưng tôi hy vọng là từ đó
bạn có thể nhận ra làm thế nào mani và padme – phương tiện và trí tuệ -
bao gồm toàn bộ con đường tiệm thứ đưa tới giác ngộ.
Vậy thì, nếu tâm bạn như một
tảng đá thì nó giống như đất không được chăm bón; nó không được chuẩn bị
tốt. Cho dù bạn gieo trồng những hạt giống, chúng sẽ không phát triển. Nếu
tâm bạn vị kỷ, cứng cỏi, ngập đầy sự sân hận và bất mãn, giống như sắt
thép, giống như một ngọn núi đá, gay gắt, xấu xa, thì cho dù bạn mong muốn
đạt được giải thoát hay sự giác ngộ viên mãn, con đường mà mani và
padme bao hàm sẽ không phát triển trong đó. Đất cần được nước tưới mát và
chứa đựng những khoáng chất và phân bón – nhờ thế những sự vật mới có thể
phát triển trong đó. Cũng thế, tâm hiện tại của bạn cần thay đổi từ trạng
thái đặc cứng, xấu xa, khó chịu của nó. Nó cần được chuyển hoá, trở nên
mềm mại – nó cần những sự ban phước Đức Phật Đạo sư.
OM MANI PADME HUM bao hàm danh
hiệu của Đức Chenrezig (Quán Tự Tại), Đấng Bi Mẫn Vĩ đại. Trì tụng thần
chú này thì giống như kêu gọi mẹ của bạn. Bạn kêu gọi mẹ bạn để bà quan
tâm tới bạn và sau đó bạn thỉnh cầu bà những gì bạn ước muốn: kem,
sô-cô-la, mọi sự! Khi bạn trì tụng OM MANI PADME HUM, bạn đang kêu cầu
thánh hiệu của Đức Chenrezig và âm hum tác động lên tâm linh thánh của
Ngài. Điều bạn đang kêu cầu Ngài là xin ban phước cho tâm bạn – không chỉ
cho riêng bạn mà còn cho tâm thức của chúng sinh khác – để gieo trồng cội
gốc của con đường dẫn tới giác ngộ, phương tiện và trí tuệ được bao hàm
trong mani và padme.
Cuối cùng, điều còn lại cần
giải thích là om. Khi thực hành và thành tựu con đường phương tiện và trí
tuệ trong tâm bạn được biểu hiện bởi mani và padme – sự tịnh hoá mọi che
chướng, nghiệp tiêu cực và ý niệm bất tịnh, hay cái thấy, của thân, khẩu
và ý. Khi thân, khẩu và ý của bạn được tịnh hoá như thế, chúng trở thành
thân, khẩu và ý kim cương của Đức Đạo sư Chenrezig.
Chữ om (Phạn ngữ hay Tây Tạng)
có ba phần. Thân của chữ này là ah, âm mẹ. Trên nó là một đường gợn sóng
được gọi là (trong tiếng Tây Tạng) một naro, nguyên âm biến đổi âm “ah”
thành “o.” Trên đó là một số 0 nhỏ, nó thêm vào âm “m.” Ba thành phần này
thêm vào cho “om” và biểu hiện ba kaya (thân), hay thân, khẩu và ý kim
cương. Những ý niệm bất tịnh của bạn về thân, khẩu và ý chuyển hoá thành
thân, khẩu và ý kim cương hoàn toàn thanh tịnh của Đức Chenrezig, Đấng Bi
mẫn vĩ đại. Như thế, om có nghĩa là sự giác ngộ.
Như vậy, đây là ý nghĩa của OM
MANI PADME HUM; sự bắt đầu, hay nguyên nhân, của con đường, bản thân con
đường, và kết quả. Nó giống như một cái cây với gốc, thân và quả.
OM MANI PADME HUM cũng bao gồm
mọi sự hiện hữu – sự duyên sinh và tánh Không: mani và padme. Mọi sự hiện
hữu được gồm chứa trong hai chân lý; mọi điều này được bao hàm trong mani
và padme: chân lý tuyệt đối trong padme, và chân lý quy ước, chân lý của
tâm hoàn toàn bị ngăn che, trong mani.
Toàn bộ 84.000 giáo lý của Đức
Phật – các giáo lý Bát Nhã Ba La Mật, toàn bộ hàng trăm pho sách của
Tengyur và Kangyur* – cũng được gồm chứa trong OM MANI PADME HUM. Nó bao
gồm toàn bộ năm luận văn vĩ đại trong các Kinh điển mà các tu sĩ nghiên
cứu trong các tu viện, chúng giảng khoa luận lý học chứng minh rằng Đức
Phật là một giá trị, hay chân lý, hiện thể thiêng liêng – không dối gạt,
không làm lạc lối và hợp lý.
Giáo lý của Đức Phật thì chân
thực là bởi khi chúng sinh thực hành nó, nó có hiệu quả; nó chứa đựng kinh
nghiệm, vì thế kết quả xuất hiện. Khi bạn thực hành, ngay cả điều đơn giản
nhất trong những vấn đề của đời sống hàng ngày cũng được giải quyết. Vì
thế đây chỉ là một bằng chứng nhỏ bé cho thấy bạn có thể được giải thoát
khỏi nguyên nhân đích thực của đau khổ; cho thấy bạn có thể trở nên giác
ngộ. Điều này chứng minh rằng giáo lý có giá trị, chân thật và sẽ không
lừa dối bạn.
Các tu sĩ trong các đại tu viện
nghiên cứu giáo lý luận lý trong nhiều năm. Họ thường nghiên cứu và thảo
luận giáo lý Trung Đạo, nó giảng nghĩa hai chân lý, trong ba năm. Sau đó
họ nghiên cứu trí tuệ siêu việt, giáo lý Bát Nhã Ba La Mật, trong năm năm
hay khoảng đó. Họ cũng nghiên cứu những giáo lý Luật học về hành vi đạo
đức – làm thế nào điều phục thân, khẩu và ý – trong một năm hay hơn nữa.
Rồi họ nghiên cứu Abhidharmakosha (A tỳ đạt ma Câu xá luận) trong nhiều
năm. Họ nghiên cứu những giáo lý Kinh điển này và năm luận văn vĩ đại
trong ba mươi hay bốn mươi năm, ghi nhớ, thảo luận và thi cử. Sau đó họ
nghiên cứu các giáo lý Tantra trong nhiều năm và thực hành tất cả những
con đường rộng lớn, viên mãn đó. OM MANI PADME HUM gồm chứa toàn bộ sự
nghiên cứu của một đời người.
Cách này hay cách khác, có một sự
khác biệt khi bạn trì tụng thần chú của vị Phật đặc biệt này, hiện thân
của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật – lòng đại bi không thể chịu đựng nổi
nỗi khổ của chúng sinh và đưa dẫn họ thoát khỏi nó. So với lòng bi mẫn mà
ta dành cho bản thân mình thì lòng bi mẫn này lớn hơn hàng trăm ngàn lần.
Không thể có một sự so sánh. Và lòng bi mẫn vô hạn này của tất cả chư Phật
hiển lộ trong phương diện đặc biệt này mà ta gọi là Đức Chenrezig, Vị Phật
Từ Thị (Nhìn Chúng Sinh Với Đôi Mắt Bi mẫn).
Do bởi lòng bi mẫn của Ngài,
chính Đức Phật đã thành tựu Đại Niết Bàn, phạm vi của an bình vĩ đại,
không chút chọn lựa, được kết chặt bởi lòng bi mẫn. Chúng ta thì trái
ngược lại: không chọn lựa, bị buộc chặt bởi những tư tưởngï ích kỷ, chúng
ta mang lại tai họa cho chúng sinh khác và thậm chí cho cả bản thân ta.
Được kết buộc bởi lòng bi mẫn, chư Phật hiển lộ trong phương diện Báo Thân
đối với các Bồ Tát cao cấp và trong phương diện Hóa Thân đối với những Bồ
Tát bình thường. Đối với chúng sinh bình phàm, các Ngài hiển lộ trong thân
tướng của một tu sĩ, như Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay một vị vua; trong những
thân tướng khác nhau, bất kỳ điều gì cần thiết. Nếu có một biểu thị sẽ
điều phục chúng sinh thì đó là cách các Ngài sẽ hiển lộ – như một quan toà,
một tướng lãnh hay thậm chí như một đồ tể hay một người khùng điên; như
một người mù hay hành khất để làm cho những người khác tích tập công đức
bằng cách thực hành lòng bác ái và nhờ đó tạo nên nguyên nhân cho hạnh
phúc. Nếu một vài chúng sinh cần được dẫn dắt theo lối đó, các Ngài sẽ
hiển lộ như một người giàu có; nếu một người khác cần được hướng dẫn trong
một phương diện đặc biệt, và nếu đó là cách thế duy nhất để điều phục tâm
thức của người đó, thì do bởi sự tham luyến mãnh liệt của anh ta, các Ngài
sẽ hiển lộ như một gái điếm.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã
tuyên bố trong giáo lý của Ngài: “Ta sẽ không hiển lộ như tất cả những
điều này.” Ngài nói, “Ta không tham đắm nhưng ta hiển lộ như có tham luyến;
ta không mù nhưng hiển lộ như mù loàø; ta không què nhưng hiển lộ như què
quặt; ta không điên nhưng hiển lộ như khùng điên; ta không chút giận dữ
nhưng hiển lộ như sân hận. Trong tương lai nếu ta hiển lộ trong những cách
thế như thế, sẽ không chúng sinh nào nhận ra điều này.”
Tuy nhiên, để đưa dẫn chúng ta,
Ngài đã hiển lộ là Đấng Ngàn Tay Ngàn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) và thần
chú của Đức Phật Bi Mẫn thì có phần khác biệt với những thần chú khác.
Những thần chú khác rất mạnh mẽ nhưng thần chú này có một vài tính cách
hay tác dụng đặc biệt – trong khi nó được trì tụng thì tâm thức trở nên an
bình và bi mẫn hơn nữa một cách tự nhiên; tư tưởng làm lợi lạc người khác
phát khởi tự nhiên và hành giả bớt có tư tưởng tự-quy.
Thông thường thì những người
bình thường trì tụng OM MANI PADME HUM có một trái tim tốt lành cho dù họ
không thấu hiểu giáo lý hay thiền định về con đường tiệm thứ dẫn tới giác
ngộ. Điều này xảy ra hoàn toàn nhờ vào niềm tin nơi Đức Phật Bi Mẫn, Đấng
Bi Mẫn Vĩ đại và việc trì tụng thần chú của Ngài. Bạn cần có một trái tim
tốt lành ngay cả để có được hạnh phúc trong đời này, sự an bình của tâm
hồn trong đời sống hàng ngày. Một trái tim tốt lành là điều vô cùng cần
thiết; nó là cách thế duy nhất. Việc trì tụng thần chú này rất ích lợi. Nó
có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tâm thức.
Khi bạn trì tụng thần chú OM
MANI PADME HUM bạn không nên cảm nhận thái quá về thân tướng của Đức
Chenrezig mà nên cảm nhận về tinh tuý hay bản tánh của Ngài. Nếu bạn không
thoải mái khi quán tưởng Ngài ở trên đỉnh đầu bạn thì hãy quán tưởng Ngài
ở trước mặt. Hãy quán tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh hiển lộ
trong phương diện ngàn tay ngàn mắt. Bản tánh của thân linh thánh của Ngài
là ánh sáng. Ngài đang mỉm cười và đầy bi mẫn, đôi mắt từ ái nhìn thẳng
vào bạn – một chúng sinh đau khổ, lầm lạc – và cũng nhìn tất cả chúng sinh
khác. Nếu bạn có thể làm được, hãy quán tưởng một chữ HRIH trên một đĩa
mặt trăng nằm trên một bông sen tám cánh trong trái tim Ngài. Từ đây,
những tia cam lồ phóng ra và đi vào bạn, tịnh hoá bạn về mọi lỗi lầm, đặc
biệt là thái độ ích kỷ, là chướng ngại chính cho việc phát triển Bồ Đề tâm
của bạn.
Trong khi quán tưởng theo cách
này, hãy trì tụng OM MANI PADME HUM trong mức độ bạn có thể./.
Lạt ma Zopa Rinpoche đã ban
giáo lý này tại Khoá Thiền định Kopan thứ Mười sáu, Kathmandu, Nepal,
1983. Nicholas Ribush biên tập.