Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
TINH CHẤT CỦA VÀNG TINH LUYỆN:
NGUYÊN LÝ CHỈ ĐẠO CÁC GIAI ĐOẠN CỦA CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ
 Luận giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Ba (1543-1588)
về “Bài Ca Tâm Linh Lamrim” của Đức Tsongkhapa
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Con đảnh lễ và quy y dưới chân vị Thầy Tôn kính, bậc vĩ đại – hiện thân của tất cả Tam Bảo – và xin Ngài ban phước (gia hộ) cho con.

Sự vĩ đại của Pháp, được trình bày để phát triển lòng tôn kính đối với giáo huấn

Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim). Lamrim là tinh túy của tất cả giáo lý của Đức Phật; con đường nhất thể (đơn nhất) được những Bậc Siêu việt (arya, bậc Thánh) trong ba thời (quá khứ, hiện tại, và tương lai) sử dụng; là truyền thống/hệ thống của hai nhà phục hưng/khai phá con đường vĩ đại: Đức Nagarjuna (Long Thọ) và Asanga (Vô Trước); là truyền thống Pháp của những bậc lỗi lạc đang tiến tới cấp độ toàn trí; và là sự tổng hợp không bỏ sót của những con đường của chúng sinh thuộc ba căn cơ.

Trước tiên, truyền thống Lamrim – Pháp được thực hành ở đây – thật cao quý và có nguồn mạch xác thực. Pháp bắt nguồn từ nguồn mạch xác thực cũng không thiên vị (không bị giới hạn), nhưng cần đến một hệ thống hoàn toàn trọn vẹn của những con đường và không có những sai lầm.

Pháp – truyền thống Lamrim – mà tôi sắp thực hành hôm nay, được trao truyền liên tục từ Đức Phật Toàn hảo và Viên mãn tới hai nhà phục hưng/khai phá là Đức Nagarjuna và Asanga, vì thế Pháp này có một nguồn mạch xác thực. Truyền thống Lamrim được trao truyền từ những nguồn mạch xác thực này đáp ứng toàn bộ những ước muốn của chúng sinh một cách dễ dàng và nhanh chóng, vì thế, nó giống như vị quân vương tôn quý của những quán đảnh (viên ngọc như ý). Truyền thống này kết hợp những dòng sông của toàn bộ giải thích tuyệt hảo của những giáo lý Tiểu thừa và Đại thừa siêu việt, vì thế, nó như một đại dương. Bởi tóm tắt và khám phá những cốt tủy của các Kinh điển và tantra (Mật điển), truyền thống này đáp ứng một chủ đề trọn vẹn. Bởi chủ yếu được dành cho những cấp độ điều phục tâm thức, truyền thống này rất dễ thực hành. Bởi nó được trang hoàng bằng những giáo huấn của Vidyakokila (Rigs-pa’I khu-byug), bậc lỗi lạc trong truyền thống của Nagarjuna và Serlingpa (gSer-gling-pa), bậc lỗi lạc trong truyền thống của Asanga, vì thế, quả thực chúng ta nên cảm thấy may mắn được lắng nghe, suy niệm và thiền định (văn, tư, tu) về những giáo lý như thế (Lamrim). Trong tác phẩm “Bài Ca Tâm linh” (Chứng Đạo Ca) [xin đọc tài liệu tham khảo ở cuối bài], vị Thầy tâm linh (Đức Tsongkhapa) của chúng ta cũng nói:

Đức Nagarjuna và Asanga, Pháp bảo của những bậc uyên bác trong thế giới,

Danh tiếng lẫy lừng trong chúng sinh,

Nhờ các ngài khéo liên tục trao truyền,

Những giai đoạn của con đường giác ngộ,

Bởi con đường này đáp ứng mọi hy vọng của chúng sinh,

Nó là quân vương tôn quý của những quán đảnh của các giáo huấn,

Bởi con đường này kết hợp/tập hợp những dòng sông của một ngàn giáo lý cao quý,

Nó cũng là đại dương của những giải thích vinh quang tuyệt hảo.

Giáo huấn này (Lamrim) tán thán những giáo lý khác về bốn phẩm tính vĩ đại. Nhờ nương tựa vào giáo huấn này, trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật, ta nhận ra rằng một vài giáo lý khám phá những con đường chính yếu và những giáo lý khác khám phá những con đường phụ trợ, và ta hiểu rằng bằng những phương pháp trực tiếp hay gián tiếp, đối với một hành giả như bản thân tôi, các giáo lý đó là những hoàn cảnh/điều kiện có lợi trên theo con đường dẫn tới giác ngộ. Vì thế, giáo huấn này có phẩm tính vĩ đại là giúp ta hiểu rằng tất cả những giáo lý của Đức Phật không có điều gì là mâu thuẫn.

Với giáo huấn này, những nhận thức sai lầm – việc quả quyết rằng những Kinh điển và Mật điển và những luận thuyết xác thực của chúng soi sáng tâm ý của Đức Phật chỉ là những giải thích để mở rộng việc học tập bên ngoài và việc quan niệm rằng chúng là những nhánh khác của giáo lý chỉ rõ những thực hành cốt tủy không được bao hàm trong những Kinh điển này – sẽ được hoàn toàn soi sáng. Bằng cách ấy, toàn bộ chủ đề của các giáo lý của Đức Phật và những luận thuyết xác thực của chúng – từ những giáo lý về cách đi theo một vị Thầy tâm linh cho tới thiền an định (shamatha, thiền chỉ) và nội quán đặc biệt (vipashyana, thiền quán) – được tóm lược trong những giai đoạn của con đường và coi chúng như những giáo huấn chính yếu. Bởi những giáo lý của Đức Phật khám phá các giáo huấn của những thực hành thiền định phân tích (nội quán) cho những người cần thiền định phân tích và thiền định kiên cố cho những người khát khao thiền định kiên cố (thiền an định), ta hiểu rằng chúng là những giáo huấn tâm linh khám phá các thực hành. Như thế, giáo huấn này có phẩm tính vĩ đại là trợ giúp việc quán chiếu toàn bộ giáo lý của Đức Phật như những giáo huấn tâm linh.   

Mặc dù tất cả những giáo lý của Đức Phật và những luận thuyết vĩ đại của những giáo lý đó là những giáo huấn tâm linh tuyệt hảo, nhưng đối với một người sơ học như tôi, là người không nghiên cứu những giáo lý bao la như thế và không nương tựa vào những giáo huấn của các vị Thầy tâm linh, không thể thấu suốt được những cốt tủy của chúng. Mặc dù ta dấn mình vào việc lắng nghe và suy niệm, ta sẽ không hiểu được tâm ý chân thực của Đức Phật, hoặc cho dù ta truy tìm tâm ý ấy, điều đó phụ thuộc vào một nỗ lực to lớn và mất rất nhiều thời gian. Chỉ nhờ nương tựa vào Lamrim – giáo huấn cốt tủy “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ” (Byang-chub lam-sgrol) của Đạo sư tuyệt hảo Atisha [xin đọc tài liệu tham khảo ở cuối bài] – ta nhận ra những cốt tủy của Kinh điển đồ sộ thật dễ dàng. Vì thế, Lamrim có phẩm tính vĩ đại là giúp ta dễ dàng nhận ra tâm ý chân thật của Đức Phật.

Khi ta khám phá những phẩm tính như thế (đã được đề cập ở trên), ta hiểu rằng toàn bộ những lời Đức Phật giảng dạy là những phương pháp trực tiếp hay gián tiếp để đạt được giác ngộ. Nếu ta cho rằng một vài giáo lý của Đức Phật biểu lộ những phương pháp để đạt giác ngộ và nên được thực hành trong khi những giáo lý khác (của Đức Phật) là những chướng ngại cho sự giác ngộ và nên từ bỏ, thì đó là hành động (karma, nghiệp) từ bỏ Pháp. Nhờ nương tựa vào giáo huấn Lamrim này, như đã đề cập trước đây, chỉ nhờ xác tín rằng toàn bộ giáo lý của Đức Phật không mâu thuẫn, hành vi xấu ác của việc bỏ Pháp sẽ tự nó ngừng dứt. Như thế, việc từ bỏ hành vi vô cùng tiêu cực của việc bỏ Pháp có một phẩm tính to lớn.     

Như thế, những người có sự thông tuệ (trí tuệ) hay những người khao khát trí tuệ nhằm khảo sát ý nghĩa/cốt tủy của Kinh điển, sẽ bị quyến rũ bởi giáo huấn tuyệt hảo này – những giai đoạn của Con Đường của chúng sinh thuộc ba căn cơ. Giáo huấn này đã được nhiều hành giả may mắn và những bậc uyên bác của Ấn Độ và Tây Tạng tin cậy và thực hành. Vì thế, thật thích hợp (hợp lý) khi bạn dấn mình vào việc lắng nghe, suy niệm và thiền định đối với giáo huấn này, bởi như đã đề cập trước đây, giáo huấn này có bốn phẩm tính. Đạo sư Tôn quý (Đức Tsongkhapa) cũng nói:

Hành giả sẽ chứng ngộ toàn bộ giáo lý không có những mâu thuẫn của Đức Phật,

Hành giả sẽ thấu suốt toàn bộ giáo lý như những giáo huấn tâm linh,

Hành giả sẽ dễ dàng nhận ra tâm ý của Phật,

Và hành giả cũng được cứu thoát khỏi vực thẳm của những hành vi xấu ác.

Vì thế, những bậc uyên bác của Ấn Độ và Tây Tạng,

Và nhiều người may mắn đã tin cậy vào giáo huấn tuyệt hảo này.

Trong những người thông tuệ, ai không bị quyến rũ

Bởi những Giai đoạn của Con Đường của ba loại chúng sinh?

Giáo huấn này có bốn phẩm tính vĩ đại – những Giai đoạn của Con Đường của ba loại chúng sinh (chúng sinh thuộc ba căn cơ) – đã hợp nhất tất cả tinh túy của toàn bộ Kinh điển trong một quyển sách. Không cần phải đề cập tới những lợi lạc của việc giảng dạy và lắng nghe một lần toàn bộ Lamrim, mà ngay cả một khóa giảng dạy hay lắng nghe truyền thống này cũng mang lại những lợi lạc to lớn. Nhờ suy niệm về những lợi lạc, nhờ phát triển niềm tin nơi vị Thầy (Đức Phật), và Pháp, với động lực và hành vi (công hạnh) trong sạch, nếu giáo huấn này được giảng dạy cho những bình chứa (Pháp khí) thích hợp thì chắc chắn là vị Thầy sẽ tích tập được những lợi lạc tương đương với việc giảng dạy toàn bộ Kinh điển. Nếu giáo huấn này được lắng nghe một cách đúng đắn bằng cách từ bỏ ba lỗi lầm của các bình chứa[1] và với sáu thái độ[2] thì chắc chắn là đệ tử sẽ thâu thập được lợi lạc tương đương với việc lắng nghe toàn bộ Kinh điển. Vì thế, ta nên - và đó là điều hợp lý – nỗ lực thật nghiêm chỉnh và đúng đắn trong việc giảng dạy và lắng nghe truyền thống này như Đạo sư Tôn quý nói:

Bởi tinh túy của toàn bộ Kinh điển được cô đọng ở đây,

Ngay cả một buổi giảng dạy và lắng nghe truyền thống này,

Cũng chắc chắn tích tập một đức hạnh khổng lồ tương đương với việc giảng dạy và lắng nghe toàn bộ giáo lý của Đức Phật,

Vì thế, hãy suy niệm về ý nghĩa (những lợi ích) của nó.

Nếu với sự lắng nghe đúng đắn, giáo huấn này mang lại những lợi lạc bao la như thế thì ta tự hỏi ta nên lắng nghe giáo huấn phi thường này từ ai (từ vị Thầy tâm linh nào). Nói chung, những phẩm tính của một vị Thầy tâm linh thích hợp mà từ ngài ta lắng nghe các giáo lý của Đức Phật được giải thích thật đa dạng trong những văn cảnh của Tiểu thừa và Đại thừa, Kinh điển và Tantra (Mật điển). Tuy nhiên, những phẩm tính của một vị Thầy tâm linh mà từ ngài ta lắng nghe giáo huấn quý báu này nên có những phẩm tính được đề cập trong “Pháp Bảo của Kinh điển Đại thừa” (của Bồ Tát Di Lặc). 

Vị Thầy ấy nên có những phẩm tính chứng ngộ/thành tựu tâm linh điều phục dòng tâm thức của mình bằng ba tu tập cao (tam học: giới, định và tuệ), có nghĩa là vị Thầy cần được điều phục bằng ba tu tập giới hạnh, được an định bằng tu tập kiên cố thiền định (định) và hoàn toàn an bình nhờ tu tập nội quán (tuệ). Vị Thầy nên uyên bác về Tam Tạng (Kinh, Luật, Luận) và v.v.. Vị Thầy ấy nên có nội quán (trí tuệ) hoàn toàn chứng ngộ thực tại/tánh Không. Ông nên có nhiều đức hạnh/những phẩm tính tốt lành hơn các đệ tử của mình (nên uyên bác hơn đệ tử). Đó là sáu phẩm tính mà bản thân một vị Thầy tâm linh phải có.

Vị Thầy ấy nên thiện xảo trong việc áp dụng các phương pháp dẫn dắt đệ tử trong những giai đoạn của con đường và hùng biện để chạm được vào trái tim của các đệ tử. Ông nên có động lực trong sạch của lòng từ (đối với đệ tử) và giảng dạy các đệ tử với lòng đại bi mà không trông chờ của cải hay danh vọng. Vị Thầy ấy nên có nỗ lực hỷ lạc để giảng dạy và v.v.. vì hạnh phúc của người khác. Ông nên chịu đựng những gian khổ trong việc giảng dạy và không mất kiên nhẫn đối với những thực hành sai lạc của đệ tử. Đó là bốn phẩm tính vị tha để chăm sóc chúng sinh.

Vì thế, bạn nên tìm kiếm một vị Thầy tâm linh có mười phẩm tính này, đi theo ngài, và khẩn cầu ngài giáo lý Đại thừa và sau đó nhận lãnh giáo lý một cách đúng đắn.

Nói chung,  người nghe Pháp (đệ tử) nên có bốn phẩm tính. Người ấy nên vô tư hay không định kiến, nên có sự thông tuệ để phân biệt những con đường đúng đắn và sai lạc, và nên thích thú theo đuổi con đường đúng đắn. Và vượt lên ba phẩm tính này, người ấy nên có lòng tôn kính đối với giáo lý và vị Thầy.

Một cách cụ thể, đệ tử thích hợp để được dẫn dắt theo con đường này cần có những phẩm tính này. Người ấy nên hết sức quan tâm tới Pháp, tâm thức người ấy nên lanh lợi và tập trung trong thời gian giảng dạy, nên có niềm tin và lòng tôn kính lớn lao đối với Pháp và vị Giáo thọ, và người ấy nên từ bỏ những cách giải thích sai lầm và nhận lãnh những giải thích đúng đắn. (Để đáp ứng phẩm tính cuối cùng) người ấy nên có sự thông tuệ, một điều kiện có lợi và nên vô tư hay không định kiến, để ngăn ngừa điều kiện bất lợi. Sáu phẩm tính này rất cần thiết để trở thành một người lắng nghe Pháp của truyền thống này.

Như thế, nếu bạn muốn trở thành một vị Thầy có đầy đủ phẩm tính của truyền thống này, bạn nên nỗ lực tu tập và vun trồng những phẩm tính của vị Thầy tâm linh đã được nói tới ở trên và khi lắng nghe truyền thống này, bạn nên tu tập và nuôi dưỡng những phẩm tính của đệ tử được đề cập ở trên. 

Làm thế nào để lắng nghe và thực hành đúng đắn giáo huấn của các Giai đoạn của Con Đường của chúng sinh thuộc ba căn cơ dưới sự chỉ dạy của một vị Thầy đầy đủ phẩm tính

(Chú thích của dịch giả bản Anh ngữ: Phương pháp chuẩn bị về cách đi theo vị Thầy tâm linh của bạn được chỉ dẫn rộng rãi ở đây. Xin coi ở cuối bản văn này). Đây là thực hành chuẩn bị về cách thức đi theo một vị Thầy tâm linh.

Cách thức thực sự để đi theo một vị Thầy tâm linh được thực hành nhờ thiền định phân tích. Thực ra, những vị Thầy tâm linh vinh quang của bạn là cội gốc của mọi thành tựu tâm linh, nguồn mạch của mọi điều tốt lành/hạnh phúc cho đời này và những đời sau. Giống như một bác sĩ và một bệnh nhân, vị Thầy tâm linh tiệt trừ những căn bệnh đau khổ của bạn. Vì thế, đối với bạn, vị Thầy thật đáng biết ơn. Từ vô thủy cho tới ngày nay, bạn từng liên tục lang thang trong sinh tử. Đó là hậu quả của việc không gặp được những vị Thầy như thế hoặc cho dù bạn đã gặp một vị Thầy nhưng bạn không đi theo ngài một cách đúng đắn. Giờ đây, bạn phải làm vui lòng vị Thầy tâm linh của bạn càng nhiều càng tốt. Bố thí một chén đồ ăn cho một người đang chết đói thì đáng tán thán hơn là tặng một nắm đồng vàng cho một người hoàn toàn thỏa mãn về thực phẩm và của cải. Tương tự như thế, với sự xác tín, hãy suy niệm về việc vị Thầy tâm linh của bạn đáng được biết ơn. Vị Thầy đó còn tử tế hơn toàn bộ chư Phật giống như đã được đề cập trong bản văn tên là “Năm Giai đoạn”:

Đây là Bhagavan (Đức Thế Tôn, Đấng Chiến Thắng Viên mãn) tự-sinh,

Bổn Tôn cao quý, đấng duy nhất,

Nhưng vị Thầy kim cương còn vượt trội hơn Đức Thế Tôn,

Bởi vị Thầy ban dạy thật toàn hảo những giáo huấn cốt tủy.

Trong những đời trước của Đức Phật, để được nghe nửa bài kệ hay chỉ một giòng của một bài kệ chẳng hạn như “Nếu có sinh ra thì có chết đi, Sự tịch diệt này là hỉ lạc” từ những vị Thầy tâm linh của Ngài, bản thân Đức Phật đã cúng dường các vị Thầy một trăm ngàn đồng vàng, thái tử, hoàng hậu của Ngài và v.v.. một cách rộng rãi, và cúng dường ngay cả thân thể Ngài bằng cách đặt một ngàn đèn bơ trên đó, để làm vui lòng hay đền đáp thiện tâm của những vị Thầy tâm linh của Ngài. Bằng những cách này và những cách khác, Đức Phật đã từ bỏ và cúng dường cho những vị Thầy tâm linh thân thể và mọi của cải của Ngài. Bạn nên nghĩ: “Tôi cũng là một môn đồ của Đức Phật và bởi tôi đã nghe những giáo lý vô hạn từ vị Thầy tâm linh của tôi, thiện tâm của ngài bao la biết bao!”

Có vài người nói: “Tôi chỉ biết ơn vị Lạt ma này nếu ông ta hiểu biết sâu xa và có đức hạnh to lớn,” và không chút tôn kính, họ nói một cách khinh miệt: “Tôi vừa mới nghe Pháp của ông ta.” Đây là sự hiểu biết hết sức sai lạc. Ví dụ như, cho dù cha mẹ của ta không có sự hiểu biết và không có đức hạnh, ta nên yêu quý thiện tâm của họ và nhờ làm như thế, một lợi lạc vĩ đại phát sinh, trong khi bởi không nhận thức sâu sắc lòng tốt của cha mẹ, có nói rằng đó là một lỗi lầm nghiêm trọng. Điều đó cũng đúng đối với vị Thầy tâm linh của riêng ta.

Khi bạn nói rằng hiện nay bạn hết sức biết ơn người mang lại cho bạn một ít của cải, nhưng ở mặt khác, vị Thầy tâm linh nối kết bạn với toàn bộ hạnh phúc của đời này và những đời sau. Nếu phân tích kỹ càng ta sẽ thấy toàn bộ mức độ hạnh phúc và đau khổ, từ chư Phật và Bồ Tát xuống tới những gia trưởng, thì tùy thuộc vào việc thực hành làm vui lòng hay không làm hài lòng vị Thầy tâm linh. Hơn nữa, nhiều người được các vị Thầy tâm linh của họ dẫn dắt tới sự toàn giác trong một đời người. Nếu tôi làm vui lòng vị Thầy tâm linh của tôi bằng ba sự cúng dường,[3] chắc chắn là tôi có thể đạt được toàn giác. Vì thế, bởi thiện tâm của vị Thầy tâm linh của tôi thật vô lượng, điều hết sức quan trọng là phải làm hài lòng vị Thầy tâm linh tử tế của tôi. Việc gặp được vị Thầy tâm linh tuyệt hảo và được ngài chăm sóc trong những đời sau hoàn toàn tùy thuộc vào việc làm thế nào bạn làm hài lòng vị Thầy tâm linh hiện tại của bạn, là người mà bạn có sự quan hệ/nối kết tâm linh. Vì thế, không có cách nào khác ngoài việc phải tránh những phương pháp sai lạc khi đi theo vị Thầy tâm linh của bạn.

Trong mọi Kinh điển và các luận văn lập đi lập lại rằng: “Bạn nên làm các vị Thầy tâm linh của bạn thật hài lòng.” Không phải là tôi phải lựa chọn điều không mong muốn, hay là [phải lựa chọn] tự ép buộc bản thân mình làm như thế. Không ai không muốn các công đức. Trong nhiều Kinh điển, tantra (Mật điển) và những luận thuyết có nói rằng trong việc tích tập công đức, không có ruộng công đức nào vĩ đại hơn vị Thầy tâm linh của bạn.    

Khi bạn thực hành làm vui lòng vị Thầy tâm linh của bạn, ngay từ lúc bắt đầu, đừng để bất kỳ tư tưởng sai lầm nào khởi lên trong tâm bạn đi nghịch lại vị Thầy tâm linh của bạn. Bằng cách xem vị Thầy là tuyệt hảo và có niềm tin nơi ngài không chỉ bằng ngôn từ mà từ tận đáy lòng bạn, bạn nên thiền định cho tới khi chỉ âm thanh danh hiệu của ngài hay một tư tưởng về ngài cũng làm cho lông tóc trên thân thể bạn dựng đứng và đôi mắt bạn đẫm lệ.

Nói chung, như Đức Phật và chư vị Bồ Tát đã nói rằng ta không thể xác định được những lỗi lầm của một chúng sinh, vì thế, không cần nói đến vị Thầy tâm linh của ta. Cho dù bạn phát hiện một khiếm khuyết nơi ngài, điều đó chỉ là nhận thức bất tịnh của bạn. Một vị Thầy tâm linh không thể có những khiếm khuyết như thế. Có một lần, khi thiền định về Đức Di Lặc, Thánh Asanga nhìn thấy một con sói cái, thân dưới của nó nhung nhúc những con dòi. Naropa nhìn thấy Tilopa đang nướng cá sống và v.v.. Và trong những Kinh điển như “Một cuộc gặp gỡ giữa Cha và Con” cũng nói rằng Đức Phật đã hiện thân là một con quỷ để làm việc vì lợi ích của chúng sinh. Vì thế, hãy suy niệm rằng vị Thầy tâm linh của bạn không thể có những khiếm khuyết và ngài chắc chắn là một vị Phật thực sự.

Về mặt khác, nếu bạn bất kính và xem thường vị Thầy tâm linh của bạn với những tư tưởng sai lầm đi nghịch lại ngài, thì có nói rằng đó là những ác hạnh nghiêm trọng nhất như được đề cập tới trong “Tantra Guhyasamaja Gốc”, “Năm mươi Câu Kệ Guru Yoga” của Ashvagosha (Mã Minh) và v.v.. Vì thế, giống như cuộc đời của Drom Tonpa (như được nhắc tới trong tiểu sử của ngài), bạn không nên vội vàng tìm kiếm nhiều vị Thầy, một khi bạn đã chấp nhận một vị Thầy tâm linh, đừng bao giờ để cho những tư tưởng bất kính chống lại vị Thầy khởi lên trong tâm bạn cho dù đời bạn bị lâm nguy. Đạo sư Tôn quý cũng chỉ dạy với lòng từ ái bao la:

Cội gốc của sự tương thuộc khéo đem lại

Toàn bộ những điều tốt lành của đời này và những đời sau

Nằm ở chỗ tuân theo vị Thầy tâm linh – người dẫn đường - một cách đúng đắn

Trong mọi tư tưởng và việc làm với rất nhiều nỗ lực.

Nhìn thấy điều này, hãy tuân theo ngài ngay cả khi đời bạn bị nguy hiểm,

Và làm vui lòng ngài bằng cách tuyệt đối vâng theo lời dạy của ngài – sự cúng dường thực hành.

Tôi, một hành giả, đã thực hành theo cách đó.

Các bạn, những người tìm kiếm giải thoát, cũng nên thực hành tương tự.

Nếu đây là phương cách để nỗ lực và đi theo một cách đúng đắn vị Thầy tâm linh của bạn, là người chỉ ra con đường, và làm hài lòng ngài bằng cách cúng dường ngài thực hành của bạn thì bạn tự hỏi bạn nên hoàn thành lời khuyên dạy nào. Đó là thực hành một cách đúng đắn những giáo huấn về Phật Pháp mà vị Thầy tâm linh đã ban cho bạn. Không có vật cúng dường thực hành nào khác ngoài việc làm cho đời người này trở nên có ý nghĩa – một cuộc đời với những sự nhàn nhã và thuận lợi còn quý báu hơn một viên ngọc như ý, mà xét về mặt nhân và quả thì cực kỳ khó được và một khi đã tìm thấy thì nó có thể hết sức giá trị. Vì thế, nghiến chặt hàm răng, tôi không được để cho đời người này - chỉ có được vào lúc này - trở nên lãng phí. Nếu tôi không thể sử dụng đời người quý báu này thì điều đó chẳng khác gì làm thối rữa trái tim tôi.

Những hành động vượt trội kẻ thù và bảo vệ những người thân trong đời này, là những điều được thiết lập đối với nhận thức của người khác (gây ấn tượng cho những người khác), việc giảng dạy và lắng nghe Pháp hay giữ các giới nguyện và v.v.. được thúc đẩy bởi tư tưởng thu hoạch của cải và danh vọng thì cần được loại bỏ. Nếu bạn không loại bỏ những hành động trắng, đen và lốm đốm màu (thiện, ác và không thiện cũng không ác) này của tám mối quan tâm thế tục và không chân thành thực hành Pháp chẳng hạn như thiền định về sự vô thường và v.v.., tương lai của bạn sẽ bị nguy hiểm hơn bao giờ hết (trong thế giới này). Trong đời này, nếu bạn thực hành Pháp thuần tịnh, là điều sẽ không làm phật lòng bạn, thì cuối cùng, nền tảng vững chắc của tương lai của bạn sẽ được thiết lập và điều đó còn tốt đẹp hơn mọi sự trong thế gian. Vì thế, tôi nên ngoảnh mặt với những hoạt động thế tục không cần thiết, lợi lạc thì ít mà nguy hiểm thật nhiều. Giống như sàng sẩy vỏ hạt, tôi nên làm cho đời người này có ý nghĩa bằng cách sử dụng nó, để khi chết tôi sẽ không phải hối tiếc. Bằng động lực của việc thực hiện điều đó, ngay lập tức, hãy phát triển ước muốn rút ra được tinh túy của đời người này giống như một người khát mong mỏi được uống nước. Đạo sư Tôn kính nói:

Đời người quý báu hơn một viên ngọc như ý,

Đã tìm được, nhưng chỉ hiện hữu trong lúc này,

Khó đạt được nhưng rất dễ tan rã như một tia chớp,

Nhìn thấy bản chất này, hãy loại bỏ những hoạt động thế tục,

Giống như sàng sẩy vỏ trấu,

Và ngày lẫn đêm, hãy làm cho đời người này có ý nghĩa.

Nếu ta phải rút ra tinh túy của đời người này, ta nên rút ra tinh túy như thế nào?  Điều này được nói trong hai tiêu đề: Làm thế nào phát triển sự xác tín trong việc giới thiệu tổng quát những con đường, và phương cách thực sự để rút ra được tinh túy.

I.       Làm thế nào Phát triển sự Xác tín trong việc Giới thiệu Tổng quát những Con Đường

Trước tiên, điều tối quan trọng là phải có một sự hiểu biết về cách phát triển xác tín trong việc giới thiệu tổng quát những con đường. Vì thế, tôi sẽ giải thích vấn đề này một cách ngắn gọn dưới hai tiêu đề: Làm thế nào con đường dành cho chúng sinh thuộc ba căn cơ (Lamrim) kết hợp toàn bộ giáo lý của Đức Phật và những lý do để dẫn dắt nhờ chúng sinh thuộc ba căn cơ.

A)    Làm thế nào Con Đường dành cho Chúng sinh thuộc Ba Căn cơ (Lamrim) Kết hợp Toàn bộ Giáo lý của Đức Phật

Vì những lợi lạc của chúng sinh, trước tiên Đức Phật đã phát triển Bồ đề tâm, tích tập công đức và trí tuệ ở đoạn giữa, và cuối cùng thành tựu sự toàn giác. Ngay cả những giáo lý mà Ngài giảng dạy cũng chỉ là vì lợi ích của chúng sinh. Có hai loại hạnh phúc được thành tựu cho chúng sinh. Đó là những lợi lạc nhất thời của sự tái sinh cao và sự tốt lành tối thượng.

Những giáo lý của Đức Phật được giảng dạy để thành tựu những lợi lạc nhất thời được kết hợp trong những giáo khóa có nghĩa là trước hết những giáo lý đó được dành cho hay thường được dùng cho những người hạ căn. Tính chất của người hạ căn được phác họa trong “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ” của Đức Atisha:

Bằng những phương pháp khác nhau, những ai

Chỉ nhắm tới hạnh phúc trong sinh tử,

Bận tâm tới lợi ích của riêng mình,

Được gọi là người hạ căn.

Như có nói người hạ căn không quan tâm nhiều tới đời này mà quan tâm nhiều tới hạnh phúc của những tái sinh cao trong đời sau và làm những thực hành dẫn họ tới mục tiêu đó.

Có hai loại tốt lành tối thượng: sự giải thoát đơn thuần khỏi luân hồi sinh tử và sự toàn trí. Những giáo lý của Đức Phật được giảng để thành tựu sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử được kết hợp trong các giáo khóa chủ yếu được dành cho hay thường được dùng cho người trung căn. Tính chất của người trung căn được phác họa trong “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ” của Đức Atisha: 

Người quay lưng với hạnh phúc trong sinh tử,

Tránh những ác hạnh,

Và chỉ nhắm tới sự an bình cho chính mình,

Được gọi là người trung căn.

Như có nói, chúng sinh trung căn quay lưng lại với sự toàn thiện và những điều kỳ diệu của sinh tử và nhắm vào việc thành tựu giải thoát khỏi sinh tử, và để làm được điều đó, người ấy thực hành những tu tập cao cấp hơn.

Có hai phương pháp – Thần chú Thừa (Mật thừa) và Ba la mật Thừa – để đạt được trạng thái toàn trí. Cả hai giáo lý này được kết hợp trong những giáo khóa của người thượng căn. Tính chất của chúng sinh thượng căn được phác họa trong “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ” của Đức Atisha:

Người nhìn thấy đau khổ trong cuộc đời của chính mình,

Và, nhận ra rằng những người khác cũng đau khổ tương tự,

Ước muốn hoàn toàn dập tắt mọi nỗi khổ,

Đó là người tuyệt hảo.

Như đã nói, người thượng căn là người bị ảnh hưởng/được xui khiến bởi lòng bi mẫn, nhắm tới việc đạt được trạng thái toàn trí nhờ thực hành sáu ba la mật[4] và hai giai đoạn (phát triển và thành tựu) để dập tắt mọi đau khổ của chúng sinh.

B)    Những Lý do để Dẫn dắt nhờ Chúng sinh thuộc Ba Căn cơ

Ở đây, mặc dù những thực hành của chúng sinh thuộc ba căn cơ được giảng dạy, tuy nhiên, trong văn cảnh này, ta nên hiểu rằng hai thực hành thấp thì cần thiết như những chi nhánh của con đường dẫn tới con đường của người thượng căn. Ở đây, cụ thể là ta không dùng những con đường của người hạ căn chỉ để thành tựu sự toàn thiện và những điều kỳ diệu của sinh tử, ta cũng không áp dụng những con đường của người trung căn để thành tựu giải thoát. Nhưng, trong thực tế, một vài con đường thông thường của hai căn cơ thấp và trung bình được dùng như những thực hành chuẩn bị dẫn tới những con đường thực sự của người thượng căn.

Lý do đằng sau của việc thực hành như thế là ngoài Bồ đề tâm ra, ta không có lối nào khác để đi vào Đại thừa, và điều quan trọng là phải phát triển Bồ đề tâm. Trước hết, ta nên phát triển năng lực của nhiệt tâm bằng cách suy niệm về những lợi ích của Bồ đề tâm. Những lợi ích của Bồ đề tâm được tóm tắt trong hai vấn đề: những lợi lạc nhất thời và những lợi lạc tối hậu. Với Bồ đề tâm, ta có thể dễ dàng thành tựu những kết quả nhất thời là hạnh phúc của những tái sinh cao. Ngay cả trạng thái toàn trí tối hậu cũng đến bằng phương tiện của việc phát triển Bồ đề tâm. Vì thế, ta phải phát triển Bồ đề tâm.

Như một điều kiện tiên quyết cho Bồ đề tâm, ta phải phát triển lòng đại bi (maha-karuna), sự đồng cảm không chịu đựng nổi những đau khổ dày vò của tất cả chúng sinh. Để phát triển lòng bi mẫn, điều cần yếu là phải có một cảm thức mạnh mẽ không mong muốn bản thân ta bị đau khổ. Vì thế, trước hết, ta phải tu tập những con đường của người hạ căn bằng cách suy niệm về những đau khổ dày vò của các cõi thấp, thực hành đó phát triển một ước muốn được giải thoát khỏi những đau khổ như thế. Sau đó, ta tu tập những con đường của người trung căn nhờ suy niệm về việc hạnh phúc không hiện hữu một cách độc lập trong các cõi cao, điều này phát triển sự từ bỏ, ước muốn được giải thoát khỏi tất cả các cõi trong sinh tử. Sau đó, nhờ kinh nghiệm của riêng ta về những đau khổ dày vò, ta tu tập để phát triển lòng từ, bi, và Bồ đề tâm để giải thoát tất cả những bà mẹ chúng sinh bị hành hạ bởi những đau khổ. Như thế, những tu tập thông thường của người hạ căn và trung căn là những phương pháp tuyệt vời để dẫn tới những con đường của người thượng căn.  

II. Phương cách Thực sự để Rút ra được Tinh túy

Có ba phương cách thực sự để rút ra được tinh túy. Đó là những tu tập thông thường của con đường của người hạ căn, những tu tập thông thường của con đường của người trung căn, những tu tập thông thường của con đường của người thượng căn.

A)    Những Tu tập Thông thường của Con Đường của Người Hạ Căn

Hãy suy niệm những điều này với sự nhất tâm. Tôi đã thực sự đạt được đời người quý báu và khó có được, và một khi tìm thấy thì vô cùng có ý nghĩa. Tuy nhiên, đời người ấy không kéo dài. Chắc chắn là tôi phải chết, nhưng tôi không biết chắc khi nào tôi sẽ chết. Vì thế, giờ đây tôi phải dâng hiến đời mình để rút ra được tinh túy (của đời người). Cho tới bây giờ, mọi loại người – siêu việt/mạnh mẽ, trung bình và yếu đuối hay giàu có, trung bình, và nghèo khổ - đều bị Thần Chết nhanh chóng đánh bại giống như những người trong phố chợ. Thật may mắn biết bao tôi vẫn còn sống! Hãy phát triển một tâm thức tràn đầy sự tỉnh giác về cái chết ở đó bạn không thể chịu đựng nổi ngay cả việc ở (ngồi) yên một chỗ. Hãy nghĩ tưởng rằng khi bạn chết, bạn phải đi một mình mà không có những người thân thuộc hay bằng hữu đi cùng và không có quyền lực của tài sản hay của cải của bạn, thay vào đó, bạn phải mang theo mọi hành vi xấu xa (ác hạnh) mà bạn đã tích tập để có được những của cải, tài sản đó. Mọi vui thú của việc ăn uống, con người, của cải và thực phẩm của đời này hoàn toàn biến mất (quá xa). Giờ đây, hãy nghĩ rằng bạn nên thực hành một Pháp chân chính cho phần còn lại của đời bạn và hiện bạn có ý định làm điều đó.

Nếu bạn tự hỏi: ngoại trừ Pháp ra, làm thế nào chẳng điều gì có thể giúp đỡ tôi vào lúc chết, Pháp cứu giúp tôi và phi-Pháp làm hại tôi ra sao? Tôi sẽ không còn hiện hữu sau khi chết. Tôi phải nhận một tái sinh. Khả năng bị tái sinh có hai loại: những cõi cao và những cõi thấp. Điều đó cũng được quyết định bởi những hành động/nghiệp của tôi và tôi không có tự do. Bởi lực đẩy của những hành động/nghiệp trắng và đen (tốt và xấu) của tôi, tôi phải nhận một tái sinh. Hơn nữa, nếu những tư tưởng tốt lành ngẫu nhiên thể hiện vào lúc chết thì tôi sẽ được sinh trong cõi cao. Vào lúc chết, nếu những tư tưởng ác hại thể hiện thì tôi phải sinh vào một trong ba cõi thấp và phải đau khổ dữ dội.

Nếu bạn tự hỏi: những đau khổ hành hạ của các cõi thấp là gì? Đức Nagarjuna nói:

Hãy nhớ tới sự dữ dội của một ngày

Nóng và lạnh trong cõi địa ngục,

Hãy nhớ tới những ngạ quỷ

Gày mòn vì đói và khát,

Hãy nhìn và nhớ tới những súc sinh

Tràn ngập nỗi khổ của sự ngu si,

Hãy từ bỏ mọi nguyên nhân của những cõi thấp này và vun trồng nguyên nhân của những cõi cao,

Thật khó có được đời người trong Cõi Jambu (Diêm phù đề, trái Đất),

Khi đã có được, hãy cẩn thận ngăn ngừa

Những nguyên nhân của các cõi thấp và hãy chiến thắng chúng.

Như có nói, chúng sinh trong cõi địa ngục có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì cái nóng và lạnh, ngạ quỷ có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì đói và khát, súc sinh có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì việc ăn thịt lẫn nhau, vì sự ngu si và vì bị câm và v.v.. Vào lúc này, tôi không thể chịu đựng nổi việc nắm bàn tay bạn trong ngọn lửa nóng cho dù trong chốc lát. Tôi không thể chịu đựng nổi việc trần trụi trong băng giá giữa mùa đông dù chỉ một ngày. Tôi không thể chịu đựng nổi việc nhịn đói trong vài ngày. Tôi không thể chịu đựng nổi ngay cả một ngòi ong chích. Như thế, làm sao tôi có thể chịu đựng nổi nỗi khổ của nóng và lạnh trong cõi địa ngục, nỗi khổ của đói và khát của cõi ngạ quỷ và những nỗi khổ của việc nuốt sống lẫn nhau và v.v.. của cõi súc sinh?

Bằng kinh nghiệm hiện có của riêng bạn, hãy thiền định về những nỗi khổ của các cõi thấp cho tới khi tâm bạn được chuyển hóa bởi nỗi sợ và sự khiếp hãi những đau khổ của các cõi này. Sau đó, hãy thiền định: giờ đây tôi đã có được thân người cao quý này (được ban tặng những sự nhàn nhã), tôi phải dành mọi nỗ lực nhằm trau dồi những phương pháp để không bị sinh trong những cõi thấp bằng cách từ bỏ những nguyên nhân của các cõi thấp và vun bồi những nguyên nhân của các cõi cao.

Để không bị sinh trong các cõi thấp, ta nên hiến mình cho các phương pháp ra sao? Như đã giải thích ở trên, ta nên sợ hãi những nỗi khổ trong các cõi thấp, và năng lực để bảo vệ bạn khỏi những sợ hãi này nằm trong tay Tam Bảo. Hiểu rõ điều này, hãy quy y (nương tựa) Tam Bảo tận đáy lòng bạn. Tam Bảo có năng lực che chở bạn thoát khỏi những nỗi sợ các cõi thấp.

Bản thân Phật Bảo thoát khỏi mọi nỗi sợ, thiện xảo trong những phương pháp giải thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi sợ, thực hiện lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh không chút phân biệt, và làm việc cho họ dù họ có lợi cho Ngài hay không. Vì thế, Ngài xứng đáng là một đối tượng quy y. Ta cũng có thể áp dụng những tính chất này cho Pháp Bảo và Tăng Bảo. Vì lý do này, vị Thầy, Pháp và Tăng của những trường phái phi-Phật Giáo không có một phẩm tính riêng biệt như thế. Vì thế ba đối tượng này không xứng đáng là những đối tượng quy y. Trái lại, Tam Bảo có những phẩm tính như thế và vì thế Tam Bảo xứng đáng là những đối tượng quy y.

Ta nên quy y ra sao? Hãy quy y Tam Bảo từ tận sâu thẳm trái tim bạn với niềm tin và sự tin cậy trọn vẹn bằng cách hát tụng:

Con quy y Phật, đấng siêu việt trong tất cả con người,

Con cầu xin Ngài - vị Thầy của con - cứu con thoát khỏi những nỗi khổ của samsara (sinh tử) và những cõi thấp,

Con quy y Pháp, đấng siêu việt trong tất cả thoát khỏi mọi dục vọng,

Con cầu xin ngài - đối tượng quy y thực sự của con - cứu con thoát khỏi những đau khổ của sinh tử và những cõi thấp,

Con quy y Tăng, đấng siêu việt trong mọi tập hội,

Con cầu xin Ngài - thiện tri thức của con - cứu con thoát khỏi những đau khổ của sinh tử và những cõi thấp.

Sau khi quy y Tam Bảo, nếu bạn không tu tập những giới luật quy y, năng lực của sự quy y sẽ bị suy hoại. Vì thế, hãy tu tập những giới luật quy y. Một khi bạn đã quy y Tam Bảo, bạn không nên coi những vị trời hung dữ thế tục như Vishnu và v.v.. như những đối tượng quy y, và nên coi mọi hình tượng của Đức Phật là Đức Phật thực sự và tôn kính những hình tượng này. Một khi đã quy y Pháp Bảo, bạn không nên làm tổn hại chúng sinh, và nên từ bỏ thái độ bất kính ngay cả đối với một chữ (của Kinh điển), và luôn tỏ ra tôn kính. Một khi bạn đã quy y Tăng Bảo, bạn không nên thân mật với các tirthika (người ngoại đạo) và bạn bè vô đạo đức, và thậm chí hãy từ bỏ sự bất kính đối với những vị mặc y phục màu nghệ (tu sĩ Phật Giáo) và tỏ lòng tôn kính họ.

Hơn nữa, biết rằng mọi hạnh phúc và thịnh vượng, đức hạnh và điều tốt lành là kết quả của thiện tâm của Tam Bảo, hãy cúng dường miếng đầu tiên của thức ăn hay nước uống và v.v.. cho Tam Bảo. Và hãy cầu xin Tam Bảo cho bạn có được những lợi lạc nhất thời và tối hậu và không tin tưởng những người xem bói mo, những thầy tư tế đạo Bon và v.v.. Với mọi khả năng của bạn, hãy hướng dẫn những người khác quy y Tam Bảo. Hãy suy nghĩ ba lần ban ngày và ba lần ban đêm rằng bạn sẽ không từ bỏ Tam Bảo ngay cả khi đời bạn bị đe dọa và thậm chí không để cho lưỡi bạn phát ra một lời từ bỏ Tam Bảo. Và hãy quy y Tam Bảo tận đáy lòng bạn, ba lần vào ban ngày và ba lần vào ban đêm, bằng sự thấu suốt những phẩm tính và sự khác biệt của Tam Bảo, những cam kết của bạn và không chấp nhận những đối tượng quy y khác (không nói về những đối tượng quy y khác).

Nếu bạn tự hỏi: mặc dù nhờ quy y Tam Bảo, ta được bảo vệ không bị những đau khổ của các cõi thấp nhưng ở mặt khác, làm thế nào ta có thể vun trồng những nguyên nhân để được sinh vào những cõi cao? Để làm điều này, ta phải suy niệm về nguyên nhân và kết quả trắng và đen; mỗi hành vi đức hạnh và vô đạo đức thì rạch ròi từng cái một (hay không thể sai lầm), tăng lên gấp bội, hành động không được thực hiện thì không mang lại kết quả, hành động đã làm sẽ không bị tiêu mất. Nhờ suy niệm về tính chất của nhân và quả, hãy vun trồng đúng đắn những gì nên theo và những gì nên bỏ. Bởi chúng ta không thể chứng minh luật nghiệp quả chỉ bằng lý lẽ của sức mạnh của sự thật, nhưng như Kinh Định Vương nói:

Mặt trăng và những vì sao có thể rơi rụng,

Những ngọn núi và thung lũng có thể sụp đổ,

Và không gian có thể biến dạng,

Tuy nhiên, con đừng bao giờ nói những lời không thật.

Như đã nói, bạn có thể phát triển sự xác tín trọn vẹn nơi các giáo lý của Đức Phật từ đáy lòng bạn. Sau đó, hãy quán chiếu về những lời kệ sau:

Từ những ác hạnh dẫn tới đau khổ,

Vì thế, cả ngày lẫn đêm,

Chỉ suy niệm về “Làm cách nào giải thoát bản thân tôi khỏi những đau khổ này”,

Là điều thật đáng làm.

Và,

Niềm tin là cội gốc của mọi loại đức hạnh,

Như Đức Phật đã nói,

Cội gốc của đức hạnh nằm ở

Việc thiền định liên tục về sự thuần thục (quả chin mùi).

Nói chung, như đã nói, chúng ta nên từ bỏ mọi ác hạnh và đặc biệt là nên suy niệm (về ba loại nghiệp quả:) sự thuần thục của việc dấn mình vào mười ác hạnh – nặng nề, trung bình, và nhỏ - dẫn tới việc sinh vào các cõi thấp, những kết quả/hậu quả không vui như những kết quả/hậu quả tương ứng với nguyên nhân của nó và những hậu quả thuộc về sự sở hữu và môi trường.

Chương Chân lý nói:

Ồ, Đức Vua, ông không nên sát sinh,

Mọi chúng sinh đều yêu quý sinh mạng của họ,

Vì thế, bất kỳ ai ước muốn kéo dài đời mình,

Thậm chí đừng nghĩ tới việc sát sinh.

Như có nói, ta nên cương quyết không làm những hành vi hoàn toàn ác độc (đáng bị luật lệ khiển trách) chẳng hạn như sát sinh và không để cho ngay cả những tư tưởng về hành động như thế phát khởi trong tâm ta và cố gắng không lập lại điều đó; và vun trồng những hành vi hoàn toàn tốt lành bằng cách từ bỏ việc sát sinh và v.v.. Vị Thầy Tôn kính nói:

Chẳng có gì bảo đảm là con không bị sinh trong những cõi thấp sau khi con chết,

Chắc chắn là Tam Bảo có năng lực bảo vệ con khỏi nỗi sợ hãi này.

Vì thế, hãy quy y Tam bảo và

Đừng để những giới luật quy y của con suy tàn.

Hơn nữa, điều đó phụ thuộc vào việc thực hành đúng đắn vun trồng những gì nên theo và nên bỏ,

Bằng cách suy niệm về nguyên nhân và hậu quả trắng và đen.

Nhờ tuân theo những giới hạnh của việc từ bỏ mười ác hạnh, bạn có được một tái sinh cao quý. Tuy nhiên, để thành tựu con đường dẫn tới sự toàn trí, bạn nên đạt được một tái sinh có tám phẩm tính của nghiệp chín mùi[5] chẳng hạn như có dòng dõi gia đình ưu tú và diện mạo tuấn tú. Để đạt được tái sinh này, bạn nên nuôi dưỡng chánh niệm và vun trồng những nguyên nhân như không làm tổn hại chúng sinh, cúng dường đèn bơ, quần áo mới, và v.v.., tôn kính những người khác nhờ khắc phục tánh kiêu ngạo của bạn.

Tuy nhiên, nếu vì quá nhiều mê lầm và v.v.., bạn bị ô nhiễm/vấy bẩn bởi những điều thất đức và đạo đức sa sút, bạn không nên biểu lộ thái độ dửng dưng đối với chúng, thay vào đó, bạn nên phục hồi những sa sút phù hợp với hoàn cảnh và tịnh hóa những điều thất đức bằng phương tiện của bốn năng lực đối kháng.[6] Và hãy nỗ lực liên tục để không bị ô nhiễm bởi những điều thất đức và sa sút về thân, ngữ, và tâm của bạn. Vị Thầy Tôn kính nói:

Trừ phi bạn có được một tái sinh hội đủ điều kiện,

Sẽ chẳng có chút hy vọng gì để thành tựu con đường tuyệt hảo,

Vì thế, đừng chểnh mảng, hãy vun trồng những nguyên nhân.

Đặc biệt là hãy coi trọng việc tịnh hóa

Những nghiệp chướng của ba cửa bị hành hạ bởi những điều thất đức và tràn đầy ô uế

Bằng cách thường xuyên vun trồng bốn năng lực đối kháng.

Nhờ thiền định theo cách này, bất kỳ khi nào bạn phát triển một sự quan tâm chân chính hay không giả tạo tới sự toàn thiện và những kỳ diệu của những đời sau bằng cách chuyển tâm bạn khỏi cuộc đời này, khi ấy bạn đã thành công trong việc tu tập con đường của người hạ căn.

B)    Những Tu tập Thông thường của Con Đường của Người Trung Căn

Mặc dù nhờ từ bỏ mười ác hạnh và vun trồng mười thiện hạnh, ta có thể có được một tái sinh ở những cõi cao, nhưng ta sẽ không thoát khỏi những đau khổ của sinh tử. Vì thế, ta nên đạt Niết Bàn, sự giải thoát khỏi mọi đau khổ của sinh tử.

Nếu ta tự hỏi làm thế nào toàn bộ sinh tử thì đau khổ tự bản chất? Những đau khổ của ba cõi thấp đã được giải thích ở trên. Tuy nhiên, trong văn cảnh này, bạn nên suy niệm với một tiếp cận hơi khác một chút. Sau khi suy niệm những đau khổ riêng biệt của những cõi thấp, bạn nên suy niệm: “Ta không thể chịu đựng nổi những đau khổ lớn lao và kéo dài dằng dặc như thế và bằng mọi cách ta phải đạt được giải thoát khỏi mọi đau khổ.”

Ngoài những đau khổ của các cõi thấp, toàn bộ những đau khổ của sinh tử, dù cao hay thấp, cũng không vượt qua được bản chất đau khổ. Trong trường hợp loài người, khi ở trong thai tạng của người mẹ, người ấy phải chịu đựng sự tối tăm, những mùi hôi hám, đầy những chất dơ dáy và v.v… Trong tuần thứ ba mươi tám, bị sai sử bởi gió của nghiệp lực đời trước, thai nhi phải chịu đau đớn như thể bị lôi qua một cái lỗ bằng một cái mỏ cặp (ê-tô) hay bị ép như một hạt mè. Và khi sinh ra, ngay cả khi được giữ trong một miếng vải mềm, đứa bé phải chịu đau khổ như thể bị rơi vào giữa những cây gai. Những đau khổ của việc sinh ra là như thế.

Người ấy trở thành một thanh niên, và từ từ, lưng người ấy còng xuống như một cây cung, đầu trở nên bạc trắng như hoa tawa (spra-bai’I me-tog; thuật ngữ khoa học: aeschynomene grandiflora), và trán đầy những vết nhăn giống như một mảnh da được lạng mỏng. Ông ta ngồi như thể sợi dây buộc một vật nặng bị đứt và ông đứng như thể đang kéo rễ của một thân cây. Ông đi đứng loạng choạng và nói năng lắp bắp. Ông không thể nhìn và nghe rõ ràng bằng mắt và tai của mình. Thân thể ông mất đi vẻ đẹp rực rỡ và trông như một xác chết. Ông mau quên vì ký ức bị suy sụp. Ông không thể tiêu hóa đồ ăn và thức uống một cách thích đáng, và không thể ăn uống như ước muốn. Đời ông hầu như cạn kiệt. Những đau khổ của tuổi già là như thế và ông nhanh chóng tiến gần tới cái chết.

Khi sự hòa hợp của các yếu tố (các đại) của thân thể bị rối loạn, ông bị bệnh. Da ông khô và thịt nhão ra. Ông phải tránh mọi đồ ăn và thức uống vừa ý khi nghi ngờ chúng có thể ảnh hưởng tới bệnh tật. Thay vào đó, ông phải dùng thực phẩm, nước uống, thuốc men khó ưa và phải trải qua những cách điều trị khắc nghiệt như trích máu và đốt bằng ngải cứu. Nếu bệnh không thể chữa trị thì ông trải nghiệm vô số đau khổ. Những đau khổ của bệnh tật là như thế.

Nếu ông bị những căn bệnh chết người, ông biết mình đang chết. Ông ân hận về những ác hạnh đã làm trong quá khứ. Ông nhớ lại là ông đã lãng phí đời người của mình. Ông biết rằng ông phải rời khỏi thân thể mình và những bạn đồng hành như bạn bè, thân quyến và những người phục vụ. Miệng ông khô, lưỡi quắt lại, mũi xẹp xuống, đôi mắt mờ dần, và hơi thở hổn hển. Ông chịu đựng nỗi sợ những đau khổ dữ dội của các cõi thấp. Mặc dù ông không muốn chết nhưng những đau khổ của cái chết thì như thế.

Một vài người gặp những kẻ thù khó chịu như những tên trộm cướp và mất tất cả thực phẩm và của cải của họ. Thân thể họ bị đánh đập hay bị vũ khí, dùi cui v.v.. chọc thủng. Một số bị các vị vua và v.v.. hành hạ bằng những hình phạt khác nhau. Hoặc một số người đau khổ vì nghe những tin tức khủng khiếp. Những đau khổ của việc gặp những đối tượng không ưa là như thế.

Việc phải xa lìa mọi thực phẩm và của cải mà ta đã thâu thập bằng cách bất chấp mọi công việc khó nhọc và những đồn đại ác ý, và việc phải xa rời những đối tượng như những người thân thiết là những đau khổ của việc xa lìa những đối tượng yêu quý.

Đau khổ của việc không tìm được những đối tượng mong muốn có nghĩa là, ví dụ thế, trong trường hợp của các cư sĩ, mặc dù họ làm việc cực nhọc trong nông trại, do bị hạn hán, sương giá, mưa đá và v.v.., họ không có được một mùa bội thu như mong ước. Nếu là thương gia, họ có thể mất hàng hóa hay không có lợi và tiền lời và v.v.. Trong trường hợp của các tăng và ni, họ đau khổ vì không tuân giữ được giới hạnh của họ.

Chừng nào mà ta có được uẩn thích hợp này của sự tái sinh làm người, ta phải đối mặt với nỗi khổ của bệnh tật, tuổi già, sự chết và v.v.. Đời người này đem lại những đau khổ cho các đời sau của ta. Nó trở thành chiếc bình chứa đựng khổ khổ và khổ do sự biến hoại (hoại khổ). Tự bản chất, đó là đau khổ rộng khắp; vì thế đời người này hoàn toàn không hạnh phúc mà chỉ có bản tánh đau khổ.

Trong trường hợp của những bán-thần, họ chặt đứt và làm thân thể họ bị thương và đau khổ dữ dội. Trong trường hợp của các vị trời của dục giới,[7] khi năm dấu hiệu của cái chết[8] hiển lộ, họ đau khổ còn hơn chúng sinh trong cõi địa ngục. Khi họ thất vọng, bị trục xuất khỏi chỗ ở và v.v..., nỗi khổ mà họ kinh nghiệm thật không thể kể xiết. Những vị trời phàm tục của các cõi cao (thuộc sắc giới và vô sắc giới) không có khổ khổ, tuy nhiên, ba định đầu tiên của sắc giới có đau khổ vì sự biến hoại (hoại khổ), và định thứ tư và các cõi vô sắc thì có nỗi khổ rộng khắp không thể chịu đựng nổi giống như bị bệnh áp-xe (phol-mig) đau đớn dữ dội.

Sau khi suy nghĩ về những đau khổ nói chung và đặc biệt này của sinh tử, ta nên nghĩ: “Tôi phải đạt được trạng thái giải thoát khỏi những đau khổ này bằng mọi cách.”

Thật ra, không thể đạt được trạng thái giải thoát mà không có những nguyên nhân và điều kiện (duyên). Vì thế, ta nên tu hành một cách đúng đắn ba tu tập cao (tam học: giới, định, tuệ), phương tiện để đạt được trạng thái giải thoát. Nói cách khác, ta nên tu hành trì giới, là nền tảng cần thiết của hai tu tập kia (định và tuệ). Về mặt này, trước tiên, ta nên đề phòng mọi sự sa sút đạo đức có thể có bằng cách sử dụng chánh niệm để phân tích một cách thận trọng mọi cánh cửa dẫn tới những sa sút đạo đức[9] chẳng hạn như sự vô minh. Nếu điều đó đã xảy ra, đừng phí thời giờ mà hãy lập tức sám hối những vi phạm và quyết định tự chế theo con đường ngay thẳng. Vì thế, hãy nỗ lực và thiền định về những cách đối trị những mê lầm và không bị ô nhiễm bởi các sa sút đạo đức. Bất kỳ hành động và hoạt động nào bạn làm, bạn không nên mâu thuẫn với những lời dạy của Đức Phật và không nên gây rắc rối/làm bẽ mặt bạn. Vị Thầy Tôn kính nói:

Nếu bạn không nỗ lực suy niệm về những lỗi lầm của chân lý về đau khổ (Khổ đế),

Một ước muốn giải thoát chân chính sẽ không phát khởi.

Nếu bạn không suy niệm về làm thế nào những nguồn mạch của đau khổ (Tập đế) dẫn tới sinh tử,

Bạn sẽ không thể hiểu được cách tiệt trừ cội gốc của sinh tử (Đạo đế),

Vì thế, hãy vun trồng sự từ bỏ (xả ly) đối với sinh tử,

Và nhận ra điều gì trói buộc bạn trong sinh tử.

Vì thế, bất kỳ khi nào bạn phát triển một tâm thức để giải thoát bản thân bạn khỏi toàn bộ sinh tử giống như một người bị mắc kẹt trong ngôi nhà cháy rực ước muốn thoát khỏi căn nhà đó, khi ấy bạn đã thành công trong những tu tập con đường của người trung căn.

C)    Những Tu tập của Con Đường của Người Thượng Căn

Mặc dù ta đạt được giải thoát nhờ thực hành con đường tam học (giới, định và tuệ), nhưng như thế cũng chưa đủ. Dù bạn không lang thang trong sinh tử nữa nhờ đã đạt được sự giải thoát đơn thuần, tuy nhiên, bạn chỉ mới chiến thắng được phần nào những lỗi lầm của bạn và chỉ đạt được một phần đức hạnh. Vì thế, bạn không thành tựu lợi lạc toàn hảo của riêng bạn. Do bởi điều này, bạn chỉ có thể thành tựu những lợi ích không trọn vẹn cho chúng sinh. Do đó, bạn nên thành tựu trạng thái giác ngộ, sự hoàn thành trọn vẹn hai lợi ích toàn hảo.

Sau khi giác ngộ, bạn không nên nỗ lực cho những lợi lạc của riêng bạn, nhưng nỗ lực vì lợi ích của tất cả chúng sinh; bởi, giống như bạn bị rơi vào biển khổ, những người khác cũng thế, cũng bị hành hạ bởi những đau khổ, vì thế họ thật bất lực. Không có duy nhất một chúng sinh nào không từng là cha và mẹ bạn. Tất cả các chúng sinh đã từng là cha và mẹ bạn trong vô lượng kiếp và đã chăm sóc bạn với sự thiện tâm. Do đó, để giải thoát những chúng sinh tốt lành này khỏi những đau khổ và đặt họ trong trạng thái Niết bàn vô trụ tối thượng, bạn nên phát triển Bồ đề tâm.

Bạn nên phát triển Bồ đề tâm nhờ những giáo huấn bảy phần nhân quả. Những giáo huấn này như sau. Nhờ nhận ra rằng tất cả chúng sinh đã từng là mẹ của bạn, bạn tưởng nhớ tới thiện tâm của họ rồi tiến tới việc đền đáp thiện tâm của chúng sinh; điều đó phát triển sự tỉnh giác; từ đó tiến tới lòng từ và bi đem lại một thái độ chân thực hiếm có; và từ thái độ này dẫn tới Bồ đề tâm. Đó là nhóm bảy phần nhân quả từ đó đi tới sự toàn trí.

Trước khi thực hành những điều này, bạn nên điều phục tâm bạn môt cách bình đẳng đối với tất cả chúng sinh bằng cách thiền định về sự xả bỏ. Bởi nếu bạn biểu lộ cảm xúc đầy định kiến về sự thân thiết, trung tính, và xa cách đối với chúng sinh, bạn không thể phát triển một nhận thức đúng đắn rằng tất cả chúng sinh đã từng là mẹ của bạn. Ngay cả một chút lòng từ và bi bạn đã phát triển cũng có phần nào thiên vị. Vì thế, trước tiên, bạn nên thiền định về tâm xả.

Phương pháp thiền định như sau. Trước tiên hãy quán tưởng chúng sinh khác nhau không làm lợi ích cho bạn mà cũng không làm hại bạn trong đời này. Từ góc độ của họ, mỗi người trong họ đều giống nhau ở điểm là mong muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Về phần bạn, hãy thiền định bằng cách suy nghĩ: “Họ hoàn toàn là những thành viên trong gia đình tôi bởi họ từng là cha và mẹ tôi, vì thế tôi không nên coi một vài người là thân thiết bằng cách làm lợi lạc cho họ mà cũng không coi một vài người là xa lạ bằng cách làm hại họ. Thay vào đó bạn nên điều phục tâm bạn một cách bình đẳng đối với những thành viên thân thiết của gia đình bạn trong đời này, và sau đó đối với những người đã làm hại bạn trong đời này. Như thế, hãy phát triển tâm xả bằng cách điều phục tâm bạn một cách bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Sau khi phát triển tâm xả, bạn nên suy niệm rằng bởi sinh tử không có lúc bắt đầu nên những tái sinh của bạn cũng không có lúc khởi đầu. Vì thế không có nơi nào mà bạn có thể nói là mình không từng sinh ra, và bạn cũng không thể nói chúng sinh nào không từng là mẹ bạn. Trong thực tế, mỗi một và mọi chúng sinh đã từng là mẹ của bạn vô số lần. Bởi sự biến đổi của việc sinh ra và chết đi, bạn không nhận ra họ, nếu không, bạn không thể tìm ra một người nào trong cõi chúng sinh mà không từng là cha mẹ của bạn. Mỗi lần họ là cha mẹ bạn, họ đã biểu lộ lòng tốt đối với bạn giống như cha mẹ bạn trong đời này. Vì thế, họ hết sức tử tế.

Bà mẹ trong đời này biểu lộ thiện tâm với bạn ra sao? Khi bạn ở trong thai tạng của bà mẹ hiện tại, bà chỉ nghĩ tới việc làm thế nào che chở và chăm sóc bạn, lo sợ điều gì đó có thể làm hại bạn. Sau khi bạn ra đời, bà đặt bạn ở một chỗ êm ái và bao bọc bạn trong những bộ quần áo mềm mại, ôm bạn trong tay, nhìn bạn bằng đôi mắt thương yêu, mỉm cười với bạn một cách âu yếm, cho bạn bú sữa mẹ bằng tình thương và ôm chặt bạn để truyền hơi ấm cho bạn. Bà dùng lưỡi mớm cho bạn ăn, dùng miệng lau nước mũi cho bạn, và dùng tay chùi sạch phân của bạn. Khi bạn bị bệnh nhẹ, bà còn đau khổ hơn cả việc đời bà bị lâm nguy. Bởi không màng tới những công việc nhọc nhằn, hạnh phúc và đau khổ của bà, bà cho bạn mọi sự bà thâu thập được. Tóm lại, bà che chở bạn bằng mọi cách có thể được. Theo cách này, bạn nên cảm nhận sâu sắc lòng tốt mà bà mẹ hiện tại của bạn biểu lộ với bạn.

Cũng với cách tiếp cận ấy, bạn nên quán tưởng những thành viên thân thiết trong gia đình và bạn hữu trong đời này, kế đó là những người không làm lợi mà cũng không làm hại bạn, rồi tới những người làm hại bạn trong đời này. Hãy nghĩ mỗi người trong số đó đã từng làm mẹ của bạn vô số lần ra sao và làm thế nào mỗi người trong họ đã từng làm mẹ của bạn trong vô số lần bạn tái sinh làm người. Mỗi lần họ làm mẹ của bạn, họ đã che chở cho bạn giống như người mẹ trong đời này của bạn đã làm. Bởi họ đã từng biểu lộ vô lượng thiện tâm với bạn nên họ hoàn toàn tử tế.

Tuy nhiên, những bà mẹ chúng sinh này, những người đã nuôi dưỡng bạn vô số lần, do bị quỷ ma của những cảm xúc phiền não quấy nhiễu nên tâm họ trở nên điên đảo mà không có chủ tâm. Đôi mắt quán chiếu của họ mù lòa và họ không có mắt để nhận ra những con đường dẫn tới tái sinh cao, sự giải thoát, và giác ngộ. Họ không có vị Thầy tâm linh, người dẫn dắt những kẻ mù lòa, để đưa họ tới cung thành giải thoát. Trong mỗi giây phút, họ vô tình và rối trí bởi những hành vi xấu ác, và loạng choạng hướng về những vực thẳm của sinh tử ghê sợ và tái sinh thấp kém. Hãy nghĩ: “Tôi là đứa con để những bà mẹ đau khổ đáng thương và bất lực này nương tựa, nếu không thì những bà mẹ này sẽ nương cậy vào ai? Nếu tôi không nhận trách nhiệm giải thoát những bà mẹ này thì ai sẽ nhận đây? Thật là xấu hổ và ngượng ngùng nếu tôi không quan tâm tới những bà mẹ tử tế này và chỉ làm việc cho sự giải thoát khỏi sinh tử của cá nhân tôi. Cho dù những bà mẹ này đạt được những kết quả hạnh phúc của sinh tử chẳng hạn như những trạng thái của Trời Phạm Thiên, Đế Thích v.v.. hạnh phúc của họ sẽ không kéo dài vĩnh viễn. Vì thế, giờ đây tôi không nên quan tâm tới bản thân, và bằng mọi phương tiện có thể có được, cầu mong tôi an lập vô lượng chúng sinh bao la như không gian trong hạnh phúc vô song của sự giải thoát bằng cách giải thoát họ khỏi những đau khổ của sinh tử.”

Và hãy suy nghĩ xa rộng hơn: “Kỳ diệu biết bao nếu tất cả những bà mẹ chúng sinh bất hạnh này được hạnh phúc. Cầu mong họ được hạnh phúc. Cầu mong họ được hạnh phúc bằng mọi phương tiện. Chính tôi sẽ làm cho họ được hạnh phúc. Kỳ diệu biết bao nếu tất cả chúng sinh, những người bị đau khổ dày vò, được giải thoát khỏi đau khổ. Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ. Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ bằng mọi cách. Chính tôi sẽ làm cho họ thoát khỏi đau khổ.”

Tuy nhiên, bạn có năng lực để thành tựu những điều này không? Hãy suy niệm bằng cách nghĩ: “Chưa nói gì tới tất cả chúng sinh, tôi không có năng lực để an lập một người trong hạnh phúc vô song bằng cách giải thoát người ấy khỏi những đau khổ của sinh tử. Tuy nhiên, tôi đã quyết định làm như thế và nếu tôi bỏ qua quyết định này thì tôi sẽ đọa vào những cõi thấp. Bởi chỉ một mình Đức Phật mới có thể giải thoát tất cả chúng sinh khỏi những đau khổ và có thể an lập họ trong hạnh phúc vô song, vì thế, để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi mọi loại đau khổ và an lập họ trong hạnh phúc vô song, cầu mong tôi đạt được trạng thái Phật quả hoàn toàn viên mãn bằng mọi phương tiện.”

Chỉ khao khát Bồ đề tâm không thôi thì không đủ. Ta nên tu hành bốn tu tập sau đây: 1/ Nhớ lại những lợi ích của Bồ đề tâm, tu tập này giúp tăng trưởng năng lực của nhiệt tâm và khiến Bồ đề tâm không suy hoại trong đời này, 2/ Phát triển Bồ đề tâm sáu thời mỗi ngày, tu tập này giúp tăng trưởng Bồ đề tâm thực sự, 3/ Không từ bỏ chúng sinh là những người mà vì họ bạn đã phát triển Bồ đề tâm, và 4/ Tích lũy công đức.

1/ Tu tập Nhớ lại những Lợi ích của Bồ đề tâm

Giây phút bạn phát triển Bồ đề tâm, bạn trở thành đối tượng của lòng sùng mộ của toàn thể nhân loại và các vị trời, bạn chiếu sáng các vị Thanh Văn và Độc Giác từ quan điểm của dòng truyền thừa, bạn không bị quấy rầy bởi những bệnh dịch và những tinh linh xấu, bạn có thể thành tựu mọi hoạt động chẳng hạn như những hoạt động an bình, bạn sẽ không bị sinh vào những cõi thấp, trong trường hợp bạn bị sinh ra ở đó bạn sẽ lập tức thoát khỏi, và bạn có thể chiến thắng ngay cả những hành vi xấu ác dữ dội nhất. Có câu nói là nếu những lợi ích của Bồ đề tâm được cụ thể hóa thành hình tướng thì không gian không chứa nổi nó. Vì thế, ta nên suy niệm về việc đừng để Bồ đề tâm suy tàn mà hãy phát triển nó.

2/ Tu tập Phát triển Bồ đề tâm Sáu Thời Mỗi ngày

Nghiệp chín mùi của việc từ bỏ Bồ đề tâm ngay cả trong một thời gian ngắn thì nặng nề hơn nghiệp của việc vi phạm những sa sút gốc (trọng giới). Vì thế, cho tới khi thành Phật, bạn không nên từ bỏ Bồ đề tâm. Bạn nên phát triển Bồ đề tâm bằng cách tụng bài kệ sau đây ba lần mỗi thời, ba thời vào ban ngày và ba thời vào ban đêm:

Trước Phật, Pháp và Tăng,

Con quy y cho tới khi con giác ngộ,

Nhờ tích tập thực hành bố thí và v.v..

Cầu mong con thành tựu Phật quả vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

3/ Tu tập Không Từ bỏ Chúng sinh

Vì bạn đã phát triển Bồ đề tâm vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, bạn nên suy niệm rằng cho dù họ hành xử ra sao, về phần bạn, bạn không nên từ bỏ Bồ đề tâm.

4/ Tu tập Tích lũy Công đức

Một khi Bồ đề tâm đã phát triển trong tâm bạn thì không nên để nó suy tàn mà hãy phát triển nó bằng cách tích lũy công đức chẳng hạn như cúng dường Tam Bảo. Để không làm suy hoại Bồ đề tâm trong những đời sau của bạn, bạn nên từ bỏ bốn pháp đen và vun trồng bốn pháp trắng. Bốn pháp đen là:

Nói dối hay lừa dối Tu viện trưởng hay vị Thầy tâm linh của bạn hay bất kỳ người nào khác là đối tượng của sự tôn kính là pháp đen thứ nhất. Vì thế, bạn không nên làm điều đó mà hãy vun trồng cách đối trị nó, không nói dối bất kỳ chúng sinh nào ngay cả khi nói đùa hay để cứu một sinh mạng.

Pháp đen thứ hai là làm cho người nào đó hối tiếc việc thành tựu những đức hạnh. Bạn đừng bao giờ làm điều đó mà như một cách đối trị cho hành động đó, bạn nên đưa người đó tới sự thuần thục của Đại thừa thay vì Tiểu thừa, nếu người ấy là một bình chứa (Pháp khí) thích hợp.

Pháp đen thứ ba là nói những điều khó chịu một cách căm thù với người đã phát triển tâm Đại thừa. Bạn không nên làm điều đó mà hãy coi người ấy như một vị Phật, và nếu có thể thì tùy theo hoàn cảnh, hãy tán thán những phẩm tính của người ấy và cũng tu hành sự tỉnh giác về thị kiến thanh tịnh đối với tất cả chúng sinh.

Pháp đen thứ tư là biểu lộ những thái độ giả dối đối với chúng sinh. Bạn không nên làm điều đó mà nên biểu lộ thái độ chân thành đối với chúng sinh.

Đạo sư Tôn quý nói:

Bồ đề tâm là thân của con đường của cỗ xe (thừa) tuyệt hảo,

Là nền tảng và nơi nương tựa của những người dấn mình vào những hành vi vĩ đại,

Bồ đề tâm như một thần dược đối với hai tích tập (công đức và trí tuệ),

Là kho công đức chứa vô số đức hạnh,

Hiểu rõ điều này, Con cái dũng cảm của các Đấng Chiến Thắng,

Hãy gìn giữ tâm quý báu tuyệt hảo này như hứa nguyện chính trong trái tim.

Chỉ tu hành tâm khát khao giác ngộ (Bồ đề tâm nguyện) có đủ không? Không, điều đó không đủ. Thêm vào đó, bạn nên lập những lời nguyện của tâm thực hành giác ngộ (Bồ đề tâm hạnh) và tu tập những công hạnh vĩ đại của một Bồ Tát. Để làm thuần thục dòng tâm thức của bạn, bạn nên tu tập sáu ba la mật (sáu toàn thiện) và để làm thuần thục dòng tâm thức của chúng sinh, bạn nên tu tập bốn cách để tập họp đệ tử.

I)    Tu tập Sáu Ba la mật để làm Thuần thục Dòng Tâm thức của Bạn

1.Làm thế nào Tu tập Bố thí Ba la mật

Được thúc đẩy bởi tư tưởng thành tựu Phật quả vì lợi ích của tất cả chúng sinh, bạn nên rộng rãi trong việc hiến tặng những giáo lý không sai lầm của Đức Phật cho những người cần tới Pháp, đem lại sự vô úy (không sợ hãi) cho những người sợ hãi nhà vua, chiến trận và v.v.., cho những người e sợ những thế lực sinh động như quỷ ma, dã thú, rắn và v.v.., cho những người sợ hãi những thế lực vô tri như lửa, nước và v.v.., và bố thí đồ ăn, thức uống, thuốc men và v.v.. cho những người túng thiếu. Tóm lại, không chút do dự, bạn nên hiến tặng thân thể, của cải, và mọi cội gốc đức hạnh mà bạn đã tích tập trong ba thời. Trong cách thế tương tự, Đạo sư Tôn kính nói:

Bố thí là viên ngọc như ý làm hài lòng những hy vọng của chúng sinh,

Là vũ khí tuyệt hảo chặt đứt sự trói buộc của tánh bủn xỉn,

Là công hạnh đầy cảm hứng phát triển lòng can đảm không vơi cạn cho chư vị Bồ Tát,

Là nền tảng của vinh quang vang động khắp mười phương,

Hiểu rõ điều này, những bậc uyên bác vun bồi con đường cao quý

Của sự bố thí thân thể, của cải và đức hạnh của bản thân. 

2.      Làm thế nào Tu tập Trì Giới Ba la mật

Bạn nên đạt được Phật quả vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Vì mục đích này, bạn nên luôn luôn chánh niệm, tận tâm và có một cảm thức xấu hổ và ngượng ngùng và không nên làm những ác hạnh ngay cả vì mạng sống của bạn. Bằng giới hạnh tự chế không làm những ác hạnh, bạn nên tăng cường những thực hành sáu ba la mật. Bằng hai thái độ (được đề cập ở trên), bạn nên thành tựu những lợi lạc không lỗi lầm vì lợi ích của chúng sinh. Vì thế, hãy tu tập ba giới hạnh.[10]  Đạo sư Tôn quý đã khuyên:

Giới là nước rửa sạch những vết nhơ của các ác hạnh,

Là ánh trăng làm an dịu hơi nóng dày vò của những mê lầm,

Oai nghiêm như Núi Tu Di giữa chúng sinh, người giữ giới

Không cần chế ngự mà được chúng sinh quy phục,

Hiểu rõ điều này, bậc đáng kính giữ gìn điều thiện lành

Coi giới luật như đôi mắt họ.

3. Làm thế nào Tu tập Nhẫn nhục Ba la mật

Bạn không nên giận dữ khi có ai làm hại bạn, bởi sự tổn hại mà người ấy làm cho bạn là một nghiệp quả của việc bạn đã làm hại họ trong đời trước, và cũng bởi họ bất lực khi bị cơn giận của mình áp đảo, do đó việc bạn trả thù vì bị làm hại sẽ không thích hợp. Hơn nữa, một chốc lát giận dữ hủy diệt cội gốc công đức của ba nền tảng[11] đã được tích tập trong nhiều kiếp, vì thế hãy suy nghĩ: “Bằng mọi cách, tôi sẽ không để giận dữ in dấu trong tâm bạn.” Đây là nhẫn nhục trong việc giữ tâm an định đối với việc làm tổn hại.

Tổn hại mà người khác mang lại cho bạn khiến bạn đau khổ dữ dội. Điều này giúp bạn giảm bớt tánh kiêu ngạo, tự phụ, và v.v.. và giúp bạn từ bỏ sinh tử. Khi bạn không muốn đau khổ, bạn sẽ nghĩ rằng đau khổ đến từ những ác hạnh, và khi nghĩ rằng nếu không có nhân thì sẽ không có quả, bạn sẽ không dấn mình vào những ác hạnh. Bạn sẽ suy nghĩ xa hơn rằng khi có người làm hại bạn, nếu bạn vun trồng tánh nhẫn nhục thì những ba la mật khác cũng được phát triển và bạn nhanh chóng đạt được giác ngộ. Vì thế, người làm hại bạn đang cho bạn một lời chỉ dạy để vun bồi tánh nhẫn nhục, và do đó, bạn coi người ấy như vị Thầy tâm linh của bạn và bạn sẽ cảm thấy biết ơn người ấy. Đây là nhẫn nhục chấp nhận đau khổ.

Nhờ nhận ra năng lực không thể nghĩ bàn của Tam Bảo, chư Phật và chư Bồ Tát, bạn ước muốn tu tập những công hạnh của các Bồ Tát và hiểu biết về ý nghĩa của lòng vị tha với lòng sùng mộ trọn vẹn. Đây là nhẫn nhục để có được sự đảm bảo nơi Tam Bảo, là điều bạn nên thực hành tự đáy lòng bạn. Đạo sư Tôn kính cũng nói:

Nhẫn nhục là vật trang sức đẹp đẽ nhất dành cho những người mạnh mẽ,

Là khổ hạnh tuyệt hảo đối với những phiền não dày vò,

Là chim garuda (Kim xí điểu), kẻ thù của loài rắn hận thù,

Là áo giáp ngăn ngừa những mũi tên của sự chỉ trích,

Hiểu rõ điều này, với những phương tiện khác nhau,

Hãy vun trồng áo giáp nhẫn nhục tuyệt vời.

4. Làm thế nào Tu tập Tinh tấn Ba la mật

Nếu bạn bị dính mắc vào những lạc thú thấp kém như những hoạt động vô ích của ba cửa (thân, ngữ, tâm), sự tà dâm, ngủ nghỉ và v.v.. và không thiền định về những nỗi khổ trong sinh tử, điều đó sẽ mang lại sự lười biếng. Vì thế, bạn nên từ bỏ những nguyên nhân gây ra sự lười biếng và hoàn toàn hiến mình cho những hoạt động đức hạnh của thân, ngữ, và tâm.

Tinh tấn-như áo giáp là dấn mình vào những khổ hạnh mà không suy nghĩ về thân thể và cuộc đời bạn để giải trừ những đau khổ của ngay cả một chúng sinh. Nhờ tu tập này, nếu bạn tăng cường thực hành sáu ba la mật, thì đó là thực hành tinh tấn tích tập các đức hạnh. Nhờ hai thực hành này, nếu bạn hoàn toàn hiến mình để thành tựu những lợi lạc không lỗi lầm cho chúng sinh, thì đó là tinh tấn làm việc vì chúng sinh. Đạo sư Tôn kính cũng nói:

Nếu ta mặc áo giáp tinh tấn kiên định,

Những đức hạnh của sự hiểu biết Kinh điển và trí tuệ tăng trưởng như vầng trăng tròn,

Mọi con đường của các hoạt động sẽ trở nên ý nghĩa,

Mọi công việc đã bắt đầu sẽ hoàn toàn thành tựu như ước muốn,

Chư Bồ Tát, hiểu rõ điều này, để tiệt trừ tánh lười biếng,

Hãy dấn mình vào thực hành đại tinh tấn.

5. Làm thế nào tu tập Thiền định Ba la mật

Được Bồ đề tâm thúc đẩy và thoát khỏi sự xao lãng và phấn khích, ta nên tu tập hai loại thiền định: thiền định thế tục và thiền định xuất thế, ba hình thức thiền định từ quan điểm của sự định hướng: thiền an định (thiền chỉ), nội quán đặc biệt (thiền quán) và sự hợp nhất của thiền an định và thiền nội quán đặc biệt, và ba loại thiền định từ quan điểm của chức năng: thiền định giúp an trú trong kinh nghiệm hỉ lạc thuộc thân và tâm trong đời này, thiền định giúp thành tựu những phẩm tính cao hơn, và thiền định giúp thành tựu hạnh phúc của chúng sinh. Đạo sư Tôn quý cũng nói:

Thiền định là vị vua cai quản tâm thức,

Khi được làm kiên cố, thiền định an trụ bất động như vua của những núi non,

Khi được hướng dẫn, thiền định tham gia vào mọi đối tượng của tâm đức hạnh,

Và mang lại hỉ lạc hữu dụng cho thân và tâm,

Hiểu rõ điều này, những hành giả vĩ đại luôn nương tựa vào samadhi (thiền định),

Là người hủy diệt kẻ thù - những phóng dật của tâm thức.

6. Làm thế nào tu tập Trí tuệ Ba la mật

Được Bồ đề tâm thúc đẩy, bạn nên tu tập ba loại nội quán (trí tuệ): Nội quán nhận ra bản tánh tối hậu – sự chứng ngộ thực tại – nhờ đó tiệt trừ cội gốc của sinh tử, nội quán nhận ra chân lý quy ước, và nhờ hai loại nội quán này, bạn thành tựu những lợi lạc của chúng sinh, vì thế đó là nội quán làm lợi ích chúng sinh. Đạo sư Tôn quý cũng nói:

Nội quán (trí tuệ) là con mắt để nhận ra như thị (tánh Không) sâu xa,

Là con đường tiệt trừ cội gốc của sinh tử,

Là kho tàng đức hạnh được tán thán trong mọi Kinh điển,

Nổi danh là ngọn đèn tuyệt hảo xua tan bóng tối vô minh,

Hiểu rõ điều này, những bậc uyên bác tìm kiếm giải thoát,

Hiến dâng mọi nỗ lực để phát triển con đường.

II) Tu tập Bốn Cách Tập họp Đệ tử để làm Thuần thục dòng Tâm thức của Chúng sinh

Được thúc đẩy bởi Bồ đề tâm, trước tiên, nhờ thực hành bố thí vật chất (tài thí), bạn nên tập hợp chúng sinh như các đệ tử của bạn. Sau đó, để làm hài lòng họ và làm họ thoải mái, bạn nên biểu lộ một khuôn mặt vui tươi và nói năng dịu dàng với họ. Kế đó, bạn nên dạy Pháp làm vui tai họ như sáu ba la mật. Sau đó, hãy dạy họ cách thực hành những giáo lý bạn đã dạy. Tiếp theo, bạn cũng nên nhất quán đối với giáo lý bạn giảng dạy và thực hành bạn làm, nghĩa là bạn nên sống và thực hành Pháp bạn đã dạy họ chẳng hạn như sáu ba la mật.

Bằng mọi phương tiện, bạn nên tu tập bốn phương pháp sâu xa này để thành tựu những lợi lạc của chúng sinh.

Bởi sự chấp ngã là cội gốc của sinh tử, thiền định nhất tâm (định, thiền chỉ) không trực tiếp đối nghịch với cách hiểu biết về sự bám chấp đó nên chỉ một mình thiền định mà không có con đường nội quán (tuệ, thiền quán) thì không thể tiệt trừ cội gốc của sinh tử. Và chỉ một nội quán (tuệ, thiền quán) nhận thức vạn pháp không thực sự hiện hữu mà không có thiền an định (định, thiền chỉ) an trụ kiên cố và nhất tâm trên đối tượng của sự quan sát thì không thể chiến thắng được những cảm xúc phiền não, cho dù ta phân tích bao nhiêu chăng nữa. Để đạt được giải thoát, sự từ bỏ những cảm xúc phiền não, cái thấy (kiến) của ta – là cái nhận ra cách thức của thực tại tối hậu và không sai lầm của sự hiện hữu, sự thấu suốt ý nghĩa của tánh Không – nên cưỡi trên con ngựa của thiền an định kiên cố đối với đối tượng quan sát của nó; và ta nên mở rộng hay phát triển trí tuệ - là cái chứng ngộ thực tại nhờ vũ khí sắc bén của bốn suy diễn/lập luận của Madhyamika,[12] thoát khỏi những cực đoan của thuyết vĩnh cửu và hư vô – là cái phân tích cách thức thực sự của thực tại, nội quán hủy diệt mọi bám chấp cực đoan. Đạo sư Tôn quý nói:

Chỉ một mình thiền định nhất tâm

Không thể tiệt trừ cội gốc của sinh tử,

Nội quán (tuệ) mà không có con đường an định (định)

Không thể chiến thắng những cảm xúc phiền não, dù ta phân tích tới đâu chăng nữa.

Vì thế, nội quán quyết định cách thức hiện hữu,

Nên cưỡi con ngựa của thiền an định kiên cố, và

Nhờ vũ khí sắc bén của lập luận Trung Đạo, thoát khỏi những cực đoan,

Mọi bám chấp/quan điểm cực đoan đều bị hủy diệt.

Như thế với nội quán bao la phân tích đúng đắn,

Hãy mở rộng trí tuệ chứng ngộ thực tại.

Từ việc an trú trên đối tượng của sự quan sát một cách nhất tâm và kiên cố, ta thành tựu không chỉ sự kiên cố thiền định của thiền an định, mà nhờ an trú trong thiền định nhất tâm và sự phân tích đúng đắn ý nghĩa của thực tại bằng nội quán của sự phân tích cá nhân, ta phát triển sự kiên cố thiền định an trú vững chắc và nhất tâm trên cách thức hiện hữu, ý nghĩa của tánh Không. Khi nhận ra điều này, hãy nhận thức sâu sắc nỗ lực thành tựu sự hợp nhất như thế của thiền định và nội quán đặc biệt (thiền quán) thì kỳ diệu biết bao và hãy nỗ lực cầu nguyện để lưu lại những dấu vết trong dòng tâm thức của bạn. Đạo sư Tôn kính nói:

Chưa kể đến việc làm quen thuộc sự nhất tâm mang lại thiền định vững chắc,

Khi phân tích đúng đắn cách thức hiện hữu,

Bằng nội quán của nghiên cứu cá nhân,

Cũng phát triển thiền định an trụ vững chắc và kiên cố,

Nhìn thấy điều này, những nỗ lực để thành tựu sự hợp nhất của thiền định và nội quán đặc biệt (thiền quán) như thế

Thì kỳ diệu biết bao!

Nhờ an trú trong sự hợp nhất như thế của thiền an định và thiền nội quán đặc biệt ở đó tập trung một cách nhất tâm trên tánh Không như-không gian, là cái thoát khỏi mọi tạo tác của ý niệm. Sau đó trong trạng thái sau thiền định (hậu thiền định), ta nên thiền định về tánh Không như-huyễn giống như những tạo tác của một nhà ảo thuật, chúng xuất hiện mặc dù không có hiện hữu nội tại. Khi hợp nhất với lòng bi mẫn và Bồ đề tâm, thiền định này trở thành một thực hành hợp nhất phương pháp và trí tuệ, là cái dấn mình vào thực hành/công hạnh toàn hảo của một Bồ Tát, là điều đáng tán thán. Hiểu rõ điều này, không hài lòng với những con đường riêng lẻ thiếu sót của phương pháp và trí tuệ, nhưng tu tập con đường hợp nhất phương pháp và trí tuệ là truyền thống của những người may mắn. Vì thế, ta nên nỗ lực thực hành sự hợp nhất này. Đạo sư Tôn quý nói:

Việc thiền định tánh Không như-không gian của quân bình thiền định và tánh Không như-huyễn của hậu thiền định,

Dấn mình vào thực hành/công hạnh của một Bồ Tát

Với sự hợp nhất của phương pháp và trí tuệ thì đáng tán thán,

Hiểu rõ điều này, và không hài lòng con đường phiến diện,

Là truyền thống của những người may mắn.

Ta nên tu hành thật tốt đẹp những con đường thông thường của Kinh điển và tantra (Mật điển). Sau đó, không chút nghi ngờ, ta nên đi vào mantra (thần chú). Trước tiên, từ một vị Thầy kim cương đầy đủ phẩm tính, ta nên làm thuần thục dòng tâm ta bằng những quán đảnh như đã đề cập trong các loại tantra. Ta nên giữ gìn thật đúng đắn những cam kết và thệ nguyện đã lập khi nhận quán đảnh và tu tập pháp du già (yoga) với những dấu hiệu và pháp yoga không có các dấu hiệu trong trường hợp ba bộ tantra thấp; và lần lượt tu tập hai giai đoạn (phát triển và thành tựu) trong trường hợp tantra du già tối thượng. Theo cách này, ta tu tập toàn bộ những cốt tủy thiết yếu của con đường trọn vẹn của Kinh điển và Mật điển, và việc có được tái sinh làm người với sự nhàn nhã và thuận lợi trở nên tràn đầy ý nghĩa. Nhờ những thực hành như thế, ta nên làm lợi lạc bản thân ta và chúng sinh bằng những giáo lý quý báu của Đức Phật. Bản thân Đạo sư Tôn quý đã thiết tha thực hành và đã khuyên dạy chúng ta, những môn đồ của ngài, hãy thực hành tương tự. Bây giờ hãy quán tưởng rằng Đạo sư Tôn quý đang an tọa trước mặt bạn một cách hoan hỉ và chỉ dạy chúng ta bằng một giọng rõ ràng. Trên thực tế, tất cả chúng ta nên tụng bài “Bài Ca Tâm linh Lamrim” (Chứng Đạo Ca) [xin đọc tài liệu tham khảo ở cuối bài] với lòng tôn kính và khiêm tốn.

Đạo sư Tôn kính cũng nói:

 

Như thế, con đường thông thường, cần thiết cho cả hai

Thừa Nhân và Quả của Đại thừa, nên được phát triển,

Sau đó, nhờ sự che chở của một thuyền trưởng tài ba,

Hãy tiến vào đại dương các Mật điển và

Nhận những giáo huấn cốt tủy khẩu truyền trọn vẹn.

Đây là cách khiến cho tái sinh làm người có ý nghĩa.

Tôi, một hành giả, đã thực hành giống như cách này,

Các bạn, những người tìm kiếm giải thoát, cũng nên làm như thế.

 

Để làm thuần thục tâm ta,

Và cũng làm lợi lạc những người may mắn,

Ở đây, ta đã giảng nghĩa bằng ngôn ngữ dễ hiểu,

Con đường trọn vẹn làm hài lòng các Đấng Chiến Thắng,

Ta cầu nguyện và hồi hướng mọi công đức đã được tạo ra như thế,

Cho chúng sinh không xa lìa con đường thanh tịnh và cao quý,

Tôi, một hành giả, đã cầu nguyện theo cách này,

Các bạn, Ôi những kẻ tìm kiếm giải thoát, cũng hãy thực hành tương tự.

 

Bằng cách nghĩ rằng Đạo sư Tôn kính đã chỉ dạy như thế, bạn nên trì tụng những câu kệ hồi hướng sau đây từ tận đáy lòng bạn:

 

Từ nay cho tới mọi đời sau,

Xin gia hộ cho con thờ phụng dưới gót sen của ngài,

Xin gia hộ để con lắng nghe giáo lý của ngài, và

Xin gia hộ mọi hành động của ba cửa của con để làm vui lòng ngài v.v..

 

Nhờ năng lực của Đấng Chiến Thắng Tsongkapa và

Vị Thầy tâm linh mà từ ngài con nhận những giáo lý,

Cầu mong con không bao giờ xa rời dù chỉ một giây phút

Con đường siêu việt làm hài lòng chư Phật.

 

Cầu mong nhờ giáo huấn cốt tủy không lỗi lầm và trọn vẹn này,

Của Lamrim, giáo huấn cốt tủy,

Được Đức Dipamkara Atisha và Lạt ma Tsongkhapa giảng dạy,

Dẫn dắt mọi chúng sinh tới con đường làm hài lòng Đức Phật.

 Lời cuối sách: Như thế, “Tinh chất của Vàng Tinh luyện”, một nguyên lý chỉ đạo các giai đoạn của con đường giác ngộ của ba loại chúng sinh, được dựa trên “Bài Ca Tâm linh Lamrim” (1) của Đạo sư Tôn quý (Đức Tsongkhapa). Bản văn này được sắp xếp theo một hình thức dễ theo. Nó được biên soạn theo khẩn cầu liên tục của Dochoe Choeje ở trụ xứ kiệt xuất của Đấng Toàn trí Sherab Pelzang và được tu sĩ Phật Giáo Sonam Gyatso (Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Ba, 1543-1588) biên soạn tại Tu viện Drepung, trong gian phòng được gọi là Những Tia nắng Xoáy tít trong Cung điện Hỉ lạc Siêu phàm.

  Xin tham khảo:

 -    “Chứng Đạo Ca” của Lama Tsongkhapa, bản dịch Việt ngữ của Cư sĩ Hồng Như:

http://nalanda.batnha.org/files/documents/hn_tkb_shortlamrim_viet.pdf

 - “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ” của Lama Atisha, bản dịch Việt ngữ của Cư sĩ Hồng Như:

http://nalanda.batnha.org//index.php?option=com_content&task=view&id=33&Itemid=30

 Nguyên tác:

“The Essence of Refined Gold: The Guidelines of the Stages of the Path of Enlightenment”

by The Third Dalai Lama

 Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên


[1] Ba lỗi lầm của một bình chứa: 1) lỗi lầm của việc giống như một cái bình lật úp, 2) lỗi lầm của việc giống như một cái bình dơ, và 3) lỗi lầm của việc giống như một cái bình bị rò rỉ.

[2] Sáu thái độ khi lắng nghe Pháp: 1) bạn giống như một bệnh nhân, 2) Pháp giống như thuốc, 3) vị Thầy tâm linh của bạn giống như một bác sỹ, 4) thực hành tinh tấn giống như được chữa lành, 5) vị Thầy tâm linh của bạn thiêng liêng như Đức Như Lai, và 6) truyền thống của Pháp nên được bảo tồn trong một thời gian dài.

[3] Sự cúng dường ba phần: của cải (zang zing gi nor), phụng sự trong lời nói và việc làm (lus ngag gi zhabs tog), và thực hành theo lời giảng dạy của ngài (bka’bzhin sgrub pa)

[4] Sáu ba la mật (sáu toàn thiện): bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật và trí tuệ ba la mật.

[5] Tám phẩm tính của nghiệp hoàn toàn chín mùi: 1) trường thọ, 2) diện mạo tuấn tú, 3) dòng dõi gia đình ưu tú, 4) có của cải và năng lực xuất sắc, 5) lời nói đáng kính và có năng lực, 6) có quyền thế danh giá, 7) là phái nam, và 8) mạnh mẽ.

[6] Bốn năng lực đối kháng: 1) năng lực của sự ân hận, 2) năng lực của sự nương tựa, 3) năng lực của sự chiến thắng những ác hạnh bằng cách đối trị, và 4) năng lực của việc không tái phạm những ác hạnh.

[7] Có sáu loại trời thuộc dục giới: 1) Bốn đại vương (Tứ Đại Thiên Vương), 2) những vị trời thuộc cõi trời Ba mươi ba, 3) những vị trời không tranh đấu, 4) những vị trời thuộc cung trời Đâu suất, 5) những vị trời hiện thân hỉ lạc, và 6) những vị trời điều khiển hiện thân của người khác.

[8] Năm dấu hiệu của cái chết đối với một vị trời thuộc dục giới: 1) trên y phục của các vị trời có mùi hôi, 2) những vòng hoa của họ bị héo úa, 3) nách chảy mồ hôi, 4) thân có mùi hôi, và 5) cảm thấy bất mãn với chỗ ở thường lệ.

[9] Có bốn cánh cửa dẫn tới những sa sút đạo đức: 1) vô minh, 2) không tận tâm, 3) quá sức mê lầm, và 4) bất kính.

[10] Ba loại giới hạnh: 1) Giới hạnh tự chế không làm những ác hạnh, 2) Giới hạnh tích tập Pháp tốt lành, và 3) Giới hạnh làm việc vì lợi ích của chúng sinh.

[11] Ba nền tảng: 1) Khóa nhập hạ, 2) Lễ phục hồi các giới nguyện, và 3) Lễ giải hạ (gzhi gsum gyi dge rtsa).

[12] Bốn tam đoạn luận lô gích/lập luận vĩ đại của Madhyamika: 1) những mảnh kim cương (rdo rje zegs ma); 2) sự sinh và diệt của bốn giới hạn (mu bzhi skye ‘gog); 3) sự tương thuộc vĩ đại (rten ‘brel chen po); 4) và ít và nhiều [thù và đa] (gcig dang du bral).

 

  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/giaidoan_duonggiacngo.htm

 


Vào mạng: 3-6-2008

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang