Việc có được cái mà ta gọi là
một “thân người quý báu” có nghĩa là ta đã được sinh làm một con người và
được cung cấp những sự tự do và thuận lợi nào đó. Không những ta phải có
những tiền đề thuộc về vật lý (thân thể) cần thiết cho sự thực hành Pháp,
mà ta cũng phải có một tâm thức bao gồm ba loại niềm tin.
“Những sự tự do” trong mạch văn
này có nghĩa là ta không hoàn toàn bị bận tâm bởi những vấn đề khác. Ví dụ
nếu bị sinh ra trong những cõi giới có quá nhiều nỗi khổ, ta sẽ hoàn toàn
bị chiếm lãnh bởi những tình huống đó đến nỗi không có chút cơ hội nhỏ bé
nào để thực hành Pháp hay dành hết thì giờ cho những sự việc tích cực khác.
Đức Phật đã giảng về tám cảnh
giới khác nhau không có sự tự do để thực hành Pháp. Ngài giảng dạy trong
một cách thế tương ứng với cách con người suy tưởng trong thời gian đó (thời
đại khi Đức Phật còn tại thế). Tuy nhiên ngày nay chúng ta nên hiểu rằng
những cõi giới đó không được coi như những nơi chốn đặc biệt, mà đúng hơn
chúng là những loại kinh nghiệm mà chúng sinh có được như kết quả của sự
chín mùi của nghiệp của riêng họ.
TÁM SỰ TỰ DO
Ba cái đầu tiên trong tám tâm
thái mà Đức Phật đã giảng dạy là ba cõi thấp: cõi hoang tưởng, cõi ma quỷ,
và cõi súc sanh.
Khi kinh nghiệm những cõi hiện
hữu này, thì hoặc ta đau khổ dữ dội đến nỗi không thể làm bất kỳ điều gì
khác, hoặc ta hoàn toàn không đủ sáng suốt để làm việc với Pháp ở lãnh vực
nào đó.
Trong một vài kinh điển, Đức
Phật đã mô tả những tâm thái này theo cách thế cho thấy chúng có thể là
những thế giới tương tự thế giới của chúng ta. Những lời giảng dạy này
tương ứng với ý niệm mà người ta có về thế giới chúng ta vào lúc nào đó và
được đặc biệt ban cho các hành giả Shravaka – những tín đồ của Thanh Văn
thừa.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về
những trạng thái hoang tưởng này, ta sẽ nhận ra rằng có lẽ chúng không thể
có nghĩa là một nơi chốn thực sự, bởi trong Kinh nói rằng có kim loại nóng
chảy khắp nơi. Nếu chúng ta hỏi rằng ai nấu chảy kim loại và loại nhiên
liệu nào được dùng để đốt lửa thì ta thấy rằng chúng không thể hiện hữu
theo nghĩa đen như cách chúng được miêu tả v..v…Đúng hơn, đó là bởi mỗi cá
nhân chúng sinh có duyên nghiệp với loại hiện hữu đó nên kinh nghiệm nó
như hoàn toàn có thật. Bởi vô minh và lầm lạc, tâm thức của những chúng
sinh đó đã khiến họ kinh nghiệm chính mình giữa một địa ngục.
Tuy nhiên, cho dù nó không là
một thế giới “có thật” theo ý nghĩa đó, chừng nào ta còn nghiệp phải chịu
đựng trạng thái này thì nỗi khổ được kinh nghiệm sẽ không ngừng dứt. Hoàn
toàn bị tóm bắt bởi ảo tưởng, ta không có khả năng để thử chuyển hoá nó.
Ta thực sự cho rằng ta đang ở trong cảnh giới địa ngục và do đó phải chịu
đau khổ. Do bởi nỗi khổ khốc liệt này mà ta không thể suy niệm ý nghĩa của
Giáo Pháp và không ngó ngàng gì tơi việc thực hành nó. Cho dù ta có muốn
làm những điều ấy thì cũng không được. Trái lại, có những tâm thái mà kinh
nghiệm về sự hạnh phúc và niềm vui thì hết sức mãnh liệt khiến ta không
nghĩ tới sự thực hành. Đó là cõi Trời. Những vị Trời có những cấp độ khác
nhau trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Trong dục giới có sáu loại
hiện hữu khác nhau, một trong sáu loại đó được gọi là cõi Trời. Một sự tái
sinh trong cõi giới này là kết quả của sự tích tập một số lượng khổng lồ
thiện nghiệp. Bởi thiện nghiệp này mà ta kinh nghiệm sự hạnh phúc và niềm
vui bao la và ta hoàn toàn xao lãng trong đó. Ta muốn được hưởng lạc thú
trong tất cả những trạng thái này và không phải trải qua chút xíu phiền
não nào. Không phải chịu đựng bất kỳ loại đau khổ nào, ta không quan tâm
tới việc nỗ lực thoát ra khỏi trạng thái này. Đang sống trong sự vui thú
đó, ta cho rằng như thế là đủ và không có động lực để thực hành Pháp.
Sắc giới và vô sắc giới là kết
quả của sự thiền định. Nếu ta bị dính mắc vào cảm giác lạc thú trong khi
thực hành thiền định-tĩnh, ta có thể kết thúc khoá thiền khi tâm thức hoàn
toàn bị sự hỉ lạc của những trạng thái này chiếm lãnh. An trụ trong trạng
thái thiền định sâu xa này, ta không cảm thấy bị ngoại vật cuốn hút chút
nào, mà hoàn toàn phóng tâm trong niềm vui nội tâm. Không kinh nghiệm bất
cứ cảm xúc đau buồn nào, tâm thức trở nên hết sức an bình và không có động
lực để chuyển hoá.
Tuy nhiên, ngay cả trong cõi
người cũng có những tình trạng không có cơ hội để thực hành Pháp. Chẳng
hạn như khi bị sinh ra ở một nơi mà con người không có chút xíu ý niệm nào
về những hành động tích cực và tiêu cực, ta không thể đi theo một con
đường tốt và tránh con đường xấu. Đây là những trường hợp của các xã hội
sơ khai nơi những loại người man dã sinh sống, họ có thể là những con
người nhưng không luôn luôn cư xử theo cách thông thường.
Những người khác có thể được
sinh ra làm người, nhưng họ hoàn toàn bị vướng mắc trong những tà kiến (những
gì đối nghịch với Pháp) khiến họ cũng không thể thực hành. Ví dụ như có
những người tin rằng phải thực hiện việc hiến tế những con vật bởi họ đoan
chắc việc giết thú vật có thể đưa tới giải thoát. Tà kiến là một vấn đề
rất nghiêm trọng, bởi chúng không chỉ cản trở ta trong việc thực hành Pháp,
mà ngay cả có thể dẫn dắt ta thực hành một con đường xấu nữa. Vì thế đó là
một trở ngại lớn cho sự thực hành bị vướng mắc trong các tà kiến.
Những người khác lại bị sinh ra
với sự bất lực (bệnh hoạn) trong tâm thức. Họ không có khả năng thấu hiểu
ý nghĩa của Pháp bằng cách lắng nghe Giáo lý. Ngay cả khi họ nhận được lời
khuyên về điều gì nên làm và điều gì nên tránh, sự khuyên dạy ấy cũng
không có ý nghĩa gì với họ. Họ hoàn toàn không thể hiểu điều đó. Từ ngữ
Tây Tạng gọi một người như thế là “Kunga.” Mặc dù thuật ngữ cũng được dùng
cho người câm điếc, trong mạch văn này nó có ý nghĩa chính yếu là sự bất
lực trong tinh thần. Khả năng hiểu biết của những người này rất giới hạn
và họ không thể phân biệt được giữa những điều tốt để làm và những điều
xấu phải tránh.
Cuối cùng, ta có thể bị sinh ra
trong một kỷ nguyên không có các vị Phật xuất hiện và sinh ở nơi Phật Pháp
hoàn toàn không được biết tới.
Có những thời kỳ khác nhau
trong sự tiến hoá của một thế giới mà ta gọi là các “kalpa” (kiếp) hay các
thời đại (eon). Giữa những sự hiển lộ của những Đức Phật lịch sử có những
thời kỳ được gọi là “thời đại tăm tối”, khi ấy không có chư Phật xuất hiện.
Bị sinh ra trong một thời kỳ như thế có nghĩa là ta không thể nối kết với
Pháp và do đó không có may mắn để thực hành. Có được “tám sự tự do” có
nghĩa là không bị sinh ra trong một trong tám trạng thái này.
MƯỜI THUẬN LỢI (mười sở hữu)
Tuy nhiên, còn có những điều
kiện cần thiết để thực hành Pháp. Đó là mười thuận lợi hay mười sự sở hữu.
Ở đây ta phân biệt hai nhóm, mỗi nhóm gồm năm sự sở hữu. Nhóm đầu tuỳ
thuộc vào chính nó, nhóm sau tuỳ thuộc vào những điều khác.
-
Điều kiện thứ nhất là ta phải là một con người được trang bị đầy đủ,
không khiếm khuyết và hoạt động tốt đẹp như một người nam hoặc người nữ.
-
Ta phải có thể gặp được một Đạo sư và tham vấn Giáo lý nơi ngài.
-
Sau khi thọ nhận Giáo lý, ta phải có khả năng thực hành Pháp.
-
Trong một chừng mực nào đó, ta phải không bị bệnh hoạn trong thân
xác hay tinh thần để việc thực hành Pháp không bị cản trở.
-
Ta không được phạm một trong năm hành vi cực kỳ xấu ác. Là hậu quả
của những việc: gây thương tích cho một vị Phật, giết hại một vị A La Hán,
giết cha hay mẹ hoặc gây chia rẽ trong Tăng đoàn – kẻ mắc phạm sẽ rất khó
đạt được bất kỳ cấp độ chứng ngộ nào trong đời này. Những hành vi này thì
hoàn toàn xấu ác.
Bên cạnh năm điều kiện liên
quan với chính nó này, còn có năm điều kiện khác liên quan tới những sự
việc khác :
-
Một vị Phật lịch sử phải hiển lộ trong thế giới này.
-
Vị Phật này phải thuyết giảng.
-
Giáo lý phải còn ảnh hưởng trong thời đại này.
-
Phải còn những vị Thầy trao truyền những Giáo lý này.
-
Các vị Thầy phải có khả năng giảng dạy Pháp một cách thích đáng –
nói cách khác là giảng dạy với lòng bi mẫn.
Được sinh ra làm một người được
cung cấp mười sự sở hữu này là giả định tốt đẹp nhất để thực hành Pháp.
SỰ TÁI SANH LÀM NGƯỜI QUÝ BÁU
Bởi loại tái sanh này là sự
thuận lợi tốt đẹp nhất để thực hành Pháp nên nó được gọi là “sự tái sanh
làm người quý báu.” Thuật ngữ “rinpoche” trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là
“quý báu” hay “viên ngọc quý.” Ở đây nó được dùng để mô tả thân người, bởi
thật ra nó rất quý báu và cực kỳ khó được. Một khi đã có được thân người
và sở hữu rất nhiều phẩm tính thì đó là một giá trị không thể nghĩ bàn.
Đây là lý do tại sao loại tái
sanh này được gọi là “sự tái sanh quý báu” – sự có được một thân người mà
ta có thể sử dụng trong cách thế đúng đắn để đạt được giải thoát. Thân
người rất khó được là bởi tiền đề chính yếu của điều này là hành vi đúng
đắn. Để được sanh ra làm một con người, ta phải tránh làm mười hành vi xấu
trong những đời quá khứ. Tuy nhiên nếu nhìn quanh ta, ta sẽ nhận ra rằng
trên thực tế không có bao nhiêu người từ bỏ được những hành vi xấu ác. So
sánh với một thân người bình thường thì một thân người “quý báu” còn khó
đạt được hơn nữa. Có cơ hội để thực hành Pháp trong đời này không phải là
kết quả của hành vi hoàn toàn tốt đẹp, mà nó đến từ việc phát nguyện mạnh
mẽ và có chủ ý được tái sanh theo cách đó, điều này khiến ta có thể phát
triển và thực hành.
Cứ xem số lượng người so với số
thú vật thì ta rất dễ thấy. Ví dụ như ta có thể và không khó khăn lắm khi
tính đếm dân số của một quốc gia. Trái lại, nếu ta muốn đếm số lượng to
lớn các thú vật thì đó là điều không thể được bởi chúng nhiều vô kể. Điều
này cho ta một ý niệm về sốù lượng ít ỏi con người thế nào so với sốù thú
vật.
Hơn nữa, khi thấy rằng chỉ ít
ỏi con người gặp được mười tám điều kiện – tám sự tự do và mười sự thuận
lợi để thực hành Pháp, ta sẽ nhận ra là cơ hội này thì hy hữu thế nào. Lấy
một thành phố lớn có năm triệu dân làm ví dụ, nếu chỉ có một ngàn hoặc
mười ngàn người trong số đó thực hành Pháp thì đã là nhiều rồi. Tuy nhiên
đây hầu như là trường hợp còn lâu mới xảy ra. Chỉ riêng điều này cho ta
thấy thân người quý báu thì hiếm hoi thế nào. Hãy nhìn dân số khổng lồ của
thế giới và xem thử số người đã chấm dứt việc mắc phạm mười hành vi tiêu
cực, không chỉ trong số Phật tử mà còn trong các hành giả của mọi tôn giáo
và những người không theo bất cứ tôn giáo nào, ta sẽ thấy số đó ít ỏi so
với tổng số người sống trong thế giới. Rồi ta xem thử có bao nhiêu người
biết cách phát nguyện vì lợi ích của người khác, thì số người đó cũng
không nhiều.
Nhờ truy xét những yếu tố này,
ta sẽ trở nên tỉnh giác trong việc ta có thuận lợi và may mắn ra sao khi
được làm người trong một hoàn cảnh có thể thực hành Pháp. Nhờ đó ta có thể
thấy được rằng sự may mắn này thì cực kỳ hi hữu biết bao. Điều này khuyến
khích ta hướng đời mình vào một con đường đúng đắn, quyết định không bỏ
phí cơ hội này bởi lẽ như đã đề cập ở trên, nó vô cùng khó được.
Ta phải nhận thức rằng sự sống
hiện tại của ta thì thực sự ưu việt ra sao và hãy nỗ lực sử dụng nó để đạt
được giác ngộ trong đời này. Nếu ta tu tập tốt đẹp, thì mặc dù không hẳn
là siêu xuất nhất, ta có thể trở thành các vị Bồ Tát trong đời này. Nếu ta
tu tập không tốt lắm, ta có thể trở thành các Pratyekabuddha.1 Nếu không
thể làm như thế, ta vẫn có thể thực hành con đường tích tập và nối kết.2
Ít nhất ta nên cố gắng không phí phạm cuộc đời này, mà thay vào đó sử dụng
nó trong cách thế tốt đẹp nhất có thể được. Với quyết định này trong tâm,
chắc chắn ta có thể tránh không bị thối chuyển, có thể giữ vững mức độ của
ta, và thậm chí còn phát triển xa rộng hơn nữa. Điều đó cho thấy hoàn cảnh
của ta thì ưu việt như thế nào. Ta nên thực sự cảm kích về điều đó.
Ngài Shantideva đã giảng dạy
điều này bằng cách dùng ví dụ về một vị Thầy và người hầu cận. Nếu vị Thầy
trả công hậu hĩnh và đối xử tốt với người hầu, anh ta sẽ vui vẻ và làm
việc tốt. Điều này cũng làm ích lợi cho vị Thầy. Trái lại, nếu vị Thầy xử
tệ với người hầu, thì tự nhiên là anh ta sẽ làm việc kém, và vị Thầy sẽ
không được hưởng lợi lạc.
Tương tự như thế, ta nên đối xử
tốt đẹp với chính mình. Như vậy, về sau ta sẽ tự thấy mình trong điều kiện
vật lý tốt đẹp và có thể phát triển tâm thức ta một cách tích cực.
Ta không nên bỏ phí chút thời
gian nào. Thay vào đó, giờ đây ta nên thực hành Pháp và đừng trì hoãn điều
đó, bởi ta có thể chết vào một lúc nào đó và mất đi cơ hội này. Từ giây
phút sinh ra, ta tiến gần tới cái chết một cách vững chắc và không thể quả
quyết khi nào ta chết. Cái chết có thể được gây nên bởi tất cả các loại
điều kiện và ta không biết bao giờ nó xảy ra. Một cách chắc chắn, cái chết
tiến tới gần trong từng giây phút. Chính bởi yếu tố này mà khoảnh khắc
hiện tại thì hết sức quan trọng và ta nên sử dụng tốt nhất thời gian của
ta ngay tại đây và ngay bây giờ.
BA LOẠI NIỀM TIN KHÁC NHAU
Để có thể thực hành, ta cần
mười tám điều kiện đem lại thân người quý báu và phải phát triển niềm tin
đúng đắn. Loại niềm tin này – đôi khi được gọi là đức tin hoặc lòng sùng
mộ, tiếng Tây Tạng là “dapa” lại được phân loại thành ba loại niềm tin:
-
niềm tin của sự xác tín,
-
niềm tin của sự ước muốn hay khát khao, và
-
niềm tin của sự mở trống hay đức tin chân thật.
Căn bản của bất kỳ niềm tin
nào là sự xác tín. Loại niềm tin đầu tiên là loại quan trọng nhất, bởi nó
được phát triển qua sự biện luận trong sáng rõ ràng. Ta không nên đi theo
bất kỳ điều gì với đức tin mù quáng, mà ta phải tìm ra được một lý lẽ có
tính thuyết phục. Ví dụ như có những người tin rằng tham dự vào một cuộc
thánh chiến và giết hại người khác sẽ chắc chắn được tái sinh trên thiên
đàng. Nếu tin tưởng mù quáng vào điều này mà không có bất kỳ lý lẽ thuyết
phục nào thì hàng triệu người có thể bị mê muội, lạc lối.
Đức Phật luôn khuyên rằng đừng
tuân theo một vị Thầy chỉ vì sự thu hút của ông ta mà trước tiên phải khảo
sát lại những giáo lý của vị Thầy. Bằng cách xem xét kỹ lưỡng giáo lý, ta
sẽ khám phá chúng có thật đúng không, và nếu đúng như thế thì ta có thể
tuân thủ giáo lý. Ví dụ như nếu ta mua vàng, ta cũng sẽ kiểm tra xem nó có
phải là vàng thật không. Giáo Pháp có đặc điểm là càng phân tích nó thì ta
càng quyết chắc rằng nó đúng. Tuy nhiên, Đức Phật cũng nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc mỗi người phải tự mình khám phá Giáo Pháp.
Khi ta được giáo lý thuyết phục
thì loại niềm tin thứ hai tự động theo sau: ta ước muốn chính mình đạt
được giác ngộ. Ta sẽ nhận ra rằng đó là điều đúng đắn và muốn thành tựu nó.
Loại niềm tin thứ ba đòi hỏi sự
tinh thông trong cái thấy thanh tịnh và sự thấu suốt các phẩm tính của sự
giác ngộ. Nếu tất cả những điều kiện này cùng hội tụ: mười tám điều kiện
cần thiết cho loại tái sanh đúng đắn, các điều kiện tinh thần cũng như ba
loại niềm tin, thì đây là một tình trạng hoàn hảo để sự thực hành Giáo
Pháp thực sự có kết quả. Nhờ đó, ta có thể phát triển động cơ đúng đắn, có
nghĩa là sử dụng Pháp để làm lợi lạc chúng sinh, và không gặp những trở
ngại trên con đường.
-----------------------
1
Prathyekabuddha: “Phật Độc Giác,” bậc tu hành không cầu thỉnh một vị thầy
và nguyện ước đạt
giác ngộ mà không cần thầy.
2 Năm
con đường : con đường tích tập, con đường nối kết, con đường của cái thấy,
con đường tu tập,
con đường vô học - một sự mô tả sự phát triển tâm linh tiệm thứ cho tới
khi giác ngộ.
KHENPO
CHODRAK
(BUDDHISM TODAY – Kamsang
Choling)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/dungbo_cohoi.htm