...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- Điều Phục Tâm
Ý
Trích dẫn kinh điển
Bản Anh Ngữ: "Taming the Mind - Discourses of the
Buddha",
Edited by Buddhist Publication Society,
Wheel Publication No. 51, Kandy, Sri Lanka (1995)
Tham khảo: Đại Tạng Kinh Việt Nam,
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.
Mục lục
1. Tâm không điều
phục (Tăng Chi, chương Một Pháp)
2. Kinh Ganaka Moggallàna (Trung Bộ 107)
3. Các câu kệ của Trưởng Lão Vijitasena (Trưởng Lão Tăng Kệ
5.354)
4. Kinh Điều Ngự Địa (Trung Bộ 125)
5. Các câu kệ của Trưởng Lão Ni Dantika (Trưởng Lão Ni Kệ
3.48)
6. Huấn luyện ngựa (Tăng Chi, chương Bốn Pháp)
7. Phẩm về Tâm (Pháp Cú 33-43) |
1. Tâm Không Ðiều
Phục
1.- Ta
không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn,
này các Tỳ-khưu, như tâm không được điều phục. Tâm không được điều
phục, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn.
2. Ta không
thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn, này
các Tỳ-khưu, như tâm được điều phục. Tâm được điều phục, này
các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn.
3.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm không được hộ trì. Tâm không được hộ trì, này các Tỳ-khưu,
đưa đến bất lợi lớn.
4.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm được hộ trì. Tâm được hộ trì, này các Tỳ-khưu, đưa đến
lợi ích lớn.
5.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm không được phòng hộ. Tâm không được phòng hộ, này các Tỳ-khưu,
đưa đến bất lợi lớn.
6.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm được phòng hộ. Tâm được phòng hộ, này các Tỳ-khưu, đưa đến
lợi ích lớn.
7. Ta
không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn,
này các Tỳ-khưu, như tâm không được bảo vệ. Tâm không được bảo vệ,
này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn.
8. Ta không
thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn, này
các Tỳ-khưu, như tâm được bảo vệ. Tâm được bảo vệ, này các Tỳ-khưu,
đưa đến lợi ích lớn.
9.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến bất lợi lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng
hộ, không được bảo vệ. Tâm không được điều phục, không được hộ
trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ, này các Tỳ-khưu, đưa
đến bất lợi lớn.
10.
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn, này các Tỳ-khưu,
như tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo
vệ. Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo
vệ, này các Tỳ-khưu, đưa đến lợi ích lớn.
[Tăng Chi
1.10]
-ooOoo-
2. Kinh Ganaka Moggallàna
(Ganakamoggallàna sutta)
Như vầy
tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
Pubbarama, nơi lâu đài của Migaramatu (Ðông Viên Lộc Mẫu Giảng đường).
Rồi Bà-la-môn Ganaka Moggallana đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến nói lên
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ganaka Moggallana bạch
Thế Tôn:
--
Ví như, thưa Tôn giả Gotama, tại lâu đài Migaramatu này, có thể thấy được một học tập
tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức là những
tầng cấp của lầu thượng cuối cùng [1]; thưa Tôn giả Gotama, cũng vậy,
đối với những vị Bà-la-môn này, được thấy một học tập tuần tự,
một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức là sự học hỏi
(các tập Veda [2]). Thưa Tôn giả Gotama, cũng vậy, đối với những vị bắn
cung này, được thấy một học tập tuần tự, một công trình tuần tự,
một đạo lộ tuần tự, tức là nghệ thuật bắn cung. Cũng vậy, thưa Tôn
giả Gotama, đối với chúng con là những người toán số [3], sống nhờ
nghề toán số, cũng được thấy một học tập tuần tự, một công trình
tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức là toán số. Thưa Tôn giả Gotama,
vì rằng khi có được người đệ tử, trước hết chúng con bắt người
ấy đếm như sau: "Một, một lần, hai, hai lần, ba, ba lần, bốn, bốn
lần, năm, năm lần, sáu, sáu lần, bảy, bảy lần, tám, tám lần, chín,
chín lần, mười, mười lần". Và thưa Tôn giả Gotama, chúng con bắt
đếm tới một trăm. Có thể trình bày chăng, thưa Tôn giả Gotama, trong Pháp và Luật này, cũng
có một tuần tự học tập, một tuần tự công trình, một tuần tự đạo
lộ như vậy?
-- Có thể
trình bày, này Bà-la-môn, trong Pháp và Luật này, có một tuần tự học tập,
có một tuần tự công trình, có một tuần tự đạo lộ. Ví như, này
Bà-la-môn, một người huấn luyện ngựa thiện xảo, sau khi được một
con ngựa hiền thiện, trước tiên luyện tập cho nó quen mang dây cương, rồi
tập luyện cho nó quen các hạnh khác; cũng vậy, này Bà-la-môn, Như Lai khi
được một người đáng được điều phục, trước tiên huấn luyện người
ấy như sau:
(Giới hạnh)
"Nầy
Tỳ-khưu, hãy giữ giới hạnh, hãy sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới".
(Hộ trì
các căn)
Này
Bà-la-môn, khi vị
Tỳ-khưu giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy
đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ
trì và học tập các học giới, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như
sau: "Nầy Tỳ-khưu, hãy hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc, chớ có nắm
giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì,
vì nhãn căn không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện
pháp khởi lên, vị Tỳ-khưu tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt,
thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng.... mũi ngửi hương... lưỡi
nếm vị.. thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các pháp ác bất thiện khởi lên, Tỳ-khưu chế ngự
nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn".
(Tiết độ
trong ăn uống)
Này
Bà-la-môn, sau khi Tỳ-khưu hộ trì các căn rồi, Như Lai mới huấn luyện vị
ấy thêm như sau: "Nầy Tỳ-khưu, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh
giác sát thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam
mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để
thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp
trì Phạm hạnh [4], nghĩ rằng: "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ
và không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm,
sống được an ổn".
(Chú tâm
cảnh giác)
Này
Bà-la-môn, sau khi Tỳ-khưu tiết độ trong ăn uống rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy
thêm như sau: "Nầy Tỳ-khưu, hãy chú tâm cảnh giác! Ban ngày trong khi
đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại
pháp; ban đêm trong canh đầu, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột
sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp; ban đêm trong canh giữa, hãy nằm
xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với
nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm
trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột
sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp".
(Chánh niệm
tỉnh giác)
Này,
Bà-la-môn, sau khi vị Tỳ-khưu chú tâm tỉnh giác, Như Lai mới huấn luyện
vị ấy thêm nữa như sau: "Nầy Tỳ-khưu, hãy thành tựu chánh niệm tỉnh
giác, khi đi tới
khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống,
nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác;
khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác".
(Từ bỏ
năm triền cái)
Này
Bà-la-môn, sau khi chánh niệm tỉnh giác rồi, Như Lai mới huấn luyện vị
ấy thêm như sau: "Nầy Tỳ-khưu, hãy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch
như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống
rơm".
Vị
ấy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá,
bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và
ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú
chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống
với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống
thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh
niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên; từ bỏ trạo cử
hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa
tâm hết trạo cử hối tiếc; từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi
nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với
các thiện pháp [5].
(Nhập
thiền-na)
Khi
đoạn trừ năm triền cái ấy [6], những pháp làm ô nhiễm tâm, làm trí tuệ yếu
ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm
và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này
Bà-la-môn, đối với những Tỳ-khưu nào là bậc hữu học, tâm chưa thành
tựu, đang sống cần
cầu sự vô thượng an tịnh các triền ách, đó là sự giảng dạy của Ta
như vậy đối với những vị ấy. Còn đối với những vị Tỳ-khưu là bậc
A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm,
đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát, những pháp ấy đưa đến sự hiện tại lạc trú và
chánh niệm tỉnh giác.
*
(Như Lai
là người chỉ đường)
Khi được
nói vậy, Bà-la-môn Ganaka Moggallana bạch Thế Tôn:
-- Các đệ
tử của Sa-môn Gotama, khi được Sa-môn Gotama khuyến giáo như vậy, giảng
dạy như vậy, có phải tất cả đều chứng được cứu cánh đích Niết-bàn
[8] hay chỉ có một số chứng được?
-- Này
Bà-la-môn, một số đệ tử của Ta, khi được khuyến giáo như vậy, giảng
dạy như vậy, chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số không chứng
được.
--
Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì trong khi có mặt Niết-bàn,
trong khi có mặt con đường đưa đến Niết-bàn, trong khi có mặt Tôn giả
Gotama là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử Tôn giả Gotama, được Tôn
giả Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được
cứu cánh đích Niết-bàn,
một số không chứng được?
-- Này
Bà-la-môn, ở đây Ta sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn, hãy trả lời cho
Ta. Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào? Ông có giỏi về con đường đi đến
Rajagaha (Vương Xá)?
-- Thưa Tôn
giả, con có giỏi về con đường đi đến Rajagaha.
-- Này
Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có một người, muốn đi đến Rajagaha, người này
đến Ông và nói như sau: "Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến Rajagaha. Hãy
chỉ cho tôi con đường đi đến Rajagaha". Ông nói với người ấy như
sau: "Ðược, này Bạn, đây là con đường đưa đến Rajagaha. Hãy đi
theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi trong một thời gian, Bạn
sẽ thấy một làng tên như thế này. Hãy đi theo trong một thời gian. Sau
khi đi trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một thị trấn tên như thế này.
Hãy đi theo trong một thời gian. Sau khi đi trong một thời gian, Bạn sẽ thấy
Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu rừng mỹ diệu, với
những vùng đất mỹ diệu, với những hồ ao mỹ diệu". Dầu cho người
ấy được khuyến giáo như vậy, được giảng dạy như vậy, nhưng lại lấy
con đường sai lạc, đi về hướng Tây. Rồi một người thứ hai đến, muốn
đi đến Rajagaha. Người này đến Ông và hỏi như sau: "Thưa Tôn giả,
tôi muốn đi đến Rajagaha, mong Tôn giả chỉ con đường ấy cho tôi".
Rồi Ông nói với người ấy như sau: "Ðược, này Bạn, đây là đường
đi đến Rajagaha. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi
một thời gian, Bạn sẽ thấy một làng có tên như thế này. Hãy đi theo
con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi một thời gian, Bạn sẽ thấy
một thị trấn có tên như thế này. Hãy đi theo con đường ấy trong một
thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy
Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu rừng mỹ diệu, với
những vùng đất mỹ diệu, với những ao hồ mỹ diệu". Người ấy
được Ông khuyến giáo như vậy, giảng như vậy, đi đến Rajagaha một cách
an toàn.
Này
Bà-la-môn, do nhân gì, do duyên gì, trong khi có mặt Rajagaha, trong khi có mặt
con đường đưa đến Rajagaha, trong khi có mặt Ông là người chỉ đường,
dầu cho Ông có khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một người lấy
con đường sai lạc, đi về hướng Tây, còn một người có thể đi đến
Rajagaha một cách an toàn?
-- Thưa Tôn
giả Gotama, ở đây, con làm gì được? Con chỉ là người chỉ đường,
thưa Tôn giả Gotama.
-- Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi có mặt Niết-bàn, trong khi có mặt con đường đi đến Niết-bàn, và trong
khi có mặt Ta là bậc chỉ đường. Nhưng các đệ tử của Ta, được Ta
khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh
đích Niết-bàn, một số không chứng được. Ở đây, này Bà-la-môn, Ta làm gì được?
Như Lai chỉ là người chỉ đường.
Khi nghe nói
vậy, Bà-la-môn Ganaka Moggalana bạch Thế Tôn:
--
Thưa Tôn giả Gotama, đối với những người không phải vì lòng tin, chỉ vì sinh kế, xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, những người xảo trá, lường
gạt, hư ngụy, mất thăng bằng, cao mạn, dao động, nói phô tạp nhạp,
không hộ trì các căn, ăn uống không tiết độ, không chú tâm cảnh giác,
thờ ơ với Sa-môn hạnh, không tôn kính học tập, sống quá đầy đủ, uể
oải, đi đầu trong thối thất, từ bỏ gánh nặng viễn ly, biếng nhác,
tinh cần thấp kém, thất niệm, không tỉnh giác, không định tâm, tâm tán
loạn, liệt tuệ, câm ngọng; Tôn giả Gotama không thể sống với những người
như vậy.
Còn những
Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
không xảo trá, không lường gạt, không hư ngụy, không mất thăng bằng,
không cao mạn, không dao động, không nói phô tạp nhạp, hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, chú tâm tỉnh giác, không thờ ơ với Sa-môn hạnh,
tôn kính học tập, sống không quá đầy đủ, không uể oải, từ bỏ thối
thất, đi đầu trong viễn ly, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, an trú, tỉnh
giác, định tĩnh, nhứt tâm, có trí tuệ, không câm ngọng; Tôn giả Gotama
sống hòa hợp với những vị ấy.
Ví như Tôn
giả Gotama, trong các loại căn hương, hắc chiên đàn hương được gọi là
tối thượng; trong các loại lõi cây hương, xích chiên đàn hương được
gọi là tối thượng; trong các loại hoa hương, vũ quý hương (jasmine) được
gọi là tối thượng. Cũng vậy là lời khuyến giáo của Tôn giả Gotama
được xem là cao nhất trong những lời khuyến giáo hiện nay.
Thật
vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che
kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải
thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỳ-khưu Tăng. Mong Tôn
giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng.
[Trung Bộ
107]
Ghi chú:
[1] Một căn nhà
có 7 tầng lầu không thể được xây trong một ngày (theo Chú giải).
[2] Không thể học thuộc 3 bộ kinh Veda trong một ngày (theo Chú giải).
[3] Ganaka: nghề toán số; do đó vị Bà-la-môn nầy có tên là Ganaka.
[4] Brahmacariyam: Đời sống trong sạch của một tu sĩ sống độc thân.
[5] Kusala: thiện pháp, tạo nghiệp thiện.
[6] Nìvarana: Triền cái: Tham dục (Kàmacchanda, Sense desire), Sân hận
(Vyàpàda, Ill will), - Hôn trầm (Thìna-middha, Sloth and Torpor), Trạo
cử (Uddhacca-kukkucca, Restlessness), Hoài nghi (Vicikicchà, Doubt).
[7] Ariya: bậc Thánh. theo Thanh Tịnh Đạo luận, đây là chỉ các vị
đã nhập dòng thánh giải thoát.
[8] Accantanittha: mục đích tối thượng.
-ooOoo-
3. Trưởng lão Vigitasena
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài
sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nước Kosala, và được
đặt tên là Vigitasena. Những người cậu bên ngoại, Sena và Upasena
cả hai đã xuất gia và chứng quả A-la-hán. Vigitasena sau khi đã
thuần thục nghề của mình, thấy được thần thông song hành của bậc Ðạo
Sư, nên khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin xuất gia dưới sự
hướng dẫn của các người cậu. Nhờ các người cậu giảng dạy, ngài
đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên ngoài,
nên ngài tự dạy cho tâm trí ngài như sau:
354. Ta sẽ chế ngự
ngươi,
Như cửa khóa ngăn voi,
Ta sẽ không thúc ngươi,
Đưa tâm vào điều ác,
Ngươi chính là lưới dục,
Ngươi do thân sanh ra.
355. Chế ngự ngươi
không đi,
Như voi, không cửa mở,
Này tâm, kẻ phù thủy,
Dầu ngươi cố gắng mãi,
Ngươi không còn lang thang,
Ưa thích làm điều ác.
356. Như người cầm câu
móc,
Ngăn mãi voi chưa thuần,
Như người dùng sức mạnh,
Cải hóa kẻ không muốn,
Cũng vậy đối với ngươi,
Ta sẽ cải hóa ngươi.
357. Như bánh xe tuyệt
hảo,
Khéo huấn luyện ngựa hay,
Cũng vậy ta điều ngươi,
Dựa lên trên Năm lực.
358. Ta sẽ cột chặt
ngươi,
Với chánh niệm vững chắc,
Tự mình đã chế ngự,
Ta sẽ chế ngự ngươi,
Nhờ sức nặng tinh tấn,
Ngươi được ta áp lực,
Do vậy, hỡi này tâm,
Ngươi sẽ không xa ta.
[Trưởng
Lão Tăng Kệ 5.354]
-ooOoo-
4.
Kinh Ðiều Ngự Địa
(Dantabhùmi sutta)
Như vầy
tôi nghe.
Một thời
Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc
(Kalandakanivapa).
Lúc
bấy giờ, Sa-di Aciravata (Tân Học Sa-môn) đang ở tại am thất Aranna [1]. Rồi vương
tử Jayasena [2] trong khi tản bộ du hành, đi đến Sa-di Aciravata, sau khi đến
nói lên với Sa-di Aciravata những lời chào đón hỏi thăm; sau khi đến, nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, vương tử Jayasena nói với Sa-di Aciravata:
-- Tôn giả
Aggivessana, tôi có nghe như sau: "Ở đây, Tỳ-khưu sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, sẽ được nhứt tâm".
-- Sự việc
là vậy, này Vương tử! Sự việc là vậy, này Vương tử! Ở đây, Tỳ-khưu
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần sẽ chứng được nhứt tâm.
-- Thật
là tốt lành nếu Tôn giả Aggivessana thuyết pháp cho tôi như đã được
nghe, như đã được học.
-- Này Vương
tử, tôi không có thể thuyết pháp cho Vương tử như đã được nghe, như
đã được học. Nếu nay tôi thuyết pháp cho Vương tử như đã được
nghe, như đã được học, và nếu Vương tử không hiểu lời tôi nói, như
vậy sẽ làm tôi mệt mỏi, làm tôi phiền muộn.
-- Tôn giả
Aggivessana, hãy thuyết pháp cho tôi như đã được nghe, như đã được học!
Rất có thể, tôi sẽ hiểu ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana.
-- Này Vương
tử, tôi sẽ thuyết pháp cho Vương tử như đã được nghe, như đã được
học. Nếu Vương tử có thể hiểu ý nghĩa lời nói của tôi, như vậy là
tốt đẹp. Nếu Vương tử không thể hiểu lời nói của tôi, hãy dừng lại
trên sự trạng của mình, chớ có hỏi tôi thêm nữa!
-- Tôn giả
Aggivessana, hãy thuyết pháp cho tôi như đã được nghe, như đã được học!
Nếu tôi có thể hiểu được ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana, như
vậy là tốt đẹp. Nếu tôi không có thể hiểu được ý nghĩa lời nói của
Tôn giả Aggivessana, tôi sẽ dừng lại trên sự trạng của tôi, ở đây,
tôi sẽ không hỏi Tôn giả Aggivessana thêm nữa.
Rồi
Sa-di Aciravata thuyết pháp cho vương tử Jayasena như đã được nghe, như đã
được học. Khi được nghe vậy, Vương tử nói với Sa-di Aciravata như sau:
-- Sự việc
không phải là như vậy, Tôn giả Aggivessana; trường hợp không phải là như
vậy, rằng Tỳ-khưu sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần lại có thể
chứng đắc nhất tâm.
Rồi Vương
tử Jayasena sau khi nói lên với Sa-di Aciravata sự việc không phải như vậy
và trường hợp không phải như vậy, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Rồi
Sa-di Aciravata, sau khi vương tử Jayasena ra đi không bao lâu, liền đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
một bên, Sa-di Aciravata kể lại cho Thế Tôn tất cả cuộc đàm thoại với
vương tử Jayasena.
Khi nghe nói
vậy, Thế Tôn nói với Sa-di Aciravata:
-- Như vậy,
này Aggivessana, nào có lợi ích gì? Vương tử Jayasenna sống giữa các dục,
thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não dục
thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại có thể biết, có thể thấy, hay
có thể chứng quả vị chỉ có ly dục mới biết được, chỉ có ly dục
mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt được, hay chỉ có ly dục mới
chứng được: sự kiện như vậy không xảy ra.
Này
Aggivessana, ví như giữa các con voi, con ngựa hay con bò được dạy điều phục có hai con
voi, hai con ngựa hay hai con bò được dạy điều phục, được khéo huấn
luyện; và có hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò không được khéo điều
phục, không được khéo huấn luyện. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Hai
con voi, hai con ngựa hay hai con bò, được khéo điều phục, được khéo huấn
luyện, các con ấy có thể đi đến khả năng điều phục (dantakaranam), có
thể đạt đến điều phục địa không?
-- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
-- Còn
hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò được dạy điều phục, nhưng không
được khéo điều phục, không được khéo huấn luyện, các con ấy không
được điều phục, có thể đi đến khả năng điều phục, không được
điều phục có thể đạt đến điều phục địa, như hai con voi, hai con ngựa
hay hai con bò được khéo điều phục, được khéo huấn luyện kia không?
-- Thưa
không, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy,
này Aggivessana, vương tử Jayasena sống giữa các dục, thọ hưởng các dục,
bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não dục thiêu đốt, tha thiết
truy cầu dục, lại có thể biết, có thể thấy, hay có thể chứng quả vị
chỉ có ly dục mới biết được, chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ
có ly dục mới đạt được, chỉ có ly dục mới chứng được: sự kiện
như vậy không xảy ra.
Ví
như, này Aggivessana, một hòn núi lớn không xa làng hay thị trấn. Và có
hai người bạn, tay trong tay đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, và đi đến hòn núi kia. Sau khi đến, một
người bạn đứng dưới chân núi, còn người bạn kia leo lên đỉnh núi.
Người bạn đứng dưới chân núi ấy có thể nói với người bạn đứng
trên đỉnh núi: "Này Bạn thân, Bạn đứng trên đỉnh núi, Bạn thấy
những gì?" Người kia nói: "Này Bạn thân, đứng trên đỉnh núi
tôi thấy các vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng khả
ái, các ao hồ khả ái". Người kia nói: "Không có sự kiện này,
này Bạn thân, không có trường hợp này, Bạn đứng trên đỉnh núi lại có thể thấy
các khu vườn khả ái, khu rừng khả ái, các đất bằng khả ái, các ao hồ
khả ái".
Rồi
người bạn đã đứng trên đỉnh núi, sau khi đi xuống chân núi, nắm tay bạn, khiến bạn
trèo lên đỉnh núi, để bạn nghỉ thở một thời gian, rồi nói:
"Này Bạn thân, nay Bạn có thể thấy gì, khi Bạn đứng trên đỉnh núi?"
Và người bạn ấy có thể nói: "Này Bạn thân, nay đứng trên đỉnh
núi, tôi thấy các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng
khả ái, các ao hồ khả ái". Người kia có thể nói như sau: "Vừa
rồi, này Bạn thân, chúng tôi hiểu Bạn nói: "Không thể có sự kiện
này, này Bạn thân, không thể có trường hợp này, Bạn đứng trên đỉnh
núi lại có thể thấy các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất
bằng khả ái, các ao hồ khả ái". Nhưng nay chúng tôi hiểu Bạn nói:
"Này Bạn thân, nay đứng trên đỉnh núi, tôi thấy các khu vườn khả
ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng khả ái, các ao hồ khả
ái". Người kia nói như sau: "Này Bạn thân, vì tôi bị che khuất bởi
sườn núi này, nên không thấy được những điều đáng thấy".
Cũng vậy,
nhưng to lớn hơn, này Aggivessana, là Vương tử Jayasena, bị che khuất, bị
chận đứng, bị chướng ngại, bị bao vây bởi vô minh uẩn này. Vương tử
Jayasena sống giữa các dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai
nghiến, bị nhiệt não dục thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại có
thể biết, có thể thấy hay có thể chứng quả vị chỉ có ly dục mới
biết được, chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt
được, chỉ có ly dục mới chứng được; sự kiện như vậy không xảy
ra.
Nếu
hai ví dụ này được
Ông đề cập cho Vương tử Jayasena, thời Vương tử Jayasena tự nhiên tin tưởng
Ông và khi đã tin tưởng, sẽ hành động đúng theo cung cách một người
đã tin tưởng Ông.
-- Nhưng
làm sao, bạch Thế Tôn, hai ví dụ này khởi đến từ nơi con cho Vương tử
Jayasena, khởi lên một cách tự nhiên, từ trước chưa từng được nghe,
như Thế Tôn được?
-- Ví
như, này Aggivessana, một vị vua Sát-đế-lỵ đã quán đảnh bảo người nài voi: "Này Tượng
sư, hãy cưỡi con vương tượng, đi vào rừng có voi; khi Ông thấy con voi rừng,
hãy cột nó lại vào cổ con vương tượng". -- "Thưa vâng, tâu Ðại
vương". Này Aggivessana, người tượng sư vâng theo lời vị vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, cỡi con vương tượng, vào trong rừng có voi, thấy
con voi rừng, cột con voi rừng ấy vào cổ con vương tượng. Con vương tượng
kéo nó ra chỗ ngoài trời. Cho đến như vậy, này Aggivessana, con voi rừng
được đi đến chỗ ngoài trời. Nhưng này Aggivessana, con voi rừng còn có sự tham luyến tức
là đối với rừng có voi.
Người
tượng sư tâu với vị vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh về con voi rừng ấy. "Tâu
Ðại vương, con voi rừng đã ra chỗ ngoài trời". Rồi vị vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh bảo người điều phục voi: "Hãy đến, này người
Ðiều phục voi, hãy điều phục con voi rừng này bằng cách điều phục nếp
sống rừng của nó, bằng cách điều phục tâm tư rừng núi, bằng cách
điều phục sự ưu tư, mệt nhọc, nhiệt não đối với rừng núi của nó
bằng cách làm cho nó thích thú với thôn làng, và bằng cách làm cho nó
quen thuộc với nếp sống loài người". -- "Thưa vâng, tâu Ðại vương".
Này Aggivessana, người điều phục voi vâng theo lời vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, đóng một cọc trụ lớn vào đất, cột cổ con voi rừng,
để điều phục nếp sống rừng của nó, để điều phục tâm tư rừng núi,
để điều phục sự suy tư, mệt nhọc, nhiệt não của rừng núi, để làm cho nó thích thú với thôn
làng và làm cho nó quen thuộc với nếp sống loài người.
Rồi
người điều phục voi lại nói với nó bằng những lời nhẹ nhàng, đẹp
tai, thân tình, đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều người vui thích, khiến nhiều người
hoan hỷ. Và này Aggivessana, con voi rừng khi được nói với những lời nhẹ
nhàng, đẹp tai, thân tình, đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều người vui
thích, khiến nhiều người hoan hỷ, liền nghe, lóng tai, trú tâm vào học hỏi
(anna). Tiếp đến người điều phục voi đem cỏ và nước cho con voi rừng. Này
Aggivessana, khi con voi rừng nhận cỏ và nước, người điều phục voi mới
nghĩ: "Nay con voi rừng sẽ sống".
Rồi
người điều phục voi khiến con voi rừng làm thêm một động tác khác: "Này Bạn, nhặt
lên! Này Bạn, đặt xuống!" Này Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng
theo lời người điều phục voi, làm đúng theo lời dạy nhặt lên, đặt
xuống rồi, người điều phục voi khiến nó làm thêm một động tác
khác: "Này Bạn, đi tới! Này Bạn, đi lui!" Này Aggivessana, sau khi
con vương tượng vâng theo lời người điều phục voi, làm đúng theo lời
dạy đi tới, đi lui rồi, người điều phục voi khiến nó làm thêm một
động tác khác: "Này Bạn, đứng dậy! Này Bạn, ngồi xuống!"
Này Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời người điều phục
voi, làm đúng theo lời dạy, đứng dậy, ngồi xuống rồi, người điều
phục voi khiến nó làm thêm một động tác khác tên gọi "bất động".
Nó cột cái khiên bằng gỗ vào cái vòi của con vật to lớn, và một người
tay cầm ngọn giáo ngồi trên cổ, và xung quanh một số người tay cầm ngọn
giáo đứng bao vây. Và người điều phục voi, tay cầm một ngọn giáo với
cán cây dài, đứng ở phía trước. Con voi ấy làm động tác bất động,
không có di động chân trước, không có di động chân sau, không có di động
thân trước, không có di động thân sau, không di động đầu, không có di
động tai, không có di động ngà, không có di động vòi. Con vương tượng
là con voi có thể nhẫn chịu đao, kiếm, tên, búa chém bắn, nhẫn chịu tiếng
vang động của trống lớn, trống nhỏ, tù và, như là vàng ròng tẩy sạch
các tỳ vết nhơ bẩn, xứng đáng được vua dùng, một sở hữu của vua, một
biểu tượng của vua.
(Lòng
tín thành)
Cũng
vậy, này Aggivessana, ở đây, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng
ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên
bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh [3] hoàn toàn đầy
đủ thanh tịnh.
Người
gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp hạ
tiện nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như
Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia
đình đầy những
triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia
đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh,
trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người
ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ,
hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Cho đến đây, này Aggivessana,
là vị Thánh đệ tử đi đến chỗ ngoài trời. Nhưng này Aggivessana, các vị
Thiên, Nhân có tham ái này, tức là năm dục công đức.
(Giữ giới)
Rồi Như
Lai huấn luyện thêm cho vị đệ tử ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy
giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha
(Ba-la-đề-mộc-xoa), đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những
lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong học pháp!"
(Phòng hộ
các căn)
Này
Aggivessana, sau khi vị Thánh đệ tử đã giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự
của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm
trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong học pháp, Như Lai lại
huấn luyện thêm cho vị đệ tử ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy bảo
hộ các căn! Khi mắt thấy sắc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự,
khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế ngự
nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai
nghe tiếng,... mũi ngửi hương,... lưỡi nếm vị,... thân cảm xúc,... ý nhận
thức các pháp, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu
bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực
hành sự hộ trì ý căn".
(Tiết độ
ăn uống)
Này
Aggivessana, sau khi Thánh đệ tử đã hộ trì các căn, Như Lai huấn luyện thêm vị
Thánh đệ tử ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy tiết độ trong ăn uống,
chơn chánh giác sát thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải
để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình,
chỉ để thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại,
để chấp trì Phạm
hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không
cho khởi lên các cảm thọ mới. Và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được
an ổn".
(Chú tâm
cảnh giác)
Này
Aggivessana, sau khi vị
Thánh đệ tử đã tiết độ trong ăn uống, Như Lai lại huấn luyện thêm
vị ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy chú tâm cảnh giác! Ban ngày khi
đi kinh hành và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch tâm trí khỏi các chướng
ngại pháp. Ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi,
hãy gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Ban đêm trong canh giữa,
hãy nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác
trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy.
Ban đêm canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, hãy
gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp".
(Chánh niệm
tỉnh giác)
Này
Aggivessana, sau khi Thánh đệ tử đã chú tâm cảnh giác, Như Lai huấn luyện thêm
vị ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy thành tựu chánh niệm tỉnh
giác! Khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh
đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép,
bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh
giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng ngồi,
nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác".
Này
Aggivessana, sau khi vị Thánh đệ tử đã thành tựu chánh niệm tỉnh giác,
Như Lai lại huấn luyện thêm vị ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy lựa
một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, chỗ hoang vu, hang
núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời, đống rơm!"
(Đoạn
trừ triền cái)
Vị
ấy lựa chọn một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, chỗ
hoang vu, hang núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy sau khi ăn xong, trên
đường khất thực trở về, ngồi xuống, kiết-già, giữ lưng cho thẳng,
trú niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống
với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống
thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh
niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử
hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm trầm lặng, gột
rửa tâm hết trạo cử hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống với tâm
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp.
(Hành Tứ
niệm xứ)
Vị
ấy sau khi đoạn trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm
yếu ớt trí tuệ, vị ấy sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để điều phục tham ưu ở đời, quán thọ trên các cảm
thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để điều phục tham ưu ở đời.
Ví
như, này Aggivessana, một người điều phục voi đóng một cọc trụ lớn vào đất, cột
cổ con voi rừng để điều phục nếp sống rừng của nó, để điều phục
tâm tư rừng núi của nó, để điều phục sự ưu tư mệt nhọc nhiệt não
của rừng núi, để làm cho nó thích thú với thôn làng và làm cho nó quen
thuộc với nếp sống loài người; cũng vậy, này Aggivessana, bốn niệm xứ
này là những dây cột tâm tư để điều phục tánh cư sĩ, để điều phục
tâm tư cư sĩ, để điều phục sự ưu tư mệt nhọc nhiệt não của các cư
sĩ, để đạt được chánh lý (naya), để chứng ngộ Niết-bàn.
Rồi Như
Lai huấn luyện thêm vị ấy:
-- Hãy đến,
này Tỳ-khưu, hãy trú quán thân trên thân, và chớ có suy tư trên tầm
liên hệ đến thân; hãy trú quán thọ trên các cảm thọ, và chớ có suy tư
trên tầm liên hệ đến cảm thọ; hãy trú quán tâm trên tâm, chớ có suy
tư trên tầm liên hệ đến tâm; hãy trú quán pháp trên các pháp, và chớ
có suy tư trên tầm liên hệ đến các pháp.
(Phát triển
thiền-na)
Vị ấy
diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai [4], một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc,
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
(Tam minh)
Với
tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng
tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời,
nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống
như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống
như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy
nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với
tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến
sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng
chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ
rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về
thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về
ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến.
Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những
thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu
những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến,
tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này". Như
vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết
của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ
cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
họ.
Với
tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm [5], không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị
ấy tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ" [6], tuệ tri như thật: "Ðây
là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ diệt", tuệ
tri như thật: "Ðây là Con Ðường đưa đến khổ diệt" tuệ tri
như thật: "Ðây là những lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây
là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là sự
diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
(Giải
thoát)
Nhờ biết
như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy,
khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri:
"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời
hiện tại, không có trở lui đời sống này nữa".
Tỳ-khưu
kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của muỗi, ruồi, gió, mặt
trời và các loài
bò sát, các ác ngữ, các lời nói chửi mắng, vị ấy sống quen kham nhẫn
với những cảm thọ về thân, thống khổ, đau nhói, đau đớn, kịch liệt,
bất khoái, không thích ý, đau đớn đến chết, được gột sạch về uế
nhiễm tham, sân, si [7]. Vị ấy xứng đáng được cúng dường, cung kính,
tôn trọng, chấp tay, là vô thượng phước điền trên đời.
Nếu,
này Aggivessana, một con vương tượng tuổi già chết đi, không được điều phục, không
được huấn luyện, thời con vương tượng tuổi già được gọi là đã
chết với cái chết không được điều phục. Nếu, này Aggivessana, một
con vương tượng tuổi bậc trung; nếu, này Aggivessana, một con vương tượng
tuổi trẻ chết đi, không được điều phục, không được huấn luyện,
thời con vương tượng tuổi trẻ được gọi là đã chết với cái chết
không được điều phục. Cũng vậy, này Aggivessana, nếu vị Trưởng lão Tỳ-khưu
chết với lậu hoặc chưa đoạn tận, thời Trưởng lão Tỳ-khưu được gọi
là đã chết với cái chết không được điều phục. Nếu, này Aggivessana,
một Tỳ-khưu trung niên; nếu, này Aggivessana, một Tỳ-khưu thiếu niên chết
với lậu hoặc chưa đoạn tân, thời Tỳ-khưu thiếu niên được gọi là
đã chết với cái chết không được điều phục.
Nếu,
này Aggivessana, một con vương tượng tuổi già khéo điều phục, khéo huấn luyện chết
đi, thời con vương tượng tuổi già được gọi là đã chết với cái chết
được điều phục. Nếu, này Aggivessana, một con vương tượng tuổi bậc
trung, nếu, này Aggivessana, một con vương tượng tuổi trẻ khéo điều phục,
khéo huấn luyện chết đi, thời con vương tượng tuổi trẻ được gọi là
đã chết với cái chết được điều phục. Cũng vậy, này Aggivessana, nếu
một Trưởng lão Tỳ-khưu với lậu hoặc đã đoạn tận chết đi, thời
Trưởng lão Tỳ-khưu được gọi là đã chết, với cái chết được điều
phục. Nếu, này Aggivessana, một trung niên Tỳ-khưu; nếu, này Aggivessana, một
thiếu niên Tỳ-khưu, với lậu hoặc đã đoạn tận chết đi, thời vị
thiếu niên Tỳ-khưu được gọi là đã chết, với cái chết được điều
phục.
Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Sa-di Aciravata hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
[Trung Bộ
125]
Ghi
chú:
[1] Am thất trong
một khu biệt lập của vườn Trúc Lâm, dành để cho các tu sĩ tinh tấn tu
thiền (theo Chú giải).
[2] Con của vua Bimbisara.
[3] Brahmacariyam: Đời sống trong sạch của một tu sĩ sống độc thân.
[4] Cần ghi nhận ở đây là tiếp theo đoạn hành Tứ niệm xứ là phát
triển Thiền-na thứ hai (Nhị thiền) mà không thấy đề cập đến Thiền-na
thứ nhất (Sơ thiền). Có thể là vì hành giả đã thuần thục đạt đến
Sơ thiền từ trước. Nhưng cũng có thể là vì với sự hành trì Tứ niệm
xứ một cách tinh tấn, với chú tâm vào quán sát đơn thuần, thường có
khuynh hướng giảm thiểu tầm, khiến hành giả có thể tiến thẳng vào Nhị
thiền, không còn tầm và tứ (vitakha-vicara). Trường hợp nầy có thể
giải thích bằng các sự kiện rằng (1) trong bài kinh, pháp hành Tứ niệm
xứ theo liền sau việc tạm thời dừng bỏ năm triền cái, ám chỉ một mức
độ tâm định rất cao, tiến gần đến thiền-na; và (2) trong bài kinh,
hành giả được dạy không có suy tư trên tầm liên hệ đến thân, đến
thọ, đến tâm, đến pháp -- có nghĩa là từ bỏ chi tầm vốn hiện diện trong Sơ thiền.
[5] Asava.
[6] Dukkha.
[7] Raga, dosa, moha.
-ooOoo-
5. Trưởng lão ni Dantikà
Trong đời đức Phật hiện tại, bà
được sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình vị giáo sĩ nhà vua.
Khi đến tuổi trưởng thành, bà trở thành tín nữ ở Jetavana (Kỳ
Viên) và về sau xuất gia, dưới sự chỉ đạo của Tỳ-khưu Ni Mahàpajàpati.
Một thời khi đang ở Ràjagaha (Vương Xá), bà leo lên núi Linh Thứu;
và sau buổi ăn, khi đang còn ngồi nghỉ, thấy một người nài điều khiển một con voi; và nhờ
vậy bà chứng quả A-la-hán; với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Về sau,
vô cùng hân hoan với quả chứng của mình, bà nói lên bài kệ như sau:
48. Ra khỏi ngôi tinh
xá,
Ðể nghỉ trưa ban ngày,
Trên đỉnh núi Linh Thứu,
Ta thấy một con voi,
Dầm nước xong đi lên,
Trên bờ một con sông.
49. Một người cầm cái
móc,
Yêu cầu đưa chân lên,
Con voi duỗi chân ra,
Và người leo lên voi.
50. Thấy kẻ chưa nhiếp
phục,
Ði đến được nhiếp phục,
Ta thấy nó vâng chịu,
Theo quyền lực của người.
Như vậy, ta định tâm,
Ði vào trong rừng ấy.
[Trưởng
Lão Ni Kệ 3.48]
-ooOoo-
6. Gậy Thúc Ngựa
1. - Có bốn loài ngựa hiền thiện thuần thục này, này các
Tỳ-khưu, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?
Ở
đây, này các Tỳ-khưu,
có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa liền
bị dao động, kích thích nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự
ngựa sẽ bảo ta làm
gì, và ta đáp ứng thế nào?" Như vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây là
loại ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là loại ngựa
hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở đời.
2. Lại
nữa, này các Tỳ-khưu, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy
bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa
đâm vào lông, nó liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay,
người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì, và ta đáp ứng thế
nào?" Như vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa hiền thiện
thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục
thứ hai, có mặt, hiện hữu ở đời.
3. Lại
nữa, này các Tỳ-khưu, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy
bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm
vào lông, nó không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị cây gậy thúc ngựa
đâm vào thịt, liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người
đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào?"
Như vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục.
Này các Tỳ-khưu, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt,
hiện hữu ở đời.
4. Lại
nữa, này các Tỳ-khưu, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy
bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm
vào lông, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
thịt, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương,
bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều
ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào?" Như vậy, này
các Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỳ-khưu,
đây là loài ngựa
hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu ở đời.
Này các
Tỳ-khưu, có bốn loài ngựa hiền thiện, thuần thục, có mặt, hiện hữu
ở đời.
5. Cũng vậy,
này các Tỳ-khưu, có bốn hạng người hiền thiện, thuần thục này có mặt,
hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?
Ở
đây, này các Tỳ-khưu,
có hạng người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị trấn
kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mạng chung;
người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý
tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự
thật; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy.
Ví như, này các Tỳ-khưu, con ngựa hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng
cây gậy thúc ngựa, bị dao động kích thích, Ta nói rằng, này các Tỳ-khưu, con người
hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỳ-khưu, đây là hạng người
hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại
nữa, này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục
không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người
đàn ông bị đau khổ hay bị mệnh chung, nhưng khi tự mình thấy người đàn
bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích
thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị
ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi
thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỳ-khưu, con ngựa
hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào da, bị
dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỳ-khưu, con người hiền thiện
thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây
có hạng người hiền thiện. Này các Tỳ-khưu, đây là hạng người hiền
thiện thuần thục thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Lại nữa,
này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không
có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn
ông bị khổ đau hay bị mệnh chung, không có tự mình thấy người đàn
bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà
con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung, người
ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần.
Do tinh cần, với thân vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với
trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này
các Tỳ-khưu, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc
ngựa đâm vào thịt, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỳ-khưu,
con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này
các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỳ-khưu, đây
là hạng người hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
8. Lại
nữa, này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục
không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị
khổ đau hay mệnh chung, không có tự mình thấy người đàn bà hay người
đàn ông khổ đau hay bị mệnh chung, không có người bà con hay người đồng
một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự mình cảm xúc
những cảm thọ về thân khổ đau, nhói đau, chói đau, mãnh liệt, kịch liệt,
không phải khả hỷ, không khả ý, đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động,
kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với
thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị
ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỳ-khưu,
con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
xương mới bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỳ-khưu, con người hiền
thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây
là hạng người hiền thiện thuần thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
Này các
Tỳ-khưu, có bốn hạng người hiền thiện thuần thục này có mặt, hiện
hữu ở đời.
[Tăng Chi
4.113]
7.
Phẩm Tâm
33. "Tâm hoảng hốt
giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên." |
34. "Như cá quăng trên
bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vũng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma." |
35. "Khó nắm giữ,
khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến." |
36. "Tâm khó thấy, tế
nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến." |
37. "Chạy xa, sống một
mình,
Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc" |
38. "Ai tâm không an
trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành." |
39. "Tâm không đầy
tràn dục,
Không bị hận công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi," |
40. "Biết thân như
đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí;
Giữ chiến thắng không tham" |
41 "Không bao lâu
thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng." |
42. "Kẻ thù hại kẻ
thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân." |
43. "Ðiều mẹ cha
bà con,
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được,
Làm được tốt đẹp hơn." |
[Pháp Cú]
|
last updated: 04-10-2004
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/ dieuphuctam.htm
|
|