- GIÁO LÝ DUYÊN KHỞI
(Paticca
samuppada - Dependent Origination)
- (Trích:
Phật Học Cơ Bản, Tập 4, Sài Gòn, 2001)
-ooOoo-
I. TỔNG
QUÁT
-
Theo Tương Ưng Bộ kinh, tập II (tập 16, 17, đại 2, 85a);
- Theo kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), Tiểu Bộ kinh;
- Theo kinh Ðại Bỗn, Trường Bộ kinh II, Ðại tạng kinh Việt Nam (ÐTKVN);
- Theo kinh Ðại Duyên, Trường Bộ kinh II, ÐTKVN;
- Theo kinh Trường Ðại Bỗn Duyên, Trường A Hàm I, ÐTKVN;
- Theo kinh Ðiển Tôn, Trường A Hàm I, ÐTKVN, và nhiều kinh khác thuộc Nam tạng,
Bắc tạng (Pháp Hoa...).
Duyên
khởi là giáo lý mà từ đó Thế Tôn giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni và chư Thế Tôn quá khứ đều giác ngộ Vô
thượng giác từ giáo lý Duyên khởi (vì Duyên khởi là thực tính, thực tướng
của tất cả pháp).
-
Kinh 28, Trung Bộ kinh I (Tượng Tích Dụ Ðại kinh).
- Tương Ưng III, tr.144 (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, ÐTKVN);
- Tiểu Bộ kinh I, tr.48 (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, ÐTKVN);
Ghi
lại lời Thế Tôn dạy rằng: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp.
Ai thấy Pháp là thấy Ta (Phật)".
Từ
đấy, thấy Duyên khởi triệt để quả là một cái thấy của một vị Phật.
Thấy Duyên khởi là thấy sự thật Vô ngã của các pháp (hữu vi và vô
vi), đây là cái thấy độc đáo nhất trong lịch sử tôn giáo và triết học
xưa nay. Chính Vô ngã là nét đặc thù của giáo lý Phật giáo, khác biệt
hẳn với mọi triết thuyết, tín ngưỡng của thế gian: Giữa khi 62 học
thuyết của Ấn Ðộ đương thời và giữa khi nhân loại đang chấp thủ
ngã và ngã sở (Ta, của ta) để chìm sâu vào sinh tử thì Ðức Phật nói
lên tiếng nói Vô ngã (không phải ta, không phải của ta).
Tóm
lược sự kiện giác ngộ vào đêm cuối cùng sau 7 tuần lễ (có tài liệu
ghi 4 tuần lễ) thiền quán dưới cội bồ đề của Thế Tôn...
Kết
luận:
*
Vào cuối canh 1: Thấy nhân quả ở tự thân (thấy rõ nhân quả qua Túc mệnh).
* Vào cuối canh 2: Thấy nhân quả ở chúng sanh (Minh và Thiên nhãn minh).
* Vào cuối canh 3: Thấy rõ nhân quả và sự thật của Tứ đế (đắc Lậu
tận minh).
* Vào cuối canh 5: Chứng ngộ Vô thượng Bồ đề sau khi thiền quán xuôi
ngược chiều Duyên khởi.
Chứng
ngộ Duyên khởi, Nhân quả và Tứ đế cùng lúc cuối canh 3 (đó là toàn bộ
nội dung chứng ngộ Vô thượng Bồ đề của Thế Tôn). Từ ba giáo lý căn
bản đó, Phật giáo ra đời. Và cũng từ đó, sau đó 18 bộ phái Phật
giáo ra đời. Ðấy là Phật giáo!
II. ÐỊNH
NGHĨA DUYÊN KHỞI
Duyên
khởi là gì? Thế Tôn định nghĩa:
-
"Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc
sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có
thọ sinh; do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu,
có sinh sinh; do sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ Khổ
uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi". (Tương Ưng Bộ kinh II, tr.1-2).
-
"Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành
diệt nên thức diệt;..., sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như
vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỳ kheo, như vậy là đoạn
diệt" (Ibid, tr.1-2).
Khi
12 nhân duyên sinh khởi thì đồng nghĩa với khổ uẩn khởi.
Khi 12 nhân duyên đoạn diệt thì đồng nghĩa với khổ uẩn diệt.
Tất cả đó gọi là Duyên khởi.
-
"Pháp Duyên khởi ấy, dù Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, an
trú là giới tánh ấy, pháp quyết định ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn
toàn chứng ngộ, chứng đạt, Như Lai tuyên thuyết, tuyên bố, khai triển,
khai thị, minh hiển, minh thị. Ngài dạy: "Duyên vô minh, này các Tỳ
kheo, có các hành,... Như vậy, này các Tỳ kheo, ở đây là như tánh, bất
hư vọng tánh, bất dị như tánh, y duyên tánh ấy. Này các Tỳ kheo, đây gọi
là Duyên khởi", (Ibid, tr.31).
[Ghi
chú: Do duyên nên các pháp khởi lên, tồn tại nên gọi là pháp trú tánh
ấy (Dhammatthitatà). Các duyên ra lệnh hay an trú các pháp, do vậy được gọi
là Pháp quyết định tánh ấy. Các duyên của sanh, già, bệnh, chết... là
các duyên đặc biệt gọi là y duyên tánh ấy].
*
Thế nào là pháp do duyên mà sinh (Duyên sinh pháp)?
"Gọi
là duyên sinh pháp là các pháp được tác thành, hữu vi, biến hoại, tan
rã, đoạn diệt, vô thường" (Ibid, tr.31).
*
Trong kinh Phật Tự Thuyết (Udàna; Tiểu Bộ kinh), Duyên khởi được tóm tắt
như sau:
-
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
- Do cái này không có mặt, nên cái kia không có mặt.
- Do cái này sinh, nên cái kia sinh.
- Do cái này diệt, nên cái kia diệt.
III. NỘI
DUNG CỦA 12 CHI PHẦN DUYÊN KHỞI
-
Vô minh (Avijjà): "Không hiểu rõ Tứ đế gọi là Vô minh" (Tương
Ưng II, tr.4). Có thể phát biểu cách khác rằng, không hiểu rõ Duyên khởi,
Vô ngã là Vô minh.
-
Hành (Sànikharà): "Gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành" (Ibid,
tr.4).
-
Thức (Vinänäànà): "Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức và ý thức" (Ibid, tr.4).
-
Danh sắc (Nàma-rùpa): "Danh gồm xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư (có nơi
trình bày Danh sắc gồm có Thọ, Tưởng, Hành và Thức uẩn). Sắc là tứ
đại và các pháp do tứ đại sanh" (Ibid, tr.4).
- Lục
nhập (Chabbithàna: sáu xứ): "Gồm có 6 nội xứ (nhãn căn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân và ý căn) và 6 ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc và
pháp)" (Ibid, tr.4).
-
Xúc (Phassa): "Có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân
xúc và ý xúc" (Ibid, tr.4).
-
Thọ (Vedàna): "Có 6 thọ: thọ do nhãn xúc sanh..., và thọ do ý xúc
sanh" (Ibid, tr.4).
-
Ái (Tanhà): "Sắc ái, thanh, hương, vị, xúc và pháp ái; hay dục ái, sắc
ái, và vô sắc ái" (Ibid, tr.4).
-
Thủ (Upàdàna): "Có 4 thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã
luận thủ" (Ibid, tr.3).
- Hữu
(Bhava): "Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu" (Ibid, tr.3).
-
Sinh (Jàti): "Cái gì thuộc loài chúng sinh bị sinh, xuất sinh, giáng
sinh, đản sinh, xuất hiện các uẩn, thành tựu các xứ thì gọi là
sinh". (Ibid, tr.3).
- Lão tử (Jarà-marana): "Cái gì thuộc các
loài chúng sinh bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuỗi
thọ lớn, các căn chín muồi thì gọi là già. Cái gì thuộc các loài
chúng sinh bị từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụn, thân thể
vứt bỏ, tử vong thì gọi là chết" (Ibid, tr.3).
IV. CÁC HỆ
LUẬN TỪ DUYÊN KHỞI
1.
Hệ luận 1: Các pháp do duyên mà sinh nên thật sự chúng là không có tự
ngã.
Nói khác đi, cái gọi là tự ngã thì rồng không. Ðây là ý nghĩa "Nhất
thiết pháp vô ngã".
2.
Hệ luận 2: Các pháp hữu vi do duyên mà sinh nên biến dịch không ngừng.
Ðây là ý nghĩa: Các pháp hữu vi là Vô thường (các hành = vô thường).
3.
Hệ luận 3: Các pháp hữu vi do 12 nhân duyên mà sinh (trong đó có ái, thủ)
nên khổ đau (do vô thường mà khổ đau).
4.
Hệ luận 4: Cái gì vô thường, cái ấy là vô ngã. Cái gì vô thường,
cái ấy là khổ đau. Cái gì khổ đau, cái ấy là vô ngã.
5.
Hệ luận 5: Do vì vô ngã là sự thật của các pháp, mà sự thật là
Niết bàn, nên vô ngã là Niết bàn và là pháp tánh, Phật tánh (hữu vi và
vô vi đều vô ngã).
6.
Hệ luận 6: Giác ngộ sự thật toàn triệt là chứng đắc Niết bàn,
nên chứng đắc Niết bàn là chứng đắc thực tại Vô ngã hay thể nhập
Pháp tánh.
7.
Hệ luận 7: Do vì sự thực rốt ráo là Vô ngã nên chứng đắc Niết bàn
hay chứng đắc thực tại vô ngã là không chứng đắc (do chủ thể và đối
tượng của chứng đắc đều là vô ngã). Có thể nói rằng đắc cái vô
đắc là thật đắc, là thực sự thể nhập Pháp tánh.
8.
Hệ luận 8: "Vô đắc" hay đắc "Vô đắc" thì ở
ngoài phạm trù tương hệ giữa chủ thể và đối tượng; do vậy ở ngoài
trí của thế gian: Ðây gọi là trí xuất thế gian (xuất thế gian trí).
9.
Hệ luận 9: Nếu Duyên khởi hay Vô ngã không phải là sự thật, thì sự
kiện "Vô đắc" hay "Ðắc vô đắc" không có mặt, do vậy
"Giải thoát" và "Tri kiến giải thoát" không được thành
lập. Nhưng vì sự thật có giải thoát nên Duyên khởi hay Vô ngã quyết định
là sự thật.
10.
Hệ luận 10: Vì sự thật là Vô ngã hay Duyên khởi nên nó không thể
được gọi là thường, đoạn, khứ, lai, nhất, dị, sanh là diệt (Ðây
là ý nghĩa của Bát Bất Trung đạo).
11.
Hệ luận 11: Từ sự thật của 12 chi phần Duyên khởi, vận hành của
một chi là sự vận hành của 11 chi còn lại (hay là vận hành của toàn thể
12 chi). Các pháp hiện hữu, do vậy, tất cả đều là vận hành của 12 chi
Duyên khởi. Ðiều này có nghĩa là một là tất cả hay tất cả là một,
hoặc tất cả là tất cả; và đây chính là kia, kia chính là đây; quá khứ,
hiện tại, vị lai là một và do vậy có các loại thần thông tự tại.
12.
Hệ luận 12: Vì tất cả các tông phái Phật giáo đều chủ trương Duyên
khởi, Vô ngã là sự thật duy nhất và tối hậu, nên Câu Xá tông, Thành
Thật tông, Trung Quán luận (hay Tam Luận tông) Duy Thức tông và Hoa Nghiêm
tông đều cơ bản là "Nhất thừa" hay "Ðại thừa". (Nếu
cho rằng Câu Xá và Thành Thật tông là Tiểu thừa; còn Duy Thức tông là
bán Ðại thừa, v.v... thì là lầm lẫn!).
13.
Hệ luận 13: Có thể nói rằng Phật giáo là Duy Duyên khởi hay Duy Vô
ngã (tương tự Vô duy: nonism), Duy thức là Duy Duyên khởi (hay Duy hành, Duy
danh sắc, Duy xúc, v.v...); Bát Nhã, Hoa Nghiêm, ..., là Duy Duyên khởi, Vô
ngã.
14.
Hệ luận 14: Vì hết thảy các pháp là Vô ngã, nên khi diễn đạt sự
chứng ngộ toàn triệt thực tại của Thế Tôn, các luận sư có thể phát
biểu không có Niết bàn (không thể thành lập khái niệm về Niết bàn: nhất
thiết vô Niết bàn). Do không có khái niệm Niết bàn nên không có khái niệm
về "Phật Niết bàn", không có "Niết bàn Phật" [Bởi vì
chủ thể chứng đắc Niết bàn là Vô ngã và đối tượng chứng đắc ấy
(là Niết bàn) là Vô ngã]. Ðây là điểm giáo lý truyền thống.
15.
Hệ luận 15: Vì Duyên khởi là sự thật tối hậu của thực tại (Vô
ngã cũng thế), nên Duyên khởi là nền tảng của tất cả giáo lý, bộ
phái, tôn giáo, triết thuyết nào nói về sự thật. Ðây là điểm thống
nhất giáo lý các bộ phái. Sự khác biệt giữa các bộ phái chỉ là sự
khác biệt về thể thức, phương thức trình bày, và khác biệt về pháp
môn hành trì đi đến giải thoát cho tự thân và cho số đông quần chúng,
mà không phải là sự khác biệt về bản chất.
16.
Hệ luận 16: (về bảo vệ môi sinh): Vì không gian là Vô ngã (kia là đây,
đây là kia), nên môi sinh là các cá nhân, các cá nhân là môi sinh. Không thể
tách ly cá nhân và môi sinh, tập thể xã hội.
17.
Hệ luận 17: (về xây dựng nền văn hóa mới): Nền văn hóa thế gian
là nền văn hóa do sự vận hành của Hữu ngã (hay của Vô minh) chỉ dẫn
đến khổ đau và những tác nhân gây ra khổ đau như bạo động, chiến
tranh. Một nền văn hóa dẫn đến hòa bình, an lạc, hạnh phúc, do vậy phải
là nền văn hóa Vô ngã.
18.
Hệ luận 18: Một hệ thống giáo dục thường xây dựng các mẫu người
giáo dục, các lý thuyết về nhân tính như là các lý thuyết về sự hiện
diện một tự ngã (Self-ego), do vậy bất ỗn, chỉ dẫn đến các lúng
túng. Chính Duyên khởi, Vô ngã hay Ngũ uẩn là mẫu giáo dục hay mẫu nhân
tính dẫn đến an lạc, giải thoát cần được xây dựng.
19.
Hệ luận 19: (phủ nhận nguyên nhân đầu tiên): Vì sự thật là Vô
ngã nên không có nguyên nhân đầu tiên (bởi nguyên nhân đầu tiên được
dựng lên bởi ý niệm hữu ngã).
Vì sự thật là sự thật chính nó nên nó không thể do bị sinh.
20.
Hệ luận 20: [Phủ nhận các câu hỏi về nguồn gốc hay bản chất của
sự vật - cái bản chất được hiểu như là noumène (nomeno)].
Phủ nhận Siêu hình học phương Tây.
21.
Hệ luận 21: (≈ Kinh Kim Cương): Phủ nhận các chủ trương cho rằng có
cái ngã tuyệt đối như là sự thật tối hậu (bởi sự thật tối hậu
là Duyên sinh, Vô ngã).
22.
Hệ luận 22: (≈ Hoa Nghiêm, Pháp Hoa): Vì thực tại là Duyên khởi,
trùng trùng Duyên khởi, nên giáo lý Duyên khởi là Hiện tượng luận
(Phenomenology) của Phật giáo (là toàn thể tính Duyên sinh; thoát ly nhị kiến,
nhị biên hay nhị nguyên).
23.
Hệ luận 23: (về Tứ đức Niết bàn mà một số học giả Phật giáo
đề cập: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh): Vì thực tại là Trung đạo hay Vô
ngã, nên Thường là sự thật thoát ngoài ý nghĩa của thường và đoạn;
Lạc là ý nghĩa thoát ngoài lạc và khổ của Thọ uẩn; Ngã là thật ngã
Vô ngã; Tịnh có nghĩa là dập tắt hết Khổ, hết Lậu hoặc, hết Ái, Thủ.
24.
Hệ luận 24: (ba nguyên lý căn bản của tư duy của Aristotle): Vì thực
tại là Vô ngã, nên tư duy nhị nguyên đầy ngã tính thì khác với thực tại,
nó là những gì của vọng niệm sinh diệt.
25.
Hệ luận 25: Do nhất thiết pháp là Duyên khởi nên hữu tình, vô tình
đều là Duyên khởi, do thế mà có lời nguyện: "Tình dữ vô tình (≈
tam hữu), giai cọng thành Phật đạo).
V. CÁC CÂU
HỎI VỀ DUYÊN KHỞI
Câu
hỏi 1:
Khi
Thế Tôn giảng về Duyên khởi, Tôn giả Moliya Phagguna hỏi: "Bạch Thế
Tôn, ai cảm xúc? Ai thọ? Ai khát ái? Ai chấp thủ? (Tương Ưng Bộ kinh II,
tr. 15-16).
Ðức
Phật dạy: "Như Lai chỉ dạy xúc, thọ, ái, thủ..., chớ không dạy người
nào xúc, thọ, ái, thủ..., nên câu hỏi của Tôn giả không phù hợp với
định lý Duyên khởi. Câu hỏi phù hợp là: "Do duyên gì, xúc sinh? Thọ
sinh? v.v..." (Tương Ưng II, tr.16).
Câu
hỏi 2:
Ngoại
đạo lõa thể Kassapa (Tương Ưng II, tr.22) và ngoại đạo du sĩ Timbakura
(Tương Ưng II, tr.26) đặt câu hỏi với Thế Tôn rằng: "Có phải khổ
do mình làm ra hay do người khác làm ra? Hay do mình và người khác làm ra?
Hoặc khổ do tự nhiên sinh?".
Ðức
Phật dạy nghĩa Trung đạo rằng: "Khổ do duyên sinh" (khổ do xúc
sinh).
Tương
Ưng II (tr.20) ghi, một hôm Ðức Phật cắt nghĩa với Tôn giả Kaccayana rằng:
Ai không chấp thủ, vị ấy không nghĩ đây là tự ngã của tôi, thì khi khổ
sinh thì xem là sinh, khi khổ diệt thì xem là khổ diệt, mà không xem có
tôi khổ, hay tôi hết khổ.
Câu
hỏi 3:
Nếu
là Vô ngã thì ai tu? Ai chứng đắc? Ai luân hồi?
Các
câu hỏi này tương tự như câu hỏi của Moliya Phagguna bạch hỏi Thế
Tôn. Câu trả lời đã có: Câu hỏi không phù hợp với sự thật Duyên khởi!
(Vô minh chính là nội dung thấy có cái "Ai", cái ngã hiện hữu. Giải
thoát là giải thoát khỏi tham ái, chấp thủ ngã ấy).
Câu
hỏi 4:
Kimura
Taiken, trong "Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận" (bản dịch: Thích
Quảng Ðộ, Tu thư Vạn Hạnh, 1969) cho rằng Duyên khởi cũng không ngoài
tâm mà có, gốc của nó là cái Tâm. Ðây cũng là một ngộ nhận rất lớn
và rất tế nhị! Thực ra Tâm (hay Thọ, Tưởng, Hành và Thức) là do
"Duyên khởi" sinh. Tu tâm là tu để đoạn trừ tham ái tâm, chấp
thủ tâm để thể nhập được thực tại Vô ngã. Thế đấy!
VI. VẬN HÀNH
CỦA DUYÊN KHỞI
Có
nhiều sự trình bày về sự vận hành của Duyên khởi bằng cách chia 12
chi phần nhân duyên ra làm 3 nhóm của Quá khứ (Vô minh và Hành), Hiện tại
(8 chi kế tiếp) và Tương lai (hai chi sau cùng) như Câu Xá và A Tỳ Ðàm và
nhiều nơi khác. Ðây chỉ là một ngộ nhận! Hãy đi vào sự vận hành của
12 nhân duyên thì ý nghĩa trên sẽ hiển lộ.
Từ định nghĩa 12 chi phần nhân duyên ở phần
trước (III), ta thấy rõ Vô minh là suối nguồn của sinh tử và khổ đau.
Chính nó cũng không có như một thực thể, mà là do duyên mà sinh. Nó
không phải là nguyên nhân đầu tiên.
Không
biết rằng Vô minh là do duyên (hay 11 chi phần còn lại) mà sinh là Vô minh.
Ðấy là hiện tượng Vô minh chồng chất. Do đó, con người chấp thủ rằng:
Có tự ngã. Do tà kiến và tà tưởng này, con người đi tìm kiếm sự thật
hay nguyên nhân đầu tiên của thế giới, và khởi lên lòng tham ái, sân hận,
si mê vốn là động cơ của các hành (của hành động của thân, lời và
ý).
Khi
tư duy Hữu ngã vận hành, thì thức có mặt và vận hành. Sự vận hành của
thức đòi hỏi sự có mặt của chủ thể và đối tượng nhận thức (Lục
nhập, Danh sắc) hay thế giới bên ngoài (Tam hữu); sự gặp gỡ của chủ
thể và đối tượng nhận thức là Xúc; bấy giờ Cảm thọ tức thì có mặt.
Như thế các chi phần Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ,
Hữu cùng có mặt trong mọi quá trình vận hành của tâm lý. Cảm thọ bao
gồm phản ứng tâm lý (Tham và Si hay Sân và Si); Ái ấy bao hàm chấp thủ.
Chúng là vô cùng và biểu hiện dưới vô vàn hình thức bất tận. Ðiều
này hẳn là một lần nữa đòi hỏi sự hiện diện của Tam hữu (Tibhava).
Nói
tóm, một khi tư duy Hữu ngã vận hành thì toàn thể 12 chi phần Duyên khởi
vận hành. Các chi phần Duyên khởi và các pháp bị tác thành đều vận hành
theo Vô ngã. Vô thường và Khổ đau. Con người là một pháp hữu vi
(Sànkharà) là sự vận hành của 12 chi phần nhân duyên dẫn đến Khổ đau
nếu tư duy bị chế ngự bởi chấp thủ tự ngã, hay nếu bị tư duy Hữu
ngã chế ngự. Nếu giác tỉnh Vô ngã và tư duy vận hành trong thế giới
Vô ngã thì sự vận hành tâm lý sẽ dẫn đến sự đoạn diệt Khổ đau.
Bấy giờ, thế giới (hay Tam giới) vẫn còn nguyên ở đó, nhưng lại hiện
diện trong vận hành Vô ngã của tâm lý. Bấy giờ giấc mơ dài của sự
an lạc và hạnh phúc trở thành hiện thực; giấc mơ đẹp của văn hóa,
giáo dục trở thành hiện thực.
Chỉ
cần sự có mặt của hai chi phần Chánh kiến và Chánh tư duy của Bát
Thánh đạo là đủ để mở ra một hướng vận hành của văn hóa và giáo
dục, mở ra một vận hội mới cho trái đất đi ra các khủng hoảng của
xã hội và môi sinh.
Tại
đây, giáo lý Duyên khởi không phải xuất hiện như một giáo lý Phật
giáo, mà là một triết lý, lý thuyết của một nền giáo dục hiện đại
của thế kỷ XXI vậy.
VII. DUYÊN
KHỞI VÀ CÁC GIÁO LÝ KHÁC
Vì
Duyên khởi là sự thật mở ra đạo Phật, nên Duyên khởi là suối nguồn
của các giáo lý Phật giáo, từ đó có sự ra đời của Luật tạng, Kinh
tạng và Luận tạng. Nay thử đi vào từng giáo lý cụ thể.
1. Duyên khởi và Tứ
Thánh đế:
Từ
định nghĩa Duyên khởi (II), Khổ đế hay Khổ uẩn là kết quả của sự
vận hành của 12 chi phần nhân duyên khởi đầu là Vô minh. Diệt đế là
khổ diệt, kết quả của sự vận hành của Duyên khởi khởi hành từ sự
giác tỉnh Vô ngã (hay Vô minh diệt); do Vô minh diệt, mà hành diệt..., khổ
diệt. Tập đế là Ái (dục ái, hữu ái và vô hữu ái), hay 12 chi phần
Duyên khởi, bởi vì sự vận hành của Ái là sự vận hành của 12 chi phần
Duyên khởi ấy. Ðạo đế là 37 phẩm trợ đạo, hay Bát Thánh đạo, khởi
đầu là sự vận hành của Chánh kiến và Chánh tư duy (hay là sự vận
hành của Vô minh diệt); do Vô minh diệt mà dẫn đến Diệt đế (hay sầu,
bi, khổ, ưu, não diệt).
Duyên
khởi tập khởi thì Khổ uẩn tập khởi: Ðây là ý nghĩa và nội dung của
Khổ, Tập đế. Duyên khởi vận hành theo chiều đoạn diệt thì khổ uẩn
diệt: Ðây là ý nghĩa và nội dung của Ðạo, Diệt đế.
Khi
Ðức Phật, ở dưới cội bồ đề vào đêm cuối cùng thành đạo, thấy
rõ lý Duyên khởi thì cùng lúc thấy rõ Tứ đế. Nói rằng bài pháp Sơ
Chuyển Pháp Luân là Tứ đế cũng hệt như nói rằng bài pháp đầu tiên
là Duyên khởi. Vận chuyển bánh xe pháp là ý nghĩa vận chuyển Duyên khởi
và Tứ đế vậy.
2. Duyên khởi và Ngũ uẩn:
Ngũ
uẩn là Sắc uẩn, Thọ, Tưởng, Hành và Thức uẩn. Vận hành của năm uẩn
đúng là vận hành của Danh sắc; vận hành của 4 uẩn còn lại là vận
hành của Danh trong Danh sắc. Vận hành của Danh sắc đúng là vận hành của
Duyên khởi.
Vận
hành của Thọ uẩn là vận hành của chi phần Thọ (chi thứ 7) của 12 chi
nhân duyên, và là vận hành Duyên khởi.
Vận
hành của Hành uẩn là vận hành của Hành (chi thứ 2) của 12 chi nhân
duyên, và là vận hành của Duyên khởi.
Vận
hành của Thức uẩn là vận hành của Thức (chi thứ 3) trong 12 chi nhân
duyên, và là vận hành của Duyên khởi.
Năm
uẩn không thể hiện hữu tách rời nhau nên vận hành của Ngũ thủ uẩn
đích thị là vận hành của Duyên khởi.
Như
thế giáo lý Duyên khởi, Tứ đế và Ngũ thủ uẩn thực chất chỉ là một.
3. Duyên khởi và Nhân quả:
Duyên
khởi được trình bày theo vận hành nhân quả: Vô minh là nhân, hành là quả;
hành là nhân, thức là quả v.v... sinh là nhân, lão, tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não là quả.
Khi
nói vận hành của Vô minh chính là vận hành của Duyên khởi, điều này
có nghĩa là Vô minh có mặt trong 11 chi phần còn lại; và 11 chi phần còn lại
có mặt trong Vô minh. Nói khác đi, Vô minh chính là Hành, là Thức, ..., là
sầu, bi, khổ, ưu, não. Nếu theo quy luật nhân quả phải đồng loại thì
quả thực Vô minh và đau khổ quả là đồng loại khổ. Tương tự, đối
với các chi còn lại.
Ðức
Phật, ở dưới cội bồ đề vào thời điểm giác ngộ, đã thấy rõ con
đường nhân quả của tự thân và nhân quả của mọi loài chúng sinh ngay
sau khi đắc Tam minh vào cuối canh 3, lúc mà Ngài giác ngộ hoàn toàn định
lý Duyên khởi. Ðiều này nói lên sự thật Duyên khởi bao trùm Tứ đế và
Nhân quả. Nói khác đi, bốn giáo lý Duyên khởi, Nhân quả, Ngũ uẩn và Tứ
đế thực chất chỉ là một.
Rốt
cùng mà nói, toàn bộ giáo lý Phật giáo chỉ là sự triển khai của Duyên
khởi, chỉ là sự triển khai của sự tập khởi và đoạn diệt của toàn
bộ Khổ uẩn, như chính Ðức Thế Tôn đã nhiều lần xác nhận: "Ta
chỉ nói khổ và con đường diệt khổ".
4. Duyên khởi và 3 (hay 4)
Pháp ấn:
Như
đã được đề cập ở phần hệ luận Duyên khởi, 3 pháp ấn (hay 4 pháp
ấn) chỉ là hệ luận từ Duyên khởi. Quả thực, Duyên khởi quyết định
tánh của tất cả hiện hữu nên ấn định các tính chất đặc biệt của
hữu vi là Vô ngã, Vô thường và Khổ đau. Nhìn pháp hữu vi từ Duyên khởi
(Nikàya rất hiếm bàn đến pháp vô vi, nếu đề cập thì chỉ đề cập
dưới hình thức gián tiếp và phủ định) thì thấy rõ 3 tính chất ấy.
Thực ra 3 tính chất chỉ là một: Vô ngã = Khổ đau; Vô thường = Khổ
đau, hay hữu vi là Khổ đau, tam giới là Khổ đau, hoặc là cuộc đời là
Khổ đau.
[Ghi
chú: Vô ngã (ở Nikàya) ≈ Vô ngã và Không ở giáo lý Phát triển Ðại thừa].
5. Duyên khởi và Duy thức:
a/
Trong "Bát Thức Quy Củ" do Pháp sư Huyền Tráng sáng tác, Pháp sư cắt
nghĩa từ Duy thức như sau: "Duy thức nghĩa là chỉ có Thức, không có
sự vật nào ngoài thức mà có được. Do tất cả sự vật đều phải nhờ
cái duyên của Thức mới thành sự vật nên gọi là Duy thức Duyên khởi;
do tất cả sự vật đều phải nhờ cái duyên của Thức mới có tướng,
có danh nên gọi là Duy thức biến hiện. Lại bản tính của Thức là pháp
giới tính, pháp giới tính Duyên khởi ra tất cả sự vật thì cùng là Thức
tính Duyên khởi ra tất cả sự vật.
Xét
như vậy thì biết do lấy một tâm niệm làm trung tâm chi phối các vật
trong pháp giới nên gọi là Duy thức. Ngược lại, nếu lấy một hạt bụi
hay một quả núi làm trung tâm chi phối các sự vật trong pháp giới tính
thì cũng có thể gọi là Duy Hạt Bụi hay Duy Quả Núi". (Bản dịch của
cư sĩ Lê Ðình Thám, Tu thư Phật học Vạn Hạnh sưu tập, 1982, tr.2)
Thức
ở đây, dù hiểu chức năng có phần sai khác với 6 thức được trình
bày ở Nikàya, cũng chỉ là chi phần thức (chi thứ 3) của 12 chi phần
nhân duyên. Nó cũng là Hữu vi, Vô ngã, Vô thường và dẫn đến Khổ đau
(trừ Bạch tịnh thức). Nói khác đi, Duy thức nếu được nhìn dưới ánh
sáng Duyên khởi thì sẽ sáng tỏ và dễ nhận hơn nhiều.
b/
Bài tụng 17 của "Tam thập tụng" viết:
"Thị
chư Thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt,
Do thử, bỉ giai vô
Cố nhất thế Duy thức"
(Các
thức ấy chuyển biến
Thành chủ thể và đối tượng phân biệt
Vì chủ thể và đối tượng đều không (vô ngã)
Nên nói hết thảy là Duy thức).
Nói
Duy thức là nói nghĩa Duyên sinh, Vô ngã ấy.
c/
Bài tụng 28 viết:
"Nhược
thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trú Duy thức
Ly nhị thủ tướng cố".
[Nếu
không có cái để làm duyên
Bấy giờ trú vào Duy thức
Trí đều không sở đắc
Do vì rời chấp thủ năng, sở
(Chủ thể và đối tượng)].
Ở
đây, thực tánh Duy thức là Vô ngã tánh hay Duyên sinh tánh vậy.
6. Duyên khởi và Pháp
Hoa:
a/
Mở đầu kinh Pháp Hoa ghi Thế Tôn nhập "Vô lượng nghĩa xứ định"
rồi xuất "Vô lượng nghĩa xứ định" mới tuyên thuyết Pháp Hoa.
Hình ảnh biểu tượng ấy chỉ vô lượng nghĩa là thoát ly ý nghĩa. Thoát
ly ý nghĩa là thoát ly niệm, là rời tất cả tướng. Nói khác đi, thật
tướng trong định ấy là Vô ngã tướng. Tuyên thuyết Pháp Hoa là chỉ rõ
con đường thể nhập Phật tri kiến, cái tri kiến thể nhập Vô ngã tướng.
Ðây là sự thật Duyên khởi.
b/
Phẩm Phương tiện (phẩm hai) chép:
"Chư
Phật lưỡng túc tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng Duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa".
[Chư
Phật đầy đủ Trí và Hạnh
Biết pháp luôn vẫn vô tánh
Quả Phật do từ Duyên mà khởi
(hay từ Duyên khởi)
Cho nên bảo là Nhất thừa].
Qua
đó, giác ngộ quả vị Phật là giác ngộ Duyên khởi, Vô ngã tánh ấy, quả
Phật cũng từ duyên sinh ấy mà khởi (nếu Vô minh tận diệt, ái diệt, thủ
diệt, thức tận diệt thì viên thành Phật quả).
c/
Trong 3 điều kiện để thành một pháp sư tuyên thuyết Pháp Hoa (Nhập Như
Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai tòa), thì ngồi tòa Như Lai là ngồi
vào chỗ "Nhất thiết pháp không": Không ở đây là Vô ngã tính
hay Vô tự tánh (không có ngã tính). Thế là, Pháp Hoa cũng là kinh phát triển
đang phát triển giáo lý Duyên khởi.
7. Duyên khởi và Kim Cương
(Bát Nhã):
a/
Tâm kinh Bát Nhã ghi:
"Thấy
năm uẩn là không thì liền thoát ly khổ ách"
(Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách).
Ngũ
uẩn đây là con người và pháp giới. Thấy con người và pháp giới là
Vô ngã hay không tự tính thì liền rời xa tham ái, chấp thủ và đoạn tận
khổ đau. Ðấy là thấy rõ thật nghĩa của Duyên khởi thật nghĩa của các
pháp hữu vi do duyên mà sinh. nội dung tinh yếu của Bát nhã Tâm kinh nói
trên cũng là điểm tinh yếu rút rà từ Duyên khởi.
b/
Kinh Kim Cương thì tập chú vào công phu đoạn trừ 8 ngã tưởng: Ngã tưởng,
Nhân tưởng, Chúng sanh tưởng, Thọ giả tưởng, Pháp tưởng, Phi pháp tưởng,
Tưởng và Phi tưởng. Ðoạn trừ 8 ngã tưởng là đoạn trừ chấp thủ các
ngã tưởng. Ðấy là sự vận hành khổ diệt của Duyên khởi.
Chặng
giữa kinh, vị Bồ tát được gọi là Ðại Bồ tát, theo Kim Cương, là vị
thể nhập được Vô ngã pháp (thực ra thì chỉ cần thông đạt mà thôi).
Ðây là vị nhuần nhuyễn pháp hữu vi theo Duyên khởi vậy.
Cuối
bản kinh Kim Cương dạy:
"Nhất
thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán".
(Hãy
khởi lên cái nhìn các pháp do duyên sinh là như mộng, không thật, như bọt
nước, như sương, như ánh chớp).
Ðấy
là cách để thông đạt sự, lý kinh Kim Cương. Thấy như thế, an trú vào
cái thấy như thế thì tâm hành giả sẽ rời khỏi tham ái, chấp thủ mà
đắc thực tại Vô ngã.
Kim
Cương hay Bát Nhã cũng là nội dung triển khai, phát triển giáo lý Duyên khởi
là cơ bản.
8. Duyên khởi và Trung luận:
- Trung quán luận (hay Tam luận tông).
Có
3 bản văn chính của Trung quán luận là:
a/
Trung quán luận (Mandhyamika) của Long Thọ, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra
Hoa ngữ. Trung quán luận bài bác các tà kiến của Bà La Môn, Tiểu thừa,
và một số sai lầm của Ðại thừa.
b/
Thập nhị môn luận (Dvàdasa-dvàra) của Long Thọ, bản Phạn đã thất lạc,
chỉ còn dịch bản Hoa văn, Thập nhị môn luận là bàn về Duyên khởi và
hiệu chính các sai lầm của các nhà Ðại thừa.
c/
Bách luận (Sata Sastra) của Ðề Bà (Aryadeva: Thánh Thiên), đệ tử của
Long Thọ. Bản luận này nhằm bác các tà kiến của Bà La Môn giáo.
Bản
dịch gọn bằng Hoa ngữ về Bát bất
Trung đạo là như sau:
Ngài
La Thập dịch:
"Bất
sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất nhị
Bất lai diệc bất xuất
Năng thuyết nhị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận
Ngã khể thủ lễ Phật
Chư thuyết Trung đệ nhất".
Tạm
dịch:
(Không
sanh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không đồng nhất cũng không khác biệt
Không đến cũng không đi
Ngài dạy đó là nhân duyên
Khéo dập tắt các hý luận
Con nay đảnh lễ Phật
Bậc đệ nhất trong các bậc đạo sư).
Bản
tiếng Anh như sau:
The
perfect Buddha
The foremost of all teachers.
He has proclaimed
The principle of (Universal) relativity
is like Blissfull (Nirvàna)
Quiescence of plurality
There is nothing disappears, nor anything appears.
Nothing has an end, nor is there anything eternal.
Nothing is identical (with itself)
Nor is there anything differentiated
Nothing moves
Neither hither nor thither.
Tạm
dịch:
(Ðấng
toàn giác
Bậc đạo sư vô thượng
Ngài đã tuyên thuyết
Nguyên lý tương đối của vũ trụ (≈ Duyên khởi)
Như Niết bàn,
Tịch lặng mất tính sai biệt.
Không có gì biến mất
Cũng chẳng có gì xuất hiện.
Không có gì đoạn
Cũng chẳng có gì thường.
Không có gì đồng nhất với chính nó
Cũng chẳng có gì dị biệt.
Không có gì di chuyển
Ðến chỗ này hay chỗ kia).
Hán
ngữ tóm tắt 8 phủ định trên thành:
Không
sanh, không diệt (No production, no extinction).
Không đoạn, không thường (No annihilation, no permanence).
Không nhất, không dị (No unity, no diversity)
Không lai, không khứ (No coming, no departure).
Thực
thì, có một bài kệ khác về Trung đạo do ngài Long Thọ sáng tác như sau:
(theo Takakusu)
Anh
văn:
"What
is produced by causes
That, I say, is identical with void
It is also identical with merename
It is again the purport of the Middle Path".
Hán
văn:
"Nhân
duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh thị giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa".
Việt
văn:
(Cái
gì do nhân duyên mà sanh
Tôi nói cái ấy đồng nhất với Không (hay không tự tính)
Cái ấy cũng đồng với cái tên ròng (chỉ là tên gọi)
Ðó là nghĩa trung đạo).
Như
thế, tinh yếu của Trung luận hay Trung quán luận, hoặc Trung đạo thực chất
là Duyên khởi: Cái gì do duyên mà sanh thì cái ấy rồng không tự ngã (vô
tự tính); nó chỉ là cái tên gọi mà khởi chớ không có hiện hữu như một
thực thể (tự ngã); cái ấy nghĩa là Trung đạo (Duyên khởi ≈ Trung đạo).
Thế
nên Trung luận mới thành lập Bát bất: Bát bất là phủ nhận 8 phạm trù
Hữu ngã biểu trưng. Phủ nhận 8 phạm trù ngã tính ấy là phủ nhận tất
cả ngã tính: tất cả ngã tính (ngã tướng) ấy chỉ ròng là tên gọi mà
không thực, bởi sự thật là Trung đạo (hay duyên sinh tính).
Ðây
chỉ là nghĩa triển khai của Duyên khởi: Chỉ có nhân duyên sinh diệt mà
không có các ngã thể sinh diệt: đó là nghĩa Trung đạo, hệt như ý Ðức
Phật dạy như đã được trình bày ở các phần các câu hỏi về Duyên khởi.
Chỉ
có Duyên khởi của Phật giáo mới bài bác các tà thuyết về ngã của Bà
La Môn (hay 62 học thuyết ở Ấn).
9. Duyên khởi và Lăng Già:
Lăng
Già thì đề cập rất nhiều vấn đề tâm thức và thế giới. Sau bài kệ
tán Lăng Già đầu kinh đã gợi ý đến các điểm giáo lý Lăng Già nhắm
đến:
Bài
1:
Thế
gian ly sanh diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm
(Thế
gian rời sanh diệt
Cũng như hoa đốm giữa hư không
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi).
Bài
2:
Nhất
thiết pháp như huyễn
Viễn ly ư tâm thức
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
(Các
pháp như ảo huyễn
Xa rời với tâm thức
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi).
Bài
3:
Viễn
ly ư đoạn, thường
Thế gian hằng như mộng
Trí bất đắc hữu, vô
Nhi hưng đại bi tâm.
(Rời
khỏi đoạn và thường
Thế gian thường như mộng
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi).
Bài
4:
Tri
nhân, pháp Vô ngã
Phiền não cập nhĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm.
(Biết
người, Pháp đều Vô ngã
Phiền não cùng sở tri chướng
Vẫn thường bặt các tướng-ngã tướng
Mà hưng khởi tâm đại bi).
Bài
5:
Nhất
thiết vô Niết bàn
Vô hữu Niết bàn Phật
Viễn ly giác, sở giác
Nhược hữu, nhược vô hữu
Thị nhị tất câu ly.
(Thảy
thảy không có Niết bàn
Không có Phật Niết bàn
Xa rời chủ thể biết, đối tượng biết (chứng)
Dù hữu, dù vô hữu
Ðều xa rời hai thứ ấy).
Bài
6:
Mâu
ni tịch tịnh quán
Thị tắc viễn ly sanh
Thị danh vi bất thủ
Kim thế, hậu thế tịnh.
(Quán
tịch tịnh tất cả tướng
Làm sinh khởi tâm viễn ly
Quán ấy gọi là không chấp thủ
Ðời này, đời sau tịnh).
Các
bài kệ nói trên tóm tắt các nét về sự thật của các pháp, và nói đến
hướng vào giải thoát (sự thật là rời khỏi phiền não để vào giải
thoát mà không nỗ lực để nói lên sự thật là gì).
Các
nét giáo lý chính là: Các pháp tánh là Duyên khởi tánh nên chúng rời khỏi
cá cặp nhị nguyên của đoạn, thường, hữu, vô, sinh, diệt; chủ thể
giác và đối tượng giác, rời khỏi tất cả ngã tướng. Do giác tỉnh như
vậy mà tâm ly tham, ly thủ đi vào giải thoát, đi vào thực tại Duyên
sinh.
*
Trong chương "Kiến lập Niết bàn" của Lăng Già, vì thế, dạy:
"Ta nói vọng tưởng thức diệt là Niết bàn". Do Vô minh, Hành (chấp
thủ, tham ái) mà Thức sinh, theo Duyên khởi. Khi thức diệt - vọng tưởng
thức - thì Hành diệt, Vô minh diệt. Hành diệt, Vô minh diệt là nghĩa Niết
bàn vậy.
Cách
trình bày thực tướng và ngõ vào giải thoát của Lăng Già, dù nỗi bật
sắc thái rất triết học, cũng chỉ là hình thức triển khai giáo lý
Duyên khởi.
10. Duyên khởi và Hoa
Nghiêm:
-
Giáo lý trùng trùng Duyên khởi của Hoa Nghiêm và Thập Huyền Môn luận của
kinh này đều chỉ là những hệ luận, triển khai của giáo lý Duyên khởi
từ kinh tạng Nikàya và Agama.
- Về
"Ðại Lâu Các Trang Nghiêm Tạng" (Vairochara - Vyùha Alankara - Garbha)
mà Ðức Phật Di Lặc hóa hiện, Thiện Tài đồng tử phát biểu:
"Ðại
lâu các này là trú xứ của những ai đã hiểu ý nghĩa của Không, Vô tướng
và Vô nguyện (Vô dục), của những ai đã hiểu rằng hết thảy các pháp
là vô phân biệt, rằng pháp giới vốn là vô sai biệt, rằng chúng sanh giới
vốn là bất khả đắc, rằng hết thảy các pháp vốn là vô sinh. Ðây là
trú xứ, nơi thường thích ở đối với những ai biết rằng hết thảy các
pháp đều không tự tánh, những ai không phân biệt pháp theo bất cứ loại
tướng nào... (Suzuki, Thiền luận, cuốn hạ, Tuệ Sỹ dịch, tr.173).
Ðấy
là những gì đang nói về Duyên khởi, đang nói về các pháp được nhìn từ
Duyên khởi.
VIII. DUYÊN KHỞI
VÀ CÁC LÝ THUYẾT VỀ NHÂN TÍNH
(Xem luận án Ph.D., cùng tác giả)
Các
lý thuyết gia về "Nhân tính" (Personality) nỗ lực để phát hiện
con người như thật là gì để áp dụng vào kỹ thuật và nội dung giảng
dạy của nhà trường thế kỷ XX và XXI. Tất cả lý thuyết nhân tính vì
vậy đều rất thiết thực và hữu ích. Duy chỉ do giới hạn của lý
tính (Rationality) và của tư duy Hữu ngã mà các lý thuyết ấy bị hạn chế
về mặt giá trị.
Thực
sự, giáo lý Duyên khởi đã trình bày rất sống động con người ấy là
Danh sắc, là Duyên khởi (12 chi nhân duyên) hay là Ngũ thủ uẩn. Con người
ấy rất là thực tại, như là những gì nó đang là. Qua đó, Duyên khởi
có thể soi sáng mặt giới hạn của các lý thuyết Hữu ngã trên, và giới
thiệu một "Nhân tính" như thật. Chỉ khi thấu rõ con người thật
sự là gì thì học đường mới có một hướng phát triển ỗn định.
Ðây là vấn đề có vẻ giản dị nhưng thật vô cùng quan yếu: Học đường
cần có hướng đi rất là nhân bản, thống thiết tình Người, tính Người
và phát triển một xã hội rất là Người và rất hòa điệu.
1. Duyên khởi và vấn đề
môi sinh:
Hướng
giáo dục và văn hóa nhiều thế kỷ qua của nền khoa học, kỹ nghệ hiện
đại của nhân loại đang đưa nhân loại đến giới vức báo động của
sự kiện môi sinh ô nhiễm trầm trọng. Hướng văn hóa giáo dục đó đang
đi sâu vào các khủng hoảng về đạo đức, xã hội và môi sinh, và đang
cần có giải đáp giải quyết khủng hoảng. Chẳng hạn, đang cần một
hướng phát triển văn hóa, giáo dục có cơ sở vừa khoa học vừa triết
lý (triết lý tôn giáo) thuyết phục được đại đa số quần chúng hưởng
ứng tích cực bảo vệ môi sinh thoát khỏi mọi hình thức ô nhiễm.
Duyên
khởi thực sự có thể giới thiệu một triết lý như thế.
2. Duyên khởi và các vấn
đề văn hóa giáo dục:
Như
được trình bày ở trên, Duyên khởi quyết định "cái nhìn" đúng
như thật về con người, thế giới, tương hệ giữa con người và xã hội,
thiên nhiên, và gồm cả con đường sống dẫn đến khổ đau hay hạnh phúc
nên giữ một vai trò rất chủ yếu trong công cuộc xây dựng một nền văn
hóa giáo dục vì an lạc, hạnh phúc lâu dài cho con người và tập thể.
a/ Nhân sinh quan và Vũ trụ
quan:
Khảo
sát nguồn gốc, hay bản chất của nhân sinh và vũ trụ là công việc
chính của lãnh vực siêu hình học. Nó giữ một vị tí quan trọng trong
triết học. Vấn đề môi sinh và vũ trụ đã được khảo sát từ buỗi
bình minh của tư tưởng Hy Lạp, Ấn Ðộ và Trung Hoa. Ðấy là sự tìm hiểu
bản chất của vạn hữu liên quan đến vấn đề "Thường" và
"Ðoạn", "Ngã" và "Vô ngã", "Thực tại"
và "Hư vô", "Sáng tạo chủ" và "Sáng tạo vật"
v.v...
Ðức
Phật Gotama, đấng đã tự mình chứng đạt chân lý tối hậu, xem các vấn
đề siêu hình là trống rồng. Ngài thường ngồi im lặng không trả lời
các câu hỏi siêu hình như thế, bởi vì theo Ngài, các vấn đề siêu hình
không thiết thực liên hệ đến mục tiêu giải thoát sau cùng mà một số
tu sĩ Phật giáo nhắm đến. Thái độ tâm lý thực nghiệm này của Ngài
đã được đề cập trong nhiều kinh thuộc kinh tạng Pàli. Tuy thế, trên
đường tìm hiểu con người và vũ trụ, thì con người đang cùng vũ trụ
hiện hữu trong hiện tại và tại đây. Làm sao con người có thể biết
được sự thật của vũ trụ khi con người không thể biết được sự thật
của chính mình? Thế nên, điều thực tiễn cho con người là quay trở về
chính mình để biết mình là ai, đang ở đâu để có thể loại trừ hết
thảy các thứ ngăn che mình khỏi sự thật của vạn hữu. Muốn làm thế,
con người phải đi theo phương pháp thực tiễn của hiện tượng luận (và
của Phật giáo) và phương pháp chứng nghiệm tâm lý của Ðức Phật.
Về vật chất, Ðức Phật tuyên bố do tứ đại
hình thành như nhiều nhà tư tưởng Ấn trước Ngài đã tuyên bố: Ðó là
yếu tố đất, nước, gió, lửa. Các yếu tố này là vận động và Vô thường,
nên vạn hữu do chúng làm nên cũng Vô thường. Câu hỏi về nguồn gốc của
tứ đại đối với sự thật Duyên khởi thì trở nên vô nghĩa và không
được chấp nhận.
Theo
Duyên khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sanh, là Vô ngã và rồng
không; con người chỉ là tập hợp của năm thủ uẩn, là Vô uẩn và rồng
không; con người và thế giới thì trường tồn, bất khả phân ly. Tại đây
vũ trụ hiện ra như là một phần cơ thể con người cần được bảo vệ.
Một
lần, theo kinh Pàtigamya (Tiểu Bộ), Ðức Phật Thích Ca nói đến thế giới
vô vi (Asankhàra) là thế giới hiện hữu ngoài các phạm trù "Ði, đến",
"Sanh, diệt" v.v... và tuyên bố đây là thế giới của đoạn tận
Khổ đau, đoạn tận Chấp thủ. Ðiều này nói lên rằng thế giới mà con
người đang thấy và biết là thế giới của chấp thủ.
Ðức
Phật dạy: "Bất cứ khi nào một người chứng đắc Giải thoát, thanh
tịnh, người ấy thấy rằng thế giới là thanh tịnh". (Discourse on
Pàtika, Long Discourses, tr.382).
Từ
đây, vấn đề giáo dục của Ðức Phật là dạy con người tu tập đoạn
tận lậu hoặc để thấy rõ mình, thế giới và hạnh phúc cùng lúc, mà
không phải là vấn đề đi tìm nguồn gốc của con người hay vũ trụ...
b/ Con người và tập thể,
văn hóa, truyền thống:
Từ
sự thật Duyên khởi, cá nhân con người hay Danh sắc (Nàma-rùpa) thì cọng
sinh, cọng tồn với Tam hữu (Tibhava) nghĩa là với tha nhân, xã hội và
thiên nhiên, bao gồm cả văn hóa và truyền thống...
IX. DUYÊN KHỞI
VÀ THIỀN ÐỊNH (SAMATHA & VIPASSANA)
-
Ðiểm khác biệt giữa thiền định Phật giáo và thiền định Bà La Môn
giáo (hay thiền định ngoại đạo) là: Thiền định Phật giáo thì có cả
hai Samtha (Chỉ) và Vipassana (Quán), trong khi thiền định Bà La Môn giáo chỉ
có Samatha (Chỉ). Nét đặc thù của thiền định Phật giáo là Vipassana.
(Vi+Passana = thấy rõ sự vật như sự vật đang là).
-
Thấy sự vật như sự vật đang là cái nhìn của Vipassana. Chỉ khi nào
hành giả kiểm soát hết thảy mọi phản ứng tâm lý của người can thiệp
vào đối tượng nhìn thì sự vật sẽ xuất hiện như chính nó. Bấy giờ
là lúc hành giả đã chế ngự được tham, sân, si, ngũ cái và các tâm lý
loạn động khác. Khi sự can thiệp của tâm lý hoàn toàn được dập tắt,
là khi các lậu hoặc của tâm đã bị loại trừ, thì sự vật (trong thân
cũng như ngoài thân) sẽ tự phơi bày thực tướng Duyên sanh của chúng - Bởi
tất cả hiện tượng đều do duyên mà sinh, đều là Duyên sinh. Ðây trọn
vẹn là cái nhìn trí tuệ của thiền định, là cái nhìn Duyên khởi thấy
rõ thực tại Duyên khởi.
-
Hành giả sẽ khởi đầu nhìn sự vật kèm theo với sự phân tích nhân
duyên; rồi tiến đến nhìn đơn thuần (pure attention); rồi đến nhìn đi
ra khỏi Năm triền cái và đi vào Tứ sắc định; rồi tiếp đến nhìn đi
ra khỏi Mười kiết sử. Ðây là công phu giải thoát rất trí tuệ qua cái
nhìn và cái nhìn Duyên khởi. (cái nhìn từ Tứ sắc định có thể làm
thêm mạnh hoạt động của Chánh tư duy, nghĩa là bao gồm Chánh kiến và
Chánh tư duy...).
X. DUYÊN KHỞI
VÀ SỰ ÁP DỤNG DUYÊN KHỞI VÀO CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI
Bởi
Duyên khởi là sự thật tối hậu và là sự thật của tất cả hiện hữu
nên mọi hình thức sinh hoạt cá nhân và cộng đồng đều được soi sáng
dưới ánh sáng Duyên khởi.
1. Về cá nhân:
*
Nhận thức quan trọng nhất cho cá nhân để tu tập giải thoát là ghi nhớ
mãi công thức sau đây, và thực hành công thức này đối với 5 thủ uẩn,
hay đối với mọi hiện hữu:
Cái
này không phải là tôi, không phải là của tôi và không phải là tự ngã
của tôi.
(N'esoham, N'eso mama, Na m'eso attà' ti).
*
Cá nhân ý thức rằng mình cùng gia đình, xã hội và thiên nhiên là cọng
sinh, cọång tồn để có thái độ sống theo lẽ đạo. (Nho giáo nói: Thuận
thiên giả dĩ tồn; Nghịch thiên giả dĩ vong)
* Sống
là thể hiện lẽ sống, lý tưởng sống, mà không phải đi tìm sự thật
từ các câu hỏi và các câu trả lời.
*
Tâm lý, vật lý và sinh lý là một tập hợp thể có ảnh hưởng qua lại
mật thiết với nhau. Không thể xem nhẹ một hiện hữu nào trong 3 hiện hữu
đó. Chúng cùng cọng sinh và cọng tồn.
*
Con đường sống dẫn đến tối tăm và đau khổ cho mình và người là
nuôi dưỡng và phát triển dục vọng. Ngược lại, là con đường sống
đi vào hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai.
2. Về xã hội:
Thế
giới là một ngôi nhà chung: Rối loạn, khổ đau ở chỗ này cũng là rối
loạn khổ đau ở chỗ kia. Tất cả đang hiện hữu trong một tương quan mật
thiết với nhau. Từ nhận thức này, thế giới nếu đi vào hòa hợp, hợp
tác xây dựng hòa bình, an lạc sẽ là quyết định tốt nhất, khôn ngoan
nhất (Một viên sỏi được ném vào biển, thì tất cả biển đều động).
Trong
một quốc gia, các sinh hoạt quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội, văn hóa
và giáo dục đều có mối tương quan mật thiết và dây chuyền. Cần thực
hiện sự phát triển quân bình, mất quân bình là rối loạn.
Cá
nhân và tập thể cùng cọng sinh và cọng tồn. Thiên về một hiện hữu
nào trong hai hiện hữu đều là thiên lệch, lệch hướng sống, dễ đi vào
rối loạn, hay ít nhất sẽ làm ngưng trệ sự phát triển xã hội.
Cá
nhân và các cá nhân khác cũng thế, có ảnh hưởng hỗ tương. Cần thể
hiện sự công bằng xã hội.
Cá
nhân và môi sinh cùng cọng sinh, cọng tồn. Vì thế, cần bảo vệ môi sinh
khỏi ô nhiễm như là đang bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân.
Về
vật chất và tinh thần, tim và óc cũng thế, chúng là cọång sinh và cọng
tồn. Xem nhẹ phía nào cũng đi vào rối loạn cả.
Về
vấn đề hưng thịnh bền bỉ của một xứ sở cũng cần thể hiện theo
nguyên lý vận hành của các pháp. Miễn cưỡng sẽ đi vào rối loạn
v.v...
XI. KẾT LUẬN
Từ
những gì được trình bày khái lược về giáo lý Duyên khởi, chúng ta (người
đọc) có thể đi đến một số điểm nhận định về giáo lý ấy, nói
riêng, và Phật giáo nói chung, rằng:
1.
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của các giáo lý Phật giáo thuộc các bộ
phái.
2.
Giáo lý Duyên khởi là linh hồn của thiền quán Phật giáo (thiền định).
3.
Giáo lý Duyên khởi là căn bản của nhận thức luận, giá trị luận và bản
thể của Phật giáo. Nó cũng là nền tảng của luận lý học Phật giáo.
4.
Giáo lý Duyên khởi không phải để hiểu như là triết lý, mà là để thực
hiện giải thoát. Các bước đi giải thoát sau cùng sẽ giúp hành giả thấy
rõ sự thật của bản thân, xã hội, thế giới và hạnh phúc.
5.
Giáo lý Duyên khởi vì là sự thật của vạn hữu nên nó là ánh sáng chỉ
đường cho các tư duy có giá trị xây dựng hòa bình, an lạc, hạnh phúc
cho các cá nhân và cộng đồng.
6.
Ngoài giá trị giải thoát, Duyên khởi còn là một lý thuyết về nhân
tính làm cơ sở cho tâm lý học, tâm lý giáo dục và triết lý giáo dục mở
ra một hướng văn hóa, giáo dục mới.
7.
Giáo lý Duyên khởi là cơ sở thống nhất giáo lý các bộ phái.
8.
Giáo lý Duyên khởi có thể là ánh sáng chỉ hướng phát triển tốt cho
các ngành xã hội, khoa học và tổ chức xã hội.
9.
Giáo lý Duyên khởi là nội dung của Hiện tượng luận Phật giáo (Buddhist
Phenomenology).
10.
Sau hết (hẳn nhiên là có thể triển khai thêm nhiều điểm nữa). Duyên khởi
hay Phật giáo ngoài ý nghĩa tôn giáo còn có ý nghĩa triết học, và đặc
biệt là ý nghĩa Phật giáo được hiểu như là một con đường giáo dục
thiết thực, nhân bản và trí tuệ.
11.
Con đường nghiên cứu Phật học ngày nay phát triển rất mạnh trên thế
giới, được nghiên cứu như là một khoa học Phật học, vì vậy đòi hỏi
sinh viên và các nhà nghiên cứu có cái nhìn mới mẻ về nhiều mặt lịch
sử, văn bản, ngôn ngữ, tư tưởng và tông chỉ để Phật giáo các bộ
phái và Phật giáo tự thân được hiểu đúng nghĩa của nó.
12.
Các quan điểm phân biệt về Tiểu thừa, Ðại thừa, Bán Ðại thừa, về
Hữu tông, Không tông, Pháp tướng, Pháp tánh, v.v... cần được hệ thống
lại và soát xét lại thế nào để phù hợp với ý nghĩa tôn giáo của một
đấng Giáo chủ duy nhất, của một sự thật tối hậu duy nhất, và cùng
với một nguồn Kinh, Luật được kết tập gần hệt nhau ở kỳ đại hội
kết tập lần thứ nhất và lần thứ hai.
Tinh
thần của Phật học là phê phán dựa vào kinh nghiệm thực nghiệm của
cá nhân. Tinh thần căn bản của đại học cũng là tinh thần phê phán. Vì
thế, người học cần tiếp thu giáo lý với tinh thần phê phán ấy để vấn
đề giáo nghĩa ngày một thêm sáng tỏ và nhất quán.
Duyên
khởi sẽ là giáo lý, là chỗ dựa cho tinh thần phê phán ấy vậy.
-ooOoo-
* Tài liệu tham khảo (giới
hạn)
1. Tương Ưng Bộ kinh II,
III, ÐTKVN;
2. Trung Bộ kinh I, ÐTKVN, (kinh số 28);
3. Trường Bộ kinh II, ÐTKVN, (kinh Ðại Bỗn);
4. Trường Bộ kinh II, ÐTKVN, (kinh Ðại Duyên);
5. Trường A Hàm I, kinh Ðiển Tôn, ÐTKVN;
6. Kinh Trường A Hàm I, Sơ Ðại Bản Duyên, ÐTKVN;
7. Tiểu Bộ kinh I, ÐTKVN;
8. Phật học khái luận, Thích Chơn Thiện, 1997, Viện NCPHVN;
9. Kinh Hoa Nghiêm;
10. Kinh Lăng Già;
11. Kinh Kim Cương;
12. Kinh Pháp Hoa;
13. Duy thức Tam thập tụng;
14. Tam Luận tông - Trung Quán luận (Madhyamika);
15. Bát Nhã Tâm kinh.
-ooOoo-
Chân thành cảm ơn cư sĩ Bình
Anson đã gởi tặng bản vi tính
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/duyenkhoi.htm