A. Có 31 hay 32 phần cơ thể?
Ở đây, câu hỏi là:
- Khi đề cập đến quán thân, có 31 hay 32 phần trong thân thể? Câu trả lời
là tùy theo quan niệm về "não" (hay "óc") có được liệt kê hay không.
1) Trong quyển Đại
Niệm Xứ, Ngài Thiền sư Silananda dịch đoạn kinh Đại Niệm Xứ (Maha
Satipatthana Sutta, Trường Bộ 22, Tỳ khưu Khánh Hỷ dịch Việt):
"Lại nữa, này
các thầy tỳ khưu, tỳ khưu quán sát trên cơ thể này từ gót chân trở lên và
từ đỉnh tóc trở xuống bao bọc bởi da và đầy các loại bất tịnh khác nhau.
Trong cơ thể này có:
- Tóc, lông, móng, răng, da (5)
- Thịt, gân, xương, tủy, thận (5)
- Tim, gan, ruột, lá lách, phổi (5)
- Phèo, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn, óc (5)
- Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ (6)
- Nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước miếng, nước mũi, nước khớp xương,
nước tiểu. (6)"
Như vậy, tổng cộng là 32 phần.
Nhưng sau đó, Ngài cũng có đề cập là:
... Cần ghi
nhận ở đây là trong nhiều bản kinh khi nói đến các bộ phận của cơ thể
không đề cập đến "óc" hay "não" nhưng Chú Giải cho rằng óc hay não được
nói đến trong Patisambhidamagga. Như vậy kinh nào không đề cập đến não thì
ta nên hiểu là não đã được bao gồm trong "tủy".
2) Giải thích trên
cũng phù hợp với bản Anh ngữ của bài kinh, do Hội Burma Tipitaka
Association dịch từ bản Pali-Miến Điện và ấn tống năm 1984 ("Ten Suttas
from Digha Nikaya - Long Discourses of the Buddha"). Trong bản Anh ngữ này,
chỉ liệt kê 31 phần, còn "não" (brain) thì được in ra trong dấu ngoặc, với
ghi chú là "não" không được ghi trong bản Pali của bài kinh, nhưng được đề
cập đến trong bộ Patisambhidamagga (Vô ngại giải đạo).
3) Trong Thanh
Tịnh Đạo, chương VIII.44 về pháp Niệm Thân, Ngài Buddhaghosa liệt kê 31
phần, và giải thích rằng "não" được bao gồm trong "tủy". Có lẽ Ngài
Silananda dựa vào đoạn này để có lời giải thích nêu trên. Theo bản dịch
của Ni sư Trí Hải:
"... Trong thân
này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim,
gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, niêm
dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở
khớp xương, nước tiểu". Não được bao gồm trong tủy, nên đây ta chỉ thấy có
31 vật".
Cũng xin ghi nhận
ở đây là trong các đoạn kế tiếp giảng về pháp niệm thân, Ngài Buddhaghosa
lại dùng cụm từ "32 phần", kể cả "não", để bình luận.
4) Các bản dịch
Anh ngữ khác của Tỳ khưu Nanamoli và Tỳ khưu Bodhi, của Tỳ khưu Nyanasatta,
của Tỳ khưu Soma, các đoạn về niệm thân của kinh Niệm Xứ (Trung Bộ 10) và
kinh Thân hành niệm (Trung Bộ 119), và của Tỳ khưu Thanissaro và Giáo sư
M. Walshe về Đại kinh Niệm xứ (Trường Bộ 22), chỉ liệt kê 31 phần, không
có phần "não".
Trong các bài kinh
nêu trên, không thấy ghi con số "31 phần" hay "32 phần", chỉ thấy ghi liệt
kê các phần của thân mà thôi.
5) Trong tập Tiểu
Tụng (Khuddakapatha), thuộc Tiểu Bộ Kinh, có ghi 32 phần (Dvattimsakara),
trong đó "não" là phần cuối cùng:
"Trong thân này
có: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan,
hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ,
máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, chất nhờn ở khớp,
nước tiểu và não trong đầu" (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu).
6) Trong bộ A-Hàm,
bản kinh tương đương là kinh Niệm Xứ (Trung A Hàm 98) và kinh Niệm Thân (Trung
A Hàm 81), có ghi "não", nhưng chỉ liệt kê 29 phần:
"Trong thân này
của ta có tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, gân, xương, tim,
thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, lá lách, dạ dày, phân, não và não căn,
nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước
tiểu" (bản dịch của Thượng tọa Tuệ Sỹ).
Bài kinh Nhất Nhập
Đạo (Tạp A-Hàm, XII) cũng có ghi "não" nhưng chỉ liệt kê 27 phần:
"Lại quán thân
này có lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não, mỡ miếng, mỡ
nước, ruột, bao tử, tim, gan, tỳ, thận đều quán biết hết, phẩn, tiểu, sanh
tạng, thục tạng, nước mắt, đờm dãi, huyết mạch, mỡ, mật, đều nên quán biết,
không có gì đáng tham đắm. Như thế, các Tỳ-khưu quán thân tự vui thích,
trừ bỏ niệm ác, không có sầu lo" (Hòa thượng Thanh Từ và Hòa thượng Thiện
Siêu dịch).
7) Tuy nhiên, theo
bản dịch Anh ngữ của bộ Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga,
The Path of Freedom), dịch từ bản tiếng Hán, danh sách liệt kê 32 bộ phận
trong thân thể có bao gồm phần "não" giống như Thanh Tịnh Đạo, dù rằng có
khác thứ tự liệt kê.
*
B. Có 9 hay 10 hồng danh của
Đức Phật?
Hằng ngày, chúng
ta thường tụng niệm ân đức Phật: "Itipi so Bhagava Araham
Sammasambuddho Vijjacaranasampanno Sugato Lokavidu Anuttaro
Purisadammasarathi Satthadevamanussanam Buddho Bhagavati" (Thật vậy,
Ðức Thế Tôn có hiệu Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn ).
Câu hỏi ở đây là:
- Trong câu niệm đó, có 9 hay 10 danh hiệu Phật? Câu trả lời là tùy chúng
ta có thể gộp Vô Thượng Sĩ (Anuttaro) và Điều Ngự Trượng Phu (Purisadammasarathi)
thành một danh hiệu hay không.
1) Trong quyển
Kinh Nhựt Hành dành cho cư sĩ, Hòa thượng Hộ Tông tách rời Anuttaro
và Purisadammasarati là 2 danh hiệu, và vì thế có 10 danh hiệu Phật.
Về sau này, các quyển kinh tụng của một số chùa khác cũng có cùng quan
điểm đó.
2) Ngài
Buddhaghosa trong quyển Thanh Tịnh Đạo giảng có thể xem Anuttaro và
Purisadammasarathi là 2 danh hiệu (Chương VII.46 & 47), nhưng cũng
có thể gộp lại thành 1 danh hiệu chung là "Anuttaro-purisadammasarathi"
(VII.48), với ý nghĩa "là một vị vô thượng có thể điều phục các bậc trượng
phu".
3) Tỳ khưu Hộ Pháp,
trong quyển "Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật", giải thích "Anuttaro-purisadammasarathi"
là một danh hiệu, và dịch là "Ðức Vô Thượng giáo hóa chúng sinh", và như
thế, Ngài chỉ trình bày 9 ân đức Phật mà thôi.
4) Trong quyển "Kho
Tàng Pháp Học", Chương Chín Pháp, Tỳ khưu Giác Giới đề cập đến 9 ân đức
Phật, trong đó Anuttaro-purisadammasarathi là "bậc Vô thượng điều
ngự trượng phu", nghĩa là bậc đánh xe vô thượng, khéo điều phục chúng sinh
như những hạng bò ngựa, có loài thuần thục, có loài ương ngạnh.
Tuy nhiên, Ngài
cũng có chú thích rằng về ân đức Phật, có chỗ ghi là mười hồng danh,vì
trong hồng danh Anuttaro purisadammasarathi, nếu tách ra
Anuttaro (bậc vô thượng sĩ), và Purisadammasarathi (bậc điều
ngự trượng phu) thì trình bày ân đức Phật có 10 hồng danh.
5) Hầu như tất cả
các bản dịch Anh ngữ và các bài pháp Anh ngữ của các vị học giả mà chúng
tôi có đọc qua, đều có cùng quan điểm về 9 hồng danh Phật, nghĩa là xem
"Anuttaro-purisadammasarathi" là một danh hiệu. Xin đơn cử vài thí dụ:
a- Ngài
Nyanatiloka (Sri Lanka), trong quyển Buddhist Dictionary, dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "Unsurpassed leader of men to be
trained" (xem mục từ ANUSSATI).
b- Bà I. B.
Horner, Hội trưởng Hội Pali Text Society (Anh quốc), trong bài kinh
Dantabhumi Sutta (Kinh Điều Ngự Địa, Trung Bộ 125 ) dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The matchless charioteer of men to be
tamed" (xem http://www.accesstoinsight.org).
Trong bản dịch
khác của bài kinh trên, Sư cô Upalavanna (Sri Lanka) dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The incomparable tamer of those to be
tamed". Giáo sư M. Walshe cũng dịch tương tự như thế trong bài Đại kinh
Bát Niết Bàn (Trường Bộ 16).
c- Tỳ khưu
Thanissaro (Hoa Kỳ), trong bài kinh Dhajagga Sutta (Tương Ưng XI.3) từ
nguồn Pali-Thái, dịch Anuttaro-purisadammasarathi là: "The
unexcelled trainer of those who can be tamed" (xem: http://www.accesstoinsight.org).
d- Hòa thượng
Piyadassi (Sri Lanka), trong quyển kinh tụng "The Book of Protection" dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The peerless trainer of persons".
e- Ngài Sayagyi U
Kyaw Htut (Miến Điện), trong bài pháp "The Nine Attributes of the Buddha",
chỉ đề cập đến 9 hồng danh, dịch Anuttaro-purisadammasarathi là:
"The Incomparable One in taming those who deserved to be tamed" (xem
http://nibbana.com).
Tương tự, Ngài
Aung Thein Nyunt (Miến Điện), trong bài pháp "The Nine Supreme Attributes
of the Lord Buddha", dịch Anuttaro-purisadammasarathi là: "The
peerless charioteer to tame men" (xem http://nibbana.com).
f- Khi dịch bộ
Giải Thoát Đạo (Hán tạng) sang Anh ngữ, quý ngài Tỳ khưu Ehara, Soma,
Kheminda gộp chung Vô Thượng sĩ và Điều Ngự Trượng Phu, và dịch là "The
matchless guide of men to be tamed".
g- Quan trọng nhất
là trong phần cuối của bài kinh Phân biệt Sáu xứ (Salayatana-vibhanga
sutta, Trung Bộ 137), cụm từ "Anuttaro-purisadammasarathi" đã
được Đức Phật nhắc đến để giảng giải về ba đức tính chánh niệm của một bậc
Đạo sư để diễn giảng cho đồ chúng, và nếu được như thế, vị ấy được gọi là
vị Vô thượng Ðiều ngự sư, điều phục hạng người đáng được điều phục
(theo bản Việt dịch của Hòa thượng Minh Châu). Trong bản Anh ngữ, Tỳ khưu
Bodhi dịch là "The incomparable leader of persons to be tamed", và Ngài có
chú thích đây là một trong 9 hồng danh của Đức Phật.
6) Xin ghi nhận ở
đây là trong kinh sách nguồn Hán Tạng, danh hiệu "Như Lai" được thêm vào,
thành ra 11 danh hiệu (Từ Ðiển Phật Học Hán Việt, Hà Nội, 1994). Do đó, để
có 10 danh hiệu thì có sách gộp Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu thành
một danh hiệu (Ðoàn Trung Còn, Tự Ðiển Phật Học), có sách gộp Phật và Thế
Tôn thành một danh hiệu, chẳng hạn như trong bộ kinh "Ðại Bát Niết Bàn (Hán
tạng)", tập 1, trang 585 (Phẩm Phạm Hạnh), Hòa thượng Trí Tịnh dịch
(1996).
Trong bộ A-Hàm,
bài kinh tương đương với kinh Dantabhumi Sutta là kinh Điều Ngự Địa (Trung
A-Hàm, 198), trong đó có liệt kê các hồng danh Phật là: "Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu" (bản dịch của
Thượng tọa Tuệ Sỹ).
*
C. Ekayano-maggo: Con
đường duy nhất?
Trong đoạn đầu của
bài kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta, Trung Bộ 10, Trường Bộ 22),
chúng ta thường đọc là:
Đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt
trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ (Hòa
thượng Minh Châu dịch).
Hay:
Ðây là con
đường duy nhất để thanh lọc tâm chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất
ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh Ðạo và chứng ngộ Niết
Bàn. Ðó là Tứ Niệm Xứ (Tỳ khưu Khánh Hỷ dịch).
Đây là bài kinh
quan trọng, thường được xem là bài kinh cẩm nang cho nhiều hành giả thực
hành pháp thiền Minh Quán (Vipassana Bhavana). Các vị thiền sinh đó
thường cho rằng pháp hành của mình là "con đường duy nhất" hay "con đường
độc nhất" - nghĩa là không có con đường nào khác - để chứng ngộ Niết Bàn.
Hiểu như thế, từ chữ "ekayano-maggo", có đúng theo tinh thần bài
kinh không?
Mặc dù có nhiều
dịch giả dùng cụm từ "con đường duy nhất / độc nhất" (the only way, the
sole way) để dịch chữ "ekayano-maggo", nhưng cũng có những dịch giả
khác không đồng ý như thế.
Giáo sư M. Walshe,
dịch giả bản Anh ngữ Trường Bộ (The Long Discourses of the Buddha), dịch
chữ ekayano-maggo là "this one way" (đây là một con đường) trong
bài Đại kinh Niệm Xứ (Trường Bộ 22).
Trong bản dịch đầu
tiên của bài kinh Niệm Xứ (Trung Bộ 10), Tỳ khưu Nanamoli dịch là "a path
that goes one way only" (con đường chỉ đi theo một hướng). Tuy nhiên,
trong bản hiệu đính, Tỳ khưu Bodhi sửa lại là "the direct path" (con đường
trực tiếp, hay con đường thẳng). Các dịch giả này đều cho rằng nếu dịch là
"the only way, the sole way" (con đường duy nhất) thì nó có hàm ý là độc
nhất, loại trừ các con đường khác, và như thế là không hoàn toàn chính xác
(xem "The Middle Length Discourses of the Buddha").
Theo Ngài Bodhi,
Chú giải Trung Bộ bình luận rằng chữ "ekayano-maggo" có thể hiểu
như là con đường đơn thuần, không có ngã rẽ; như là con đường mà hành giả
phải tiến bước một mình, không bạn bè; và như là con đường đưa đến một mục
tiêu, Niết Bàn. Ngài chọn dịch "the direct path" (con đường trực tiếp) với
hàm ý để phân biệt Satipatthana với pháp tu tiến qua các tầng
thiền-na (jhanas) hoặc qua tứ vô lượng tâm (tứ phạm trú,
brahmaviharas). Mặc dù pháp tu tiến này có thể đưa đến Niết Bàn nhưng
chúng cũng có thể rẽ qua ngõ khác, trong khi Satipatthana là đưa
thẳng đến mục đích tối hậu.
Trong quyển "Satipatthana
- The Direct Path to Realization" (Buddhist Publication Society, Sri
Lanka, 2003), Tỳ khưu Analayo cũng có quan niệm tương tự, và dịch chữ "ekayano-maggo"
là "the direct path" (con đường trực tiếp). Ngài giải thích chữ
ekayano-maggo gồm có những từ eka (một), ayana (đi) và
maggo (đường), dịch sát nghĩa là "một con đường đi". Truyền
thống chú giải thường đề cập đến 5 ý nghĩa của chữ này:
1) Con đường trực tiếp hay con
đường thẳng, là vì nó đưa thẳng đến mục tiêu;
2) Con đường phải đi một mình;
3) Con đường vạch ra bởi "Một Đấng" (ám chỉ Đức Phật);
4) Con đường duy nhất trong Đạo Phật; và
5) Con đường đưa đến một mục tiêu (đó là Niết Bàn).
Đa số các dịch giả
đều chọn cách dịch thứ tư nêu trên, nhưng Tỳ khưu Analayo chọn cách dịch
thứ nhất.
Ngài cho rằng muốn
tìm hiểu rõ ràng ý nghĩa của một thuật ngữ Pali, chúng ta cũng cần xem
thuật ngữ đó được dùng trong các bài kinh khác như thế nào, để đối chiếu.
Trong Đại kinh Sư tử hống (Maha-sihanada Sutta, Trung Bộ 12), chữ
ekayano dùng để chỉ con đường mà một người đi theo sẽ đi thẳng
xuống hố, mang ý nghĩa là "thẳng tiến, trực tiếp", không phải là "độc nhất,
duy nhất". Trái lại, trong bài kinh Tam Minh (Tevijja Sutta, Trường
Bộ 13), khi hai người Bà-la-môn tranh cãi về con đường nào là "con đường
duy nhất" để đưa đến sự hòa nhập với Phạm thiên thì lại không thấy dùng
chữ "ekayano". Rõ ràng hơn hết là trong câu kệ 274 của kinh Pháp Cú,
ý nghĩa "con đường duy nhất" - là Bát Chánh Đạo - đã được nói đến, nhưng
chữ "ekayano" lại không thấy xuất hiện. Vì thế, Tỳ khưu Analayo cho
rằng cách dịch thứ tư của chữ "ekayano" (con đường duy nhất) là
không thích hợp.
Ngoài ra, Giáo sư
R. Gethin ("A Buddhist Path to Awakening: A Study of the Bodhi-Pakkhiya
Dhamma", Oxford, 2001) có cùng quan điểm dịch chữ "ekayano-maggo"
là con đường thẳng tiến (the direct path) trong bài kinh Niệm Xứ, vì ông
cho rằng: "căn bản những gì muốn nói ở đoạn này trong bài kinh là bốn pháp
quán niệm (satipatthana) biểu trưng cho một con đường trực tiếp và
thẳng tiến đến mục đích tối hậu". Tỳ khưu Thanissaro cũng dùng chữ "the
direct path" trong bản dịch Đại kinh Niệm Xứ (Trường Bộ 22, xem http://www.accesstoinsight.org)
từ bản Pali-Thái.
Xin ghi nhận ở đây
là trong bộ A-Hàm thuộc Hán tạng, hai bài kinh tương đương với kinh
Satipatthana Sutta là kinh Niệm Xứ (kinh 98, Trung A-Hàm) và kinh Nhất
Nhập Đạo (Tăng Nhất A-Hàm, XII). Trong bài kinh Niệm Xứ của bộ Trung A-Hàm,
đoạn kinh tương ứng là:
"Có một con
đường tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm dứt kêu
khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn niệm xứ" (Thượng tọa Tuệ Sỹ dịch).
"Một con đường" là
dịch từ chữ "nhất đạo", hoàn toàn không có ý nghĩa "duy nhất, độc nhất",
loại trừ các con đường khác.
Đặc biệt hơn nữa,
trong kinh Nhất Nhập Đạo thuộc Tăng Nhất A-Hàm, bốn niệm xứ chỉ là một lối
vào đạo, và "đạo" ở đây là Bát Chánh Đạo:
"Có một lối vào
đạo làm trong sạch hạnh của chúng sanh, trừ bỏ sầu lo, không có các não,
được đại trí tuệ, thành tựu chứng quả Niết-bàn. Ðó là nên diệt Ngũ cái, tư
duy Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ). Thế nào là một lối vào? Nghĩa là chuyên nhất
tâm. Ðó là một lối vào. Thế nào là đạo? Nghĩa là Tám đạo phẩm của Hiền
Thánh: Chánh kiến, Chánh chí (tư duy), Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh
phương tiện (tinh tấn), Chánh ngữ, Chánh niệm, Chánh định" (Hòa thượng
Thanh Từ và Hòa thượng Thiện Siêu dịch).
Trong bài kinh trên, không thấy
đoạn nào nói rằng tứ niệm xứ là "con đường duy nhất".
*
D. Tám vạn bốn ngàn pháp môn?
Trong sách báo
Phật giáo, chúng ta thường thấy cụm từ "84 ngàn pháp môn" để chỉ
tính đa dạng, đa phái của đạo Phật. Có nhiều người dùng cụm từ "84 ngàn
pháp môn" để chỉ các pháp môn, các truyền thống khác nhau trong đạo
Phật, và cho rằng bất kỳ pháp môn nào, bất kỳ truyền thống nào rồi cũng
đưa đến mục đích cuối cùng của giác ngộ giải thoát.
Theo sự hiểu biết
thô thiển của chúng tôi, trong kinh điển nguyên thủy không thấy có cụm từ
"84 ngàn pháp môn" này, mà chỉ có một đoạn văn do Ngài
Trưởng Lão Ànanda trả lời ông Moggallàna người chăn bò, khi ông ấy
hỏi Ngài lời dạy của đức Phật là gì, có tất cả là bao nhiêu pháp. Ngài đáp:
"Trong 84 ngàn pháp, chính tôi được nghe đức Phật giảng 82 ngàn, còn 2
ngàn kia là do các vị tỳ khưu khác thuật lại" (Trưởng Lão Tăng Kệ,
1025, Tiểu Bộ).
Xin ghi nhận vài
điểm sau đây:
1) Con số "84.000"
hay cụm từ "tám mươi bốn ngàn" hay "tám vạn bốn ngàn" là một thành ngữ
thường thấy trong nhiều bài kinh, như: 84.000 đại kiếp, 84.000 năm, 84.000
thị nữ, 84.000 cỗ xe, 84.000 con voi, 84.000 con bò, 84.000 chén bạc,
84.000 thước vải v.v. Đây chỉ là một thành ngữ phổ thông tại Ấn Độ trong
thời đó, là cách nói tổng quát để chỉ một số lượng rất lớn, rất nhiều,
không phải là một con số chính xác.
2) Chữ "pháp" (dhamma)
trong câu trả lời của Ngài Ànanda có nghĩa là gì? Giáo sư K. R. Norman,
dịch giả bản dịch Theragatha (Trưởng Lão Tăng Kệ) sang Anh ngữ, cho
biết rằng ngài luận sư Buddhaghosa, trong Chú Giải Trưởng Lão Tăng Kệ, có
giải thích "pháp" ở đây được hiểu như là "pháp uẩn" (dhammakhandha),
nghĩa là đoạn văn về giáo pháp.
Trong quyển
Saddhammasangaha (Diệu Pháp Yếu Lược) do Ngài Dhammakitti Mahàsàmi
soạn ra tại Sri Lanka vào khoảng thế kỷ 13 DL, Ngài có giải thích về "Pháp
Uẩn" như sau:
- Thế nào là có
tám mươi bốn ngàn phần khi nói về Pháp Uẩn? Bài kinh nào có nhiều chủ đề
thì tính nhiều Pháp Uẩn. Như thế, việc tính đếm Pháp Uẩn tức là đề cập đến
chủ đề. Trong những phần Kệ (gàthà), mỗi câu hỏi hay chất vấn là
một Pháp Uẩn và câu trả lời là một Pháp Uẩn. Trong tạng Vi Diệu Pháp, mỗi
một phần chia chẻ gồm có một nhị đề hoặc tam đề và mỗi một phần chia chẻ
theo loại tâm được gọi là một Pháp Uẩn. Trong tạng Luật thì có phần câu
chuyện (vatthu), có phần tiêu đề (màtikà), có phần phân tích
từ ngữ, có phần phạm tội, có phần không phạm tội, có phần phán xét; trong
trường hợp này, cứ mỗi một phần được xem là một Pháp Uẩn. Như thế, khi đề
cập đến Pháp Uẩn thì có tám mươi bốn ngàn phần (theo bản Việt dịch của Tỳ
khưu Nguyệt Thiên Indacanda).
3) Cũng trong
quyển Saddhammasangaha, Ngài Dhammakitti Mahàsàmi có đưa ra các con
số thống kê về Tam Tạng kinh điển như sau:
a- Trong 84.000
pháp uẩn, Tạng Kinh có 21.000 pháp uẩn, Tạng Luật có 21.000 pháp uẩn, và
Tạng Vi Diệu Pháp có 42.000 pháp uẩn.
Ngày nay, các con
số này cũng thấy được trích dẫn trong nhiều tác phẩm Phật học. Đây có phải
là con số chính xác và khả tín không? Đã có vị Tăng Ni học giả nào nghiên
cứu tường tận để chứng minh các con số này, hay không?
b- Tam Tạng Pàli gồm có một ngàn
một trăm tám mươi ba (1.183) tụng phẩm (bhànavàra).
c- Tam Tạng Pàli có số lượng từ là hai trăm chín mươi lăm ngàn bảy trăm
năm mươi (295.750).
d- Tam Tạng Pàli có số lượng mẫu tự là chín triệu bốn trăm sáu mươi bốn
ngàn (9.464.000).
Về Tạng Kinh, Ngài liệt kê:
e- Trường Bộ có 34 bài kinh.
f- Trung Bộ có 152 bài kinh.
g- Tương Ưng Bộ có 7.762 bài kinh.
h- Tăng Chi Bộ có 9.557 bài kinh.
Ngoài ra, Ngài
cũng có đưa ra các con số thống kê về các bộ Chú giải và Sớ giải:
i- Tất cả Chú Giải
Tam Tạng do ngài Buddhaghosa giảng giải có số lượng tụng phẩm là một ngàn
một trăm sáu mươi ba (1.163).
j- Tất cả Chú Giải Tam Tạng có số lượng từ là hai trăm chín chục ngàn bảy
trăm năm mươi (290.750).
k- Tất cả Chú Giải Tam Tạng có số lượng mẫu tự là chín triệu ba trăm lẻ
bốn ngàn (9.304.000).
l- Và Sớ Giải của Tam Tạng được giảng giải bởi các vị thầy giáo thọ về Sớ
Giải có số lượng tụng phẩm là sáu trăm ba hai (632).
m- Sớ giải của Tam Tạng có số lượng từ là một trăm năm mươi tám ngàn
(158.000).
n- Sớ giải của Tam Tạng có số lượng mẫu tự là năm triệu không trăm năm
mươi sáu ngàn (5.056.000).
Ngày nay, các bộ
Tam Tạng Pali, Chú Giải và Sớ Giải đã được số hóa từ các nguồn Sri Lanka,
Myanmar và Thái Lan, và đã được phổ biến rộng rãi qua dạng đĩa CD-ROM.
Chúng tôi không biết đã có những công trình nghiên cứu nào để minh chứng
các con số thống kê nêu trên, bằng cách viết các chương trình vi tính để
xử lý nguồn số hóa trên CD-ROM, hay không? Theo thiển ý, đó là đề tài rất
thú vị và cũng rất quan trọng, đáng để cho các vị nghiên cứu sinh Phật học
lưu tâm và thực hiện trong các bài luận văn hay luận án tốt nghiệp.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/donggiaithoat.htm