...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
-
Hãy Đến Để Thấy
Phật Giáo,
Con Đường Đưa Đến Hạnh Phúc
Tác
Giả: Ni Sư Ayya Khema
Việt
Dịch: Chơn Minh Nguyễn Văn Phú
Tịnh
Nghiêm Nghiêm Xuân Cường
Come And See For
Yourself
The Buddhist Path
To Happiness
2006
Nguyên tác Đức ngữ ‘Komm Und Sieh
Selbst’ @ Jhana Verlag 1998
Bản Anh ngữ ‘Come
And See For Yourself’ @ Windhorse
Publications 2002
ISBN 1 899579 45
Việt dịch từ Anh ngữ và ấn tống với sự
đồng ý của Buddha-Haus e..V./Jhana Verlag, Germany
Tác Giả
AYYA KHEMA sinh năm 1923 trong một gia đình người Do Thái tại Bá Linh.
Bà trốn khỏi Đức sang Tô Cách Lan (Scotland) năm 1938, cùng với 200 trẻ
em khác. Sau đó được đoàn tụ với cha mẹ bà tại Trung Hoa. Khi chiến
tranh thứ hai bùng nổ, bà và gia đình bị đưa vào các trại giam tù binh
của Nhật. Sau chiến tranh, bà di cư sang Mỹ và lập gia đình tại đó.
Vào khoảng đầu những năm 1960, bà chu du nhiều nơi khắp châu Á, và sau
10 năm hành thiền, bà bắt đầu dạy thiền và thuyết giảng về Phật giáo ở
châu Âu, Bắc Mỹ và Úc.
Ni
Sư Ayya Khema đã góp công lớn vào việc gầy dựng lại ni đoàn Phật giáo. Ni
Sư thọ giới vào năm 1979, theo truyền thống Nguyên thủy tại Sri Lanka.
Tại đó Ni Sư đã thiết lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc tế và Đảo Parappuduwa
dành cho Ni chúng và nữ cư sĩ. Vào năm 1987 Ni Sư phối hợp tổ chức một
hội thảo về Ni đoàn Phật giáo Quốc tế lần đầu tiên, mà kết quả là ni đoàn
Sakyadhita, một tổ chức nữ Phật giáo quốc tế được thành hình.
Ni Sư đã viết hơn 20 đầu sách về thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và
Đức, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ni Sư là Being Nobody, Going Nowhere
(Việt dịch: Vô Ngã Vô Ưu, Diệu Liên Lý Thu Linh), đã được giải thưởng
Christmas Humphreys (Christmas Humphreys Memorial Award). Các tác phẩm
của Ni Sư đều thể hiện được sự nhận thức sâu xa trong thực hành, sự lợi
ích của thiền tập, và lời kêu gọi đơn giản hóa cuộc sống hàng ngày của
chúng ta, cũng như thanh tịnh hóa thân tâm bằng cách ứng dụng những lời
dạy của Đức Phật vào cuộc sống.
Bên cạnh việc thành lập Wat Buddha Dhamma (Ngôi Nhà Phật Pháp) ở Úc, một
lâm tự viện theo truyền thống Nguyên thủy, Ni Sư còn là Giám đốc đỡ đầu
cho Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật) ở Đức, nơi Ni Sư viên tịch vào năm 1997.
(ND: Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về cuộc đời của Ni Sư Ayya Khema qua
bản dịch Quà Tặng Cuộc Đời (I Give You My Life).
-
Ni Sư Ayya Khema sinh ra là người theo Do Thái giáo nhưng lại là người
Phật tử khi từ giã cõi đời. Gần cả cuộc đời bà du hành khắp nơi trên
thế giới cùng với gia đình, và chỉ trở về Đức vào những năm cuối đời.
Một số chuyến phiêu lưu của bà được kể lại trong quyển hồi ký thú vị,
I Give You My Life (Quà Tặng Cuộc Đời).
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Ni Sư là trên một phóng sự của đài truyền hình
về một cộng đồng Phật giáo ở Uttenbuehl, dưới chân của rặng núi Alps ở
phía nam nước Đức. Phóng sự đó gây nhiều xúc động cho tôi và vài năm sau
đó tôi rất vui mừng được có thể giúp dịch một trong những số sách của Bà.
Khoảng thời gian đó tôi đã chuyển qua Anh quốc, và đang ở một giai đoạn
trong cuộc đời khi tôi cảm thấy rất khó khăn để hành thiền. Đối với tôi,
quyển sách này giống như một khóa Phật học cơ bản, dựa trên những bài
giảng của Ni Sư Ayya Khema trong những buổi thuyết pháp vào ngày thứ Tư
hằng tuần tại Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Uttenbuehl, và đã xuất bản lần
đầu tiên năm 1994. Tôi rất thích các bài giảng này vì chúng được dựa trên
các kinh điển truyền thống của Đức Phật. Ni Sư Ayya Khema đọc vài kệ từ
trong kinh Pháp Cú hay một số kinh, luận ngắn khác, rồi giải thích, giảng
rộng ra thêm. Ni Sư rất hoan hỷ giảng giải kinh cho bất cứ ai thích tu
thiền và tìm hiểu về Phật giáo. Với sự hiểu biết, và kinh nghiệm trong
việc chuyên tu thiền định của bản thân, Ni Sư Ayya Khema thường giảng về
thiền một cách đầy nhiệt tình. Thật vậy, Ni Sư luôn nhấn mạnh đến việc
làm thế nào để áp dụng việc hành thiền trong đời sống hằng ngày.
Ni Sư Ayya Khema không hề e dè khi trao đổi với các 'đồng nghiệp' Thiên
Chúa giáo của mình, so sánh các kinh nghiệm thiền định của Ni Sư với
unio mystica (tạm dịch, một huyền bí) của những người như
Eckhart (Meister Eckhart), và Ni Sư cũng hướng dẫn các khóa tu thiền trong
các tu viện Thiên Chúa giáo.
Chính Dhammaloka, là người đầu tiên đề nghị với nhà xuất bản Windhorse
dịch quyển Komm Und Sieh Slebst (Come And See For Yourself), xuất
bản lần đầu năm 1994, sang tiếng Anh. Jayachitta bắt đầu công việc dịch
thuật, và tôi tiếp tục sau đó. Jinananda sau đó biên tập lại bản dịch và
Punyamati tỉ mỉ xem lại bản thảo lần cuối. Xin chân thành cảm ơn mọi sự
đóng góp của họ. Portia Howe và những người còn lại trong nhóm ở nhà xuất
bản Windhorse Publications, cũng đóng góp nhiều công sức. Nhiều người
khác cũng đã góp tay bằng nhiều cách khác nhau, nhất là tăng đoàn (Sanghamitta)
ở Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus), Ulrike Harris, Asanga, Vassika, Ratnaprabha,
Shantiprabha, và người cộng sự của tôi, Martina.
Tôi xin hồi hướng công sức dịch quyển sách này đến tất cả Phật tử ở Tây
phương, và mong rằng tất cả mọi độc giả đều đón nhận được một thoáng hào
quang ấm áp chiếu soi từ Đức Phật.
Michael
Etzold
Oxford
Tháng 12,
2001
Lời
Người Dịch
Dầu tâm nguyện được có duyên lành để dịch tất cả các sách tiếng Anh của
Ni Sư Ayya Khema, nhưng để đạt được tâm nguyện đó là bao thử thách đối
với tôi.
Trước hết là quỹ thời gian của tôi ngày càng cạn kiệt, nhưng khó khăn nhất
vẫn là sự hiểu biết rất giới hạn về Phật pháp nói chung, và các kinh
nghiệm thiền định nói riêng. Nhưng tôi cố gắng không bỏ cuộc và tôi đã
cầu nguyện đến sự gia hộ của chư Phật, của Ni Sư Ayya Khema, cũng như sự
rộng lượng của quý độc giả. Suy cho cùng, tôi là người được nhiều nhất
trong việc làm này: được thấm nhuần thêm những giáo lý cao siêu mà gần gũi
biết bao của Đức Phật. Chỉ mong mọi người tha thứ cho sự mạo muội này.
Lần nầy khi quyết định chuyển ngữ quyển Come and See for Yourself,
từ bản tiếng Anh, tôi đã may mắn được hai đạo hữu Chơn Minh Nguyễn Văn Phú
và Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường, hoan hỷ giúp dịch từ chương 1 đến chương
5 của quyển sách, xem như đã giảm được nửa gánh nặng cho tôi.
Nhờ thế quyển sách dịch Come and See for Yourself (Hãy Đến Để Thấy)
đã sớm được hoàn thành để đến tay bạn đọc, những độc giả rất rộng lượng
của chúng tôi, những người không kể đến các sơ sót của chúng tôi, luôn
khuyến khích chúng tôi tiếp tục công việc dịch thuật, và cũng đầy lòng
ngưỡng mộ đối với Ni Sư Ayya Khema như chính bản thân chúng tôi.
Xin có đôi lời giới thiệu về hai đạo hữu đồng dịch giả:
-Chơn Minh Nguyễn Văn Phú, sinh quán tại Nha Trang, Khánh Hòa,
là cựu học sinh trường Võ Tánh, Nha Trang; cựu sinh viên Khóa 8, Cao Đẳng
Thủy Lâm, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, Saigon; đã tốt nghiệp tại Duke
University, North Carolina, Hoa Kỳ. Hiện đang làm việc với Michigan State
University, ngành Thủy Lâm.
-Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường, nguyên quán tại Tây Mỗ, Hà Đông,
hiện sinh sống và hành nghề Dược tại tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ với gia
đình. Ông cũng là tác giả của một tập thơ đạo và thiền với tựa đề Trở
Về và một tuyển tập nhạc thiền Như Mây Trôi Đi.
Quyển Hãy Đến Để Thấy (Come and See for Yourself), gồm có 12 chương.
Mỗi chương dựa trên một hay nhiều bản kinh về nhiều đề tài khác nhau. Có
những đề tài quen thuộc, dễ hiểu, nhưng cũng có những đề tài gây cho chúng
tôi nhiều bối rối. Thí dụ chương 11 nói về các tầng thiền định, thiền
tuệ, và chương 12 bàn về tính Không trong Kinh Bát Nhã. Chúng tôi đã hết
sức cố gắng trong khả năng giới hạn của mình để phần nào chuyển tải những
lời giáo huấn của Ni Sư Ayya Khema dựa trên Kinh điển của Đức Phật. Tuy
nhiên như chính Ni Sư đã nói, trong chương 11: '. . . Thật rất khó
giải thích. Chỉ có người chứng nghiệm mới thật sự hiểu được."
Thật vậy, với những điều được nói đến trong các chương này, chúng tôi, nếu
có thể, cũng chỉ dịch được lời chứ không được ý, hiểu được từ chứ không
chuyển được nghĩa câu. Ngoài ra, cũng xin lưu ý độc giả rằng, vì Ni Sư
Ayya Khema tu theo Nguyên Thủy, nên Ni Sư có cái nhìn riêng đối với một số
kinh điển Đại thừa, thí dụ như Bát Nhã Tâm Kinh.
Chắc chắn là quyển sách dịch này không thể tránh được nhiều sai sót, mong
quý tôn sư, các bậc uyên thâm, thiện trí thức, chỉ dẫn cho, để lần tái bản
sau được hoàn thiện hơn (xin liên lạc về ltl3107@yahoo.com).
Lần nữa xin chân thành cảm niệm công đức của Ni Sư Ayya Khema đã để lại
cho đời những bài thuyết pháp xúc tích về giáo lý của Đức Phật mà đối với
chúng tôi là những bài Phật học hữu ích.
Với sự đồng ý của hai đạo hữu đồng dịch giả, tôi xin được hồi hướng công
đức dịch thuật này đến hương linh của Mẹ tôi là cụ bà Lý Thị Lăng, Pháp
danh Diệu Thọ, tạ thế ngày 27 tháng 3, năm 2006. Xin chân thành cảm ơn
tất cả bạn bè, thân quyến đã đóng góp để ấn tống quyển sách dịch này.
Ngưỡng cầu Hồng ÂnTam Bảo hỗ trợ cho chúng con luôn được gặp Phật pháp
trong nhiều đời, nhiều kiếp về sau.
Diệu
Liên Lý Thu Linh
Tháng
7, 2006
Chương 1
Hiểu Biết Về Vô Thường
Dẫn Đến Hạnh Phúc
Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.
Kinh
Pháp Cú - Câu 374 (1)
Dhammapada
stanza 374
Từ
Pali Dhammapada có thể được dịch là ‘Những bước trên con đường giáo
pháp’. Tác phẩm nổi tiếng nầy được chia làm nhiều phần, mỗi phần có nhiều
đoạn kệ: là những câu kệ được Đức Phật nói ra vào những dịp khác nhau,
nhằm giáo huấn về các đề tài khác nhau. Tuy nhiên, những lời dạy nầy thật
xúc tích, cô đọng nên mỗi đoạn kệ tự nó là một bài tiểu luận.
Để diễn giải đoạn kinh được trích dẫn ở trên, tôi (Ni Sư Ayya Khema) muốn
trước hết phân tích nghĩa của một số từ trong câu đó. Đức Phật nói về khả
năng đạt được an vui hạnh phúc của chúng ta và đó là điều mà tất cả chúng
ta đều muốn đạt được. Nhân loại tìm cầu hạnh phúc bằng nhiều cách, qua
nhiều thứ khác nhau, thường là ở các đối tượng bên ngoài. Chúng ta cố
gắng, bằng đủ mọi cách, để đạt được hạnh phúc, và khi có rồi thì ta muốn
giữ chặt lấy nó. Ta nghĩ rằng mình sẽ luôn được hạnh phúc nếu có thể giữ
chặt một cái gì đó, một người nào đó hoặc một sự kiện gì mà đã có lần đem
lại cho ta hạnh phúc. Thế nên ta thường cố tìm hạnh phúc trong của cải
vật chất, hay làm một việc gì đó mà ta nghĩ sẽ làm mình thỏa mãn. Nhưng
từ thuở khai thiên lập địa, chưa ai là người có thể giữ được hạnh phúc
luôn bên mình.
Đức Phật dạy là để tìm được hạnh phúc chúng ta phải tu tập. Ta có thể nói
nghề nghiệp đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng dù cố gắng tự nhủ mình đến mấy
là ta cảm thấy mãn nguyện vì đã làm được nhiều việc ích lợi cho đời, nhưng
khi nhìn kỹ lại ta thấy thứ hạnh phúc nầy không trường cửu và trong thâm
tâm ta vẫn bồn chồn, bất ổn. Khi mang tâm trạng buồn chán như thế, người
ta lại thường nghĩ rằng có gì đó không ổn ở bên ngoài - họ không nhận ra
được rằng điều mà họ đang cảm nhận đến từ nội tâm của mình.
(1)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, NXB.
Tôn Giáo – Hà Nội 2000
Cách suy nghĩ thông thường của ta luôn là muốn được một cái gì đó.
Ngay cả khi cái mà chúng ta muốn là một điều lành mạnh, tốt đẹp, ta cũng
thấy là dù có cố gắng cách mấy, ta không thể lúc nào cũng an vui, do đó ta
lại muốn một cái gì mới hơn, khác hơn. Đức Phật chỉ cho chúng ta một
phương cách khác hẳn. Ngài muốn dạy ta những cách suy nghĩ mới, chỉ cho
ta bước lên một tầng cao hơn, dựa trên thực tế chứ không phải ở sự mong
cầu. Thí dụ như nếu ta đã thử đủ mọi cách và nhận ra rằng của cải vật
chất không làm ta hạnh phúc, chính kiến thức đó cũng mang đến cho ta đôi
chút hạnh phúc rồi. Trong đoạn kinh nầy, Đức Phật dạy:
Người thường suy gẫm trong tâm
Sự sanh diệt của các uẩn, . . .
Uẩn là các thành phần của cái ta. Trước nhất là thân, cái mà ta tự đồng
hóa khi ta nghĩ "Đây là ta". Sau đó là tâm, cái mà Đức Phật chia làm bốn
phần: Trước tiên, thức – mà chúng ta cảm nhận được qua tiếp xúc với các
giác quan của cái nhìn, nghe, ngửi, nếm, hay xúc; thứ hai là thọ, hoặc vui
hoặc buồn, phát sinh dựa vào sự xúc chạm của các giác quan, kể cả các tình
cảm; thứ ba, tưởng theo sau các cảm giác; thứ tư, hành là phản ứng đối với
tưởng -cũng được gọi là tâm hành.
Chúng ta có thể phân tích tâm sâu hơn, để bao gồm, thí dụ, ý chí như là
một trong những thành phần của tâm. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ chú
tâm vào bốn phần nầy: thức, thọ, tưởng và hành.
Chúng ta cần chú ý đến năm uẩn, ít nhất là đến sự phân chia của tâm và
thân, bốn phần kia là những phương tiện qua đó chúng ta có thể giải đáp
câu hỏi tâm thực sự là gì. Ta có thể kiểm nghiệm việc này ngay tức khắc:
giờ phút này những cái bạn đang cảm nhận được gồm có thấy, xúc chạm và
nghe. Bạn có thể không nếm hay ngửi cái gì ngay lúc nầy, nhưng ba trong
năm giác quan của bạn đang có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài và qua đó
chúng để lại một cảm thọ mà ta sẽ không nhận biết được nếu ta không thực
tập chánh niệm. Cái cảm giác ban sơ rất vi tế, nên thay vào đó chúng ta
thường vướng vào các phản ứng, mạnh mẽ hơn nhiều. Giữa hai cảm nhận này
(thọ và hành) là tưởng, và điều này thì cũng tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Mặc dầu hai người có thể cùng nhìn một vật, mỗi người có thể cảm nhận khác
nhau và phản ứng tùy theo đó; khi một người nhìn cái gì đó thấy đẹp, người
khác có thể cảm thấy dửng dưng hoặc cho là nó xấu xí là đằng khác. Đây là
lý do tại sao ít khi chúng ta để ý đến cảm giác hoặc nhận thức của mình.
Khi nghe ai nói điều gì, ta có thể tự nhủ ‘thật vô lý,’ hoặc ‘thật là
hay,’ hoặc ‘tôi không cần biết,’ hay ‘tôi đã biết rồi.’ Ta quá bận rộn
với những phản ứng của mình nên khó mà thấy được giữa sự xúc chạm và phản
ứng còn có những cảm giác và nhận thức. Do đó, trước hết ta phải kiểm
nghiệm thật kỹ các cảm quan của mình cũng như những phản ứng phát sinh từ
đó. Ta có thể dễ dàng nhận ra các phản ứng nầy và quá trình nhận thức đó
sẽ giúp ta làm quen với sự có mặt của các uẩn.
Thông thường thì chúng ta hành động theo các phản ứng của mình và tìm cách
hoàn thiện chúng bằng cách chuyển hóa các cảm quan của mình. Ta tìm cách
nghe, nếm, ngửi, hoặc xúc chạm thứ gì khác hơn những cái thường làm, nhưng
ta luôn bị các thói quen đã huân tập đưa vào đường cũ. Thật ra ta phải
thấy ngay rằng đây là một phương cách không hiệu quả và chẳng lâu bền.
Thế nhưng ta vẫn tiếp tục tìm đủ mọi cơ hội để thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc
chạm những thứ mới lạ khác. Tuy nhiên, ta có thể đi theo một con đường
mới. Trên con đường nầy, thay vì đồng hóa với các phản ứng của bản thân
thì ta có thể quán sát chúng.
Điều này nói thì dễ nhưng khó làm. Và chắc chắn là cần có sự thực tập vì
chúng ta thường theo cách suy nghĩ cho các phản ứng là ta và xem đó là
đúng. Vì xét cho cùng, đó là các phản ứng của ta. Nếu ta xem các tư tưởng
của mình, ngay cả những tư tưởng tiêu cực là chính xác, chỉ vì chúng là
của mình, thì lẽ tự nhiên ta sẽ tiếp tục chờ đợi hạnh phúc đến từ thế giới
bên ngoài. Và vì thế, ta tránh né những gì có thể đem lại cho ta những
phản ứng khó chịu, rồi tiếp tục đi tìm những gì mà ta cho rằng sẽ đem lại
cho mình lạc thú. Lẽ đương nhiên là, dù có cố gắng đến đâu, ta cũng không
thể có được một cuộc đời chỉ toàn là lạc thọ, nhưng vì quá mải mê theo
đuổi con đường nầy mà ta chẳng nhận ra được là ta cũng có thể tìm được
hạnh phúc bằng một con đường hoàn toàn khác. Dù không kiếm tìm chúng ta
cũng có lúc có lạc thọ. Một trong những lợi lạc của kiếp sống con người
là sẽ không thiếu những cơ hội để ta được hưởng những hạnh phúc đó. Hầu
hết chúng ta đều có đồ ăn và thức uống thích hợp, hưởng thời tiết tốt,
được xem hoa nở và có người để trò chuyện. Những điều này tự chúng không
có gì là xấu, song nếu ta bám theo các cảm thọ nầy và dốc hết sức lực để
đuổi theo các lạc thọ, ta sẽ đi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Ta
sẽ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc cho tâm hồn mình bằng con đường đó.
Chính vì lẽ này mà trong đoạn kệ nói trên, Đức Phật dạy chúng ta hãy quán
sát sự sinh diệt của các uẩn, xem chúng đến và đi như thế nào. Điều nầy
có thể được thực hiện một cách đơn giản bằng sự chú ý quan sát bản thân.
Vì quá để ý đến người khác, ta quên mất một điều là trước khi hiểu được
người, ta phải biết rõ chính mình. Cái mà chúng ta nhận ra được ở người
khác chỉ là cái mà chúng ta đã tự khám phá ra ở ngay nơi mình.
Ta
có thể quán sát sự sinh diệt của các ý nghĩ, các cảm thọ; chúng đến và đi
như thế nào thật rõ ràng và rành mạch; điều này không có gì khó. Thế
nhưng vì quá đắm chìm trong các cảm thọ của mình, mà ta không nhận thấy
chúng biến đi nhanh thế nào. Một ý nghĩ thường biến mất ngay khi nó vừa
khởi sinh, trừ trường hợp một ý tuởng mới lại phát sinh dựa vào nó trong
một chuỗi tư tưởng – ngay chính như thế ý nghĩ ban đầu cũng đã biến mất.
Hiển nhiên là ta có thể ghi chép lại ý tưởng nầy ngay khi nó phát khởi,
song vì dòng tư tưởng thay đổi không ngừng nên chưa chắc là nó có ích lợi
gì cho ta.
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều
vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể
phủ nhận sức mạnh của sự thật nầy, vì tất cả chúng ta ai cũng có thể chứng
nghiệm được điều đó ngay bản thân. Tính phù du nầy là một thách đố cho cái
nhìn của ta về bản ngã, khiến nó trở nên bớt cụ thể, nền tảng của nó bớt
vững chắc, và như thế là ta phải đối mặt với một vấn đề trọng đại, đó là
việc ta tự xem mình như một thực thể vững chắc, bất biến trong cái ta gọi
là con người với những quan điểm, ý kiến cá nhân tạo thành một ‘bản ngã’.
Cái nhìn của ta về bản thân, và ngã tưởng bị lung lay khi ta nhận ra rằng
các quan điểm, ý tưởng và cảm nhận của mình, kỳ thật luôn đến và đi trong
từng giây phút.
Càng ít chấp ngã thì ta càng dễ có hạnh phúc. Ta không nhất thiết phải
đồng ý ngay với câu nầy, song cũng không có một lý do gì để phủ nhận nó
ngay, bởi ta có thể tự kiểm nghiệm nó. Càng muốn chứng tỏ cho mọi người
biết ta là một ‘ai đó’ với một số quan điểm, một hệ thống niềm tin riêng
của mình và một cương vị đặc biệt thì ta lại càng phải bám chặt vào những
thứ khiến chúng ta trở thành con người đó, cố gắng biến tất cả trở thành
vững bền. Tuy nhiên, vì mọi sự luôn luôn sinh diệt đổi thay, nên chúng ta
phải đối mặt với một nhiệm vụ gần như không thể thực hiện. Đây là lý do
tại sao con người không có hạnh phúc.
Tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng khó xử này. Một khi ta còn cố gắng
để khẳng định mình, và bám víu vào người hay vật mà ta gắn bó, thì ta
không thể có tự do và hạnh phúc. Bởi lẽ đó - cho dù ta đang bận rộn hoặc
hoàn toàn rảnh rỗi - ta luôn cảm thấy bức xúc, cái mà ngày nay chúng ta
gọi là căng thẳng thần kinh (stress). Kỳ thực thì nỗi bức xúc mà ta tự
tạo cho mình, lúc nào cũng đã có mặt, vì nó hỗ trợ cho cái cảm nhận về ngã,
và nhu cầu muốn tự khẳng định là lý do khiến nó phát sinh trước hết. Ta
muốn tự nhủ rằng ta là những con người có thực thể và bền vững với những
cá tính riêng biệt, nên ta thường nói những câu như "Xin lỗi tôi đến trễ,
nhưng tính tôi quen vậy rồi" hoặc "Những phim buồn làm tôi phải khóc – tôi
là vậy đó".
Những câu nói như vậy không có nghĩa gì cả vì không có một vật thể hay cá
tính nào mà không thể thay đổi được. Từng ý nghĩ, từng cảm giác đến rồi
đi. Ta chỉ cần nghĩ lại xem các ý nghĩ hay cảm giác mình đã có trong ngày
hôm nay có còn ở với ta hay không. Khi nhìn lại, ta thấy là những ý nghĩ
ta vừa có cách đây vài phút đã biến mất hẳn rồi. Thật ra không có gì - kể
cả cuộc đời ta- mà ta có thể cầm chắc trong tay. Mặc dù ta già đi trong
từng phút giây, nhưng vẫn có nhiều người không thể chấp nhận được điều nầy.
Tệ hơn nữa, họ còn không biết là họ không thể chấp nhận được sự thực đó.
Ta giữ mãi những ký ức về chính mình đến nỗi ta không thể để ý thấy là
mình đang già đi, và tất cả những ký ức ta có về mình tạo thành một cái ta
ảo tưởng. Bằng cách này chúng ta đã tạo dựng cho mình một ý niệm càng vững
chắc hơn về bản ngã.
Những bằng chứng phủ nhận cách suy nghĩ của ta về thực tại cuộc sống có
thể tìm thấy ở khắp mọi nơi. Giả thử như trời đang mưa: mỗi giọt nước rơi
xuống và thấm vào lòng đất rồi biến mất hẳn. Ta cũng thế. Ta cũng như
những giọt mưa, nhưng ta muốn quên đi định luật về sinh và diệt nầy.
Ta không bắt buộc phải tin những điều Đức Phật thuyết, song ít nhất ta
cũng không quay lưng với Ngài và đồng ý kiểm nghiệm sự thật của định luật
này. Luôn ghi nhớ đến nó trong tâm để có thể thấu triệt nó và đạt được an
lạc, hạnh phúc là một nỗ lực lớn. Chúng ta có thể đạt được niềm an lạc
trong thiền định, nhưng cái hạnh phúc nội tại mà mỗi chúng ta luôn cố gắng
kiếm tìm phải đến từ trí tuệ. Trí tuệ có thể phát khởi qua cuộc sống
thiền và tỉnh thức, nhưng ngay cả thiền định cũng vô thường: ngay khi ta
vừa rời khỏi chiếu thiền thì trạng thái thiền định dễ chịu cũng đã biến
mất.
Trước khi giác ngộ, Đức Phật đã là một thiền giả tinh tấn. Ngài rất tinh
thông tám tầng thiền định và qua đó chứng nghiệm được cảm giác khinh an,
hạnh phúc, thanh tịnh vô biên. Tuy nhiên, sau khi đạt được những cảm giác
an lạc đó Ngài lại cảm thấy bất như ý vì muốn giữ lại những lạc thọ đó. Vì
thế, Ngài muốn giữ vững tâm trí của mình như thế nào để cho hoàn cảnh bên
ngoài không thể quấy nhiễu mình nữa. Nói tóm lại, con đường tâm linh phải
là con đường làm phát triển hạnh phúc nội tâm của ta cho đến khi nó trở
thành hoàn toàn độc lập và không còn bị chi phối bởi những hoàn cảnh bên
ngoài.
Con đường còn dài trước mắt. Tuy nhiên cuộc hành trình dài nhất cũng phải
bắt đầu bằng một bước chân. Còn nhiều bước chân phải đi, nhưng tiên quyết
là bước đầu tiên, mà ở đây là tâm thực tập quán tưởng về vô thường. Ta
không chỉ quan tâm về tính vô thường của những của cải vật chất. (Ở những
xã hội dư thừa, ít ai bận tâm đến điều này; khi vật dụng bị hư gãy, họ mua
ngay cái khác). Chúng ta cũng phải quán về sự vô thường của bản thân. Ta
có thể thực tập điều nầy bằng cách quán về các uẩn -sắc, thọ, tưởng, hành,
thức- và nhận diện sự sinh diệt của chúng. Ta phải nhận rõ sự lệ thuộc
của mình vào các cảm nhận bên ngoài - như nếu nghe thấy điều gì trái tai
có thể làm ta bực dọc cả ngày, hoặc nếu không được như ý thì ta sẽ cảm
thấy thất vọng, bực tức. Chẳng có ai lại không muốn tránh các cảm giác
khó chịu ấy, song nếu chỉ nghe những điều ta muốn nghe, thấy những gì ta
muốn thấy, được những gì ta muốn được, thì mới có hạnh phúc thì thật là kỳ
quặc, một việc làm hoàn toàn vô vọng. Phương cách hợp lý duy nhất để nhận
diện và đối phó với vấn đề nầy là quán tưởng về sự vô thường của vạn vật.
Tất cả chúng ta đều có thể nhớ về thời thơ ấu của mình cùng với một số sự
kiện trong giai đoạn đó. Dường như nó chỉ mới đây. Thế nhưng đã bao
nhiêu nước chảy qua cầu. Và vì sao bây giờ ta phản ứng thật khác với hồi
ấy? Ta muốn nghĩ rằng mình vẫn như xưa, nhưng không có gì trong ta còn
nguyên vẹn. Tất cả các ý nghĩ, các cảm giác của ta đều đã thay đổi về bản
chất, cùng với những thay đổi rõ ràng về diện mạo. Cho dù một số dấu vết
của thời xa xưa vẫn còn trong ta, nhưng những gì tạo ra ta của thời đó đã
hoàn toàn khác xa với cái tạo ra ta của ngày hôm nay.
Sự chuyển hóa này thực sự xảy ra từ ngày này qua ngày khác - nói chính xác
hơn thì nó xảy ra trong từng giây phút. Ta không thể bám víu vào
bất cứ cảm nhận nào của ta, và nếu ta cố gắng giữ lại một người hay sự
việc nào đó chắc chắn ta sẽ bị thất vọng bởi đây là một việc không thể nào
làm được. Sự thật đơn giản và chắc chắn là ta không thể níu giữ được đời
mình, cũng như ý nghĩ và cảm nhận của mình; các xúc chạm giác quan của ta
cũng thay đổi từng giây phút một. Ta có thể thành công đôi chút trong
việc giữ lại bản thảo của ý nghĩ hay cảm nhận của mình qua sách vở hay
băng ghi âm - song đó không phải là những ý nghĩ ban đầu của ta. Bạn có
thể quán sát đời mình ngay bây giờ và thấy nó đang trôi qua như thế nào.
Nếu biết cách nhìn, bạn sẽ dễ dàng làm được việc nầy. Khi quán sát đời
mình trải ra trước mắt, bạn sẽ thấy nó không ngừng thay đổi.
Bản chất con người không thích nhìn thấy sự thay đổi và hoại diệt này, vì
thế ta tạo ra thói quen: ta chủ tâm làm cùng một việc vào những giờ nhất
định trong ngày. Càng có nhiều thói quen, chúng ta càng ảo tưởng về một sự
cố định, một cái gì bền chắc, và kèm theo đó là sự đảm bảo an toàn trong
việc thường xuyên lập lại chúng. Tuy nhiên, đây là một ước đoán hết sức
bấp bênh, vì thói quen chỉ là thói quen, không thể nào thay thế cho một
‘cái tôi’ bền chắc độc lập. Ta tìm kiếm không ngừng các cảm giác vững chắc
để phù hợp với cái khung mà chúng ta đã dựng lên qua các thói quen của
mình. Tuy nhiên, bất cứ thứ gì mà chúng ta tìm được trong cái khung hạn
hẹp đó, cũng không thể giúp ta tìm được thứ hạnh phúc mà ta hằng mong mỏi,
là hạnh phúc nội tại không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.
Các yếu tố bên ngoài thường không ở trong tầm kiểm soát của ta.
Thường thì chúng thình lình ập đến trước khi ta có thể trở tay. Tuy nhiên,
chúng ta không thích chấp nhận sự thật đắng cay nầy. Chúng ta muốn làm
chủ cuộc đời mình, cũng như hưởng một hạnh phúc nội tâm, độc lập với các
hoàn cảnh bên ngoài, nhưng điều này thật vô vọng. Ta ở trong cùng một
hoàn cảnh như anh chàng "Hans in Luck" trong câu chuyện cổ tích cùng tên
của anh em nhà Grimm. Anh chàng này, sau nhiều năm phục vụ đắc lực được
chủ thưởng cho một thỏi vàng và trên đường về thăm mẹ, anh ghé vào một nơi
để đổi vàng lấy những thứ thực dụng hơn, rồi về đến nhà mang theo trong
túi một thỏi khác: một hòn đá vô giá trị. Sau cùng, anh liệng hòn đá ấy
đi và cảm thấy như thoát một gánh nặng lớn. Đó cũng là những điều xảy ra
cho chúng ta trên cuộc hành trình tâm linh. Trong khi đi tìm kiếm một thứ
không có trên đời nầy, giải pháp duy nhất là phải vứt bỏ đi những thứ ta
vẫn luôn mang theo bên mình. Hòn đá mà chúng ta hằng mang, gánh nặng trên
vai bấy lâu nay là ngã chấp, sự đồng hóa của ta với những gì mà ta coi là
bền vững, bất biến, là cái mà ta gọi là ‘ngã’ hay ‘cái tôi’, đã hiển nhiên
là sự ăn sâu, bám rễ của hành động và tư tưởng của ta vào một cái gì bền
vững, mạch lạc. Nhưng các thành quả của ta sẽ kéo dài được bao lâu?
Chúng chỉ hiện hữu trong quá khứ xa vời. Bây giờ ta chỉ sống với kết quả
của các hành động ấy. Mọi việc chỉ đến rồi đi - không có gì trong sự hiện
hữu của ta là lâu bền.
Thế giới, và ngay cả vũ trụ nầy, cũng chẳng bao giờ làm thỏa mãn được ước
vọng sâu xa nhất của ta. Sự thỏa mãn không bao giờ đến từ bất cứ thứ gì ở
bên ngoài –nó từ nội tâm ta. Đây là sự khác biệt chính yếu giữa đời sống
tâm linh và cuộc sống đời thường: sự tự tại ở ngay trong ta. Khi ta ngưng
tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên ngoài để quay về nhìn sâu trong thiền
định, ta sẽ khám phá ra là mình vốn sẵn có tất cả những điều kiện hạnh
phúc mà xưa nay mình bôn ba kiếm tìm. Ta chỉ cần học cách chú tâm - một
điều không khó như ta tưởng - và ta có đủ phương tiện để liên hệ với đời
sống nội tâm bất cứ lúc nào. Vấn đề chỉ là ngồi xuống và thực tập hằng
ngày. Giống như mỗi ngày ta nuôi dưỡng thân thế nào, thì ta cũng cần chăm
sóc cho sức khỏe tinh thần của ta thế ấy. Không ai thắc mắc vì sao ta cần
nuôi thân, tuy thế ta phải nhấn mạnh là mình cũng cần nuôi dưỡng tâm y hệt
như thế. Khi ngồi thiền, tâm ngưng chú ý đến những gì xảy ra chung quanh.
Nhờ đó, nó trở nên lắng đọng, kết quả là, các khía cạnh của những kinh
nghiệm đã có sẵn trong ta ở một trạng thái thô sơ nay có cơ hội hiển bày.
Thoạt tiên, ta có thể thấy thoải mái, yếu tố báo hiệu tầng thiền đầu tiên.
Cảm giác dễ chịu nầy ai cũng có thể đạt được, song nó thường bị tư tưởng
của ta che khuất, vì vậy ta cần phải ngưng dòng tư tưởng bằng cách tập
trung tâm trí trong thiền quán. Nếu tiếp tục hành thiền như thế, sẽ có
lúc ta nhận ra là tâm có thể ngừng suy nghĩ lăng xăng.
Khi ta đã có thể bước vào đời sống tâm linh bằng cách nầy, khi đã chứng
nghiệm được tầng thiền thứ nhất, ta biết chắc chắn là thế giới nội tâm
không thể nào thấy được ở ngoài ta mà chỉ có thể thấy qua thiền tập. Ta
thấy rõ là có một con đường có thể đưa ta đến điều mà xưa nay ta vẫn đi
tìm, điều mà thế giới bên ngoài không thể cho ta. Từ nay hạnh phúc của ta
sẽ tùy thuộc vào các phản ứng của ta đối với mọi việc, bởi chúng luôn đến
và đi, nhưng nằm ngay trong cái đến và đi ấy.
Nói một cách tổng quát, con người chúng ta luôn chìm đắm trong các phản
ứng của mình đối với sự việc, và ta đôn đáo tìm khắp nơi cho một hoàn cảnh
lý tưởng trong đó các phản ứng nầy sẽ được hoàn hảo theo ý mình. Song một
khi đã kinh nghiệm được sự an lạc trong thiền, ta sẽ không mải mê tìm lạc
thú cuộc đời nữa bởi ta biết -không mảy may nghi ngờ gì nữa - là chỉ cần
hướng về nội tâm là ta sẽ tìm được những thứ mà ta vẫn thường tưởng chỉ có
ở bên ngoài. Lúc đó ta sẽ sẵn sàng chú tâm hơn đến sự sinh diệt của các
sự kiện, thay vì chỉ chú tâm đến các phản ứng của ta về chúng.
Khi bắt đầu thực tập, ta thường đánh mất chánh niệm về vô thường; mọi thứ
khác dường như quan trọng hơn nhiều và sự vật không thay đổi gì nhiều.
Phải cần nhiều cố gắng mới có thể hiểu đúng tính vô thường của vạn vật.
Tâm cần được khuyến khích để chấp nhận nguyên lý nầy không chỉ về mặt tri
thức -trên phương diện nầy chắc ta đủ sức hiểu rõ nó - mà còn về mặt tình
cảm. Lúc ấy đột nhiên ta thấy mình nhìn sự vật như sự vật đang biến mất
dần.
Khi ta thực sự cảm thấy là mọi vật luôn không ngừng thay đổi, ta sẽ
không còn chống lại sự thật đó nữa. Khi thấy được mọi vật như chúng là,
tức là vạn vật luôn thay đổi, ta không còn mơ ước chúng có thể khác bản
chất của chúng. Ta cũng sẽ mất cái cảm giác bực tức khi gặp phải những
điều bất như ý hay không muốn trải qua, và cảm giác hối hận hay luyến ái
đối với những gì ta muốn kinh qua. Lúc đó, khi những xung đột nội tâm
dừng lại, ta sẽ ngưng không đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài, và nhận thức rõ
ràng là ta đã là chủ của kho báu mà ta kiếm tìm.
Có rất nhiều những câu chuyện cổ tích từ nhiều truyền thống văn hóa
khác nhau về một người đi tìm vàng, đôn đáo khắp nơi để tìm đúng chỗ đào
vàng. Sau cùng người ấy được một nhà hiền triết dạy rằng -thể theo cổ
tích Do Thái – ‘Con hãy về nhà, kho tàng ở ngay dưới bàn trong bếp nhà
con.’ Người ấy về nhà và sửa soạn đào dưới bàn ăn trong bếp song chợt
hiểu ra rằng: ‘Báu vật ấy ở ngay trong tâm ta, có đâu ở dưới cái bàn nầy!
Ta chỉ cần ngồi ung dung để chân dưới bàn là kiếm được nó ngay’. Ta ruổi
rong tìm kiếm khắp nơi, có ngờ đâu bảo vật ở ngay nơi mình.
Tất nhiên đây là điều mà mỗi chúng ta sẽ phải tự tìm ra cho mình. Chỉ
muốn khám phá ra những kho tàng tâm linh thôi không đủ; ta phải thực sự
bắt tay vào việc. Nếu ta vẫn sống theo các thói quen cũ và không cố gắng
gì để thay đổi, ta vẫn tùy thuộc vào con người cũ của mình, vẫn đồng hóa
với những phản ứng nhất thời của mình đối với sự việc.
Một điều mà Đức Phật đã dạy là nếu chúng ta có thể đạt được sự nhận thức
rõ ràng, sâu sắc về sự đến và đi của năm uẩn, thì chúng ta có thể tự quan
sát bản thân cũng như thế - như một chuỗi nhân và quả liên tục. Khi đã
hiểu mình như những hiện tượng nhân quả, cái ngã sẽ chấm dứt, vì chúng ta
là nhân mà cũng là quả và cả hai đều có gốc rễ trong sự chấp ngã không
dừng dứt của ta.
Nếu, trong lúc thiền tọa, ta cảm nhận rõ ràng được sự đến và đi của các
uẩn qua từng giây phút, không dừng dứt, ngay lúc đó, trở lại quán tưởng về
vô thường, ta sẽ vào được cõi vô diệt. Đây là lời hứa của Đức Phật.
Câu cuối cùng của đoạn kinh nói: ‘Người mà biết gọi đó là cõi vô diệt’.
Thay vì cụm từ ‘người mà biết’ ta có thể nói ‘người trí tuệ’. Xét cho
cùng, chỉ biết thôi chưa đủ, ta phải đưa cái biết đó vào thực hành. Hiểu
biết về một điều gì đó và có thể thực hành nó là hai điều hoàn toàn khác
nhau. Nói là mọi vật đều vô thường thì chẳng có gì là mới mẻ cả -biết
vô thường không thành vấn đề đối với chúng ta. Nhưng để là đòi hỏi
trí tuệ hiện hữu -phải thực sự là cái ta biết. Đây là điểm
khác biệt chính yếu giữa nhà học giả và hành giả. Nhà học giả biết tất cả
mọi thứ về vô thường, song chỉ có hành giả là kẻ sẽ có ngày đạt được nó.
‘Người mà biết’ do đó là người trí tuệ và điều mà người trí tuệ biết là
‘cõi vô diệt’, một từ đồng nghĩa với niết bàn.
Niết bàn là một ý niệm khó hiểu và khó thể được diễn tả chính xác. Thí dụ
ta có thể cho nó là sự thể hiện của thượng đế ở trong ta -không phải là
một thượng đế dưới hình dạng nào, nhưng là một nền tảng căn bản cho tất cả
những gì đang hiện hữu. Điều đó, ta có thể gọi, là niết bàn. Điều đáng
tiếc là ý nghĩa của từ ‘thượng đế’ quá phức tạp nên mỗi người sẽ nghĩ về
một thứ khác nhau khi nói đến từ này -do đó nó không còn ý nghĩa gì mấy.
Cũng thế, có rất nhiều sự ngộ nhận về từ ‘niết bàn’.
Tốt nhất là ta nên tránh tạo những khái niệm liên hệ với từ ‘niết bàn.’
Tuy nhiên, tôi muốn đưa ra vài khái niệm về ý nghĩa của nó để người đọc có
thể hiểu cụm từ ‘cõi vô diệt’ (deathless realm) muốn diễn tả gì. ‘Vô diệt’
có nghĩa là không có gì tịch diệt -nhưng trước khi có vô diệt thì phải có
vô sinh. Căn bản rốt ráo của mọi hiện hữu không có sinh cũng không có
diệt.
Để chứng ngộ được sự thật nầy, ta phải tiếp cận nó một cách hết sức từ tốn.
Nó không liên hệ gì đến niềm tin vào một thực tại bên ngoài, những nghi
thức bên ngoài, hay những ảnh hưởng bên ngoài nào đối với ta. Nếu ta
tương đối may mắn sống ở một nơi thoải mái, có đủ ăn, đủ mặc,có nơi tránh
gió mưa bão táp, có thuốc men khi ốm đau, ta đã có đủ mọi thứ ta cần từ
thế giới bên ngoài. Tất cả chúng ta đều có thể chứng ngộ sự thật tối
thượng vì nó ở ngay trong ta. Từ trong tiềm thức, ta biết rằng đây chính
là điều mà ta hằng tìm kiếm, nhưng người ta chẳng bao giờ bàn về điều nầy
và cũng không muốn tự thú nhận điều đó. Sự thật này không nhất thiết phải
có một cái tên, dù đó là ‘niết bàn’, ‘cõi vô diệt’ hay là ‘thượng đế’. Có
một thực tại ở đó ta có thể tìm được sự nghỉ ngơi, an tịnh, nhưng ta chỉ
có thể tìm được nó trong nội tâm ta. Tiếng nói của nội tâm cũng cho ta
lời khuyên. Vậy mà ta mãi kiếm tìm ở những chỗ đâu đâu.
Trạng thái nghỉ ngơi này là gì? Có phải là khi ta về hưu? Hầu hết những
người về hưu không nghỉ ngơi mà trái lại còn bận rộn hơn bao giờ hết, nếu
không họ sẽ thấy buồn chán. Nghỉ ngơi của đời thường chỉ có nghĩa là thay
đổi công việc làm chúng ta bận rộn. Tìm được sự nghỉ ngơi nghĩa là tìm
được bản chất của ta, căn bản của hiện hữu, và chứng ngộ nó. Căn bản nầy
có mặt ở trong mỗi chúng ta. Nó đem ta vào đời, giữ ta sinh tồn và đem ta
về cõi chết. Chứng ngộ nó có nghĩa là buông xả hết tất cả những bám víu,
mong cầu được hiện hữu, hay được là ‘một ai đó’. Do đó, chỉ khi nào chúng
ta thôi không bám víu, khát khao hiện hữu và khẳng định bản ngã, thì ta
mới thực sự tìm được sự nghỉ ngơi. Ở đây không nói là ta phải khinh rẻ
hoặc ruồng bỏ bản thân -vì điều này cũng tệ chẳng khác sự luyến ái cái ngã.
Mà đúng ra là, qua thiền định ta sẽ dần nhận ra sự hình thành của bản ngã
như thế nào bên trong ta.
Ngay khi chúng ta có thể ngưng các vọng niệm, ta sẽ có cơ hội để cảm
nghiệm một tầng thức mới của cuộc sống nội tại -có nghĩa là cuộc sống nội
tại mà chúng ta đang theo đuổi là một chứng nghiệm sống chứ không phải là
một quá trình tư duy. Việc ngưng các vọng niệm là bước đầu tiên, chỉ cho
ta nơi đâu để tìm ra được sự thật sâu xa hơn. Đồng thời ta cũng có thể
chuẩn bị cho sự chứng nghiệm đó bằng cách hướng dẫn tư tưởng của ta đến sự
thật là tất cả những gì đang xảy ra cho ta và quanh ta đều vô thường.
Bằng cách kiên trì tự nhủ mình như vậy, dần dà ta có thể cảm nghiệm được
sự đến và đi của mọi việc.
Để nhớ những gì ta biết thì cũng đơn giản thôi. Nhưng làm chủ được nó có
nghĩa là ta phải kinh qua những gì ta biết, thì không đơn giản như thế -dù
là trên đời luôn có một số người có khả năng siêu việt này. Ta không cần
phải chuyên tâm vào một niềm tin, một tôn giáo, triết lý hay tâm lý nào,
ta chỉ cần để ý chính mình thôi. Có gì đơn giản hơn thế phải không?
Tưởng là như vậy song thực ra đây lại là một điều rất khó làm. Còn gì thú
vị hơn là tự quan sát mình phải không? Nhưng phần đông đều thích dòm ngó
người khác. Nếu ta xem những gì ta quán sát được như đang xem một cuốn
phim thì việc quan sát chính mình chắc chắn là một cuốn phim đáng xem hơn
là lấy máy ảnh ghi lại những sự kiện bên ngoài một cách không ý thức.
Như vậy ta đã có lới hứa khả của Đức Phật là ta sẽ đạt được hạnh phúc nội
tâm, bất kể hoàn cảnh bên ngoài. Ta cũng có những quy luật riêng cho con
đường ta phải theo để tự chứng nghiệm được hạnh phúc đó. Sự lợi ích và
quan trọng vô cùng của giáo lý của Đức Phật không chỉ nằm trong những lời
hứa, mà còn ở chỗ nó chỉ cho ta cách chứng nghiệm sự thật và những gì ta
có thể chờ đợi trên con đường tu tập.
Chương 2
Ba Mươi Tám Phước Báu
Như vầy tôi nghe. Một lần Thế Tôn đang cư ngụ tại Xá Vệ,
trong vườn Kỳ Đà tại Tu Viện Cấp Cô Độc. Một đêm tối một vị trời hiện
ra với hào quang rực rỡ tỏa sáng cả vườn cây. Vị ấy đứng qua một bên
và cung kính đảnh lễ Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, nhiều vị trời và người khi
tìm kiếm hạnh phúc đã quán tưởng về những điều có thể đem lại sự giải
thoát. Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy nói về sự giải thoát tối thượng!’
Không thân thiện kẻ ngu. Kết bạn với thiện tri thức. Tôn kính bậc đáng
kính. Đây là những phước báu lớn.
Có
chỗ ở thuận tiện, tích đức trong quá khứ, theo đuổi những hạnh lành: đây
thật là những phước báu lớn!
Giàu kiến thức và khả năng chuyên môn, hành trì miên mật các giới luật,
chỉ nói lời chân chất. Đây thật là những phước báu lớn!
Phá ngã và thanh tịnh hóa tâm, tuệ giác về tứ đế, sau cùng đạt Giác Ngộ,
đây thật là những phước báu lớn!
Một trái tim vững chãi - không phiền muộn, trong sạch và an trụ -
dù khi gặp bát trược. Đây thật là phước báu lớn!
Những ai đạt được vậy là kẻ chiến thắng, ở mọi lúc mọi nơi. Họ tìm được
hạnh phúc ở khắp cùng các chốn, và đây là phước báu tối thượng.
Mahamangala Sutta, Sutta Nipata 258-69
Kinh Đại Phước Đức, Bộ Pháp 258-69
Trong bài thuyết pháp này, Đức Phật giải thích thế nào là hạnh phúc thật
sự của nhân loại. Bài pháp này càng có ý nghĩa vì nó liên quan đến cuộc
sống thường nhật của ta. Bài pháp bắt đầu như sau:
Như vầy tôi nghe. Một lần Thế Tôn đang cư ngụ tại Xá Vệ, trong vườn Kỳ Đà
tại Tu Viện Cấp Cô Độc. Một đêm tối một vị trời hiện ra với hào quang
rực rỡ tỏa sáng cả vườn cây. Vị ấy đứng qua một bên và cung kính đảnh lễ
Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, nhiều vị trời và người khi tìm kiếm hạnh phúc đã
quán tưởng về những điều có thể đem lại sự giải thoát. Bạch Thế Tôn, xin
Ngài hãy nói về sự giải thoát tối thượng!’
Vị trời này có thể được xem như một hình ảnh trong tâm trí của Đức Phật,
hoặc một biểu hiện ngoại tại như là sự hiện hình của Đức Mẹ Đồng Trinh
trong truyền thống Ky Tô Giáo, hoặc một nhân vật tôn giáo nào khác. Nhưng
vị trời này đã nói: nhiều vị trời và người khi tìm kiếm hạnh phúc đã quán
tưởng về những điều có thể đem lại sự giải thoát. Hiển nhiên là ít nhiều
gì tất cả chúng ta đều đã nghĩ về những điều làm chúng ta được hạnh phúc
tột cùng. Thế thì vị trời này định nói gì khi dùng từ giải thoát?
Khi hỏi Đức Phật nghĩ gì về giải thoát, vị trời dùng từ ấy để ám chỉ những
sự kiện bên ngoài, những hiện tượng có tính cách thần bí, những thứ bùa
ngải. Chúng ta cũng thường có thói quen tìm hạnh phúc qua bói bài, tử vi,
đoán số, v.v.. Nhưng ở đây từ Pali mangala có hai nghĩa, nó có thể
được dùng như nghĩa vị trời đó dùng ở đây, để chỉ ‘sự giải thoát’, song nó
cũng có thể có nghĩa là 'phước báu'. Ở đây, cũng như thường lệ, Đức Phật
không dùng định nghĩa đã được hàm ý trong câu hỏi; thay vào đó Ngài giảng
cho chúng ta phước báu thật sự là gì và mô tả toàn bộ ba mươi tám phước
báu mà ta có thể đạt được bằng sự nỗ lực của chính mình.
Sự hiện hình của vị trời này xảy ra khi Đức Phật đang ở trong tu viện do
trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường cho Ngài. Đây là nơi Đức Phật thường trú
ngụ ba tháng trong các khóa an cư mùa mưa. Mặc dù vị trời này hiện ra với
vẻ đẹp không thể tưởng tượng được và với hào quang thanh tịnh tỏa sáng cả
vườn Kỳ Đà, nhưng vị ấy không có điều gì để chia sẻ với Đức Phật. Ngược
lại, vị ấy lại nhờ Đức Phật giảng pháp. Đức Phật đã giải thích về ba
phước báu đầu tiên như sau:
Không thân thiện kẻ ngu. Kết bạn với thiện tri thức. Tôn kính bậc đáng
kính. Đây là những phước báu lớn.
Hai phước báu đầu tiên có liên hệ với nhau và nhấn mạnh về những người mà
ta nên thân cận: những người mà trí tuệ của họ có thể đem lại lợi lạc cho
ta. Vì kế sinh nhai, không phải lúc nào ta cũng có thể lựa chọn những
người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày. Do đó chúng ta phải
cố hòa đồng với tất cả những người mà ta gặp. Nhưng may mắn thay, ngày
nay chúng ta có khá nhiều thì giờ rảnh để làm theo sở thích của mình.
Có những câu châm ngôn như: ‘Hãy nói cho tôi bạn của anh là ai, tôi sẽ
biết anh là hạng người nào’ hoặc ‘ngưu tầm ngưu, mã tầm mã’ để nhắc chúng
ta về quy luật này -điều mà Đức Phật cũng nhấn mạnh trong nhiều bài thuyết
giảng- về phước báu được làm bạn với các thiện tri thức và sự vô phước
phải chung đụng với những kẻ ngu và người ác. Nhưng làm sao ta biết được
ai là những kẻ ngu? Theo lời Đức Phật dạy, đó là những người không chú
trọng đến đời sống tâm linh và tin rằng họ có thể tìm thấy hạnh phúc qua
của cải vật chất. Hầu hết mọi người đều đồng ý là ta không thể tìm được
chân hạnh phúc trong của cải vật chất mà thôi. Tất cả mọi tôn giáo đều
nói đến chân lý ‘con người ta không chỉ sống bằng thức ăn.’
Kẻ ngu hoặc vô minh là kẻ tin là chỉ những điều mắt ta thấy, tai ta nghe,
mũi ta ngửi, lưỡi ta nếm, thân thể ta xúc chạm, tâm ta nghĩ tưởng -là tất
cả những thứ ở trên đời. Cách nhìn này hết sức giới hạn tiềm năng của
chúng ta. Tâm trí ta có khả năng nhìn sâu, thấy xa và trong tiềm thức
chúng ta cũng biết đến điều này, nếu không ta chẳng bao giờ mơ tưởng đến
việc nhọc công ngồi trên tọa cụ thiền tập để đạt đến những tâm sở cao cả
hơn. Thế nên, nếu ta lệ thuộc vào các giác quan của mình, hoặc nghĩ là
mình chỉ có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới vật chất bên ngoài, Đức
Phật gọi ta là kẻ ngu. Để xác quyết mình không phải là kẻ ngu, ta phải tự
hỏi là mình có nỗ lực kết bạn với các thiện tri thức không.
Thiện tri thức không phải là người học rộng hiểu nhiều mà là người sống
trong một thế giới thiện mỹ mà họ tìm thấy ngay nơi nội tâm mình. Đó là
những người ta cần thân cận bởi họ có thể giúp ta trên con đường tâm linh.
Phước báu thứ ba là 'tôn kính bậc đáng kính'. Điều này hơi khó làm ở xã
hội Tây phương bởi lẽ ta khó biết được ai thật sự là bậc đáng kính. Tại Á
châu, chúng ta vẫn thấy nhiều bậc được kính trọng - phần lớn vì truyền
thống. Ở Tây phương, người ta thường hay nghi kỵ. Hay nghi thì cũng tệ
chẳng kém gì khi phạm lỗi ngược lại -sự cả tin. Tuy nhiên, dù cả tin
thiếu sự phê phán, nhưng ít nhất nó cũng giúp ta cảm nhận và bộc lộ điều
gì đó từ trái tim mình. Lòng tôn kính và thương yêu đều đến từ một chỗ.
Ở
những nơi mà tôn giáo và cuộc sống tâm linh được tôn vinh trong xã hội,
người ta thường bày tỏ lòng tôn kính những bậc đã hy sinh cả cuộc đời mình
cho đạo pháp như các thầy tu, các vị nữ tu, các vị thiền sư hay lạt ma.
Thật sự họ có phải là các bậc đã đạt giác ngộ cao hay không, lẽ dĩ nhiên
chúng ta không thể nào biết; ta chỉ có thể nhận ra ở người khác những đức
tính mà ta cũng có. Nói cách khác, những gì ta thấy được ở người khác là
sự phản chiếu của các đức tính bên trong ta.
Để gieo trồng những tình cảm tích cực, chúng ta không nên ngần ngại bày tỏ
lòng tôn kính các bậc đáng tôn kính, dù ta không biết chắc rằng đối tượng
có thực sự thuần khiết về tâm linh hay không. Thói quen hay phân tích
người khác dễ dàng làm tiêu tan bất cứ cảm giác tôn kính nào. Thật vậy,
Đức Phật thường khuyên chúng ta là thay vì phân tích người khác, ta hãy tự
phân tích bản thân, và Ngài đã chỉ bày cho ta nhiều phương cách khác nhau
để làm việc này.
Một khi đã nhận Đức Phật là bậc đạo sư của mình, chúng ta phải hết lòng
tôn kính Ngài và bày tỏ lòng tôn kính ấy bằng cách lễ Phật. Ta còn phải
tỏ lòng tôn kính bằng cách cố gắng ghi nhớ giáo lý để sự thanh khiết của
Pháp được tỏa sáng trong ta. Lòng tôn kính giúp ta cảm thấy gần gũi với
lý tưởng cao đẹp nhất và nhờ vậy mà ta đạt được một sự an nhiên tự tại mà
không một phần thưởng vật chất nào của thế tục có thể so sánh được. Có
thể có nhiều tên gọi khác nhau cho lý tưởng cao đẹp nhất này của sự Giác
Ngộ, nhưng tinh hoa của giác ngộ, dù ta có đạt được cho mình hay không, là
Đức Phật. Nếu ta có thể tỏ lòng tôn kính cho lý tưởng như thế, bằng cách
tôn kính bậc đáng kính, Đức Phật gọi đó là một phước báu chân thực.
Có chỗ ở thuận tiện, tích đức trong quá khứ, theo đuổi những hạnh lành:
đây thật là những phước báu lớn!
Phước báu đầu tiên trong ba phước báu nói trên là một cái gì hết sức cụ
thể: chỗ ở (trú xứ) thuận tiện, theo lời Đức Phật dạy, là nơi không có
chiến tranh hay người láng giềng thù địch. Trong khung cảnh an bình, ta
có thể thư giãn và có nơi tĩnh tọa. Nếu được ở một chỗ như vậy ta có thể
coi là mình hết sức may mắn. Đức Phật gọi đó là một trong ba mươi tám
phước báu.
Phước báu kế tiếp, ‘tích đức trong quá khứ’ là phước báu đã tạo thiện
nghiệp qua sự thương yêu, sẵn lòng giúp đỡ người khác và bố thí. Ta
thường hay quên là tất cả những gì ta nói, nghĩ và làm đều mang theo hậu
quả của nó và chẳng có gì bị mất cả. Nghiệp quả của những ý định và hành
động của chúng ta có thể hiển bày trong một ngày, đôi khi chỉ trong một
giây, hoặc nó có thể hiện ra sau một thời gian khá lâu. Cuộc đời ta là
bổn phận của riêng ta. Cũng có câu nói: 'Bạn chính là người tạo nên đời
mình.' Ta có thể cho rằng hoàn cảnh chung quanh khiến ta vui hay buồn,
song những hoàn cảnh ấy lại tùy thuộc vào chủ đích của ta. Hạnh phúc nằm
trong tay ta. Nghiệp tốt đến từ nhân tốt, nghiệp xấu đến từ nhân xấu.
Đây là luật nhân quả.
Tất nhiên, sự việc ít khi đơn giản như thế. Nếu ta có ý định tốt song
thiếu khả năng thực hành điều ấy, ta sẽ gặt một số quả tốt, và một số quả
không tốt mấy. Đức Phật dạy rằng nhân quả giống như một lưới nhện, những
sợi tơ chằng chịt lẫn nhau, chẳng biết đâu là đầu, đâu là đuôi. Cũng vậy,
ta không biết nhân nào đã đưa ta đến quả hiện tại, hoặc ngọn ngành lý do
nào khiến ta là ta. Song điều ta có thể làm được là trân quý những gì tốt
đẹp mà ta có được mỗi ngày trong cuộc sống. Sự biết ơn tạo cho ta đức tính
tích cực, thương yêu, đầy nhân nghĩa, và cương quyết; và tất cả những đức
tính ấy sẽ hỗ trợ ta trong việc tiếp tục hành thiện.
Việc hành thiện bắt đầu trong tâm ta từ những ý nghĩ tốt, được diễn tả qua
chánh ngữ, rồi được bộc lộ qua hình thức của những hành động tích cực. Ba
cánh cửa của nghiệp, do đó, là ý nghĩ, lời nói và hành động. Chính qua ba
cánh cửa này mà tất cả mọi người trên đời tạo ra nghiệp lành hay nghiệp dữ.
Nếu ta đã tạo nghiệp lành trong quá khứ, quả thật đó là một phước báu bởi
nghiệp lành ấy đang hỗ trợ chúng ta và ta có thể tránh nghiệp dữ bằng cách
luôn thận trọng giữ gìn ý nghĩ, lời nói và hành động của mình. Xét cho
cùng chẳng ai trong đời này lại không tạo nghiệp, ngoại trừ Bậc Giác Ngộ.
Phước báu kế tiếp là ‘theo đuổi những hạnh lành’. Điều này cũng có thể
được gọi là ‘có lý tưởng sống trong đời’. Ở đây ta lại đối diện với sự
thật là của cải vật chất không thể làm thỏa mãn bất cứ một ai. Nếu ta
quán sát các người thân, người quen, và bạn bè, và nếu tự quán sát chính
mình, chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng là cuộc đời là một sự pha trộn của
những niềm vui và nỗi khổ, của những sự hạnh phúc và phiền não.
Ta thường nghĩ rằng phiền não là do những việc bất như ý bên ngoài đem đến
cho ta và vì thế bằng mọi cách, ta cố gắng thay đổi hoàn cảnh ấy. Song
sẽ đến một lúc, ta nhận ra rằng dù ta có cố gắng hết sức mọi việc sẽ không
bao giờ suông sẻ như ý ta muốn. Thứ nhất, là vì có những hoàn cảnh ta
không thể nào thay đổi được. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có những ngoại lệ, có
những lúc khi các hoàn cảnh bên ngoài đã được giải quyết thì mọi thứ cũng
sẽ đâu vào đó. Nhưng sự thật là vấn đề không nằm ở các yếu tố bên ngoài.
Nếu quyết tâm theo đuổi lý tưởng cao đẹp nhất và đi theo con đường tâm
linh, ta có thể bắt đầu bằng cách chấm dứt đổ lỗi cho hoàn cảnh không
thuận tiện bên ngoài.
Con đường của Đức Phật gồm có thiền quán và sự thanh tịnh hóa tâm, và hai
phần này lệ thuộc vào nhau. Nếu lơ là một trong hai hoặc cả hai ta sẽ
không có sự cân bằng vững chãi trong cuộc sống tâm linh. Để đạt đến mục
tiêu cao đẹp nhất ta cần phải thực hiện cả hai. Thiền định giúp chúng ta
nhận diện được những điều đang xảy ra trong tâm và không biết được điều ấy
thì không thể nào thanh lọc được tư tưởng và cảm xúc của mình.
Phát triển sự tĩnh lặng của tâm qua thiền định bằng sự chú tâm, biến nó
trở thành một dụng cụ có giá trị. Đức Phật ví tâm ta như một cái rìu đã
được mài sắc; ta biết là đối với các việc khó khăn một cái rìu cùn không
thể nào kham nổi; cũng vậy, chỉ có một tâm đã được tôi luyện mới có thể
hấp thụ được những điều thật quan trọng trong đời.
Chúng ta thường để tâm bị bấn loạn và kích thích bởi những điều nhỏ nhặt,
mặc dù chúng chẳng có ý nghĩa gì hơn là giúp cho ta qua ngày đoạn tháng.
Qua thiền định ta biết phân biệt giữa những giá trị tạm bợ và giá trị nội
tâm chân thật. Tất nhiên, khi còn có thân, ta còn cần phải thỏa mãn những
đòi hỏi của cuộc sống. Ta phải ăn ngủ và làm việc. Tuy nhiên đến cuối
ngày xem lại thì những hoạt động ấy tự chúng có giá trị gì? Và có phải
chúng chỉ là phương tiện giúp ta quên đi để không thấy là cuộc sống của ta
không thực sự hạnh phúc?
Chẳng
thiếu gì những thứ làm ta phân tâm. Trong xã hội kỹ thuật tân tiến của
chúng ta, chỉ cần nhấn một cái nút là ta có thể tìm quên trong chốc lát.
Thế nhưng việc ấy đem lại an lạc gì cho tâm ta. Hướng đi mà ta muốn chọn
cho cuộc đời mình là một vấn đề quan trọng. Những việc mà ta luôn phải
bận rộn, luôn ngự trị tâm ta, những việc mà ta trăn trở, tổn phí thì giờ,
chúng quan trọng đến thế nào? Chúng có giá trị nội tâm hay bên ngoài?
Chúng có đem lại an lạc và hạnh phúc cho ta và tha nhân? Đây là những câu
hỏi mà ta phải tự đặt ra cho mình nếu chúng ta muốn vạch ra những nguyên
tắc chỉ đạo để giúp đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của mình.
Giàu kiến thức và khả năng chuyên môn, hành trì miên mật các giới luật,
chỉ nói lời thuần nhã. Đây thật là những phước báu lớn!
Phước báu đầu tiên trong ba phước báu kế tiếp: ‘giàu kiến thức chuyên môn
và khả năng’ - kết hợp hai yếu tố thật khác biệt trong thực tế. Kiến thức
làm phong phú cuộc sống của ta, song ta có thực hành được những điều mình
biết không? Chúng ta ai cũng biết câu châm ngôn ‘Thương người như thể
thương thân’, song ta có thể sẵn sàng làm theo lời dạy ấy chăng? Đây là
những câu hỏi quan trọng mà mỗi chúng ta phải suy nghĩ kỹ càng.
Trong gia đình, nơi
trường học, hay ở các khóa huấn luyện ta học được nhiều khả năng chuyên
môn giúp ta kiếm sống. Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh thủ công nghệ bởi vì
nó giúp ta tự lập. Trong thời của Ngài, các nghề này được đánh giá hết
sức cao, hơn thời nay rất nhiều. Chúng ta đã xem thường các kỹ năng này,
nhiều nghề chỉ còn tồn tại như những sở thích riêng, nhiều nghề hoàn toàn
biến mất vì hầu hết mọi đồ dùng đều được làm bằng máy móc và nếu cần thứ
gì thì ta có thể đi mua ngay.
Chúng ta có nhiều khả năng mà tự bản thân cũng không hề biết đến bởi ta
không có cơ hội để thử tài mình - song biết chế tạo một vật gì bằng đôi
tay mình quả là một phước báu lớn. Những món đồ mà ta sản xuất giúp ta
sống tự lập cũng như giúp ta làm vui lòng người khác, và đây cũng có thể
là phương kế sinh nhai thích đáng cho ta. Việc phát triển và áp dụng
những kỹ năng thủ công có thể giúp ta có một cuộc sống vững vàng, trở
thành một người tự tin, một thành viên hữu dụng của cộng đồng. Tuy nhiên
câu hỏi tất yếu là ta đã sử dụng được kiến thức và kỹ năng của mình như
thế nào trong việc tìm kiếm sự an lạc cho tâm, bởi lẽ một phước báu phải
thật sự đưa ta đến tâm bình an, bằng không thì nó không phải là phước báu.
Nếu chúng ta nghĩ là nền hòa bình thế giới phải cần đến nỗ lực của người
khác thì ta cần xem xét lại niềm tin ấy. Hòa bình thế giới tùy thuộc vào
việc mỗi người chúng ta có tìm được an lạc cho bản thân không. Đây là con
đường duy nhất dẫn đến hòa bình thế giới.
Việc đặt kiến thức (học) và nghề nghiệp (hành) song song với nhau đặc biệt
quan trọng đối với những người học Phật, tuy quen thuộc với giáo lý của
Đức Phật và nội dung của nó nhưng lại gặp khó khăn khi đưa vào thực hành.
Người thông minh như chúng ta không gặp khó khăn mấy khi muốn học hỏi điều
gì. Ta hiểu những điều mình đọc, và còn có thể học thuộc lòng chúng.
Những điều mà ta học ở trường vẫn còn đó, song sau khi đã đóng sách lại
hoặc trả bài xong, bao nhiêu phần đó thực sự vẫn sống đọng trong ta? Khi
Đức Phật nói ‘học và hành’, Ngài muốn dạy ta là phải quan tâm đến
cả hai.
Chắc chắn là đoạn kinh này có những ứng dụng thực tiễn trong đời thường,
song nó nhắm đến kiến thức tâm linh và những hạnh nguyện cao quý nhất nhằm
đạt đến kiến thức ấy. Nếu chúng ta không thấm nhuần lời kinh - tức là
nhập tâm nó và y giáo phụng hành - thì làu thông kinh đến mấy cũng là vô
dụng. Đức Phật mô tả nhiều câu chuyện của những người thô thiển chỉ thuộc
một bài kinh hoặc một câu kinh mà vẫn tìm ra được con đường thanh tịnh hóa
tâm. Ngài thường nói rằng chỉ thuộc lòng các ngôn từ và kinh điển thì
cũng chẳng ích lợi gì. Chỉ một lời chỉ dẫn nếu thực hành chuyên cần vẫn
có thể đưa ta đến hỷ lạc. Thật vậy, Kinh Đại Phước Đức là kinh về
sự giải thoát tối thượng, tự nó có đủ tất cả những điều cần thiết để hướng
dẫn cuộc sống của ta. Những điều quan trọng nêu ra trong kinh không khó
nhớ; song cuộc sống thường có nhiều thứ làm ta phân tâm: những việc làm
thường ngày dường như quá quan trọng đến nỗi ta không thấy có con đường
nào khác hơn, giống như nó là cái gì tuyệt đối không thể không theo.
Một điều có thể giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn là việc nhận thức
rằng tất cả chúng ta sẽ phải chết. Điều này không liên hệ gì tới việc ta
bao nhiêu tuổi. Đời người có thể dài ngắn khác nhau song chắc chắn là mỗi
chúng ta đều phải chết. Nếu suy nghĩ đúng đắn về cái chết của chính mình
ta sẽ không trì hoãn nhiều việc như ta thường nói, “khi tụi nhỏ đã lớn,
khi tôi trả hết nợ nhà cửa, khi thời tiết tốt hơn,...”. Những việc mà ta
có thể chờ đợi dài vô tận. Song ta chỉ có thể sống ngay bây giờ, ngay
trong giây phút hiện tại. Ngày mai là một ngày khác mà ta chưa chắc sẽ
sống để thấy. Nếu không làm những điều ta biết là mình nên làm hôm nay
thì ta đã bỏ phí ngày hôm nay vậy.
Phước báu tiếp theo - ‘hành trì các giới luật’ - nói về ngũ giới mà ít
nhiều gì ta đã biết từ khi còn thơ ấu. Đó là: không sát sanh, không lấy
của người, không tà dâm, không nói dối hoặc dùng lời thô lỗ, không dùng
rượu hoặc các thứ độc hại.
Lẽ dĩ nhiên là học các giới này thì dễ hơn là hành. Không sát sinh có
nghĩa là không sát hại bất cứ sinh vật nào, chứ không chỉ là cấm giết
người, và chúng ta nên tự vấn lương tâm về điều này. Với giới cấm không
lấy của người nếu người không cho, đối nghịch lại một cách tích cực là
thực hành hạnh bố thí. Cũng vậy, không tà dâm không chỉ có nghĩa là không
xâm phạm đến người khác mà còn có nghĩa là trung thành với người hôn phối,
với bạn bè, cũng như có trách nhiệm với người, hòa hợp với mọi sinh vật.
Hạnh cao đẹp của chánh ngữ là đề mục của phước báu tiếp theo mà chúng ta
sẽ bàn dưới đây. Vì rượu và các loại độc hại khác làm tâm ta điên đảo hơn
thế nữa, nên Đức Phật khuyên ta tránh các thứ đó.
Hành trì các giới đòi hỏi ta phải có một mức độ kỷ luật cá nhân nào đó.
Ngày nay chúng ta không coi trọng việc này như thời trước. Ta cho việc
quan trọng nhất trong đời là phải có một cuộc sống thoải mái, và nhà cửa
cũng như tất cả mọi sở hữu khác đều nhằm đạt được mục đích ấy. Song sự
thoải mái là một giá trị tương đối và tự nó không tạo ra hạnh phúc.
Chúng ta cần sự tự kỷ luật, nếu muốn đạt được ý niệm thực sự về giá trị
của cuộc sống hay duy trì việc hành thiền mỗi ngày. Sự tự kỷ luật có
nghĩa là từ bỏ những thói quen chỉ nhằm thỏa mãn các ham muốn của ta, chứ
tự chúng không có một giá trị nào cao đẹp hơn. Việc tự kỷ luật này có thể
đòi hỏi rất nhiều nỗ lực.
Không dùng lời thô lỗ, hiển nhiên, là nhắm vào lời ăn tiếng nói của ta với
người khác. Đối nghịch với giới này là dùng lời thuần nhã với người.
Điều này không có nghĩa là nói những lời mà ta nghĩ là người khác muốn
nghe -một phần của cái thói xấu thường thấy ở nhiều người là luôn mong
nghe những lời khen. Lời thuần nhã ở đây là những lời liên hệ đến Pháp,
làm cho người phấn khởi và hướng thượng và giúp người sẵn lòng đi trên con
đường hành thiện. Những lời ấy xuất phát từ tận sâu thẳm đáy lòng ta,
khác hẳn với những lời trò chuyện hời hợt hàng ngày. Đây chính là điều mà
Đức Phật thường khuyên nhủ, ta nên có những ‘lời lành’ với các bạn ‘lành’.
Dĩ nhiên, ngay cả một lời nói lành cũng có thể hàm chứa một thiện ý. Song
điều thiết yếu là những lời nói thuần nhã là những lời nâng cao ý thức của
ta, đưa ta vượt ra khỏi cái nhìn vị kỷ và cho ta thấy bản chất hạn hẹp của
cái ngã. Nó đưa ta đến cảm giác hòa đồng với tất cả nhân loại và giúp ta
nhận thức được sự đồng thể tính của vạn vật. Khi giúp ta có cảm giác là
một với tất cả sinh linh, nó cho ta một cảm giác bình an, thoát khỏi sợ
hãi và lo âu. Ta không thể tránh nói về cuộc sống hàng ngày, song nếu ta
không có đề tài gì khác -nếu ta chưa bao giờ nói đến những đề tài hướng về
một sự thật sâu xa nào hơn là ngã tưởng của mình- thì đời ta quả thật là
nghèo nàn.
Để chuẩn bị cho những sự đàm luận như thế, ta phải bồi dưỡng tâm qua việc
nghe, đọc và thảo luận về Phật Pháp. Ta phải nuôi dưỡng tâm còn kỹ càng
hơn việc nuôi thân mình. Kích thích tâm bằng truyền hình, báo chí thường
không có lợi và ta chớ nên chú ý nhiều tới những thứ đó. Có nhiều sách và
bài luận giảng về giáo lý của Đức Phật mang đến cho ta những phương pháp
mới để đạt đến sự tỉnh thức cao hơn mà chúng ta nên đọc và tìm hiểu. Khi
càng tôi luyện cho mình về chân lý của Pháp, tâm ta lại càng tự nhiên
hướng về phía ấy.
Ta phải cố gắng tận dụng cuộc đời ngắn ngủi của thân này để đạt đến tiềm
năng cao nhất của mình. Tất cả chúng ta đều có khả năng đạt Giác Ngộ tức
là vô nhiễm tối thượng và dứt sạch tất cả mọi khổ đau. Song ta phải tiến
bước trên con đường tỉnh thức trước tiên bằng cách nhận ra rằng những điều
chúng ta làm thường ngày không có mục đích gì hơn là chỉ giúp chúng ta duy
trì mạng sống, nhưng vì tất cả chúng ta đều sẽ chết, nên việc ấy cũng
không thể nào quan trọng đến thế.
Điều mà chúng ta thật sự ý thức và đạt được nơi bản thân, không lệ thuộc
vào các yếu tố bên ngoài. Thiền quán là một phương tiện cho cứu cánh này,
song nó chỉ là một điều kiện cần chứ không đủ. Tất cả ba mươi tám phước
báu trong kinh này bắt đầu bằng những phước báu hàng ngày, và đưa chúng ta
trọn đường đến Giác Ngộ, đó là những phước báu mà ta có thể đạt được ngay
trong đời này bằng nỗ lực của chính mình. Tất cả quá trình chỉ cho ta
cách tận dụng các khả năng của mình.
Phụng dưỡng cha mẹ thật chu toàn, chăm lo cho gia đình, có nghề nghiệp tốt
lành. Đây thật là những phước báu lớn!
Điều này có nghĩa là khi cố hết sức mình, ta sẽ được hưởng phước báu tối
thượng ngay trong hiện tại. Khi ta cảm nhận được những trạng thái tâm
linh thật sảng khoái và dễ chịu đó là kết quả của một quá trình vững chắc
trong việc thanh tịnh hóa lời nói và hành động. Về việc phụng dưỡng cha
mẹ, phước báu này nằm ở chỗ ta sẵn lòng làm việc này, không cần biết là
cha mẹ có cần hoặc có biết ơn ta. Phụng dưỡng mẹ cha thì luôn luôn được
lợi lạc, dù phụng dưỡng về vật lực, hay về tinh thần. Nếu ta có thể giúp
bằng một tâm hoàn toàn trong sáng ta sẽ luôn đạt kết quả tốt. Hành thiện
là một việc tốt, nhưng lại càng tốt hơn nếu ta làm với tâm thiện: việc làm
được thực hiện với tâm miễn cưỡng mang lại kết quả không rõ ràng; còn việc
làm với tâm bất thiện chắc chắn sẽ dẫn đến những kết quả xấu hơn.
Đức Phật thường khuyên nhủ ta là phải hết sức biết ơn cha mẹ bởi không có
cha mẹ thì ta đâu có mặt trên đời này. Cha mẹ đã chăm sóc ta lúc ta còn
thơ dại và đã cố gắng với hết khả năng mà họ có được. Ta cũng đừng quên
là chính ta đã chọn cha mẹ mình. Phụng dưỡng những ai trong lúc tuổi già
vì các vị đã lo cho ta khi còn thơ ấu cũng là một cách tạo thiện nghiệp.
‘Chăm sóc cho gia đình’ chắc chắn là một phước báu quen thuộc mà ta nên cố
gắng chu toàn. Tuy thế, nhiều xung đột gia đình thường quy về một điều
thật rất đơn giản, đó là ai cũng muốn người khác làm theo ý mình. Trong
thực tế, không có điều gì lại giống như trong ước mơ của ta. Con người
nói chung và đơn vị gia đình nói riêng, không có gì là trăm phần hoàn
toàn. Nhiều người bỏ cả cuộc đời của mình để tìm kiếm sự hoàn toàn tuyệt
hảo trong cuộc sống thế tục, nhưng đây là sự tìm kiếm một cái gì không
hiện hữu và chỉ gặp thất vọng, chán nản.
Đổ lỗi cho người hay cho hoàn cảnh là một việc làm vô ý nghĩa. Không thể
trách ai hay điều gì về việc cuộc đời không hoàn hảo. Trong cuộc sống
hàng ngày với mọi người, thật là một phước báu nếu ta có thể cho mà không
mong sự đáp lại. Làm ơn mà không cần biết đến sự cảm ơn của người là một
điều mà ta có thể học hỏi trong cuộc sống gia đình. Ngay khi ta chờ đợi
sự trả ơn, tinh thần vị tha đã bị hoen ố bởi lòng mong muốn một cái gì mà
ta nghĩ là người khác nợ ta, và thắc mắc là không biết khi nào mới nhận
được. Điều này làm mất hẳn niềm hạnh phúc của lòng cởi mở.
Kế
đến là ‘có nghề nghiệp tốt lành’. Tuy là một điều bình thường, nhưng cách
chúng ta mưu cầu cuộc sống là một vấn đề tâm linh quan trọng. Nghề nghiệp
của ta không được làm hại hoặc ảnh hưởng tai hại đến các chúng sinh khác.
Ta cũng cần kiểm điểm xem mình có hành trì ngũ giới trong công việc của
mình không để được hưởng phước báu của việc giữ giới. Nếu ta có thể kiếm
được một việc làm mà lại giúp người trong công việc thì lại càng tốt nữa.
Hơn nữa, nghề nghiệp của ta cũng cần vững chắc và nó cũng cần có yếu tố xã
hội trong đó. Thời giờ tại nơi làm việc của ta là một phần đáng kể trong
cuộc đời, và ta cần giữ các lề luật về đạo đức ở chỗ làm cũng như trong
đời sống cá nhân. Một nghề nghiệp tốt lành cũng là một nghề nghiệp mà ta
không bị quá kích thích hoặc quá mệt mỏi vì công việc; một công việc mà
không có những sự tỵ hiềm ghen ghét hay lòng ham muốn được một số lương
thật lớn. Ta cũng nên tránh không làm việc quá độ - tuy cũng nên nói là
nhiều người rất dễ trở nên làm việc quá độ vì, do lý do này hay lý do khác,
mà họ không ưa thích gì công việc của họ.
Phước báu này không chỉ đơn thuần về công ăn việc làm của ta. Phong cách
từ tốn và đều đặn cũng hết sức cần thiết cho việc thiền tập. Nếu ta
không hành thiền mỗi ngày, không tu tập miên mật, lại thêm vào đó có vấn
đề tại sở làm - ta sẽ gặp khó khăn trên đường tu tập. Tất cả chúng ta đều
có thể hưởng được những quả lành của các phước báu nói ở đây nhưng chỉ khi
ta hành trì chúng trong đời sống hàng ngày của mình.
Thực hành hạnh bố thí, biết sống theo chánh mạng, biết tạo các nghiệp tốt
- đó thật là phước báu lớn!
Chúng ta đã đến một điểm trong kinh cho ta thấy rõ là trong một đời sống
chỉ quan tâm về vật chất và điều kiện kinh tế, chúng ta không thể tìm thấy
được một số đức tính tâm linh cần thiết nào đó. Ở đây Đức Phật điểm qua
cho ta thấy những phước báu thuộc một bực cao hơn trên con đường tâm linh.
Chúng ta phải lựa chọn giữa một cuộc sống vật chất và cuộc sống tâm linh
rốt ráo. Đáng tiếc thay, giải thích sự khác biệt giữa đời sống hướng về
vật chất và đời sống dựa trên những giá trị tâm linh thì dễ hơn là đưa vào
thực hành. Trong cuộc sống vật chất, người ta muốn có càng nhiều càng tốt
trong khi người sống một cuộc đời tâm linh lại nhắm vào việc bố thí
càng nhiều càng tốt. Ai cũng biết bố thí là một phước báu lớn hơn là tiếp
nhận của người, song điều này thật khó thực hành.
Phước báu kế tiếp được kể ở đây là hạnh bố thí. Bố thí có nhiều khía cạnh
vì nó tự biểu lộ tùy theo tài lực và tính khí của mỗi cá nhân. Thí dụ như
dành thời gian cho ai đó, cũng là một cách bố thí đầy lòng từ ái.
Để đạt được phước báu này, do đó, ta phải tự hỏi làm sao có thể dùng các
khả năng và tài sản của ta một cách hữu hiệu nhất để giúp ích cho người
khác - xét cho cùng thì, của cải ấy cũng là do vay mượn mà có. Và có lẽ
ta cũng nên tự hỏi mình điều gì giới hạn tâm bố thí của ta? Ta có thực sự
muốn giúp đỡ người khác không, hay ta muốn để cho những người chuyên môn
giải quyết những vấn đề ấy? Hay là ta tự bảo mình là cuộc đời toàn là
những việc xấu cả và chẳng ai có thể làm được điều gì để biến nó thành tốt.
Điều này thì chắc chắn là đúng, song không phải vì thế mà ta không có bổn
phận giúp người khác. Nhưng ta sẽ có thể giúp được đến mức độ nào? Chỉ
giúp đến một mức nào đó hay ta sẵn sàng bố thí vô điều kiện?
Đức Phật nhiều lần nói về bố thí (từ Pali là dàna). Thực hành hạnh
bố thí mỗi ngày đem lại niềm hỷ lạc cho tâm. Nếu ta có thể bố thí đúng
cách cũng như rộng rãi thì tốt, nên tốt hơn hết là bố thí phải đi đôi với
trí tuệ. Nhưng cho dù ta không chắc là người nhận có xứng đáng hay không,
cho đi vẫn tốt hơn là giữ lại những gì ta có. Tục ngữ có câu 'càng cho ta
càng có'.
Để nhận chân được sự thật này, ta cần phải thực hành hạnh bố thí. Chẳng
bao lâu ta sẽ nhận ra là thật sự có một nguồn vật chất bất tận, mà trên
nguyên tắc ai cũng có thể được hưởng thụ. Càng cảm thấy được sự tương
quan giữa tất cả chúng sinh, ta càng muốn cho đi hơn là muốn giữ, và càng
nhiều người sẽ được lợi lạc vì cửa tâm đã rộng mở.
Điều này sẽ không xảy ra nếu ta không có chút can đảm - nhưng dù gì lòng
can đảm cũng cần thiết trong đời sống tâm linh. Ta phải quán sát bản thân
cũng như các giả định của mình một cách chân thật -tất cả những thứ mà ta
quen thuộc- tự xét xem ta dùng thì giờ như thế nào, và tự hỏi mình, đời
chỉ có như thế thôi sao?
Bố thí là hạnh đầu tiên trong mười hạnh mà Đức Phật liệt ra ở đây. Điều
này không làm cho các hạnh khác kém quan trọng đi chút nào, song bố thí mở
cánh cửa đưa ta đến các hạnh khác. Qua hạnh bố thí ta tập xả bỏ cái ngã.
Lúc nào cũng nghĩ tới mình thì không thích thú và cũng chẳng lợi lạc gì.
Điều này cũng như một con rắn tự cắn cái đuôi của mình -một cái vòng khắc
nghiệt vô cùng tận. Nếu muốn dễ dàng chứng nghiệm được sự liên hệ giữa ta
và thế giới chung quanh, ta nên thực hành hạnh bố thí. Theo sự phân tích
của Đức Phật thì ngã chấp chính là gốc rễ của mọi khó khăn và sầu khổ của
chúng ta. Toàn bộ giáo lý của Ngài nhằm giúp ta nhận thực được cái ngã là
một ảo tưởng mà ta phải buông bỏ. Hạnh bố thí đứng đầu trong danh sách
bởi nó là bước đầu tiên giúp ta vượt qua ngã chấp. Ta không thực sự đánh
mất cái ngã vì tâm vị tha; ngược lại, chính là nó đã giữ lại sự quan trọng
của mình. Nhưng ngay trong giây phút đó, ta không cần phải nghĩ đến cái
ngã. Ta cảm nhận được một sự toại nguyện hoàn toàn khác khi đem lại niềm
vui cho người, bằng cách chia sẻ với họ. Việc ta cảm thấy hỷ lạc từ sự bố
thí, trong khi thông thường ta chỉ cảm thấy toại nguyện khi được nhận
những gì mình thích, cho thấy những gì ta cảm nhận được thực sự là một sự
toại nguyện ở một mức độ hoàn toàn khác.
Kế đến là phước báu của chánh mạng, của đời sống ngay thẳng, chính trực.
Đức Phật chẳng bao giờ nói tất cả mọi người nên sống đời độc cư thiền định.
Vậy như thế nào là lối sống đúng? Sống đúng có nghĩa là trước tiên phải
chăm sóc lo lắng đầy đủ cho gia đình mình và sau đó là giúp đỡ kẻ khác.
Đức Phật khuyên các đệ tử tại gia của Ngài nên chia lợi tức của mình ra
làm bốn phần. Một phần dành cho bản thân và cho gia đình, phần thứ hai để
tiếp tục việc kiếm sống, một phần nữa phòng khi khó khăn, ốm đau, còn phần
sau cùng dành để cúng dường cho các bậc tu hành, kẻ ốm đau và những người
nghèo túng. Việc phân phối lợi tức như thế bao gồm tất cả các bổn phận
của ta. Nhiều ít ở đây không quan trọng mà điểm chính là chủ ý của ta.
Chánh mạng hay nghề nghiệp chân chính trong đó bao hàm quyết tâm cư xử
đúng với lương tâm con người. Điều này có nghĩa là ta không được làm hại
đến người hay vật, dù là trong cử chỉ, hành động, lời nói, cảm xúc hay ý
nghĩ của ta. Tai hại ta gây ra có thể do hành động hay lời nói trong nhất
thời, nhưng nó bắt nguồn từ cảm xúc và ý nghĩ của ta. Cho nên cách cư xử
theo đúng lương tâm có nghĩa là không hàm chứa một ác ý gì với những sinh
linh khác. Ý nghĩ của ta không phải là vô thưởng vô phạt –chúng luôn ẩn
chứa một cái giá mà ta phải trả, vì chúng huân tập nên những thói quen
trong lời nói và hành động của ta và thực sự là yếu tố tiên quyết đưa đến
sự hiện hữu của ta. Ta chính là cái mà ta nghĩ. Cho nên không phải chỉ
cái ta làm mà các tư tưởng ta gieo trồng cũng quan trọng không kém. Ta có
thể nói là tất cả tư tưởng của ta đều xứng đáng được gọi là cao đẹp nhất
không?
Một lần nữa, Đức Phật nêu lên phước báu của việc chăm lo cho người khác,
và ở đây là việc chăm lo cho họ hàng, bạn bè, người thân và đồng nghiệp.
Khi đang vun trồng đức tính này, lòng sẵn sàng muốn giúp đỡ người khác
bằng bất cứ phương tiện gì trở thành một bản tính tự nhiên thứ hai, để rồi
có lúc ta sẽ có thể đối xử với bất cứ ai mà ta gặp với lòng tử tế. Tuy
thế, lúc đầu ta không nên đòi hỏi quá nhiều từ bản thân, mà cứ tiếp tục
vun trồng đức tính ấy.
Mỗi khi giao tiếp với người, ta hãy tự hỏi có phải ta thực sự quan tâm đến
người ấy hay chỉ cho bản thân chúng ta. Ta có biết hàm ân vì cuộc sống
của mình tốt lành cũng là nhờ bao người khác không? Ta có thấy được là
đời sống của mình tùy thuộc rất nhiều vào trạng thái buồn vui, tư tưởng,
lời nói và hành động của những người khác?
Không ai có thể thực sự nói là mình hoàn toàn sống độc lập với người khác.
Đời sống hàng ngày của chúng ta lệ thuộc vào đủ mọi loại dịch vụ như nước
và điện, thương mại và nông nghiệp. Ta cũng liên hệ với người khác qua tư
tưởng và cảm xúc dù ta có nói ra hay không. Các tình cảm này vẫn rất thực
dù không được nói ra, và chúng có thể tác động đến tư tưởng, tình cảm của
người khác. Đây là phước báu của sự chăm lo cho tha nhân. Việc họ có cảm
nhận được sự lo lắng ân cần này hay không là một chuyện khác; điều quan
trọng là ta cần phải nuôi dưỡng những thiện ý ấy.
Tạo thiện nghiệp có nghĩa là luôn cẩn thận đề phòng những sự tiêu cực len
lỏi vào ý nghĩ, lời nói và hành động của ta. Ta cần đặc biệt chú trọng
đến ý nghĩ vì đây là nơi mọi sự phát khởi. Tất cả mọi hành động của ta
đều đem lại hậu quả, có ảnh hưởng tới ta cũng như tới người khác, và hầu
hết mọi người đều tạo các nghiệp tốt cũng như xấu. Hiếm khi có ai chỉ tạo
nên ác nghiệp, nhưng quá nhiều ác nghiệp sẽ đưa ta vào vòng tù tội. Cũng
hiếm khi có người chỉ tạo nên thiện nghiệp trừ khi đó là những Bậc Giác
Ngộ, trong trường hợp đó họ không tạo ra bất cứ ác nghiệp nào bởi họ không
còn sống trong ảo tưởng của một tâm thức dựa trên bản ngã.
Các tâm sở tiêu cực ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tình cảm của ta và ta
có thể ngăn ngừa chúng phát khởi chỉ bằng cách chú ý đến các trạng thái
tâm đang thay đổi của mình. Đơn giản như thế, nhưng rất ít người thực sự
chú ý đến đời sống nội tâm của mình. Chỉ khi nào ta thực sự thực tập
chánh niệm một cách miên mật, ta mới có thể cảm nhận được các trạng thái
tâm tích cực một cách đều đặn. Quán sát các tư tưởng, lời nói và hành
động của mình ngay trong khi ta đang thực hiện chúng, không cản trở việc
ta hoàn tất các bổn phận khác trong đời sống hàng ngày. Trái lại, càng
quán sát bản thân, ta càng dễ chú tâm vào bất cứ những gì ta đang làm.
Nghiệp quả mà ta cảm nhận ảnh hưởng sâu xa đến những tình cảm buồn vui của
ta, và nếu quán sát chúng kỹ ta sẽ dễ dàng thấy nguồn gốc chúng từ đâu đến:
lý do tại sao ta lại vui hay buồn. Sau đó, ta có thể thay đổi những điều
bất thiện trong tư tưởng, lời nói và hành động mà ta đã làm, dẫn đến những
trạng thái tiêu cực ấy, nhưng ta chỉ có thể làm được như thế nếu ta có thể
tự nhìn mình như mình thực sự là mà thôi.
Trong các bài thuyết giảng, Đức Phật nhắc đi nhắc lại về việc tạo thiện
nghiệp. Ngài làm như thế vì, bao giờ chúng ta còn nghĩ, như tất cả các
chúng sinh vô minh khác, rằng ta có một bản ngã, là ta còn tạo nghiệp với
mỗi niệm khởi lên trong tâm. Nhưng một khi đã hiểu được điều này, ta sẽ
trở nên có chánh niệm hơn với các suy nghĩ của mình - và đây là điều quan
trọng, dù ta không thể nào kiểm soát được tất cả các niệm khởi lên trong
tâm ta.
Tránh những điều ác, tránh các thứ độc hại, hành thiện không ngơi nghỉ.
Đây thật là những phước báu lớn!
Ở đây kinh lại nói về nghiệp và các giới hạnh. Càng tinh tấn trong việc
tránh những điều mà lương tâm cho ta biết là ác, và thực hiện các điều mà
ta biết là thiện thì chúng ta càng thọ hưởng được phước báu này. Quả thật
chính ta là kẻ ban cho mình cái phước đó. Và điều này thật là tuyệt diệu
-khi biết là tự mình có thể đạt được hạnh phúc bằng nỗ lực của chính mình
mà không cần phải chờ đợi ai ban cho, không cần nghĩ là ta phải sở hữu vật
gì đó thì mới được hạnh phúc. Tất cả đều ở trong ta.
Chúng ta đã có sẵn người hướng dẫn các hành động của mình trong lương tâm
và các cảm thức của ta. Tuy nhiên, vấn đề phát khởi từ cách suy nghĩ rằng
ta có các quyền hạn đặc biệt, từ thái độ cho rằng, ‘Cái này thuộc về tôi,
nếu tôi không được, tôi cũng lấy’. Để tránh làm những việc bất thiện,
điều đầu tiên mà ta phải học là phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa những
điều thiện và ác, và càng quán sát bản thân rốt ráo, ta càng dễ làm việc
này hơn.
Ta đã may mắn được sinh ra làm người, với những điều kiện hết sức thuận
lợi vì về phương diện vật chất, ta chẳng thiếu thứ gì. Với những thuận
lợi nhờ may mắn như thế, ta có bổn phận xem việc phát triển tâm linh như
là một trọng tâm của đời mình thay vì thỏa mãn những đòi hỏi không ngơi
nghỉ của tâm vị kỷ mà hầu hết là không cần thiết. Đức Phật dạy ta chỉ cần
có bốn nhu cầu căn bản: thức ăn, quần áo, chỗ ở và thuốc men. Ngoài những
thứ đó, mục đích duy nhất của đời người là tận dụng cơ may này để tu tập
phát triển tâm sáng suốt, phát triển chánh niệm, để đến một ngày ta sẽ
không còn xem mình như một thực thể riêng biệt, một cá nhân độc lập, mà là
một phần của những gì đang đến và đi trong thế giới quanh ta. Với sự hiểu
biết về vai trò thực sự của mình, ta sẽ thấy thật rõ ràng sự quan trọng
của việc dốc hết tâm trí vào việc phát triển tâm linh trong kiếp sống này.
Kinh này giới thiệu những nguyên tắc căn bản và rõ ràng nhất cho việc tu
tập của ta. Những điều này chẳng đòi hỏi khả năng hay tài nghệ gì đặc
biệt hoặc mô tả những gì bí ẩn. Chúng chỉ cho ta thấy cách sống ngày qua
ngày. Còn có gì hơn ngoài cuộc sống ta đang phải sống hôm nay? Mỗi một
ngày ta sống là tất cả những gì ta thật sự nắm trong tay. Ngoài ra, tất
cả đều là mộng huyễn. Do đó mỗi ngày ta phải cố gắng tránh làm những điều
ác, cũng như không dùng các chất độc hại: chúng có thể đem đến cho ta một
cảm giác thoải mái nhất thời, nhưng thiền tập và tu hành là phương cách
đơn giản và an toàn hơn để đạt được điều này. Qua những đoạn kinh nhắc
đến những chất độc hại, ta có thể đoán là 2500 năm trước đây, con người
cũng có những vấn đề như chúng ta hiện có. Xã hội chẳng thay đổi gì mấy.
‘Hành thiện không ngơi nghỉ’ nhắc đến việc trau dồi không những về hành vi
đạo đức mà còn về giáo lý của Đức Phật nói chung, và để làm điều này, tất
nhiên chúng ta cần tài liệu. Ta không cần phải biết tất cả giáo pháp -
chỉ trong Thượng Tọa Bộ đã có đến 17.500 bài thuyết giảng. Các giáo
thuyết và thuật ngữ căn bản chúng ta đã nhắc đến, như nghiệp, giới luật đủ
giúp ta dựa vào đó mà sống theo Pháp. Trong sự nỗ lực này, ta không tuân
theo một tư tưởng tôn giáo nào mà chỉ sống hài hòa với những chân lý phổ
cập sâu sắc, mà ta có thể áp dụng cho bản thân.
Nếu lúc nào ta cũng nghĩ đến những vấn đề của mình, thì ta khó thể thâm
nhập Pháp. Khi phân tích những vấn đề của chúng ta, ta sẽ nhận ngay ra
rằng không thể một cá nhân mà giải quyết được chúng. Thay vì xem xét
chúng một cách riêng rẽ, nếu ta cố gắng quán sát chúng trong sự tương quan
đến tất cả mọi người thì ta sẽ đến gần với chân lý hơn. Pháp là chân lý
vũ trụ, một sự thật hiển nhiên, và việc hành thiện không ngơi nghỉ luôn
dẫn dắt ta trở về điều đơn giản này. Lại nữa, nếu nhận ra vấn đề của mình
chỉ là một phần của thân phận con người thì ta sẽ có thể nhìn mình một
cách khách quan hơn và sẽ tìm ra giải pháp của vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Ngày nào ta còn nghĩ rằng những vấn đề chỉ là của riêng mình, thì chúng sẽ
còn tiếp tục quấy rầy ta qua nhiều hình thức khác nhau.
Tôn kính và khiêm cung, tự tại và biết ơn, nghe Pháp đúng thời điểm.
Đây thật là những phước báu lớn!
Những giá trị tình cảm gắn liền với sự tôn kính và đức khiêm cung giữ một
vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh. Đức khiêm cung là một đề tài
mà Ky Tô Giáo -đúng ra, bất cứ tôn giáo nào trên thế giới- cũng thường đề
cập đến, và bất cứ đức tính nào được tất cả các tôn giáo trên thế giới
nhắc đến, chắc chắn nó không những quan trọng mà còn khó thực hành. (Ta
chỉ cần nghĩ đến ngũ giới hoặc mười điều răn là cảm nhận được sự khó khăn
này.)
Khiêm cung là một đức tính phát sinh một cách tự nhiên. Nó hoàn toàn khác
hẳn với mặc cảm tự ti: khiêm cung thường bị lầm lẫn với sự khúm núm, với
việc tự đánh giá mình hoặc chấp nhận người khác đánh giá mình là thấp kém,
xấu xí và thua sút người khác. Sự đánh giá đó dựa trên đẳng cấp và thứ
bậc, theo giai cấp xã hội, hoàn cảnh giàu nghèo hoặc bằng cấp. Sự đánh
giá này thật sự không liên quan gì đến nhân cách con người. Khiêm cung là
lòng can đảm biết tự hạ mình. Ngược lại với nó là sự kiêu căng, sự tự
tâng bốc. Tự hạ mình trước giáo pháp, trước tha nhân, giúp ta sẵn sàng
đón nhận và uyển chuyển đến mực tối đa; nó làm giảm thiểu bản ngã trong ta.
Người có lòng vị kỷ càng cao càng khó có thể tự hạ mình. Khiêm cung không
có nghĩa là tự coi thường mình mà là tự trọng. Nhân bản chân thật là sự
tôn trọng tất cả nhân loại, tôn trọng bản thân và tha nhân, biểu lộ qua
cung cách chân thành và khiêm tốn.
Không những là sự phản ảnh của nhân bản thực sự, đức khiêm cung còn bao
gồm sự hiểu biết rằng có một giá trị cao đẹp hơn mà ta có thể hướng tới.
Khi chúng ta vượt ra khỏi giới hạn của con người và thấy được tất cả những
sự tầm thường nhỏ bé của chính mình, thì dù ta vẫn còn bị ràng buộc trong
cái khung nhỏ bé của tầm hiểu biết, ta bắt đầu nhận được bản chất chân
thật của vũ trụ. Nếu ta khiêm tốn nhìn nhận là có một cái gì cao cả hơn
mình, chúng ta sẽ có thể tin tưởng vào điều ấy; và nếu không tự dâng hiến
cùng gắn bó đời mình với lý tưởng, ta sẽ không thể nào hành thiền. Khiêm
cung và sự dấn thân do đó đi đôi với nhau. Người tự cho là mình quá quan
trọng và lúc nào cũng nghĩ như thế thì không thể nào hiến dâng mình cho lý
tưởng. Song một khi ta đã thấu hiểu với tất cả lòng khiêm tốn của mình là
có một cái gì cao cả hơn là các cảm quan bình thường mắt thấy tai nghe của
ta, khi đó ta có thể thật sự hiến mình cho thiền định và tu tập. Khiêm
cung do đó là một đức tính thiết yếu và là một phước báu lớn.
Đi kèm với khiêm cung trong đoạn kinh này là lòng tôn kính. Như chúng ta
đã biết, ngày nay con người thật xa lạ với sự tôn kính. Ta tỏ lòng tôn
kính với ai? Ai là người mà ta ngưỡng mộ? Thường thì là các tài tử âm
nhạc hoặc thần tượng thể thao là đối tượng của lòng ngưỡng mộ nhưng chắc
chắn họ không phải là đối tượng của sự tôn kính mà ta đang bàn đến ở đây.
Ta phải ý thức rằng chỉ có một điều gì đó vượt lên khỏi sự hiện hữu tầm
thường và những kinh nghiệm sống hàng ngày, mới thực sự khiến ta đem lòng
kính ngưỡng và tôn thờ với tất cả tấm lòng. Ta cần có một sự đồng cảm tâm
linh để tỏ lòng tôn kính đến bậc tối thượng, và ta bầy tỏ sự tôn kính ấy
bằng cách quỳ lạy trước tượng Phật. Ở đây không phải là ta lạy cái tượng
mà ta lạy hình ảnh của Đức Phật, tượng trưng cho bản tánh Giác Ngộ sẵn có
ở trong mỗi con người. Việc lễ lạy gieo trồng trong ta lòng kính ngưỡng.
Cuộc đời chẳng bao giờ hoàn hảo như ta mơ ước và nó không bao giờ làm ta
hoàn toàn như ý, song nếu biết là có một cái gì cao cả hơn, ta có thể sống
mãn nguyện.
Kế đến là hai đức tính về tình cảm và cũng là những phước báu lớn: tự tại
và lòng biết ơn. Hầu hết mọi người đều vui mừng biết ơn khi nhận được thứ
gì mới, song người ta thường ít biết trân quý những gì mình hiện đang có.
Do đó ta cần nhắc nhở mình phải biết trân quý những gì mình hiện đang có
thay vì xem thường chúng. Khi ốm đau, ta nóng lòng mong mỏi hết bịnh
nhưng đến khi hết bịnh ta lại xem thường sức khoẻ. Trong cơn đói, ta hết
sức trân quý bất cứ thức ăn gì mình có thể kiếm được, song đến khi no đủ
thì ta lại sinh ra kén chọn khó khăn. Lòng trân quý có thể được nuôi
dưỡng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Thí dụ, thay vì than phiền về tính xấu
của người khác, ta có thể trân quý những đức tính của họ. Lòng trân quý
do đó là một phản ứng tình cảm đầy khiêm tốn và thương yêu.
Đức Phật thường nhắc tới đức tính tự tại vì nó giúp ta đạt an lạc một cách
tự nhiên. Ai cũng muốn tìm sự an lạc song không biết tìm kiếm thế nào và
ở đâu. Lẽ tự nhiên là họ đổ lỗi cho chế độ xã hội, cho các chính trị gia
gây ra tình trạng bất an của họ. Song sự bình an là một phẩm chất của tâm
mà ai cũng có thể tự mình đạt được qua nỗ lực cá nhân và chỉ có thể thấy ở
những người biết tự tại.
Nếu biết hài lòng với những người sống chung quanh và hoàn cảnh của mình,
chúng ta sẽ ít mong cầu. Mỗi một điều mong muốn đem đến cho ta sự bất như
ý mà trong tiếng Pali gọi là dukkha (khổ). Càng mong ước thay đổi
hoàn cảnh của mình, chúng ta càng dễ bị thất vọng. Nếu nhìn lại đời mình,
ta sẽ thấy điều hiển nhiên là ta chẳng bao giờ toại nguyện với những gì
cuộc đời ban cho ta. Tất cả những điều ta mong muốn đều ở ngoài tầm kiểm
soát của ta, khiến ta phải trông cậy vào người khác hoặc hoàn cảnh bên
ngoài để được toại nguyện; kết quả là không thể có một giải pháp thích
đáng nào. Nếu muốn có sự thay đổi thật sự ta phải tự chuyển hóa bản thân.
Một khi ta đã thật sự thay đổi, mọi sự sẽ hoàn toàn khác hẳn.
Tự tại sẽ đưa ta đến Giác Ngộ và ta có thể cảm thấy điều này qua thiền
định. Qua đó ta dần dần nhận thức được là ta chỉ có thể tự tại khi đã hết
mong cầu. An lạc chỉ hiển lộ khi ta không còn nhu cầu thay đổi bản thân
hay bắt người khác phải thay đổi, khi ta nhận biết rằng tất cả mọi thứ
trên đời chẳng bao giờ hoàn hảo và cái mà ta muốn thay đổi ở ngay trong
chính tâm mình. Ta không cần phải bất mãn với những thất bại của mình để
hiểu được như thế; trái lại, ta hãy vui sướng vì đã tìm được một con đường
dẫn đến đời sống tâm linh.
Cho nên sự trân quý và tâm tự tại -những đặc điểm của đời sống tâm linh-
đem lại niềm an lạc cho cuộc đời ta. Chính yếu kinh Đại Phước Đức nhằm
nói về những tình cảm và cảm xúc tích cực như thế, phát sinh khi ta sống
chung đụng với người, và theo Đức Phật, chúng có thể là những phước báu
lớn trong cuộc đời ta. Và còn nhiều phước báu tiếp theo.
Tiếp đến là ‘nghe được chân lý đúng thời điểm’, nói về sự sẵn sàng tiếp
nhận Pháp. Pháp tự nó là một phước báu khi nào ta được nghe Pháp đúng
thời điểm. Hầu hết những người được nghe Pháp đều không sẵn sàng tiếp
nhận nó, song điều này không có nghĩa là họ chẳng bao giờ sẵn sàng. Trái
lại, khi họ sẵn sàng tiếp nhận Pháp, chưa chắc họ đã có đủ cơ duyên để
được nghe. Do đó, chính là vì ta không chắc sẽ có cơ duyên được nghe Pháp
trong tương lai, ta lại càng phải nỗ lực tối đa để biến giây phút hiện tại
thành thời điểm thuận tiện bằng cách mở rộng lòng mình để đón Pháp, và
thực hành thật chu đáo những gì ta đã có thể học được ở Pháp trong hiện
tại.
Giữ được lòng kiên nhẫn, lắng nghe không phiền giận khi bị người chỉ trích,
tìm cầu thiện tri thức, bàn luận về chân lý. Đây thật là những phước báu
lớn!
Trước tiên là lòng kiên nhẫn –và đây quả thật là một phước báu. Hầu hết
mọi người lúc thì kiên nhẫn, lúc thì nóng nẩy. Ở trạng thái cực đoan,
tính nóng nẩy phản ảnh lòng mong muốn mọi việc đều phải như ý mình. Bởi
lẽ ít khi nào mọi sự được như ý ta, tính nóng nẩy đẩy ta vào tâm trạng bất
an đau đớn.
Lòng kiên nhẫn bao hàm một sự hiểu biết là mọi vật đều vô thường, một sự ý
thức rằng tất cả những gì ta cảm nhận đều đang thay đổi, dù đó là các cảm
thọ hay tình cảm của ta, cảm nhận của ta ngay trong lúc này, về hôm nay
hay về cả cuộc đời mình. Ta không thể nắm giữ được mãi một cái gì vì mọi
vật đều sẽ hoại diệt. Chính vì ta luôn cố gắng nắm giữ lấy của cải vật
chất, nên lúc nào ta cũng thấy thất vọng. Thật rất dễ quên sự thật là
không có gì tồn tại mãi mãi, vì có một số việc tái diễn, khiến ta tưởng là
chúng là một, nhưng chúng chỉ giống nhau. Lấy thí dụ như hơi thở của ta.
Mỗi hơi thở biến mất sau khi ta hít vào. Nhưng vì mỗi hơi thở sau đều
giống như hơi thở trước, chúng ta thích làm ngơ không muốn thấy là hơi thở
của mình là vô thường, và do đó bản thân ta cũng vô thường. Không có hơi
thở ta không thể nào sống còn và sự vô thường của nó cho thấy sinh mạng ta
mong manh làm sao: nếu hơi thở ngưng, cái chết tức thì theo sau. Đức Phật
dạy là bởi chấp ngã hầu hết chúng ta đều không muốn nghĩ đến điều này.
Giữa những bằng chứng hiển nhiên của vô thường, ta vẫn không ngừng cố gắng
biến chúng thành thường hằng và những thứ vô thường khi mất đi đem lại cho
ta đau khổ, ta lại cho là niềm vui. Bản chất tạm bợ của mỗi tư tưởng, mỗi
cảm giác, mỗi cử động của cơ thể có thể được theo dõi từng phút giây. Tất
cả rồi sẽ hoại diệt, không có gì là bất biến. Có nhiều phương tiện để lưu
trữ các sự kiện: sách vở, phim ảnh và ký ức - song nếu ta nghĩ rằng mình
có thể bám víu không để mất người thân, tình cảm, kỷ niệm hay các sự kiện,
thì cuối cùng ta chỉ ôm lấy hư không. Ngược lại, nếu hiểu được là không
có gì trường cửu, ta sẽ chiêm nghiệm được lòng kiên nhẫn như là một kết
quả tất yếu với một cảm giác nhẹ nhõm và an bình. Ta sẽ không còn cảm
thấy bận tâm nữa.
Tất cả chúng ta đều biết là cần có tinh tấn để duy trì việc hành thiền của
mình, nhưng ta cũng cần đến lòng kiên nhẫn nữa: không có nó, việc hành
thiền của ta không có kết quả. Rất ít người có thể hành thiền miên mật.
Chúng ta không những phải tự nỗ lực mà còn phải kiên nhẫn với chính mình,
lần này đến lần khác, ngày này qua ngày khác.
Nếu có thể kiên nhẫn hơn với bản thân, ta sẽ dễ dàng kiên nhẫn với người
khác, nhất là khi mọi việc không như ý ta muốn. Nếu không, ta sẽ có thái
độ cứng nhắc, ngoan cố với bản thân và với người. Vì thế nên lòng kiên
nhẫn và từ ái đi đôi với nhau, và vun trồng lòng kiên nhẫn là một phước
báu lớn.
Tiềm năng lớn nhất của con người nằm ở khả năng học hỏi. Ta có thể đạt
bất cứ mục tiêu nào khi ta chú tâm và nỗ lực làm việc ấy. Nói như thế
không có nghĩa là mọi sự sẽ xảy ra như ý ta và nếu nghĩ như vậy thì ta sẽ
điên đầu mất thôi. Tuy nhiên, nếu muốn học được tính kiên nhẫn, ta sẽ dần
dà làm được điều ấy. Bất cứ ai - nếu thực sự muốn và tinh tấn tu tập -
cũng có thể đi theo con đường mà Đức Phật đã vạch ra cho tất cả mọi người
và đạt đến thành quả. Tục ngữ có câu ‘Muốn là được’. Vì chúng ta thường
đạt được những điều mình thực sự muốn, ta cần thận trọng để chỉ mong muốn
những điều thiện.
Phước báu kế tiếp là ‘lắng nghe không phiền giận khi bị người phê bình’.
Chấp nhận lời phê bình của người khác là một việc không dễ đối với nhiều
người. Không giận dữ hay bực bội, hoặc chỉ trích lại người, hiển nhiên
đều là nhờ rất nhiều vào lòng kiên nhẫn, nhưng nó cũng liên quan đến lòng
tự tin, và nhiều người đầy mặc cảm tự ti đến nỗi chỉ một lời phê bình nhỏ
cũng gợi lên cho họ mặc cảm ấy, khiến họ nổi giận hoặc ít nhất là buồn bực.
Phần lớn các khuyết điểm của ta đều khó nhận ra -nếu không thì ta đã biết
mà tự sửa lỗi mình. Cho nên, được thiện tri thức chỉ bảo quả thật là một
phước báu lớn. Tự biết mình và học cách cư xử hòa nhã sẽ dễ dàng hơn khi
ta được người khác hỗ trợ, nhưng ta phải sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ ấy.
Ngược lại, khi muốn giúp đỡ người khác, ta thường cảm nhận được là họ có
sẵn lòng nghe lời phê bình xây dựng hay không, nếu họ không sẵn lòng nghe,
ta không nên cố ép. Điều quan trọng là ta có thể chấp nhận được cả hai
trường hợp, đóng góp ý kiến xây dựng khi thấy có ích lợi, mà cũng vui vẻ
kiềm chế sự phê bình khi bất lợi. Sự toàn hảo chỉ hiện hữu ở những cõi
cao hơn cõi người. Còn trong cõi nhân sinh thì hiển nhiên là không ai
hoàn toàn cả và những lời phê bình xây dựng luôn cần thiết.
Lẽ dĩ nhiên là đôi khi sự phê bình có thể không đúng. Nếu thế thì ta
không cần để ý và cũng không nên bực mình vì nó. Ta còn phải cảm ơn có
người đã bỏ công nói cho ta điều họ nghĩ -vì lòng biết ơn, như ta đã biết,
tự nó là một phước báu.
Tiếp đến là ‘tìm cầu thiện tri thức và bàn luận về chân lý’. Đây là một
phước báu khác mà Đức Phật thường nhắc đến trong nhiều kinh: đó là việc
làm bạn với thiện tri thức và pháp đàm. Những điều ta bàn bạc là thức ăn
nuôi dưỡng tâm ta. Thức ăn càng bổ dưỡng, tâm càng được ích lợi. Nói về
chân lý không phải chỉ là thận trọng để những lời nói của mình đúng với sự
thật. Nó còn đòi hỏi ta phải bàn luận về những đề tài cao xa hơn là những
chuyện phù phiếm thường ngày để chúng ta thấu hiểu hơn về con người, kể cả
bản thân ta. Đó là những vấn đề liên quan đến sự thật vũ trụ, chân lý phổ
quát mà ai cũng có thể thấy. Chân lý ở đây không nên bị nhầm lẫn với sự
kiện khoa học -thí dụ như vũ trụ xoay vần ra sao- vì những điều ấy chẳng
hề giúp con người trở nên nhân ái và hữu ích cho đời như là chân lý về tâm
linh mà Pháp đã cho ta. Cho nên bàn luận về Phật Pháp quả thật là một
phước báu lớn. Dĩ nhiên, không có nghĩa là ta không bao giờ nên nói những
câu chuyện đời thường; chỉ là ta phải nhận thức được rằng chúng chỉ là
những nhu cầu tầm thường, và không lầm chúng với những gì tạo nên đời sống
thật sự của mình.
Tất cả những gì quan trọng thực sự xảy ra ngay trong ta, trong phản ứng,
ước mơ, dự tính và hy vọng của ta. Ta thực sự mong đợi gì ở tương lai, ta
có hoài bão gì và thực sự muốn gì? Ta có đang tìm kiếm chân lý tối thượng,
tìm cứu cánh tối hậu, tìm cái gì giúp ta thoát khỏi thân phận con người?
Hay là ta bị vướng mắc vào cuộc sống hàng ngày, chỉ với hy vọng có thể
vùng vẫy thoát ra chút ít?
Một khi đã gặp thiện tri thức và bàn luận về chân lý của Pháp là ta đã bắt
đầu cuộc hành trình tâm linh để theo đuổi chân lý hơn là những thứ tầm
thường, cũng như những bậc tri thức có thể trợ lực hữu hiệu cho ta trên
con đường tầm đạo. Chỉ có chân lý của Pháp mới có thể chỉ cho ta con
đường dẫn đến sự tận diệt mọi khổ đau. Tuy nhiên, dầu những sự thật đó
dành sẵn cho tất cả mọi người, ít ai sẵn sàng tin theo chúng. Đó là vì
chúng không hướng đến những điều ta mong mỏi: chúng liên quan đến những
vấn đề của vô thường và hoại diệt hoàn toàn. Chúng báo cho ta biết rằng
kết quả tất yếu của bám víu và chống đối là khổ đau, và chúng khuyên ta
nên kiềm chế bản ngã cho đến khi ta có thể nhận ra được ngã chỉ là ảo
tưởng. Tất cả mọi người đều muốn được hạnh phúc, an bình và thảnh thơi
trong tâm và chẳng ai muốn buông bỏ cái ngã của mình. Nhưng ta chỉ có thể
chấm dứt khổ đau khi buông bỏ tự ngã, và vì hầu hết mọi người chưa làm
được điều này nên hòa bình và hạnh phúc còn vắng bóng trên thế giới.
‘Gần gũi thiện tri thức và bàn luận về chân lý’ giúp ta tìm được an lạc:
chân an lạc chỉ có ở ngay trong tâm ta; nó bắt đầu từ tâm ta và tỏa rộng
ra ngoài. Tuy nhiên, dầu chỉ có một chỗ để tìm an lạc, mọi người đều có
đủ phương tiện để nhận diện, và nuôi dưỡng nó. Trong cuộc sống thế tục,
thật sự không thể có an lạc, luôn có những điều không hoàn toàn đúng, cần
được thay đổi hay sắp xếp lại. Trái lại, trong cuộc sống tâm linh, tâm ta
chấp nhận mọi sự như chúng là. Nếu ta chấp nhận chân lý này và hành xử
theo nó, ta sẽ được hưởng quả tốt của phước báu lớn này.
Buông xả ngã và
thanh tịnh tâm, tuệ giác về tứ đế, sau cùng đạt Giác Ngộ, đây thật là
những phước báu lớn!
Khi tu tập, ta cố buông xả ngã bằng cách thanh tịnh hóa tâm, tức là, gieo
trồng những tình cảm tốt, thanh tịnh hóa trí năng, gạn lọc và đào sâu suy
tư của mình. Không có phước báu của tâm thanh tịnh, không thể có sự buông
bỏ ngã chấp. Từ kinh nghiệm bản thân, chúng ta đều biết là mình đã khổ sở
và đớn đau ra sao khi có ý nghĩ và cảm giác tiêu cực. Nó làm ta cũng như
người khác khổ đau. Tiếc thay, chúng ta thường không sẵn sàng chấp nhận
là sự thay đổi phải bắt đầu từ ta. Hầu hết chúng ta đều cho rằng chính
hoàn cảnh chung quanh khiến ta khổ đau, nên cần phải thay đổi hoàn cảnh
theo ý ta thì ta mới bớt đau khổ.
Đó
là cách suy nghĩ của hầu hết mọi người. Ta chỉ muốn thay đổi bất cứ điều
gì ngoại trừ bản thân. Và kết quả ra sao? Không khả quan chút nào! Một
số hoàn cảnh có thể được thay đổi cho tốt hơn đôi chút, nhưng chủ yếu
chính là phải thay đổi tư tưởng, tình cảm nơi bản thân mới mong có được an
lạc. Muốn thế, ta phải không ngừng thực tập chánh niệm, hành trì chánh
niệm trong lúc tọa thiền cũng như duy trì chánh niệm trong đời sống hàng
ngày. Ta cần phải quán sát bản thân rốt ráo để không bỏ lỡ cơ hội thanh
tịnh hóa tâm nào –vì suy cho cùng, chẳng ai có thể làm việc này cho ta.
Thanh tịnh hóa không liên quan gì đến lối sống –cách ăn mặc sang trọng hay
không -mà là về phẩm chất của cuộc đời, cách ta đang sống đời mình. Và
thanh tịnh hóa là một tiến trình lâu dài, xảy ra từ giây phút ta bắt đầu
thực tập điều này -bất kể kết quả ra sao. Ai cũng có vấn đề -chẳng bao
giờ sự việc xảy ra như ta dự tính- song không vì thế mà ta phải chán nản
và buồn bực. Trái lại, ta nên vui mừng vì đã nhận biết được điều gì đang
xảy ra trong ta.
Nếu tiếp tục thay thế những tư tưởng và tình cảm bất thiện bằng những điều
thiện, ta sẽ nhận ra ngay là việc buông bỏ ngã chấp là giải pháp khả thi
duy nhất để thoát ra khỏi thân phận con người. Nhưng đây là điều mà chúng
ta phải tự mình chiêm nghiệm. Trí tuệ của người có thể giúp ta chút ít,
nhưng đó chỉ như cây chỉ đường, không phải là kinh nghiệm cá nhân, và chỉ
có bằng cách thanh tịnh hóa ta mới có thể biến trí tuệ đó thành của chính
mình.
Càng tiến xa hơn trên quá trình này, ta càng có cái nhìn rõ hơn về bản
thân và càng thấy rõ hơn là tất cả những loạn động trong ta đều do có cái
ngã, cái cảm giác nhất định phải sở hữu cái gì đó. Cái ngã này tự coi
mình là quan trọng, và muốn ai cũng phải để ý đến mình. Khi tự quán sát
và chuyển đổi mình, ta thấy rõ ràng hơn bao giờ hết là cách duy nhất để
thanh tịnh hóa tâm là phải đem bản ngã ra phân tích một cách thật tỉ mỉ.
Chúng ta có thể thấy được bản ngã này chỉ là một ý tưởng không? Tất cả
chúng ta cho rằng cái ‘tôi’ là một ai đó quan trọng, cần được bảo vệ,
muốn điều này, ghét điều kia. Cái ngã này muốn mình là trung tâm của vũ
trụ, nên đụng chạm với những cái ngã khác cũng nhắm đến cùng một vị trí.
Không cần phải nói thêm, ta cũng thấy đó là nguồn gốc của mọi vấn đề trong
liên hệ tương quan giữa người với người. Chúng xảy ra do những cách cư xử
không thể chấp nhận được thì ít mà do sự xung đột của hai bản ngã thì
nhiều hơn.
Phước báu khởi sinh khi ta nhìn xuyên qua được tấm màn ảo tưởng này. Đó
là một khám phá hết sức tuyệt vời đến nỗi Đức Phật gọi đó là Giác Ngộ, vì
thế nếu đã có được chút khái niệm gì về nó, là ta đã có một khởi đầu tốt
đẹp. Nhận biết được ảo tưởng này trong ta có nghĩa là ta đã khám phá được
sự sai lầm trong cách ta nhìn mọi việc. Sai lầm này đã bén rễ lâu đời
trong tâm ta, song nếu ta có thể diệt trừ được nó và không tự xem mình như
một cá thể riêng biệt tuyệt đối thì mọi khổ đau sẽ chấm dứt.
Sự diệt trừ ngã tưởng không phải là một điều dễ dàng; ta chỉ có thể thực
hiện được khi ý thức rằng không có cách nào khác để chế ngự khổ đau. Bản
ngã tự có tiếng nói riêng: ‘Tôi muốn được hạnh phúc,’ và tự nghĩ là nó
biết con đường để tìm hạnh phúc. Nếu ta còn đi theo bản ngã trong việc
truy tìm hạnh phúc, thì dù ta có hành thiền để tâm được bình an thay vì
xem đó là một phương tiện để phát triển tuệ giác, hoặc tham gia đời sống
xã hội vui vẻ, hay sống ẩn dật, hay các sinh hoạt nào khác, ta cũng sẽ
chẳng thể nào nắm bắt được ảo tưởng ấy. Chỉ khi nào tâm biết nói ‘Không
có tôi, không có cái của tôi, không có gì cả chỉ có tinh tấn, khiêm cung
và vô thường’, thì lúc đó quả là ta đã đi đúng đường. Khi ta có thể từ bỏ,
buông xả ngã chấp, dù chỉ là trong giây lát, ta sẽ chứng nghiệm được ngay
trong lúc đó niềm an lạc và thư thái vô biên, ví như tất cả các gánh nặng
trên vai ta đã rơi xuống, cho ta thoáng thấy ý nghĩa của cuộc sống vô ngã.
Điều này không phải một sớm một chiều mà đạt được; nó khởi sinh trên con
đường thanh tịnh hóa, mà ở đó ta luôn cố gắng để nhận ra rằng khổ đau
chính là nghiệp quả của ngã tưởng.
Phước báu tiếp theo là tuệ giác về Tứ Diệu Đế, hình thành tất cả những gì
mà Đức Phật giải thích về sự Giác Ngộ mà Ngài đã chứng nghiệm được dưới
cội cây Bồ Đề nổi tiếng ở Bodhgaya, khoảng 2500 năm trước. Giáo lý Tứ
Diệu Đế cho chúng ta câu trả lời của những câu hỏi căn bản về kiếp sống
con người. Vì sao chúng sinh đau khổ? Vì sao lúc nào ta cũng cảm thấy
thiếu thốn và bất mãn? Không phải là vì -như chúng ta thường nghĩ- ta
không có những thứ ta muốn, hay vì ta không được yêu mến hay kính trọng.
Chỉ có duy nhất một lý do, đó là hiện hữu là đau khổ. Đây là cốt lõi của
Diệu Đế Thứ Nhất: đời chẳng bao giờ được như ta mong muốn. Diệu Đế Thứ
Hai soi sáng nguồn gốc của sự khổ đau và bất mãn này, đó là sự mong cầu
đổi thay của ta. Ta không muốn chấp nhận cuộc đời như nó hiện là; ta
không muốn buông xả và để mình cuốn theo dòng sinh mệnh; ta muốn khẳng
định bản ngã của mình. Đó là lý do vì sao ta luôn cảm thấy bất mãn, không
toại nguyện, và đây là Diệu Đế Thứ Hai: sự thật về nguồn gốc của khổ đau.
Diệu Đế Thứ Ba, chân lý về Giác Ngộ, có nghĩa là khổ đau có thể được tận
diệt. Diệu Đế Thứ Tư, Đạo, là con đường dẫn đến sự giải thoát, đó là Bát
Chánh Đạo, gồm ba yếu tố qua đó Đức Phật phân loại giáo lý của Ngài: giới
(sila), định (samadhi) và tuệ (panna). Ba phần này
là ba cột trụ nâng đỡ việc thanh tịnh hóa và buông bỏ ngã chấp. Có tu tập
Bát Chánh Đạo hay không, và tu tập miên mật ra sao là hoàn toàn tùy ở ta;
tuy thế, ta vẫn hết sức hàm ân một giáo lý giải thích thật rõ ràng về con
đường đạo và hướng dẫn từng bước để ta thực hành.
‘Giác Ngộ tự nó là một phước báu lớn.’ Từ đầu đến cuối, bài kinh này nói
về con đường đến Giác Ngộ: sự quan trọng của việc giao tiếp với người trí
-không phải với kẻ ngu, nhưng với thiện tri thức. Và cuộc sống trong môi
trường yên tĩnh, sống hướng thượng và không tự hạn chế với những lo toan
hàng ngày trong đời sống thế tục.
Người ta thường chống chế: ‘Nhưng làm sao tôi có thời gian cho mấy thứ đó!’
Nhưng thời gian là gì? Nó đâu phải là cái ta thấy trên đồng hồ. Thời giờ
có vẻ như giới hạn. Thời gian ta thực sự có không thể đo lường; vấn đề là
ta phải biết sử dụng thời gian hữu hiệu nhất. Trong mỗi hành động, mỗi ý
nghĩ, mỗi cảm giác, ta đều có thể thành tựu hạnh nguyện của mình. Chúng
ta đâu cần thêm thời gian cho việc ấy. Thời giờ mà chúng ta có là hiện
tại, ngay trong mỗi giây phút này. Nếu mới lập một hạnh nguyện, ta có thể
thể hiện nó trong việc làm, trong suy nghĩ, cũng như trong những cảm nhận
thường ngày ngay trong ngày hôm nay. Không có đủ thời giờ không phải là
vấn đề. Cách lập luận như thế dựa trên cái nhìn sai lầm là ta có thể tìm
được hạnh phúc trong cuộc sống phàm tục. Cùng lắm thì cuộc sống thế tục
có thể cho ta dục lạc -những thứ đến rồi đi và cần phải được tái tạo mãi-
trong khi chân hạnh phúc thì ở trong tâm ta và trường cửu. Tất cả chúng
ta đều sẵn có hạnh phúc này; chỉ cần khám phá ra nó thôi.
Một trái tim vững chãi, không sầu khổ, trong sạch và an trụ -dù khi
gặp bát trược. Đây thật là một phước báu lớn!
Tám ngọn gió đời (bát trược) thường làm bận tâm ta là được và mất, vinh và
nhục, khen và chê, sướng và khổ. Tất cả chúng ta đều đã nếm trải qua
chúng lúc này hay lúc khác, song chúng ta quen chấp nhận bốn thứ dễ chịu (được,
vinh, khen, sướng) và tránh né bốn thứ khó chịu (mất, nhục, chê, khổ), nên
chúng ta chẳng bao giờ được an lạc. Ta luôn tìm những cái có vẻ thoải mái
và tránh né những điều trái nghịch, và vì ai cũng như thế nên thế giới
không bao giờ có an lạc. An lạc chỉ đến khi ta thôi không còn bị quyến rũ
bởi bốn thứ dễ chịu và trốn tránh bốn thứ khó chịu. Chỉ khi nào ta đã
chấp nhận là những đối nghịch đó nẩy sinh ra nhau, khi đó ta mới có thể
sống một cuộc sống quân bình.
Ta phải hiểu rằng bốn thứ dễ chịu (được, vinh, khen, sướng) trong đời sống
của ta cũng vô thường như những thứ gì khác. Bất cứ những gì ta có, dù đó
là tiền bạc, tình yêu, người thân, một dịp vui, đều vô thường. Nó đã đến
với ta, thì rồi nó cũng sẽ đi. Để chấp nhận được điều này đòi hỏi không
chỉ một sự hiểu biết sâu sắc về vô thường mà còn phải hoàn toàn buông xả.
Thí dụ, nếu ta đau khổ khi bị mất mát và vui sướng khi được một cái gì, là
ta chưa hiểu được điều này. Ta phải luôn đối diện với vô thường, chấp
nhận nó và biết là thời gian ta sống trên đời ngắn ngủi xiết bao và ta nhỏ
bé dường nào so với tất cả sinh linh. Có gì khác chăng là do ở sự quyết
tâm của ta trong việc thanh tịnh hóa tâm, chánh niệm trong đi, đứng nằm,
ngồi, có một tấm lòng thương yêu và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Điều này
giúp ta đối diện với tám ngọn gió đời với cái nhìn buông xả, để chúng
không còn có thể chi phối ta nữa.
‘Một trái tim vững chãi, dù khi gặp bát trược’ có nghĩa là chấp nhận mọi
hiện tượng với tâm buông xả như nhau, không yêu thích mà cũng không ghét
bỏ. Đây là một tiến bộ quan trọng, cũng là một bước khó khăn: ta không
nên kỳ vọng là mình sẽ làm được ngay như thế, song ít nhất hãy cố gắng tu
tập. Chỉ qua sự nhận biết tính chất thoáng qua của tất cả những hoài vọng
hay ghét bỏ của ta -chúng đến và đi, có đó rồi mất đó- là ta đang thực
tập hạnh buông xả.
Buông xả là một trong bảy yếu tố đưa đến Giác Ngộ và ta không nên nhầm lẫn
nó với thái độ dửng dưng. Buông xả là một tuệ giác sâu sắc với một trái
tim vững chãi tràn đầy thương yêu. Dửng dưng là thái độ lạnh nhạt, không
muốn can dự vào –kết quả là làm cho cuộc đời càng thêm khó sống. Buông xả
là tình cảm cao đẹp nhất trong tất cả những tình cảm, và đòi hỏi lòng can
đảm. Gốc La Tinh của chữ 'buông xả' có nghĩa là 'cân bằng' (aequus)
'tâm' hay 'can đảm' (animus). Cần có lòng can đảm để không phải
giống người, để từ chối không chọn bè phái, để không bị lóa mắt vì các hào
nhoáng của cuộc đời.
Cuộc đời có một đặc điểm lạ thường là nó rất dễ dàng đưa ta đi vào nẻo xấu,
và Đức Phật diễn tả sự kiện này bằng thuật ngữ mara hay ma vương.
Ma vương luôn có mặt trong mỗi chúng ta như văn hào Faust nói: ‘Hỡi ôi! Có
hai linh hồn đang sống trong tôi’. Dưới mắt của ta, thế giới bên ngoài
dường như rất đẹp. Tuy ta có thể ngắm một cầu vồng tuyệt đẹp, nhưng nó có
mang lại cho ta những gì ta thật sự muốn? Chẳng có gì. Nó chỉ có những
màu sắc bắt mắt, nhưng chẳng ai có thể chiếm hữu được nó.
Cuộc đời cũng thế. Nó có biết bao vẻ hào nhoáng làm ta say mê nhưng đó là
những thứ mà chẳng ai có thể thực sự sở hữu. Tất cả những gì ta có thể
thật sự sở hữu ở ngay trong ta, và đã có sẵn từ bao giờ. Do đó, công việc
chính của chúng ta là thanh tịnh hóa tâm, là nhận ra sự huyễn ảo của cái
ngã và tất cả những phản ứng vô ích của ta đối với tám ngọn gió đời: được
mất, vinh nhục, khen chê, sướng khổ.
Một tâm ‘vững chãi, không sầu khổ, trong sạch và an trụ’ là tâm đã Giác
Ngộ. Đây là những đặc tính được dùng để mô tả những Bậc Giác Ngộ. Không
cần phải nói là các ngài đã hoàn toàn thanh tịnh, không còn phiền não, mà
các ngài còn cảm thấy hoàn toàn an trụ, vì không còn ngã chấp nào để cảm
thấy bị đe dọa. Tâm an trụ tuyệt đối đó là kết quả của việc nhận ra được
ảo tưởng và buông bỏ nó.
Những ai đạt được vậy là kẻ chiến thắng, ở mọi lúc mọi nơi. Họ tìm thấy
hạnh phúc ở khắp cùng các chốn, và đây chính thực là phước báu tối thượng.
Trọn bài kinh về ba mươi tám phước báu nhằm chỉ cho chúng ta nơi để tìm ra
chân hạnh phúc -không phải là thứ hạnh phúc tạm bợ có thể mất đi, mà là
một thứ hạnh phúc sẽ còn mãi với ta và hoàn toàn bền vững. Các Bậc Giác
Ngộ không thể đánh mất an lạc nội tâm bởi lẽ không còn ai ở đó để được hay
mất bất cứ điều gì. Chỉ có tâm, trí và thân sẽ tiếp tục hoạt động một khi
còn có đủ nguồn năng lượng. Những Bậc ấy luôn là kẻ chiến thắng dù ở đâu
và chứng nghiệm được phước báu tối thượng.
Việc chúng ta có dần dần tiến đến được trạng thái hạnh phúc này hay không
hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta. Nếu ta coi trọng cuộc sống thế tục và
cho rằng ta có nhiều việc quan trọng phải làm, chắc chắn là ta sẽ không có
đủ thời gian dành cho cuộc sống tâm linh bởi vì nó sẽ bị liệt vào hạng thứ
yếu.
Gác bỏ việc đời không có nghĩa là không còn tình thương trong tim ta. Nó
chỉ có nghĩa là ta không còn vướng mắc. Nếu đã thực sự chọn con đường này,
ta cần phân tích những vướng mắc của mình, viết chúng xuống, sau đó xét
xem chúng ta bám víu vào gì nhiều nhất, có thể là người thân, của cải,
hoài niệm, tuổi trẻ hay sắc đẹp. Ta có thể buông bỏ được điều gì không,
hay là sự bám víu quá sâu dày, quá mãnh liệt khiến ta không thể tách rời?
Ngược lại, ta cũng có thể tự hỏi: ‘Những gì làm ta bực mình nhất? Ta ghét
cái gì nhất? Ta muốn thay đổi điều gì nhất?’ Tất nhiên, những thứ này
chỉ là những điều ngược lại với những thứ ta thích.
Trước khi Đức Phật đạt Giác Ngộ, Ngài có một con trai đặt tên là Rahula,
là ‘trói buộc’ –có nghĩa là những trói buộc của sự bám víu. Khi nào ta
còn bám víu vào cuộc sống, khi nào mà ta còn ham muốn của cải vật chất,
còn muốn sở hữu chúng, thì ta còn bị xiềng xích trói chặt. Chúng ta muốn
mọi thứ nguyên vẹn, không có gì thay đổi. Tất cả chúng ta đều nằm trong
gọng kềm của những bám víu của mình, mạnh mẽ nhất là sự bám víu vào cái
ngã. Có thể ta cũng muốn tin là người khác quan trọng với mình hơn chính
mình, song nếu ta không còn bám víu vào bản ngã, ta sẽ dễ dàng buông bỏ sự
bám víu vào tha nhân hơn. Sự bám víu của ta rõ ràng đã tạo ra bao tình
cảm tiêu cực và bao khó khăn cho ta, và bất cứ phương pháp tu tập nào giúp
ta hiểu rõ hơn về chúng chắc chắn là sẽ hết sức lợi lạc cho ta.
Dù tu tập theo phương pháp nào, ta cần chuyển hướng sự suy nghĩ của mình
ra khỏi những sinh hoạt có tính cách lập đi lập lại (và thường là nhàm
chán) của cuộc sống thường ngày và hướng đến những việc làm có giá trị
chân thực. Căn bản của quá trình buông bỏ ngã chấp và tự thanh tịnh hóa
tâm là hành thiền. Dù rằng tự nó không đầy đủ, thiền vẫn tuyệt đối cần
thiết trong đời sống tâm linh của ta.
Những phước báu được kể ra trong bài kinh này nhằm giúp chúng ta một ngày
nào đó rũ bỏ được hết những sự trói buộc của khổ đau, giải thoát tâm khỏi
bị bất cứ điều gì phiền não. Tất cả những phước báu này đều góp phần đem
an lạc đến cho nội tâm và luôn theo ta trên con đường tiến đến sự giải
thoát tối thượng.
Chương 3
Dứt Sạch Mọi Khổ Đau
Hãy kết giao với bạn lành
Những người sống trong sạch, không
lười nhác.
Dầu ở đâu, giao tiếp khéo
thân thiện.
Luôn cẩn trọng trong mọi hành
động.
Do vậy hưởng vui nhiều
Dứt sạch mọi khổ đau.
Dhammapada stanza 376 -
Kinh Pháp Cú câu 376 (1)
Trong đoạn kệ trên ta có thể tìm thấy chìa khóa để tận diệt mọi đau khổ.
Hãy kết giao với bạn lành,
Những người sống trong sạch, không lười nhác
Lời chỉ giáo đầu tiên, về những người bạn tâm linh, là một chủ đề thường
xuất hiện trong giáo lý của Phật, vì chúng ta rất dễ dàng bị ảnh hưởng từ
những người bạn của mình. Một ‘thiện hữu tri thức’ (noble friend) là
người không thụ động, biếng lười, và trong đời sống hằng ngày không tham
đắm, vượt quá giới hạn, dầu là chút ít. Nói cách khác, họ là những người
sống cuộc đời tích cực và đạo hạnh. Trừ khi ta có thể nhận xét được ở
những người bạn của mình những đức tính cao đẹp như thế qua một thời gian
dài, ta không thể gọi họ là thiện hữu tri thức hay bạn tâm linh với đúng
nghĩa của nó. Đức Phật dạy rằng ta chỉ có thể hiểu thấu đáo một người nào
đó sau khi đã sống với họ một thời gian dài; một chú giải còn xác quyết
thời gian đó là mười hai năm.
Yếu tố quan trọng giúp ta thấy được đời sống tâm linh hay hoạt động nội
tâm của một người không phải ở những điều họ nói, mà ở cách hành xử của họ
trong đời sống hằng ngày. Nói là một việc, làm lại là việc khác –và hai
việc này thường có thể khá xung đột nhau trong một con người. Giao tiếp
với thiện hữu tri thức mang đến cho ta những cái nhìn mới về con đường tâm
linh vì một người bạn như thế chính họ cũng dấn thân trên con đường đạo,
và sẽ có nhiều tri giác để chia sẻ vì ưu tiên của họ luôn là phát triển
tâm linh hơn là cuộc sống vật chất.
Sự hiểu biết sáng suốt này sẽ tự bộc lộ dưới những hình thức đơn giản để
đánh thức trong ta những cái nhìn mới và hiểu biết sâu xa. Kinh sách ghi
lại là Phật đã nói những lời dạy của Ngài phải được diễn tả dưới những
hình thức càng đơn giản càng tốt, để chúng có thể đến với càng nhiều người
càng tốt. Không người nào phải quay lưng đi với ý nghĩ rằng họ không đủ
khả năng để hiểu pháp; và cũng không người nào nên nghĩ là họ chỉ việc tin
vào pháp là đủ. Cả hai thái độ này đều không mang lại ích lợi gì.
Theo Đức Phật, ta có thể tâm sự với một người bạn tốt (thiện hữu tri thức)
mà không cần do dự, e ngại vì biết là họ sẽ giữ bí mật cho ta. Tất nhiên
ta chỉ có thể tin như thế nếu ta biết ta cũng sẽ hành xử như thế với bạn:
lòng tin phải có ở cả hai bên. Một người bạn tốt sẽ không để người khác
nói xấu bạn mình, và luôn hoan hỷ khi nghe những điều tốt lành về bạn mình.
Sự giao tiếp mang đến cho tâm những chất liệu căn bản. Chính vì thế mà ta
cần phải gần gũi với những người thường nói về các vấn đề tâm linh. Tất
nhiên, ta cũng có thể nói về những công việc hàng ngày, và một người bạn
tốt cũng có thể cho ta những lời khuyên về các vấn đề đời thường, nhưng
không nên mất nhiều thì giờ cho việc đó. Tâm có những nhu cầu riêng của
nó. Nó cần được bồi dưỡng, hoàn chỉnh, khích lệ và đó là những điều mà
một thiện hữu tri thức có thể đóng góp tốt hơn, giúp ta thấy hoan hỷ và
củng cố niềm tin của ta.
Đức Phật còn dạy thêm là một thiện hữu tri thức có thể làm xoay chuyển đời
sống tâm linh của ta về hướng tốt. Sự quan trọng của một người bạn như
thế được nhấn mạnh ngay từ câu đầu của đoạn kinh được dẫn, như là điều
kiện tiên quyết để tận diệt các khổ đau. Nếu có được một người bạn có thể
giúp ta đi trên con đường đạo, khuyến khích các thiện hạnh nơi ta, là tấm
gương để ta phấn đấu, thì quả thật chúng ta quá diễm phúc và ta cần phải
làm mọi cách để gần gũi, bồi dưỡng tình thân với họ.
Người khác có nhiều ảnh hưởng đến ta hơn ta tưởng. Khi giao tiếp với
người không biết tu, ta rất dễ rớt xuống cùng trình độ với họ, trừ khi ta
đã huấn luyện tâm mình để kéo họ theo về hướng ta. Điều này đòi hỏi ta
trong giai đoạn đầu phải rèn luyện tâm chánh niệm cao độ, và chính vì vậy
Đức Phật đã nhấn mạnh đến việc ta phải gần gũi với những người có khả năng
giúp chúng ta trên con đường tâm linh. Ta phải có khả năng tri thức riêng
của mình, ở đây (đoạn kinh) ghi bằng chữ ‘cẩn trọng’. Hành động của ta
phải luôn được dẫn dắt bởi sự tiên liệu và phán đoán chín chắn, bởi tiếng
nói của lương tâm rõ ràng, rành mạch và nhắc nhở ta, thí dụ như, là ta
phải có khả năng nhận ra ai là bạn tốt, ai là không. Tuy nhiên, vì sự
biếng lười hoặc thiển cận, tiếng nói của nội tâm có thể bị bỏ qua, bởi
trong ta còn có một tiếng nói thứ hai –đó là tiếng nói của ái dục- dễ
dàng lôi cuốn và khiến ta nghe theo hơn.
Chúng ta có thể cố gắng bào chữa cho các hành động của mình bằng cách cho
rằng tất cả mọi người đều làm như thế. Tuy nhiên, ta cần hiểu rằng con
đường tâm linh hoàn toàn khác với con đường vật chất, và rằng hành động
của số đông không có nghĩa là những hành động, suy nghĩ đúng. Thật ra,
nếu quan sát thấu đáo và trung thực một số đông người, ta có thể kết luận
rằng cuộc sống đắm chìm trong vật chất không thực sự tốt cho họ, dù ở
những điều kiện thuận lợi nhất.
Ta sẽ đưa ra bất cứ lời bào chữa nào khi muốn bóp nghẹn tiếng nói của
lương tâm đang hướng ta đến con đường đạo hạnh. Ngay cả khi nó (tiếng nói
lương tâm) dõng dạc lên tiếng, ta vẫn cố nói, ‘Ừ, tại sao lại không? Làm
như thế thì có hại gì? Tôi có quyền làm như thế. Người khác cũng làm vậy.
Làm thế là tiện lợi nhất.’
Những sự ngụy biện và tránh né đó cần được liên tục phơi bày ra. Ta phải
luôn tự nhắc nhở, bằng cách này hay cách khác, những điều ta thực sự mong
muốn là gì. Chẳng hạn, ta có thể quán tưởng rằng kẻ thù và bạn bè - kể cả
các thiện hữu tri thức- tất cả như cùng đang có mặt trong ta. Từ đó ta có
thể chọn làm người bạn tốt nhất của mình hơn là kẻ thù nguy hiểm nhất. Ta
có thể làm điều đó chỉ bằng cách chăm chú lắng nghe từ nội tâm những lời
khuyên thực sự mang lại hạnh phúc cho mình; chứ không phải một cách sống
đầy vị kỷ, đi từ lạc thú này qua lạc thú khác- là điều, dĩ nhiên, không
liên quan gì tới hạnh phúc -mà bằng những niềm vui đến từ nội tâm, đó
chính là điều mà mọi người đang thực sự tìm kiếm.
Ở
đây, tuy Đức Phật quan tâm đến thái độ của ta đối với những thiện hữu tri
thức, một điều quan trọng khác cũng cần đề cập đến là thái độ của chúng ta
đối với bản thân: bằng cách tự quán sát, xét xem mình có phải là người bạn
tốt nhất của mình không. Ta có biết đến những cuộc đối thoại đang diễn ra
trong tâm mình? Nếu có, ta có nhận ra được đường hướng và sự buông lung
của tư tưởng của mình và ta có biết phải làm gì với chúng không?
Bất kể chuyện gì xảy ra quanh ta, chính tư tưởng của ta quyết định phẩm
chất cuộc sống nội tâm của mình. Chính ta là người gây ra những diễn tiến
trong tâm mình. Chỉ khi nào ta nhìn nhận sự thật này và sẵn sàng sống với
hậu quả của nó, lúc đó ta mới có thể nói là mình đang theo đuổi con đường
tâm linh. Chỉ có tôi là người chịu trách nhiệm cho sự hạnh phúc và bình
an của tôi -cũng như những khổ đau, và bất an. Nếu không hiểu được điều
này, ta sẽ ruổi rong tìm kiếm hạnh phúc ở bên ngoài. Ngược lại, khi gặp
phải chuyện không vừa lòng ta kiếm ngay một thứ gì để đổ lỗi và sẽ có rất
nhiều thứ để ta chọn lựa. Không khó khăn gì để tìm một người hay một điều
gì đó, ngay bên cạnh ta hay xa vời, để đổ lỗi. Ngày nào mà ta còn làm
việc này, ngày nào ta còn mong chờ hạnh phúc đến từ những điều kiện bên
ngoài hay xem chúng là nguyên nhân của khổ đau, ngày đó ta còn mắc kẹt
trong đời sống vật chất, và hành xử chẳng khác gì những kẻ phàm phu.
Sự chuyển hóa chỉ thực sự xảy ra khi ta nhận thức được rằng chính sự suy
nghĩ của ta khiến ta hạnh phúc hay đau khổ, rằng chúng chính là chủ nhân
ông trong đời sống nội tâm của ta. Lúc đó chắc chắn là ta phải trở thành
người bạn tốt nhất của mình -hay ngay cả là thiện hữu tri thức của chính
mình- bất kể hoàn cảnh chung quanh như thế nào. Là người bạn tốt của
chính mình, ta sẽ hỗ trợ tất cả những gì tích cực trong ta và thuyết phục
mình lánh xa những gì tiêu cực, và ta sẽ theo đuổi những gì giúp mình tiến
bộ. Dần dần ta sẽ nhận ra những khuyết điểm của mình, và thay vì tự
trách ta sẽ cố gắng tự sửa mình.
Nếu ta có thể giải quyết những khuyết điểm của mình với tâm từ, ta cũng sẽ
có lòng từ tương tự với người khác và nhận ra những khó khăn của họ. Qua
lòng từ ta sẽ vun trồng cho mình một tâm hồn cao thượng. Nhờ vậy, ta có
thể gác lại những lo lắng đời thường, những tính toán vụn vặt, những cảm
giác lo sợ, tiêu cực và cố gắng nâng cao tinh thần, trạng thái tâm lý cũng
như tình cảm của mình đến trình độ mà ta có thể nhận ra tất cả như là một
quá trình toàn diện.
Nếu ta có thể tránh nhìn mọi việc hoàn toàn qua quan điểm của mình thì
thật là điều tốt. Khi giảm thiểu được thói quen suy nghĩ là ‘tôi’ sẽ
thích cái này hơn, hay ‘tôi’ muốn thay đổi như thế này, thì lúc đó ta sẽ
cảm nhận được rằng mình là một phần của một tổng thể lớn hơn. Chỉ nói về
cách nhìn sự vật thôi cũng không đủ; ta cần có những suy nghĩ nghiêm túc -sự
suy nghĩ đi đến cội nguồn cảm xúc và hình thành đời sống nội tâm của ta.
Cũng bằng cách này, ta gầy dựng tính độc lập và tự chủ của mình. Nhờ
người khác giúp tuy quan trọng, nhưng ta cũng cần cố gắng tự mình theo dõi
và hướng dẫn sự tiến triển của bản thân.
Một điều thật lý thú về giáo lý nhà Phật là nó chỉ gồm những lời chỉ dẫn
và tóm lược. Mỗi người phải chọn con đường cho mình và cố gắng tự thực
hành. Càng thực hành, ta càng bớt do dự, càng bớt ôm giữ những bất mãn,
càng nhận biết sâu xa hơn rằng đây là một giáo lý thực dụng, phù hợp với
lý lẽ và nó thực sự giúp ta dần dần xả bỏ hết mọi khổ đau.
Để đạt được mục tiêu đó, ta phải thay đổi cách suy nghĩ của mình, và có
một cách thật đơn giản để mô tả sự thay đổi đó: thay vì muốn các thứ này
nọ, ta phải từ bỏ chúng. Ở môi trường buôn bán, khi muốn một vật gì ta
phải sẵn sàng trả tiền mua vật đó, nhưng không trả hơn một xu giá bán của
nó. Trên bình diện tâm linh thì lại hoàn toàn khác, chẳng có gì để mà
được, và tất cả những thứ ta mang theo mình như quan điểm, ý nghĩ, hy vọng,
ước muốn, sự do dự và sợ hãi, tất cả đều phải được từ bỏ. Sự từ bỏ này
bắt đầu bằng cách suy nghĩ khéo léo, hay quán chiếu, là điều mà Đức Phật
gọi là sự ‘cân nhắc khôn ngoan’, từ đó thanh tịnh có thể phát khởi trong
ta, cho phép ta nhận diện thật rõ ràng gì là bản chất cao thượng nhất
trong ta. Ta phải làm được điều này vì ta chỉ có thể bộc lộ những đức
tính mà tự ta đã gần gũi quen thuộc. Ta phải tìm được pháp ngay chính nơi
ta.
Chữ ‘hiền’ (noble) có một ý nghĩa đặc biệt trong Phật giáo, nhằm chỉ một
người đã thành công trong việc nhập tâm hóa những lời dạy của Phật bằng
cách này. Có nhiều giai đoạn trên con đường đi đến mục tiêu này. Ban đầu
ta có thể nghe một bài pháp rồi quên mất đi. Sau đó ta có thể nghe, rồi
lưu tâm để nhớ. Nếu nhớ được giáo lý ta có thể đem nó ra thực hành. Và
sau cùng ta có thể quán sát xem có gì đã đổi thay trong quá trình thực tập
đó. Đường đi đã được vạch ra khá rõ ràng -còn việc đi trên con đường đó
hoàn toàn tùy thuộc ở ta.
Việc tự soi lại mình khi ta muốn trở thành bạn hiền của chính mình đòi hỏi
chúng ta phải biết điều gì là tốt nhất cho mình –mà không nhất thiết là
điều thuận tiện hay dễ chịu nhất. Điều này càng khó khăn khi ta mới bắt
đầu con đường tâm linh, vì bỗng nhiên ta phải đối diện với những điều mà
ta không hề biết xưa nay vẫn tiềm ẩn trong ta. Ta cần có can đảm để nhận
ra bản chất của ta mà không tự dối mình. Bất cứ sự giận dữ, bực tức hay
nóng nẩy xảy ra trong quá trình tự kiểm này đều trái ngược với lòng từ và
chẳng ích lợi gì cho ta. Việc trải lòng từ đến bản thân và nhận diện được
những khó khăn của bản thân giúp chúng ta dễ cảm thông với người khác cũng
như vậy.
Đoạn kệ tiếp tục mô tả một thiện hữu lý tưởng sống cuộc đời tích cực và
đạo hạnh. Đôi khi ta thấy có quan niệm rằng người sống cuộc đời tâm linh
đến độ phần nào đã nhập tâm ít nhiều giáo lý sẽ dành hết thì giờ của mình
ngồi trên gối thiền, hoặc nhìn ra cửa sổ, hoặc mỗi ngày chỉ nói đúng mười
chữ. Nghe thì kỳ quái, nhưng những quan niệm như thế không phải là không
phổ biến, và thường được người ta tin chắc vào đó. Người ta thường có
những tranh luận sôi nổi về việc một người sống đời tâm linh phải sống một
cách đặc biệt như thế nào, các nghiên cứu về những ẩn sĩ Ky tô giáo thời
Trung Cổ cho thấy họ thường là những người hết sức thực tế và hầu hết sắp
xếp cuộc sống của họ rất thành công.
Sống đời tích cực có nghĩa là ta làm những việc cần làm thay vì để nó qua
một bên. Tâm thụ động cũng khiến cho thân trở nên nặng nề. Lúc đó tâm
nẩy sinh ra đủ mọi lời bào chữa, mà Đức Phật đã tóm tắt như sau đây: Kẻ
dại khờ nói, "Còn quá sớm, chưa tu được," hoặc "Trễ quá rồi," hoặc "Trời
quá nóng," rồi "Trời quá lạnh." Rồi "Tôi no quá," hay "Tôi đói quá," "Tôi
còn quá trẻ" hoặc "Tôi già quá rồi." Ngày nay, chúng ta lại có nhiều lý
do khác: "Bây giờ thì tôi không thể nào ngồi thiền được -ồn quá. Đợi đến
khi tụi trẻ đã lớn, hay khi chồng tôi về hưu ....”
Tâm biếng lười không những không muốn làm gì, nó cũng không thể tập trung
vào bất cứ việc gì. Nó có vẻ rất tích cực, chạy lung tung mọi hướng, nghĩ
ngợi miên man, thế nhưng chẳng đem lại ích lợi gì. Khi tâm lang thang và
không thể tự chủ, sự suy nghĩ tản mạn làm ngăn trở bất cứ trạng thái thiền
nào . Nó có thể dựng lên những câu chuyện đẹp tuyệt vời, những mộng mơ lý
tưởng nhưng chúng chẳng có ích lợi thiết thực gì cho sự thực tập. Tâm
lăng xăng như thế thì cũng chẳng khác gì tâm biếng lười, trong khi sự nhất
tâm giúp ta rất nhiều trong đời sống hằng ngày, và giúp tâm tránh có cảm
tưởng là nó phải can dự vào bất cứ những gì nó gặp, giúp nó chú tâm vào
những gì mà một người thông minh, khỏe mạnh coi là thực sự quan trọng. Do
vậy, ở một giai đoạn nào đó, ta cần làm rõ điều gì thực sự quan trọng
trong cuộc đời ta. Đối với chúng ta, cuộc sống thực sự có ý nghĩa gì? Ta
nên thường xuyên nghĩ đến điều này và thỉnh thoảng cũng nên viết nó xuống.
Có thể ta sẽ khám phá ra là việc tra cứu này có thể cho nhiều kết quả khác
nhau trong chỉ vài ngày hay vài tuần, và chính vì thế việc tiếp tục xem
xét trở lại những ưu tiên căn bản của chúng ta càng quan trọng hơn. Nếu
biếng lười thường khiến cho các công việc hằng ngày làm gián đoạn sự tiến
bộ của ta, những sự nhắc nhở như thế về mục tiêu của ta có thể vực dậy
trong ta một sinh lực mới để theo đuổi sự tu tập.
Ta thích tự nhủ là mình quá bận rộn, tuy nhiên ta thường thấy là người lúc
nào cũng làm quá sức, thì chẳng thành tựu được bao nhiêu. Những người có
đầu óc nhanh nhẹn và nhất tâm có thể cáng đáng thêm một ít việc nếu cần.
Tâm nhanh nhẹn cũng giúp cho thân thể luôn khoẻ mạnh để tâm và thân có thể
hỗ trợ lẫn nhau.
Chúng ta phải làm rất nhiều việc chỉ để mưu sinh và nhiều người bận rộn
với những công việc thường nhật này từ sáng đến tối. Những sự khổ nhọc ấy
có bõ công không khi chúng ta biết là mình sẽ không sống mãi? Tất cả chúng
ta đều nhìn nhận rằng có một cái gì đó quý giá hơn là việc mưu sinh hằng
ngày, thế nhưng ta đã làm gì từ lúc mở mắt thức dậy mỗi sáng đến khi đi
ngủ mỗi tối? Ta có giúp ích được gì cho người khác trong ngày? Có giây
phút nào ta đã cố gắng tách tâm ra khỏi những lo toan vật chất không?
Giáo lý của Đức Phật gồm những nguyên tắc và chỉ dẫn mà bất cứ ai có quyết
tâm đều có thể hiểu và thực hành. Đức Phật không bao giờ lôi kéo hay
khuyến dụ người ta theo đạo của Ngài. Trái lại, Ngài dùng lời đơn giản
để thuyết pháp, với lòng kiên nhẫn vô biên và khuyến khích mọi người tu
tập. Lại nữa, Ngài đã giảng dạy cho những người có cùng những khó khăn,
ham muốn và bất mãnh như chúng ta ngày nay. Thế giới có thể đã thay đổi ở
bên ngoài - kỹ thuật, kiến trúc và thời trang có thể đem đến cho chúng ta
những điều mới mẻ mỗi ngày- nhưng thật ra thì nhiều thứ cũng chẳng mấy
thay đổi và giáo lý của Ngài vẫn phù hợp như từ thuở nào. Và mục đích
muốn đạt được tuệ giác sâu xa về sự thật tối thượng, để mở ra cho ta một
cái nhìn mới về thế giới chung quanh cũng như về bản thân ta, để sau cùng
đưa ta đến sự tận diệt các đớn đau và khổ ách, cũng vẫn còn thích hợp.
Dầu ở đâu, hãy giao tiếp thân thiện
Trong cuộc sống hằng ngày, điều này xem như là một việc không thể làm nổi,
vì có quá nhiều người không được thân thiện cho lắm. Nhưng trên con
đường tâm linh, ta không có chọn lựa nào hơn là phải thân thiện, vui vẻ
với mọi người. Nếu ta quạu quọ thì ngay trong lúc đó ta đang tạo ác
nghiệp và rồi ta sẽ không thể tránh cảm thấy buồn bực - có nghĩa là ta
đang bị dằn vặt bởi một lương tâm bất an. Có một quan niệm phổ biến
nhưng rất sai lầm là nghiệp chỉ đến từ các đời trước của ta, và tích lũy
nghiệp được dồn lại đời sau, song thật sự là ta đang tạo nghiệp trong mỗi
giây phút mình đang sống và luôn phải gánh chịu những hậu quả của nó.
Quá trình tạo nghiệp ở hiện tại quan trọng hơn là bất cứ nghiệp gì từ quá
khứ hay trong tương lai. Quá khứ thì đã qua còn tương lai chẳng có gì hơn
là một ý niệm của tâm thức; khi tương lai đến thì nó được gọi là hiện tại.
Ta đang tạo nghiệp, ngay trong giây phút này, chẳng trước mà cũng không
sau. Quả thật là nghiệp có liên hệ đến quá khứ và tương lai, nhưng điều
đó ta thực sự chẳng nên quan tâm đến.
Hằng ngày, ta có thể lãnh quả của nghiệp ngay tức thì. Khi ta thấy vui
sướng, bình an, thoải mái thì hẳn là ta đã cố hết sức cư xử theo lẽ phải,
tức là đúng theo với lương tâm của mình. Ngược lại, nếu cảm thấy bực dọc,
ta có thể suy ra là các hành vi của mình đã không được tốt, không đúng
theo lẽ phải: có thể là ta đã không được hòa nhã, tư tưởng của ta chưa
được tốt lành hoặc ta muốn chiếm đoạt hay vất bỏ cái gì đó. Có nhiều cách
để bào chữa cũng như giải thích cho những hành động thiếu khôn ngoan của
ta, song tất cả cũng chẳng có ích gì, bởi chúng chẳng giúp ta mất đi cảm
giác khó chịu trong lòng.
Vì lẽ đó ta phải tự nhắc nhở mình không nên khiếm nhã dù người khác đã đối
xử với mình như thế. Chính vì biết là họ đang tạo nghiệp xấu trong giây
phút đó, ta phải cảm thấy thương họ thay vì có ác cảm với họ. Ta phải nhớ
là nếu bất nhã trở lại với họ, chính ta cũng đang tạo ác nghiệp. Hầu hết
mọi người cư xử theo lẽ sống đời thường là người xấu với ta thì ta xấu lại,
vì họ nghĩ là không còn giải pháp thỏa đáng nào khác. Tuy nhiên, là Phật
tử, chúng ta phải đi theo con đường mà Đức Phật đã dạy: không ăn miếng trả
miếng với người mà qua cách hành xử của mình cho họ thấy là có con đường
cao đẹp hơn. Như thế không những lợi lạc cho ta mà còn lợi lạc cho kẻ ấy
nữa.
Luôn cẩn trọng trong mọi hành động
Ở đây ý nói ta nên cẩn thận xem xét các hành động của mình để tránh phản
ứng một cách hấp tấp. Chúng ta thường vội lên án người khác khi ta nhìn
thấy cái xấu của họ, và ta cũng phải nghiêm khắc và thận trọng như thế với
những hành động của chính mình. Tuy nhiên, nếu tuân theo các thói hư tật
xấu của mình là dại dột, thì ngược lại ta cũng chẳng khôn ngoan gì nếu ta
buồn bã u sầu vì chúng.
Tuy vậy, ta không nên ngần ngại để cho bạn bè biết con người thật của mình
và họ chỉ có thể thực sự hiểu ta nếu họ biết cách cư xử của ta trong đời
sống hằng ngày chứ không phải chỉ trong những dịp đặc biệt. Ngay cả khi
ta duy trì sự tỉnh thức, cũng không nên áp dụng vào cách cư xử thường ngày
của ta một cách giả tạo, hoặc dựa trên sự đồng hóa với một nhân vật nào.
Nó phải đến từ trái tim ta.
Ngoài việc phải cẩn trọng trong lúc giao dịch với bạn hữu, ta cũng cần cư
xử như thế với tất cả mọi người để tránh gây thù chuốc oán một cách vô ích.
Tuy nhiên, không thể nào tránh việc không tạo ra kẻ thù. Ngay cả Đức Phật
cũng có kẻ thù –cũng như Chúa Giê Su của Nazareth. Vì thế không phải lúc
nào cũng có thể giao lưu, kết bạn, nhưng không nên vì lý do đó mà không
thử, không cố gắng kết giao với những người bạn thực sự, dựa trên những
tình cảm trong lòng ta.
Điều đáng tiếc là chúng ta thường giao tiếp với người khác dựa trên tri
thức. Trong khi nếu mọi người đều thật lòng với nhau, thì sẽ dễ dàng hòa
hợp với nhau nhiều hơn, nhưng điều này có vẻ hiếm trong những mối liên hệ
hằng ngày. Nhưng ta luôn có thể học những điều mới, và ta càng phát triển
những đặc tính của trái tim, như lòng nhân ái, bi mẫn, chúng càng chuyển
tải nhiều hơn thông điệp của ta. Tình cảm của ta càng sâu sắc, ta càng dễ
diễn tả chúng bằng lời nói, và càng dễ kết bạn hơn.
Bạn bè không có mặt để ta tự khẳng định mình, mà là để ta có cơ hội được
làm một thiện hữu. Do đó, con đường tu tập của chúng ta, là để hỗ trợ
người khác, và đây là điều quan trọng luôn được nhắc đến nhiều lần trong
các kinh điển. Tuy nhiên ta chỉ có thể giúp được người khác sau khi đã tự
giúp mình, và nếu những khó khăn của bản thân còn quá nhiều, ta phải khắc
phục chúng trước khi ta có thể giúp người.
Nếu ta chỉ kết thân với những người bạn sống đạo hạnh, không biếng lười,
và nếu ta thân thiện, cẩn trọng, đời ta sẽ tràn đầy hạnh phúc. Câu ‘tràn
đầy hạnh phúc,’ nghe có vẻ lạ tai. Nói một cách đơn giản nhất là nó cho
ta cảm giác tự tại, phát khởi từ nhận thức rằng ta đã làm hết sức mình, và
đó là một khởi điểm quan trọng cho việc hành thiền. Nếu ta tự biết mình
đã cố hết sức thì ta sẽ tìm được tâm bình an dễ dàng hơn vì biết là mình
sẽ được hưởng quả lành từ những thiện nghiệp mình đã gieo trồng; ta có thể
vững tin là các thiện nghiệp đang giúp đỡ, hỗ trợ ta. Đức Phật dạy rằng
ta là chủ nghiệp của mình, rằng nếu ta gieo trồng thiện nghiệp thì chúng
sẽ trưởng dưỡng ta và chính sự hiểu biết này góp phần mang lại hạnh phúc
cho ta.
Bằng cách đó ta cũng dễ dàng đạt đến tầng thiền thứ nhất, cho ta cảm giác
an lạc. Đây là tầng định thứ nhất mà Đức Phật thường nhắc đến trong hầu
hết những lời dạy của Ngài về thiền. Không những đem đến cho ta niềm an
lạc nó còn là một liều thuốc trị những cảm thọ tiêu cực, lòng sân hận và
ghen ghét. Trong lúc hưởng thụ cảm giác an lạc chúng ta không thể đồng
thời cảm thấy sân hận hay ghen ghét. Thêm nữa, một cảm giác an lạc như
thế thường có tác dụng lâu dài.
Trong đoạn kệ này chúng ta được chỉ dẫn về những điều cần thiết để giữ
được định và sự bình tâm ở ngoài thiền định. Ở những kinh khác Đức Phật
dạy rằng muốn hành thiền cho đúng, tâm và thân đều phải thoải mái và tâm
phải đầy an lạc. Chỉ khi đó việc hành thiền mới khả thi, đưa đến định.
Khi chứng nghiệm những điều này lần đầu tiên ta sẽ có câu trả lời cho
nhiều nghi vấn của ta. Đây là điểm khởi đầu của con đường đưa đến sự đoạn
diệt các đau khổ.
Đức Phật dạy rằng tất cả mọi hiện hữu đều mang đặc tính đau khổ vì họ
chẳng bao giờ có thể thỏa mãn hay hoàn toàn như ý, nhưng Ngài cũng chỉ cho
ta cách để bỏ mọi khổ đau lại phía sau. Đôi khi Phật giáo bị cho là bi
quan bởi Đức Phật đã dùng từ ‘đau khổ’. Thật ra, xét cho cùng thì giáo lý
của Ngài hết sức thực tế. Đức Phật nhận diện các vấn nạn của chúng ta, sự
liên hệ mật thiết của chúng với vô thường. Ngài còn chỉ cho ta cách vượt
thắng các vấn nạn với sự trợ giúp của tuệ giác sâu xa, tuệ giác đạt được
khi ta từ bỏ các quan điểm cá nhân. Ta phải bắt đầu bằng nhận thức rằng
các quan điểm của ta chưa bao giờ đem đến cho ta an vui, mà chỉ tạo ảo
tưởng rằng ta là một ai đó.
Do vậy hưởng vui nhiều
Dứt sạch mọi khổ đau
Ở
đây, Đức Phật xác tín thêm lần nữa rằng ta đang bước trên con đường dẫn
đến sự tận diệt các đau khổ bằng bước chân đầu tiên của mình. Đạo khởi
đầu từ cuộc sống hằng ngày; nó ảnh hưởng đến bạn bè ta, đến cách cư xử,
tình cảm hay năng lực, sự trong sạch của tâm cũng như thiền tập của ta.
Nếu ta bước theo đó, hãy tự nhắc nhở mình luôn tránh để tâm biếng lười,
phải là bạn tốt của bản thân, và nếu chúng ta tiếp tục bước tới để chứng
nghiệm hạnh phúc, niềm vui trong sơ thiền, thì chúng ta đang đi trên đạo
lộ.
Dứt sạch mọi đau khổ không có nghĩa là tất cả khổ đau trên đời này đã chấm
dứt nhưng là niềm tin của ta vào một cái ngã đã chấm dứt. Lúc ấy, không
còn ai ở đó để cảm nhận khổ đau. Thật vậy, khổ đau của ta bắt đầu giảm
thiểu khi ta đang trên đường đến chứng nghiệm, khi niềm tin vào cái ngã đã
lung lay. Dứt sạch mọi đau khổ trong cuộc đời phải khởi đầu bằng chính
khổ đau của ta bởi ta chỉ có thể truyền đạt cho người khác những gì bản
thân mình đã cảm nhận và chứng đắc.
Chương 4
Lỗi Của Người
Lỗi
người dễ thấy biết bao
Lỗi ta khó thấy ai nào muốn khui,
Lỗi người cứ cố phanh phui
Như tìm trấu lẫn trong nồi gạo kia
Lỗi ta lại dấu diếm đi
Tựa người săn bắn muốn che dấu
mình
Hay như con bạc cố tình
Cờ gian bạc lận lưu manh dấu bài.
Dhammapada stanza 252
Kinh Pháp Cú - Câu 252 (1)
Nếu
ta thấy được lỗi người
Tâm ta nóng
giận tức thời dễ sinh
Tăng thêm phiền
não thật nhanh
Xa lìa an tịnh,
quẩn quanh muộn sầu,
Lỗi người chẳng
để tâm lâu
Còn chi sầu
muộn, còn đâu não phiền.
Dhammapada stanza 253
Kinh Pháp Cú -Câu 253 (2)
(2) Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thơ,
Diệu Phương xuất bản 2003
Hai câu kệ từ kinh Pháp Cú được nói đến ở đây có tính cách phổ quát thích
hợp cho tất cả, và có thể giúp phát sinh các trí tuệ đáng kể. Trước hết là
câu kệ:
“Dễ thay thấy lỗi người
Lỗi mình mới khó thấy
Lỗi người ta
phanh tìm
Như sàng trấu trong gạo
Còn lỗi mình che đậy
Như kẻ gian dấu bài”
Ở
đây, khuynh hướng che dấu lỗi lầm của chúng ta cũng giống như một thủ đoạn
lừa đảo, vì chính thật là ta không thành thật với bản thân. Tuy nhiên,
chấp nhận con người thật của mình rất khó, nhất là khi nói về lỗi lầm của
mình, vì sự đánh giá bản thân của ta luôn sai lạc - hoặc là quá cao hay
quá thấp. Phương cách tốt nhất để có được một cái nhìn rõ ràng và thực tế
về bản thân là tự soi xét mình với chánh niệm.
Thấy lỗi của người thật không khó vì chúng thường làm ta khó chịu, và
trong trạng thái tâm tiêu cực này ta cho rằng những gì ta nghĩ là đúng và
ta có quyền phán đoán người. Đó là lý do khiến chúng ta phê bình hấp tấp,
rồi quên rằng những suy nghĩ của mình chỉ dựa trên ý kiến riêng của chính
mình, nên không thể nào hoàn toàn khách quan. Ở một mức độ nào đó, tất cả
các quan điểm của chúng ta đều sai lạc, vì chúng khởi nguồn từ ảo tưởng về
bản ngã của ta: ‘Tôi có, tôi muốn, tôi sẽ, tôi tin rằng, tôi biết, tôi
nghĩ.’ Những quan điểm của chúng ta có thể đúng một cách tương đối, nhưng
chân lý tương đối không bao giờ đủ để khiến ta hoàn toàn thỏa mãn, vì cuối
cùng thì nó cũng chỉ thể hiện sự thật của một bản ngã đối chọi với một bản
ngã khác. Một người tin thế này, người khác tin thế kia; người làm cách
này, người khác làm cách hoàn toàn ngược lại. Chân lý xây dựng từ ý niệm
của một bản ngã không thể nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn. Nhiều lắm,
nó chỉ thể hiện sự lựa chọn của cá nhân. Chân lý tương đối không thể nào
hơn thế được.
Nhìn từ quan niệm chân lý tuyệt đối thì hoàn toàn khác. Từ góc nhìn này,
chúng ta bắt đầu ý thức được rằng lỗi của người mà ta quan tâm đến cũng
cần được nhìn thấy nơi ta. Lỗi của người là phản ảnh của lỗi nơi ta, nếu
không ta đã không thể nhận biết chúng. Khi thấy ai giận dữ hay khoe
khoang, chúng ta nhận ra những khuyết điểm này từ kinh nghiệm của bản thân.
Chúng ta biết những cảm xúc này từ đâu đến và tác động của chúng như thế
nào. Tương tự, người ta nói chỉ có Phật mới nhận ra Phật, vì chỉ có Đấng
Giác Ngộ mới biết được sự giác ngộ.
Khi chúng ta ý thức rằng mình đang phê bình người khác, chúng ta cần ngay
tức khắc biết mình sai rồi. Những lời chỉ trích của chúng ta sẽ không có
lợi ích gì; suy cho cùng, có ai đã sửa đổi khi bị bới móc đâu? Nói xấu
người khác luôn có hại, phần lớn là cho mình. Chúng ta biết người khác
cũng có thể khó chịu với ta, và nếu ta phản ứng bằng sự giận dữ, hờn oán,
thì ta có thể rơi vào vòng sân hận dữ dội hơn bao giờ hết, và có thể mất
một người bạn.
Vậy thì chỉ trích không có lợi – nhưng nhận lỗi thì trái lại. Ví dụ, nếu
chúng ta thấy một người nào đó không có chánh niệm, thái độ đúng đắn sẽ là:
“Tôi tự hỏi không biết lúc này tôi đang chánh niệm thế nào?” Đó là phản
ứng đáng kể duy nhất. Nếu chúng ta quan sát thấy một ai đó lầm lỗi, và
muốn chỉ trích, ta nên tự nhắc mình là phê bình người khác sẽ có hại cho
mình.
Khi để cho sự phê bình, chỉ trích lập đi lập lại và trở thành một thói
quen, chúng ta đã khắc sâu những nếp tiêu cực vào bên trong. Chắc là
trong chúng ta ai cũng biết một người nào đó có tánh hay phê bình, chỉ
trích, và khi nghe họ nói chuyện thì thật là bực mình. Vì vậy, chúng ta
phải cẩn thận trong việc chỉ trích, và tránh tạo thói quen xấu nơi kẻ khác.
Chúng ta cũng nên ý thức rằng, cứ mỗi khi chỉ trích ai, chúng ta dần dần
tạo cho mình một thói quen xấu.
Ngược lại, nếu nhân cơ hội đó chúng ta quan sát chính xác điều gì đang xảy
ra với người khác, chúng ta có thể sử dụng sự nhận xét về các hành vi của
họ như một tấm gương cho bản thân. Đây là một tấm gương rất giá trị, vì
tuy rằng nó không thể cho ta thấy hình dáng thể chất của mình, nó có thể
giúp ta dấn thân vào một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều của việc tự biết mình.
Trách vụ này khó không những vì chúng ta thiếu nhận thức, nhưng chính là
vì chúng ta thích như vậy – chúng ta thường không muốn biết sự thật; chúng
ta lo lắng tìm cách lẩn tránh nó vì chúng ta sợ sự thật sẽ làm ta đau lòng.
Hai trong số tám hiện tượng phổ quát được nhắc đến ở đây: khen và chê
trách. Bận tâm để được khen và tránh bị chê trách rõ ràng là hơi lố bịch,
nhưng chúng ta chưa bao giờ thật sự ý thức được điều đó. Thêm nữa, hai
điều này chính là lý do khiến chúng ta miễn cưỡng trong việc tự hiểu mình:
chúng ta sợ sẽ tìm ra những điều về bản thân mà ta có thể phải chịu sự chê
trách. Chúng ta vẫn thích mang vải che mắt và tránh cái nhìn toàn diện về
bản thân.
Sự
sợ bị khiển trách có thể được giải quyết bằng công thức ‘chấp nhận, không
trách móc, sửa đổi.’ Bước đầu tiên là ý thức được sự sợ bị khiển trách,
sợ sự bất đồng ý kiến, thiếu hỗ trợ, và sợ không được quý trọng.
Gốc rễ của tất cả mọi nỗi sợ hãi là sợ không hiện hữu. Sự sợ hãi này ẩn
chứa trong tiềm thức của mỗi người chúng ta, và nó có thể dấy lên trong
cơn hoảng hốt chỉ vì chúng ta không muốn chịu sự khiển trách. Ngược lại,
chúng ta luôn sẵn sàng trách người khác, với lòng tin rằng điều đó không
làm hại đến mình. Nhưng chúng ta đã lầm; vì để cho tiêu cực chế ngự,
chính ta mới là người đau khổ.
Sự
sợ hãi bị khiển trách cũng giống như sợ chết, hay là sự sợ cho cái tôi,
cái tự ngã. Xét cho cùng, đó là sự sợ hãi không còn được hiện diện trên
thế gian này nữa. Dĩ nhiên, khi dự đoán phải bị trách móc, chúng ta không
sợ thực sự bị tan biến đi ngay tại chỗ, mà chỉ sợ đánh mất sự tự mãn, là
điều tùy thuộc nơi sự quý trọng của người.
Việc này rõ ràng thật điên rồ, nhưng đa số đều hành động như vậy, và có
người còn tệ hại hơn, đến độ luôn phải cố gắng làm hài lòng tất cả mọi
người. Nhưng làm sao chúng ta có thể hy vọng làm được việc này? Trước hết
là chúng ta không biết tình cảm hay ước muốn của người khác như thế nào.
Thế nhưng, tuy chúng ta không thể làm hài lòng tất cả, chúng ta có thể
luôn cố gắng làm những gì tốt đẹp nhất.
Trên thực tế chúng ta ai cũng muốn được xưng tụng, khen ngợi. Mọi việc ta
làm đều hướng về mục đích này, nhưng nếu quá bức xúc với mong muốn này,
chúng ta sẽ bị sự sợ hãi chế ngự, khiến ta không có cái nhìn khách quan.
Nói cách khác, chúng ta sợ bị chỉ trích. Để có thể loại bỏ sự sợ hãi này,
chúng ta nên bắt đầu bằng cách tự mình cố gắng không quá phê phán, vì biết
rằng những gì mình làm sẽ quay lại với mình, như vũ khí săn bắn tên
boomerang (3) của người thổ dân châu Úc.
Bước đầu tiên đi đến sự hiểu biết về luật nhân quả - là những điều có thể
quan sát được khắp nơi trong vũ trụ - không đủ để giúp ta vượt qua tất cả
sợ hãi. Bước thứ hai liên hệ đến sự hiểu biết về bản chất của sự sợ hãi.
Trong cuộc truy tìm sự chấp nhận của tha nhân, chúng ta trở thành nô lệ
của môi trường chung quanh mình. Ngày nào môi trường này còn không được
như ý mình, hay không vĩnh viễn làm cho mình cảm thấy tuyệt vời, thông
minh, đẹp đẽ, chúng ta sẽ còn tiếp tục cảm thấy không thoải mái. Một thái
độ như thế sẽ khiến cuộc sống của ta vô cùng khó khăn, và ngăn trở sự tiến
đến việc tự biết mình.
Ngược lại, sự tự biết mình thật trung thực rất cần thiết để giúp chúng ta
buông xả, kể cả buông xả sự lo sợ bị chê trách. Chúng ta chỉ có thể buông
xả những gì tự mình đã nhận thức rốt ráo, cũng không cần thiết phải hoán
chuyển sự sợ hãi bị chê trách thành sự sợ tự biết mình; việc chúng ta có
thể buông xả cái ngã sau khi đã hiểu được nó, không có nghĩa là ta đã chết.
Nó chỉ có nghĩa là sự vị kỷ (self-centredness) không còn là quyền lực tối
ưu trong cuộc đời ta. Mọi việc không nhất thiết phải luôn theo như ý
mình. Thay vào đó, chúng ta dành một khoảng không gian bên trong ta
cho những gì thật sự đúng. Chúng ta rồi sẽ hiểu rằng vì có những uế nhiễm
trong mọi khía cạnh của đời sống hữu lậu, nên sẽ không bao giờ tìm được gì
toàn hảo bất kỳ ở nơi đâu.
(3)
Dụng cụ bằng gỗ của thổ dân Úc, có nhiều hình dáng, kích cỡ, sử
dụng cho nhiều mục đích. Có đặc tính là khi vứt đúng cách, nó sẽ quay trở
lại hướng người vứt.
Chỉ cần nhìn vào khía cạnh của vô thường: tất cả những gì đến rồi phải qua
đi, không có gì là trường cửu. Nếu chúng ta cố bám víu vào một kỷ niệm
nào đó, nó sẽ như cát rơi xuống khỏi lòng bàn tay ta. Dĩ nhiên, tính chất
luôn biến đổi của sự vật đôi khi trở thành lý do cho sự chê trách, nhất là
khi người khác làm cho mình thất vọng vì lỗi hẹn hay không làm xong việc
ta giao phó.
Không ai lại đi chỉ trích một ngôi sao trong bầu trời khi nó trở thành một
sao băng sáng rực rồi tan biến đi – chúng ta biết trách móc như thế thật
là vô nghĩa vì nó chỉ là một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng trong thực tế
đây là bản chất thật sự của vạn vật, nên khi ta than phiền về tính biến
thiên của tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ thì cũng vô nghĩa như vậy. Tất
cả những hiện hữu có điều kiện đều không toàn hảo.
Đây là lý do tại sao chúng ta nên nhìn lại mình mà không sợ hãi, và xét
xem những gì chúng ta không thích ở người. Chúng ta không thích thói xấu
của họ? Ta nên tự xét lại các thói xấu của mình. Ta không thích tính
luôn muốn được chú ý tới của họ? Có thể ta cũng muốn là trung tâm của vũ
trụ? Bằng cách này, chúng ta sẽ ngày càng biết rõ mình hơn.
Tất cả chúng ta đều biết những nỗi sợ hãi luôn dấy khởi, khi thử trắc
nghiệm như sau: ‘Có lẽ mình không phải là người tốt như mình nghĩ – và
nếu mình không được tốt như vậy, người khác sẽ chê trách mình.’ Tôi gọi
đây là ‘lối suy tư hướng về kết quả’; chúng ta thấy rất sợ hãi vì sự đe
dọa này, như là bị roi quất vào người, khiến thân xác đau đớn. Chúng ta
muốn rằng mọi việc phải thật đúng, thật toàn hảo. Nhưng ta muốn điều gì
hoàn hảo chứ? Trong vũ trụ này, vạn vật tiến hành theo lề lối riêng của
nó, và cứ liên tục như vậy. Sông chảy, nếu ta ngăn chúng lại sẽ gây ra lũ
lụt. Cuộc sống tiếp diễn, khi ngày này hết thì một ngày mới lại bắt đầu.
Tại sao chúng ta không đặt mình vào dòng luân lưu của vạn vật, và hãy thôi
nghĩ đến việc phải mang vào dòng luân lưu này tất cả những gì toàn hảo?
Điều này có thể áp dụng trong việc hành thiền cũng như với bất cứ chuyện
gì khác. Dầu ta có thể đang ngồi lặng yên trên gối thiền, không bị ai nói
gì hay phê phán gì, nhưng ta vẫn đang tạo áp lực cho bản thân, khiến trở
ngại việc hành thiền. Nếu nghĩ rằng việc hành thiền phải toàn hảo thì
chúng ta sẽ không thể thiền quán mà luôn đương đầu với lo âu.
Thật là vô ích khi mong muốn làm tất cả mọi việc toàn hảo; chúng ta chỉ có
thể cố gắng làm hết sức mình. Chúng ta cũng sẽ vui hơn nếu bỏ được ước
muốn được người khác biết ơn. Dĩ nhiên, nếu có ai tỏ lòng biết ơn, cảm
kích, hay hoan hỷ vì những gì mình đã làm, thì đó cũng là điều tốt, nhưng
là tốt cho họ.
Chúng ta nên nhớ rằng mình cũng luôn thay đổi. Năng lượng và năng lực của
chúng ta lên xuống liên tục. Điều này cũng đúng trong việc hành thiền. Đôi
khi tâm trí ta có thể tập trung rất nhanh; những lúc khác, có thể vì phải
gạn bỏ quá nhiều tư tưởng nên phải mất cả giờ đồng hồ mới tìm được sự tĩnh
lặng. Khả năng tập trung hay phân tán tư tưởng này thường do ta liên tưởng
đến 'cái ngã' – ta tự gây ra cho mình- nhưng tại sao ta cảm thấy cần thiết
phải làm vậy? Tất cả cũng vì tâm ta không ngừng thay đổi.
Nếu chúng ta có thể thấy mọi thứ biến chuyển trong ta như thế nào thì ta
sẽ có thể kết luận ở người cũng thế. Nếu ai đó cư xử không phải phép,
chúng ta phải mừng rằng họ sẽ thay đổi, hy vọng là tốt hơn. Vậy thì, càng
chánh niệm về lẽ vô thường - nhất là sự vô thường của những hành động xấu
– chúng ta sẽ thấy dễ buông bỏ tánh vạch lá tìm sâu, tìm lỗi của người nữa.
Như chúng ta đã thấy, những gì ta chê trách nhất ở người là những tính
cách ta cũng ít thích nhất nơi bản thân. Chúng ta cũng đã thấy rằng nếu
thỉnh thoảng ta bỏ thì giờ để quán sát, tìm hiểu các thói xấu này, ta có
thể nỗ lực khắc phục được chúng. Tuy nhiên, trong tiến trình này, chúng
ta có thể phải chịu sự chỉ trích khắt khe, vì trong lúc những hành vi ta
đang quan sát có thể giống hành vi của ta, người mà ta đang chỉ trích có
thể không nỗ lực để cải thiện chúng như ta. Một thái độ như vậy tạo ra
rất nhiều va chạm trong sự liên hệ giữa người với người; điều này không
nhất thiết được biểu lộ ra ngoài, dầu vậy ta vẫn chất chứa cảm giác không
tán thành, chống đối. Chúng ta nên luôn luôn cố gắng chấp nhận tha nhân,
và cố kiềm chế sự phê bình họ. Điều này cũng ứng dụng với chính mình nữa.
Chúng ta không nên bắt bẻ, bới móc lỗi người, mà hãy luôn tự nhắc mình nhớ
đến công thức, ‘Chấp nhận, không trách móc, sửa đổi.’
Trong phần đầu –soi thấu rõ được bản thân– là phần khó nhất. Phần thứ hai
–không trách móc– cũng không dễ thực hiện, vì tâm ta tự động có phản ứng
tiêu cực đối với bất cứ cảm giác khó chịu nào. Tất cả những gì chúng ta
không thích về mình -tất cả những gì ta không thể chấp nhận và muốn thay
đổi - tạo ra những cảm giác khó chịu và tự trách, rồi con đường đi đến tự
giác có thể biến mất khỏi tầm nhìn.
Sự
thấu hiểu về vô thường giúp ta dễ dàng quán chiếu bản thân. Khi đã rõ rằng
mọi vật ta đang thấy trước mắt biến mất đi ngay lúc đó, thì việc tránh
không tự trách mình sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tất cả mọi vật đến, sẽ đi và
không trở lại nữa – và không có gì đến sau đó sẽ giống như cái đến trước,
dù chúng có vẻ giống nhau đến đâu. Bằng cách quán sát vô thường như thế,
ta có thể bắt đầu sẵn sàng chấp nhận bản thân và tha nhân hơn.
Nhận thức được bản chất thật sự của những gì mà ta chê trách ở người giúp
ta có cái nhìn mới mẻ về bản thân. Chúng ta dứt bỏ được những gì làm mình
khó chịu không phải bằng cách quay lưng lại với người có các lỗi này,
nhưng bằng cách không còn bắt người khác chịu trách nhiệm vì họ không như
ý ta muốn.
Trong tiến trình này chúng ta có thể nhận thức được cả vô thường và khổ
đau. Ý thức được rằng khổ đau đến từ chính những phản ứng tiêu cực của
mình, trong đó có cả sự sợ bị chỉ trích, sẽ giúp ta dễ kiềm chế việc phê
bình tha nhân. Chúng ta có thể thấy rõ rằng hầu như mọi người đều biết nỗi
bất an do không được ủng hộ, chấp nhận, và rằng sự lệ thuộc nơi người khác
thật vô cùng khó chịu.
Làm sao chúng ta biết người khác nhận xét về mình có đúng không? Chúng ta
có bao giờ thức tỉnh để biết rằng tất cả đều bị kẹt trong cái bẫy ảo tưởng
khiến không thể nào ta có được một quan điểm thật sự khách quan? Ảo tưởng
đó là tất cả chúng ta đều là những cá thể riêng biệt và rằng nếu đủ khôn
ngoan để sắp xếp mọi thứ đúng cách, ta có thể có những sự dễ chịu riêng.
Tất cả mọi người đều sống với ảo tưởng này, khiến họ khao khát hiện hữu và
lo sợ bị hủy diệt. Vậy thì làm thế nào để người khác xác nhận sự hiện hữu
của chúng ta? Mọi sự sợ hãi phản ảnh nỗi sợ hãi bị hủy diệt. Sự sợ hãi
không chỉ giới hạn trong sự sợ cho sự hiện hữu của thân xác, mà bao gồm cả
sự hiện hữu của cảm xúc, sự xác định của bản ngã. Nhưng nếu ý thức được sự
sợ hãi này, chúng ta cũng có thể phát triển một sự cảm thông sâu sắc đối
với tha nhân, vì tất cả nhân loại đều khát khao sinh tồn khiến phát sinh
nỗi khổ đau lớn lao nhất.
Nỗi sợ hãi với gốc rễ đã ăn sâu này làm cho con người không thể hoàn toàn
được mãn nguyện, và một khi đã hiểu được sự tương quan này, chúng ta sẽ
không còn đi tìm sự mãn nguyện một cách sai lầm nữa. Thay vào đó, chúng ta
sẽ cố gắng chuyển hóa những khó khăn của kiếp con người do ngã tưởng gây
ra. Tuy nhiên, trước hết chúng ta phải nhận diện được nỗi lo sợ của việc
tự soi xét một cách chân thực, cùng với nỗi lo sợ bị người khác chê trách,
và ý muốn chỉ trích lại, tất cả là do sự thúc đẩy của nhu cầu muốn tâng
bốc tự ngã. Khi kết tội người khác, ta cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu chấp
nhận rằng tất cả chúng ta ai cũng có khiếm khuyết, thì ta tiến gần đến sự
thật hơn.
Nhận thức này đưa ta tiến xa hơn đến sự hiểu biết về những thiếu sót cơ
bản của sự hiện hữu ở cõi nhân sinh hữu lậu này. Chỉ khi nào chúng ta ý
thức được sự khiếm khuyết này thì ta mới cảm thấy thôi thúc phải vượt lên
trên cõi này – dĩ nhiên không nói về thể chất, nhưng trong ý nghĩa để
buông bỏ được ngã tưởng. Những khó khăn chúng ta đã vượt qua sẽ không còn
quấy nhiễu ta nữa, và chúng ta sẽ đạt được tri kiến về những vấn đề khác
đang còn gây khó khăn cho ta. Chúng ta sẽ có thể thấy là mình chưa chuyển
đổi được các vấn đề khi chúng vẫn còn phiền nhiễu ta. Chẳng hạn như, khi
đọc những tin tức không hay và ngay lập tức cảm thấy lòng ta đầy bực tức,
ta có thể tự biết rằng mình chưa bỏ hết được những tham lam, sân hận của
mình. Thế giới vẫn còn đầy bao biến động, nhưng bực bội, kết tội chỉ cho
thấy là sân hận vẫn còn đầy trong ta.
Chúng ta sinh ra với sáu gốc rễ -ba rễ tốt và ba rễ xấu– thế nên việc lên
án bản thân hay tha nhân thật là vô ích. Vấn đề là nhận thức được bản
chất của những gốc rễ này, và tự nguyện hỗ trợ cho những rễ tốt phát triển,
đồng thời làm giảm bớt các rễ xấu.
Dĩ
nhiên, các gốc rễ xấu là tham, sân, và si (vô minh trong ý nghĩa về ngã
tưởng). Những đối nghịch của chúng cũng rất quen thuộc với chúng ta. Nếu
chúng ta có thể thấy ba gốc rễ thiện - bố thí, tình yêu thương vô điều
kiện, và trí tuệ - nơi tha nhân, thì ta có thể kết luận rằng chúng cũng có
mặt trong ta. Thực ra, chúng ta biết rất rõ ràng phải thực hành khi nào,
ở đâu và như thế nào. Ngôn từ và giới luật, tự chúng, không bao giờ đủ cả,
nhưng ta đã có đủ trí tuệ trong ta để cảm nhận được sự thật khi nghe đến
nó, và biết có thể tìm được nó ở đâu.
"Ai thấy lỗi của người
Thường sanh lòng chỉ trích
Người ấy lậu hoặc tăng
Rất xa lậu hoặc diệt” (2)
‘Dứt bỏ tham muốn’ là một cụm từ khác để chỉ sự hoàn toàn thanh lọc. Có
nghĩa là tham sân không còn có mặt, và khi chúng đã bị hủy diệt thì ta đã
đến rất gần với sự giác ngộ hoàn toàn. Cho đến lúc đó, theo những lời Đức
Phật dạy rất rõ ràng này, chúng ta cần phải nỗ lực luyện tâm, vì khi nào
chúng ta còn chê trách, chúng ta sẽ không ý thức được những động cơ thật
sự của mình và không thể sửa đổi chúng.
Các động cơ này chính là hai cội rễ của tham và sân. Cả hai khởi nguồn từ
vô minh, tăm tối, từ ảo tưởng đưa ta đến việc tin rằng thật sự có ‘một ai
đó’. Nói một cách tương đối, rõ ràng là chúng ta đang ngồi đây trên gối
thiền, nhưng dựa trên chân lý tuyệt đối thì hoàn toàn khác. Khi ta còn
sống theo chân lý tương đối, khi 'tôi’ hiện hữu trong tương quan với ‘anh’,
chúng ta tự thấy mình tách biệt với tha nhân, nên muốn tự bảo vệ bằng cách
xây những bức tường quanh mình. Chúng ta dựa vào những động cơ này để làm
như vậy, và bất cứ khi nào chúng ta còn tiêu cực, thì các động cơ này càng
thêm cường độ.
Đây là lý do khiến cho việc luôn quan sát một cách chánh niệm các phản ứng
tình cảm của mình trở thành rất quan trọng - giữ chánh niệm về chúng không
ngừng, khi chúng xảy ra, ngay cả khi ta không thể buông bỏ được chúng.
Một khi ta đã nhận biết được các phản ứng này, ta cũng nhận thấy chúng gây
ra bao bồn chồn, và do đó rất độc hại cho sự an tĩnh mà ta cần có để hành
thiền. Trong đời sống hằng ngày, thật không dễ gì thấy được sự khác biệt
giữa một tâm tĩnh lặng và một tâm lăng xăng, nhưng khi hành thiền qua một
thời gian, sự khác biệt này sẽ rõ ràng hơn. Ta sẽ thấy rằng những phản ứng
của ta không chỉ gồm có chỉ trích mà thôi; gốc rễ của chúng có thể được
truy trở về từ tham ái, sân hận, và từ sự sợ hãi.
Theo Đức Phật, dục vọng của ta tăng lên khi ta thấy lỗi của người, và tự
cho phép mình có những phản ứng tiêu cực, vì điều này củng cố thêm tâm
phân biệt của chúng ta, và tâm này càng làm cho ngã tưởng thêm sâu dày.
Ngược lại, các mối liên hệ của ta với người cũng có thể giúp ta có được sự
hiểu biết sâu sắc hơn, nếu ta ý thức rằng tha nhân cũng phải tuân theo
luật vô thường, khổ đau, và bất như ý như bản thân ta. Thực ra, chúng ta
nên xem các tương quan với người như là những cơ hội để tu tập, và nếu
biết sử dụng chúng, ta sẽ được những lợi lạc từ một hệ thống giáo dục hàng
đầu. Thật vậy, chúng ta có thể xem toàn bộ cuộc đời của mình là một cơ
hội học hỏi liên tục. Tất cả các mối liên hệ có thể là phương tiện để huấn
luyện chúng ta trong tình thương yêu, bi mẫn, và là một cơ hội tuyệt hảo
để hiểu biết về bản thân.
Nếu chúng ta xua đuổi hay trách móc ai, tâm chúng ta sẽ không an. Ngay khi
ta vừa buông bỏ cái cảm giác của sự khắt khe, niềm an lạc trở lại với tâm.
Buông xả thật không dễ, nhưng có nhiều sự hiểu biết nhỏ có thể giúp ta
trên con đường tiến đến đó, ví dụ như, sự hiểu biết rằng chính ta đã tạo
ra sự bất an này, và rằng chính nó làm hại ta.
Nếu tiếp tục suy gẫm về vô thường và khổ, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu rằng cả
vũ trụ đều phải tuân theo chúng. Tất cả mọi vật đều ở trong tiến trình
phân hủy không ngừng nghỉ, hoại diệt, rồi lại tái tạo. Chính vì sự chuyển
động không ngừng của mọi vật mà không có gì có thể hoàn toàn vừa ý cả. Một
khi nhận thức được lý vô thường trong mọi vật, chúng ta sẽ không còn khổ
đau vì nó. Xét cho cùng, chúng ta chỉ là một trong cộng đồng của sáu tỉ
người, mà mỗi chúng ta ai cũng bị luật vô thường chi phối.
Chúng ta có thể áp dụng những nguyên tắc tổng quát của vô thường và khổ
cho bất cứ tình huống nào. Đây là bước kế tiếp trên con đường dẫn đến sự
tỉnh thức, và ta phải quan sát những tính chất này trong tất cả mọi vật
quanh ta. Chúng ta rồi sẽ thấy không có gì là hoàn toàn như ý, và tất cả
là vô thường. Khi quán sát như thế, không thể có ngoại lệ nào. Tất cả phải
được kể đến. Chúng ta không thể nói, ‘Tôi đã kinh qua khổ đau, nhưng người
làm tôi quá đau khổ thì chẳng ra gì.’ Thật ra, người đó cũng chiêm nghiệm
khổ đau nhiều như ta. Cứ thế dần dần, bằng cách này, chúng ta phát triển
một cảm giác là cuộc đời là một tổng thể, không chỉ gồm những hiện tượng
cá thể.
Mỗi khi chúng ta phản ứng bằng sự sợ hãi, tổng số sợ hãi trong đời sống
tăng lên. Mỗi khi chúng ta chất chứa uế nhiễm, không hằng thuận, hay trách
móc, toàn thể tổng số của uế nhiễm tăng lên. Trái lại, nếu chúng ta hiểu
vô thường và khổ, sự hiểu biết này làm tăng thêm toàn thể tổng số trí tuệ
thế gian. Nếu chúng ta thấy rõ rằng mỗi cá nhân mang một trách nhiệm cho
tổng thể, chúng ta sẽ sẵn sàng hơn để trụ ở tầng mức nơi ta không còn thấy
sự phân biệt giữa mọi vật.
Mỗi việc làm tốt góp thêm cái thiện cho cuộc đời, vì chúng ta là cuộc đời.
Cảm xúc, tư tưởng, ngôn từ, và hành động của chúng ta là yếu tố cấu tạo
nên thế giới này. Trên căn bản này, thật là thiển cận khi chỉ trích hay
phê bình, vì làm như vậy là đã quên đi những đặc tính căn bản hay ‘những
dấu hiệu’ của sự hiện hữu, đó là vô thường, vô ngã, và khổ. Chúng ta hành
thiền càng lâu, và càng thâm nhập, suy gẫm sâu xa hơn về những sự thật phổ
quát của Pháp, chúng ta càng thấy dễ chánh niệm hơn về những đặc tính này
của sự hiện hữu, và dễ áp dụng chúng vào đời sống hằng ngày.
Dựa trên chân lý tuyệt đối, không có những thực thể tách biệt, tất cả mọi
vật là do duyên khởi, nhưng trên bình diện tương đối mọi người đều mang
trách nhiệm phải phát khởi điều thiện. Sợ hãi là một đặc tính có thể truy
nguyên từ lòng tham muốn được là những cá thể với bản chất cố định, biệt
lập, và muốn có một đời sống luôn vừa ý mình. Cả hai tham muốn này đều
không thực tế: chúng ta không thể nào sống mãi trong cuộc đời này và mọi
việc không thể nào luôn luôn được như ý mình muốn, do đó sợ hãi phát sinh
từ cả hai mục tiêu đó và làm cản trở con đường của chúng ta. Sợ hãi có thể
là một cảm xúc rất mãnh liệt. Có câu nói rằng ‘sự sợ chết còn tệ hại hơn
cái chết’. Tương tự, một cảm xúc như thế làm mất khả năng duy trì sự tỉnh
thức trong ta. Hầu như mọi thiền sinh đều biết rằng sợ hãi có thể phát
sinh trong lúc đang tập trung tư tưởng, khi đột nhiên cảm nhận về bản ngã
của họ tạm thời vắng bóng.
Một khi chúng ta đã chế ngự được sự sợ hãi này, bước kế đến là ý thức rằng
chúng ta đang theo đuổi điều không tưởng. Rồi thì điều mơ ước, hay đúng ra
là sự thôi thúc, được vượt lên mức độ hiện hữu của con người phàm phu này
sẽ phát triển. Sự sợ hãi phát sinh trong tiến trình này cần được từ bỏ,
không phải chỉ một mà nhiều lần, bất cứ khi nào ta có cảm giác là bản ngã
của mình bị đe dọa. Căn bản sự sợ hãi này cũng giống như khi ta bị trách
cứ, hay bị khước từ cái bản ngã mà ta khát khao. Có nhiều tên khác nhau
cho sự sợ hãi, nhưng căn bản đó là sự sợ hãi không được hiện hữu.
Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho thói tìm lỗi của ta và tha nhân là sự
chứng nghiệm được sự thật về vô thường và khổ. Tự bảo mình: ‘Tôi không nên
tìm lỗi’, thật sự không đủ. Chúng ta có lẽ đã biết điều này lâu lắm rồi.
Điều khó khăn là chúng ta thường hay bị lôi cuốn vào những gì chúng ta nên
tránh xa. Nói đến điều này, có lẽ chỉ có thái độ dấn thân với trí tuệ,
mục tiêu chính của việc hành thiền, mới có thể giúp được ta.
Thiền được coi như là phương cách giúp chúng ta chiêm nghiệm bản thân một
cách sâu sắc hơn, và đó là lý do tại sao thiền định cần được hỗ trợ bằng
sự trầm tư, quán chiếu, để làm tăng trưởng sự tự biết mình: Chúng ta đã
nuôi dưỡng sự sợ hãi trong ta đến mức độ nào? Chúng ta sợ đánh mất mình
đến đâu? Tự soi xét như vậy đưa ta đến gần hơn với sự thật. Vấn đề quan
trọng ở đây không phải là chúng ta có thể buông xả sự sợ hãi ngay tức khắc
hay không, mà là chúng ta có thể đạt được những hiểu biết mới mẻ qua sự tự
quán chiếu.
Chúng ta có thể học nhiều điều từ lỗi lầm của người. Nhưng trên hết, chúng
ta có thể hiểu được rất nhiều về bản thân; khi được như vậy, chúng ta sẽ
cảm thấy tương quan, đoàn kết với người, như thể họ là anh chị em của mình.
Trái lại, khi nào chúng ta còn tự tách biệt và quá chú trọng đến những sự
khác biệt cá nhân, thì lòng tham, sân sẽ càng lớn mạnh thêm.
Chương 5
Hai
Loại Tài Sản
Bấy giờ Ugga, vị đại thần của vua đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Ugga, vị đại Thần của Vua,
bạch Thế Tôn.
-
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy, tài sản nhiều đến như vậy, bạch
Thế Tôn, là Migara Rohaneyyo!
-
Này Ugga, Migara Rohaneyyo giàu có đến mức nào, đại phú đến mức
nào, tài sản nhiều đến mức nào?
-
Bạch Thế Tôn, về vàng có đến trăm trăm ngàn, còn nói gì về bạc!
-
Này Ugga, đây có thể là tài sản chăng? Không phải Ta nói rằng
đây không phải là tài sản. Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua
chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch. Có bảy tài sản, này Ugga không
bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào
là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các
kẻ thừa tự, thù địch chi phối.
Tăng Chi Bộ VII.7 (4)
(Anguttara-Nikaya Vii.7)
(4) Hòa Thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 3, trang 283, NXB
Tôn Giáo 2005
Bài giảng ‘Hai Loại Tài Sản’ trích từ
Tăng Chi Bộ kinh, cái ‘Giỏ của Những Lời Phật Dạy Tiệm Tiến’ (Basket of
Gradual Sayings) hay ‘Sưu Tập của Những Bài Giảng Có Đánh Số’. Các kinh (sutta)
trong Tăng Chi Bộ được tập họp thành nhóm căn cứ theo số đề mục được nói
đến, nên trong quyển đầu tiên tất cả bài giảng nói về một vấn đề, quyển
hai hai vấn đề và liên tục như thế. Bài giảng này nói về bảy khía cạnh
của một vấn đề, đặc biệt liên hệ đến chúng ta vì nó cho ta thấy sự khác
biệt giữa đời sống thế tục và đời sống tâm linh, phân tích rõ rệt hai
chiều hướng mà ta có thể chọn lựa trong đời sống, và hai loại tài sản mà
ta có thể tích lũy. Không có nghĩa rằng ta phải coi thường một trong hai
loại tài sản này. Vì coi thường, trước hết, là một thái độ tiêu cực.
Thêm nữa, cho là cuộc sống đời thường mất hết mọi giá trị một khi chúng ta
đã bước vào con đường phát triển tâm linh là một quan niệm sai lầm vô cùng
nguy hại; chúng ta vẫn còn phải phụ thuộc vào cuộc sống để có phương tiện
tiếp tục tu tập.
Tất cả các tôn giáo đều nhắc nhở chúng
ta rằng mọi của cải vật chất mà ta có được ở trên đời sẽ mất đi, và phần
lớn chúng ta tự trong tiềm thức vẫn biết điều này, nhưng lại hay quên nó
đi khi ta bắt đầu tích lũy tài sản thế tục. Những nguy cơ mà Đức Phật nói
đến vẫn luôn ở quanh ta, tuy đôi lúc thể hiện dưới những hình thức khác
nhau: thay vì các vua chúa, chúng ta phải đóng thuế cho chính phủ, cộng
với công ăn việc làm bấp bênh, trong khi nạn trộm cắp lúc nào cũng có, và
nước, lửa, thiên tai cùng các tai ương do con người tạo ra luôn đe dọa
chúng ta.
Một trong nhiều nỗi lo sợ mà tất cả
mọi người phải đối mặt dầu nhiều hay ít là sự sợ mất mát các sở hữu vật
chất của mình. Người ta tự hỏi, ‘Điều gì sẽ xảy ra khi tôi già?’ hay ‘Tình
trạng kinh tế có vẻ ngày càng tệ hại hơn - chừng nào mới hết đây?’ Sự bất
an trong tâm do những nỗi sợ hãi này gây ra khó thể chế ngự được cho đến
khi chúng ta nhận thức được rằng tài sản nội tâm giá trị nhiều hơn bất cứ
những gì ta đang sợ mất – và rằng những lợi lạc ở bên ngoài cũng sẽ tự
động theo sau một khi ta đã có được một tài sản tâm linh. Nhưng ít người
tin điều này; họ không có sự tự tin sâu sắc mà tín tâm đòi hỏi.
Phần đông chúng ta dựa vào của cải bên
ngoài - những sở hữu vật chất như là tài sản và tiền bạc – và sự lo sợ mất
mát khiến chúng ta càng tích lũy nhiều hơn nữa. Ít khi chúng ta giới hạn
những điều mình tham cầu, hay nghĩ rằng mình đã có đủ. Giới hạn thường là
do các yếu tố bên ngoài định đoạt. Hoặc là vì chúng ta không thể kiếm thêm
được nữa hay do ta đã lực cùng sức kiệt, hay bị bế tắc vì những yếu tố
khác. Khi còn có khả năng, tư duy, vọng tưởng, chúng ta luôn nghĩ là mình
thiếu thốn. Rất hiếm khi có người được thừa hưởng một gia tài vật chất
lớn. Và ngay cả trong trường hợp này, người thừa hưởng gia tài cũng phải
cố gắng để gìn giữ các ân huệ và tài sản thừa tự được –cho nên bài pháp
cũng cảnh giác rằng người thừa tự có thể phung phí, làm tiêu tan tài sản.
Để có thể hưởng của cải một cách thích đáng cũng cần phải có sự nỗ lực.
Migāra được nhắc đến một vài lần trong
tạng kinh Pali. Ông sinh trưởng trong một gia-đình khá giả, được thừa
hưởng gia tài do ông nội, là Rohana, tích lũy được. Đức Phật không phủ
nhận đây là một gia tài. Ngài không nói, ‘Tài sản vật chất là xấu.’ Nhưng
Ngài chỉ rõ rằng tài sản ấy không bền vững và không đáng tin cậy. Nếu
người có một gia sản lớn và biết sử dụng nó một cách khôn ngoan thì tất cả
đều tốt đẹp, nhưng chúng ta biết có một tài sản dành cho chúng ta còn quý
báu hơn nhiều, mang lại hạnh phúc chân thật, không lệ thuộc vào của cải
vật chất, mà lệ thuộc vào đời sống nội tâm của ta.
Những người rất giàu có trong xã hội
thường phải sống dưới nhiều áp lực, luôn phải lo âu, phiền não trong nỗ
lực bám víu lấy tài sản, cố bảo vệ nó, do đó cuộc sống không có được chút
an lạc nào. Nhưng với người làm việc bình thường, vì quá bận rộn kiếm
tiền nên không có thì giờ và sinh lực để tích lũy tài sản tâm linh, thì
cũng không khá hơn chút nào. Sinh lực của chúng ta dĩ nhiên là bị hạn chế,
nên nếu muốn theo đuổi con đường tâm linh thì ta cần dành chỗ, tạo điều
kiện cho việc đó trong cuộc sống hằng ngày của mình. Chúng ta nên xem xét
lại các nhu cầu vật chất của mình để có thể tiết giảm bớt đi. Nhờ đó năng
lượng dành dụm được có thể sử dụng vào việc phát triển tài sản nội tại.
Từ ngữ ‘tài sản’ được sử dụng ở đây
rất thích hợp. Đời sống nội tâm của chúng ta có thể là một thế giới hỗn
loạn và là nguồn gốc của nỗi khổ niềm đau. Tuy nhiên, đời sống nội tâm
cũng có thể là một thế giới đầy cái đẹp và sự hài hòa đáng trân quý, một
hạnh phúc rạng rỡ và là một nguồn vui tràn đầy để chia sẻ với tha nhân.
Việc phát triển đời sống tâm linh cũng
cần nhiều nỗ lực và tự nguyện như là trong công việc nghề nghiệp thế sự,
và chúng ta cần duy trì sự quân bình khôn khéo cho cả hai. Dĩ nhiên, chúng
ta cần duy trì công ăn việc làm để hỗ trợ bản thân và môi trường quanh ta.
Nhưng thường các hoàn cảnh bên ngoài do chúng ta tạo dựng nên không mang
hạnh phúc đến cho đời sống nội tâm. Thực vậy, một khuynh hướng thuần vật
chất, dù thành công đến đâu đi nữa, cũng có thể là một cản trở thật sự cho
những nhu cầu sâu xa hơn của ta. Chúng ta chỉ có thể vui hưởng một đời
sống hạnh phúc nội tại khi có thể bỏ công sức quán tưởng về các kinh
nghiệm tâm linh của bản thân, và biết tạo không gian để tích lũy tài sản
tâm linh, loại tài sản thứ hai mà tựa đề của kinh nhắc đến.
Tín Tâm
Và Tự Tin
Tài sản tâm linh đầu tiên mà Đức Phật nói đến là lòng tin và tự tin (tín
tài). Đa số chúng ta cần một đối tượng cho lòng tin, và đối tượng này
thường là một hay nhiều người, có thể cũng không toàn hảo giống như ta.
Lòng tin thành hình một cách tầm thường như thế, chứ không phải đặt căn
bản trên tâm linh, thì không thể tránh khỏi thất vọng.
Chúng ta chỉ có thể tin vào những gì ta
yêu thương. Chúng ta cần một lý tưởng mà mình có thể yêu thích, nhưng cũng
phải là một lý tưởng có thể vạch rõ cho ta thấy còn có một cái gì nữa vượt
trội hơn đời sống thế tục. Tất cả chúng ta quá quen thuộc với những giá
trị nhị nguyên vốn đã có sẵn trong chốn thị trường: khi đi mua bán, chúng
ta muốn thu lại cái gì đó tương đương với số tiền đã trả ra. Nhưng vì
thái độ mà chúng ta mang đến thị trường luôn là cái tâm anh-tôi, do đó
phân chia giữa ta với người, khiến ta luôn cũng cảm thấy bị đe dọa, không
bao giờ được an toàn. Chúng ta nghĩ rằng mình có thể mua được sự an toàn,
nhưng cái cảm giác an toàn không thể mua được. Đến một mức độ nào đó,
chúng ta cần nhận thức rằng lề lối suy tư mua bán này, lề lối thường tình
của thế gian, chỉ có thể là căn bản cho sự sinh tồn tối thiểu, và chúng ta
là những con người có thể vượt lên trên mức sinh tồn này. Nếu chúng ta có
thể nhận thức được rằng trong ta đã có sẵn tiềm năng ý thức được một lý
tưởng cao cả hơn, một lý tưởng mà ta có thể yêu thương và tin tưởng, thì
ta cũng sẽ có được sự tự tin để phát triển những phẩm chất nội tâm giúp
chúng ta thể hiện được tiềm năng đó.
Tìm an lạc và hạnh phúc nội tâm trong
đời sống thế tục là điều không tưởng. Chúng ta được hòa bình khi không có
chiến tranh, và hạnh phúc khi có những sự giao tiếp thoải mái. Nhưng
bản chất của các cảm giác dễ chịu thường ngắn ngủi, và luôn cần được làm
mới lại. Ngược lại với tài sản phong phú của đời sống tâm linh, chúng ta
có thể luôn mang theo mình. Bản chất của nó là luôn luôn cống hiến một
cái gì đó cho cuộc sống của ta, bất kỳ ta là ai; và cũng không ai có một
đời sống tâm linh giống ai. Một khi chúng ta bắt đầu thấy được điều này,
tài sản tâm linh sẽ thay thế cho của cải trên thế gian, trở thành mục đích
sống của ta.
Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi ta phải
biết trân quý con đường tiến hóa tâm linh, để đặt hết lòng tin vào đó, và
để khám phá nó ngay nơi bản thân. Chúng đòi hỏi sự ý thức rằng ta có thể
hoàn toàn hiến mình cho con đường đó, hoàn toàn chuyển đổi chúng ta về
hướng đó. Dĩ nhiên, lòng tin và sự tự tin cũng là những phẩm chất nội tại
cần thiết, tương quan đến tiềm năng phát triển tâm linh của chúng ta. Vì
thế có thể ta cần phải thay đổi bất cứ những gì cần thiết để đặt giá trị
tâm linh lên trên đời sống thế tục hằng ngày, nhưng không nhất thiết là
phải bỏ việc làm hay bán nhà đi. Sự trưởng thành xảy ra bên trong ta.
Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi một sự
tự nguyện buông xả hoàn toàn. Không có sự tự nguyện này thì không thể có
thiền định; khi thiền quán chúng ta sẽ tiếp tục bám víu vào quá trình tư
duy như là một thành lũy cuối cùng hỗ trợ cho cái ngã. Tự nguyện hướng
đến một lý tưởng tâm linh, một sự thật tối thượng, để vượt qua được thân
phận con người chỉ có thể có được với lòng tin và tự tin. Trong thiền
định ta có thể dễ dàng tin cậy vào hơi thở của mình -suy cho cùng, chúng
ta đã biết nó qua bao thập niên rồi. Nhưng tại sao việc quên mình đi để
chỉ nương theo hơi thở của chính mình vẫn còn quá khó khăn? Chúng ta sợ
phải buông bỏ tư duy vì khi không tư duy, ta không ý thức được sự hiện hữu
của chính mình.
Lòng tin, và trên tất cả là lòng tin
nơi bảy tài sản, mở cánh cửa vào đời sống tâm linh, vì lòng tin cho ta
thấy một cái gì cao cả hơn. Mỗi người đều chứa kho báu này bên trong mình.
Đã bao lâu nay lòng tin ấy bị chôn vùi trong sự suy tư tiêu cực, lòng tham
và thù hận -có thể nói là một đống gạch vụn. Nhưng ta có thể thu dọn đống
gạch vụn này, mở cánh cửa này ra qua thiền định và từ đó làm hiển lộ những
lớp tư tưởng mới, trong đó có sự yêu thương biểu lộ qua lòng tin và sự tự
tin. Trong khi cả hai, khối óc và con tim đều cần thiết, nhưng lòng tin
và sự tự tin nói chung là vấn đề của con tim.
Nếu không đặt lòng tin và tự tin vào
điều gì, thì tâm ta không cảm thấy gắn bó. Chúng ta sẽ thấy mình khập
khểnh bước tới, trên một chân của tri thức, và sẽ không tiến được xa lắm.
Tri thức giúp chúng ta hiểu, nhưng chỉ có tâm mới có thể chiêm nghiệm, và
những điều Đức Phật dạy cần được chiêm nghiệm, chứ không chỉ để hiểu mà
thôi. Lòng tin gắn bó với tiềm năng của tâm, nơi các quan điểm và ý kiến
của ta không còn quan trọng nữa. Chúng ta tự tin vào một lý tưởng.
Không cần phải đặt tên cho nó, chúng ta có thể cũng không biết nó là gì,
nhưng trong thâm tâm ta biết có một cái gì đó cao hơn, một cái gì đó vượt
lên trên những vấn đề thế sự. Phần lớn chúng ta, khi quán sát nội tâm,
khám phá ra sự khát khao cho một cái gì đó không thể diễn tả được, và
trong quá trình tìm kiếm điều đó, ta thường bị sai lệch hay đi lầm hướng,
trước khi ta ý thức được rằng chỉ có thể tìm thấy điều đó trong nội tâm
mình.
Tư Cách Đạo Đức
Tư cách đạo đức (giới tài) là tài sản
thứ hai, tương quan đến ngũ giới. Các giới này tạo căn bản chủ yếu cho
một đời sống hài hòa. Nếu sống với giới luật như thế mỗi ngày, chúng ta sẽ
không gặp phải những khó khăn có thể làm lụn bại sự tu tập tâm linh của
mình.
Giới đầu tiên là không sát sinh. Điều
này bao gồm tất cả sinh linh, bất chấp lớn nhỏ. Giới này nhằm mục đích
làm giảm bớt và bứng tận gốc rễ của sân hận trong chúng ta, để dần đưa đến
sự loại trừ tất cả mọi tiêu cực đối với bất cứ điều gì. Điều này không có
nghĩa là chúng ta sẽ không phân biệt giữa tốt và xấu. Chúng ta vẫn biết
được tốt và xấu, nhưng ta hiểu rằng mình không có quyền phán đoán tha nhân.
Bổn phận của chúng ta không gì khác hơn là đạt được giải thoát bằng cách
diệt trừ mọi uế nhiễm.
Chức năng của giới này không chỉ làm
giảm bớt đi lòng sân hận trong ta, mà đồng thời còn phát triển tình yêu
thương vô điều kiện. Những ý tưởng chúng ta có về tình yêu thương luôn
gắn liền với bao phiền não –không những vì chúng ta bị ràng buộc, mà còn
vì tâm đổi chác làm điên đảo chúng; khi cho đi là chúng ta muốn nhận lại
một cái gì đó. Cách suy nghĩ này thật là lầm lạc: bản chất của tình yêu
thương là giải phóng, không phải để ràng buộc, và không chứa đựng sự sợ
hãi. Tình yêu thương chỉ có một mục đích: trao tặng, và với thời gian
chúng ta sẽ hiểu điều này, tình yêu là một phẩm chất của con tim, nó không
tùy thuộc nơi người nhận, nhưng tùy vào khả năng ban tặng bất chấp người
nhận. Từ khía cạnh của tình yêu thương, việc người này thay vì người khác
được nhận chỉ là việc ngẫu nhiên. Thật ra việc tình thương yêu có được
biết đến hay mong đợi –hay ngay cả có ai nhận nó hay không, cũng không
quan trọng lắm.
Nếu thông minh là khả năng của tri
thức, thì tình yêu thương là khả năng của con tim. Nhưng trong lúc phần
lớn các học viện đề cao sự huấn luyện tri thức, thì ta lại không có những
cơ sở giáo dục dạy về sự phát triển phẩm chất của con tim. Chúng ta mong
muốn tình yêu thương đến một cách tự nhiên. Nhưng không có gì xảy ra một
cách tự động; ngay cả những tiến trình tự nhiên như là thở cũng lệ thuộc
vào sự hỗ trợ của một số điều kiện tương ứng nào đó. Suy nghĩ rằng tình
yêu thương tự nó có thể điều chỉnh là một hư cấu của trí tưởng tượng,
không đem lại gì khác hơn là phiền não, rắc rối. Tuy nhiên, chúng ta có
thể sử dụng tình yêu thương mà chúng ta biết như là một vườn ươm hạt giống,
và cố gắng tạo ra kinh nghiệm của tình yêu vô điều kiện từ kinh nghiệm của
tình yêu có điều kiện. Làm được như vậy, chúng ta cũng huân tập để giảm
bớt tâm sân hận. Chữ ‘sân hận’ ở đây là chỉ chung cho tất cả mọi sự tiêu
cực, cùng với những lời chối lỗi, biện minh mà chúng ta dùng để bênh vực
nó.
Không nên coi gíao lý của Đức Phật như
là lý thuyết tâm lý, tâm lý liệu pháp, hay là chuyên luận về triết lý, mà
là những lời dạy thực tiễn đưa ta tới hạnh phúc và an lạc nội tâm. Ngày
nào chúng ta còn lệ thuộc nơi các điều kiện bên ngoài hay nơi người khác,
chúng ta vẫn không được tự do. Khi còn phải lệ thuộc vào những gì xảy ra
theo ý mình, chúng ta khác gì những tên nô lệ. Chúng ta chỉ có thể vượt
khỏi sự ràng buộc này khi đã thanh lọc bản thân và phát triển các tiềm
năng của tâm đến mức chúng có thể tự hỗ trợ cho nhau. Sự độc lập này là
khởi điểm của sự giải thoát, nơi ta có thể nhìn thấy được bóng dáng của
giải thoát thực sự.
Ai cũng có khả năng yêu thương, nhưng
phần lớn chỉ phát triển nó đến một mức độ giới hạn bằng việc tùy thuộc vào
đối tượng có dễ thương không, hay tình thương yêu đó có được đáp trả không.
Có người lại còn nghĩ rằng mình không có tiềm năng đó. Thật ra, ai cũng
có khả năng yêu thương, nếu họ biết cách phát triển nó. Dĩ nhiên, sẽ dễ
có cảm giác yêu thương khi đối diện với một người đẹp và đáng yêu, nhưng
cảm giác đó là cảm giác tùy thuộc, và Đức Phật dạy rằng về phương diện
này chỉ có sự độc lập mới đưa chúng ta cuối cùng ra khỏi khổ đau, khỏi
tiếc nuối.
Giới thứ hai là không lấy của không
cho. Đối nghịch với trộm cắp là tính hào phóng hay mở rộng vòng tay vị
tha mà tự nó là một trong bảy tài sản sẽ nói đến sau. Câu nói ‘ta được
nhiều khi cho hơn khi nhận,’ rất nổi tiếng nhưng thật sự mấy ai thực hành
vì tin như vậy. Ai thật sự làm theo những câu châm ngôn như thế trong đời
sống hằng ngày? Thường thì chúng ta không nghĩ đến điều này, vì biết và
thực hành là hai cực đối nghịch. Tuy chúng ta có thể có sự hiểu biết lý
thuyết, ta không biết rằng mình ít khi áp dụng nó. Kiến thức tuy hữu dụng,
và được coi như là một trong bảy tài sản -sự thực tập thật sự chỉ bắt đầu
khi chúng ta có thể biến những tài sản này thành của mình. Chúng ta phải
làm việc mỗi ngày để kiếm sống, và với đời sống tâm linh cũng phải thế.
Chúng ta cũng phải hằng ngày quán sát bản thân để khám phá ra những tài
sản nội tâm này.
Giới thứ ba là không tà dâm. Đối
nghịch với tà dâm là trung thành, có trách nhiệm, và đáng tin cậy -kể cả
trung thành với bạn bè và gia đình. Nói chung, giới này đòi hỏi ta phải
sống thế nào để không làm ai đau đớn về tinh thần, hay thể xác. Nguyên
tắc không làm khổ hại ai dựa trên nền tảng của sự vun trồng tình yêu
thương, nhưng cũng như giới thứ hai, giới này cũng nhắm vào việc giảm
thiểu tham dục –trong ý nghĩa của bất cứ những gì có liên hệ đến sự mong
cầu và tham muốn của chúng ta. Lòng tham muốn sở hữu mang đến cho ta bao
rắc rối, khó khăn, đồng thời khiến ta chìm đắm trong tâm trạng bất an.
Một khi chúng ta muốn cái gì, sẽ không bao giờ có đủ, vì chúng ta bám víu
vào nó. Chúng ta muốn tiếp tục được có nó hay có nó mãi, điều này thật là
một sự phí phạm năng lực. Dầu cùng nguy hại như nhau, lòng tham dục khó
nhận biết hơn là sân hận.
Khi chê trách, tránh né hay phản kháng
một điều gì, chúng ta có thể -nếu chú ý cẩn thận- nhận biết một cảm giác
khó chịu không thể nhầm lẫn. Tuy nhiên, tham muốn lại hứa hẹn một sự hài
lòng, vì chúng ta tưởng tượng rằng một khi mong ước của mình được thỏa mãn,
tất cả mọi thứ đều sẽ êm đẹp. Đến một lúc nào đó, chúng ta ý thức rằng
những gì chúng ta mong cầu đều không phải đúng là vật ta muốn, không phải
là điều đem đến cho ta sự thỏa mãn tuyệt đối thì lòng tham muốn của ta lại
chuyển qua đối tượng khác. Cứ như thế, chúng ta bị mắc vào cái bẫy của sự
bất an không dừng dứt, một sự lo âu liên tục không biết mình sẽ được những
gì mình muốn hay không và không biết mình có nắm giữ được nó mãi không.
Khi điều không thể tránh xảy ra và ta mất nó, cái vòng tham muốn lại tái
diễn.
Để nhận diện được mô thức này chúng ta
cần có chánh niệm ở một mức độ nào đó. Những tài sản này chỉ có thể được
nhận biết khi chúng ta chú tâm đến bản thân. Chánh niệm tuy không được
coi như một trong bảy tài sản này, nhưng nó là điều kiện tiên quyết cho
con đường tâm linh. Không có cái nhìn quán chiếu, chúng ta sẽ không thể
khám phá ra được kho báu bên trong.
Giới kế tiếp liên quan đến việc nói
sai sự thật và dùng ác ngữ. Bao gồm bất cứ loại ngôn từ nào có thể gây
não hại, chê trách điều gì một cách bất nhã, phơi bày ác ý, và cả những
lời thị phi, chuyện trò vô bổ. Đối nghịch lại là nỗ lực thanh lọc ý để có
được những lời nói chân thật, hòa nhã. Điều kiện tiên quyết để làm được
như thế là phải chánh niệm về nội dung tư tưởng của mình. Khi bắt đầu
thiền định chúng ta ý thức được ngay là tâm ta nghĩ tưởng ra bao điều
không thật có, đôi khi rất quái dị, không ích lợi và không đưa đến đâu cả
- chỉ là bao ý nghĩ, và mộng tưởng vô dụng. Nhận thức được điều này sẽ
giúp ta loại được những tư tưởng xấu trong đời sống hằng ngày dễ dàng hơn,
hay biến chúng thành những tư tưởng tốt. Nếu chúng ta muốn theo con đường
tâm linh, sự thực tập chánh niệm là điểm khởi đầu ích lợi nhất.
Lời Đức Phật dạy về 'tứ chánh cần' có
thể được nhớ đến một cách dễ dàng qua công thức xúc tích sau đây: ‘ngăn
ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ – nhưng dĩ nhiên, thực hành được chúng
lại là một điều khác. Trước hết nó nhắc nhở ta làm thế nào để không cho
các tư tưởng xấu có cơ hội phát khởi. Nếu chúng đã có mặt thì phải kiềm
chế chúng, bằng cách thay thế chúng với các tư tưởng thiện. Nếu các thiện
ý chưa phát khởi, phải tạo ra chúng. Và thứ tư, nếu các thiện ý đang có
mặt, phải duy trì chúng.
Khi bắt đầu thực hành tứ chánh cần,
chúng ta không còn buông thả tư tưởng của mình như trước. Chúng ta không
còn thật sự tin cậy những tư tưởng của mình, và chúng ta kiểm nhận cẩn
thận xem chúng là tốt hay xấu, khéo hay vụng. Điều này lúc đầu khó làm
nhưng sau một thời gian nó đến một cách tự nhiên, và nó trở nên rất rõ
ràng là ta có thể thay thế các ác ý bằng thiện ý, kết quả là tâm được tĩnh
lặng.
Các tư tưởng tiêu cực, uế nhiễm đem
lại sự bất an, nặng nề cho tâm, và nếu chúng ta muốn có một đời sống tâm
linh hài hòa, thì quan trọng là ta phải quán sát các trạng thái tâm linh
để có thể khiến chúng hiển bày, nếu không, sự hăng say của ta, ngay cả ở
mức độ tâm linh, chỉ đưa đến mộng tưởng và cao vọng. Hơn bao giờ hết, sự
thanh lọc tâm có thể giúp ta chế ngự được những bấn loạn của tâm.
Vì đối thoại là một tiến trình tức
thời, chúng ta thường không ý thức được lời nói đến từ tư tưởng, vì vậy
điều kiện tiên quyết để giúp ta giữ được giới thứ tư là sự chánh niệm quán
sát các tư tưởng và hành động thông thường của ta.
Giới thứ năm là về việc không uống
rượu và sử dụng ma túy vì chúng chỉ làm cho đầu óc ta thêm xáo trộn. Nói
rõ hơn, giới này nhắc ta thực hành chánh niệm trong đời sống hằng ngày.
Khi luôn quan sát bản thân, ta sẽ hiểu mình rõ hơn, sâu sắc hơn, rồi dần
dần ta sẽ có thể nhìn thấy được chân lý tuyệt đối của sự hiện hữu. Chúng
ta có rất nhiều ảo tưởng về ta là ai - những ý tưởng này duy trì ảo tưởng
rằng chúng ta là một ai đó đặc biệt, hư cấu rằng chúng ta luôn đổi mới do
chấp ngã. Tuy nhiên nếu quán sát sâu sắc hơn, ta sẽ nhận thức được mình
thật sự là ai.
Chánh niệm trong đời sống hằng ngày
bắt đầu với sự quan sát những chuyển động nơi thân, các cảm giác, trạng
thái, và tư tưởng. Sự chánh niệm của ta có thể dễ dàng bị xao lãng, nhưng
khi ta nhận biết được điều này thì ta có thể trở lại với chánh niệm. Vấn
đề là ta phải huân tập làm sao để cẩn trọng hơn với tâm, việc này cũng
tương tự như khi chúng ta học cách chăm sóc cơ thể của mình - ta không
muốn có tai nạn, hay chỉ trầy da thôi – do đó ta cần suy nghĩ, nói năng,
và hành động một cách thận trọng, để tâm ta không bị tổn thương.
Hành vi đạo đức là một phần rất quan
trọng và sâu xa trong gia tài nội tâm của ta. Không những chúng ta nhận
biết được các tiêu chuẩn phải theo để bảo vệ bản thân, mà sự hành trì giới
luật cũng mở ra các cơ hội để phát triển thiện xảo của hai tài sản kế tiếp,
sự biết hổ thẹn và sự sợ bị thiện tri thức khiển trách.
Hổ Thẹn
Sự hổ thẹn (tàm tài) và sợ bị thiện tri
thức quở trách được coi là những hộ vệ của cuộc đời, vì sự cảm nhận về lễ
nghi, phép tắc và sự sợ bị người tốt khiển trách không cho phép chúng ta
làm việc xấu. Nếu các lễ nghi, phép tắc căn bản không còn, như trong thời
chiến hay dưới các chế độ độc tài, thì kết quả là đạo đức bị đảo lộn, ảnh
hưởng đến tâm trí của cả một dân tộc nói chung - dầu trong những hoàn cảnh
như thế, mỗi cá nhân vẫn phải có trách nhiệm, có lương tâm đạo đức. Vậy
thì sự biết hổ thẹn là người bảo vệ cho cả cộng đồng và cá nhân không rơi
vào sự đổ vỡ đạo đức quá mức tệ hại.
Không có ai có thể sống không có sự hỗ
trợ của tha nhân. Đôi khi chúng ta cần nên hỏi: ‘Thức ăn của tôi từ đâu
đến? Ai xây lên nhà tôi? Ai làm ra áo quần tôi mặc? Thư từ đến tay tôi
bằng cách nào? Là một thành viên trong cộng động, tôi phải làm gi?’ Trả
lời những câu hỏi trên chúng ta có thể thấy không ai có thể hoàn toàn sống
một mình. Tất cả chúng ta không thở cùng một bầu không khí sao? Tất cả
chúng ta không tùy thuộc vào cùng một thế giới thiên nhiên sao?
Dĩ nhiên điều ngược lại cũng đúng.
Khi chúng ta nói rằng một người làm điều xấu là mang vết nhơ ấy vào cuộc
sống và làm ô nhiểm môi trường, chúng ta muốn nói đến sự tương quan giữa
tất cả. Chúng ta chỉ cần nhớ đến bất cứ biến cố nào đã gây thiệt hại đến
nhân mạng. Môi trường có thể bị ô nhiễm bởi tư tưởng của chỉ một người hay
một nhóm người nhưng hằng triệu người phải đau khổ gánh chịu; ví như cuộc
thế chiến vừa qua.
Tuy nhiên, sức mạnh của điều thiện
cũng mãnh liệt như việc ác, và với tàm tài (tài sản của sự biết hổ thẹn)
chúng ta có thể phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân và tạo được ảnh hưởng
chống lại cái xấu. Vì không sống cô lập nên mỗi chúng ta mang một trách
nhiệm phải nuôi dưỡng và duy trì điều thiện bằng tư tưởng và hành động.
Điều ác có thể áp đảo cuộc sống bằng nhiều cách, ở nhiều thời điểm khác
nhau, nhưng điều thiện vẫn trụ thế, nếu không chúng ta đã bị tiêu diệt từ
lâu rồi. Luôn có bao người làm điều thiện trong cuộc sống này.
Cảm nhận về nghi lễ, phép tắc bảo vệ
chúng ta và cuộc sống khỏi bao uế nhiễm. Người có phẩm cách không bao
giờ ra đường với mặt mày và áo quần dơ dáy. Nếu có, chắc chắn là họ sẽ lập
tức làm gì đó để sửa đổi - quay về rửa ráy và thay áo quần sạch sẽ. Chúng
ta cũng phải biết hổ thẹn với cái xấu, với những tư tưởng tiêu cực giống
thế và sửa đổi ngay tức khắc.
Nếu chúng ta có thể nhờ chánh niệm mà
ý thức được rằng không ai có thể sống tách biệt, thì ta sẽ dễ dàng thấy
mình có trách nhiệm với cuộc sống. Mỗi chúng ta đóng một vai trò quan
trọng trong chuổi sự kiện phức tạp quyết định cách thế giới này vận hành.
Giữ được năm giới này đương nhiên sẽ giúp chúng ta sống theo đạo đức để
không phải cảm thấy hổ thẹn hay nuối tiếc. Trái lại, chúng ta sẽ vui
sướng biết rằng mình đã làm tròn bổn phận.
Trong một bài giảng khác nói về kết
quả của đời sống đạo đức, sự không tiếc nuối được nhắc đến như là một
trong những điều kiện để đi suốt con đường tâm linh. Chúng ta sẽ không
nuối tiếc, hối hận khi đã thanh lọc tư tưởng và lời nói. Nếu cư xử không
phải đạo, hiển nhiên ta sẽ cảm thấy hối hận; không biết hỗ thẹn không phải
là cách giúp ta thoát được sự hối hận. Ngược lại, nuối tiếc chuyện quá khứ
cũng không khôn ngoan chút nào. Chúng ta phải tự nhắc nhở mình rằng người
làm điều sai bậy trong quá khứ không phải là người đang ăn năn -nếu ta đã
biết sống tỉnh thức như hiện tại, thì ta đã không làm điều sai quấy. Thay
vì than khóc chuyện đã qua, ta nên tha thứ con người quá khứ của mình mà
bắt đầu lại. Mỗi ngày là một bắt đầu mới. Làm khổ mình bằng cách tự
trách sẽ chỉ khiến ta khó bước chân lên con đường tâm linh.
Sự Sợ Bị Trách Móc
Cùng với tài sản của sự biết hổ thẹn hay của nhân phẩm là sự lo sợ bị
thiện tri thức phê phán (quí tài). Sự sợ bị trách móc là một sự sợ hãi
lành mạnh: sợ làm điều gì không đúng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì chúng
ta luôn bị lôi cuốn để cho sân hận hay ái dục phát sinh mà không kể đến
hậu quả của chúng. Khuynh hướng hay rơi vào tiêu cực này rất vi tế khiến
ta không nhận ra điều đó, mà tin rằng các chủ định của ta có thể chấp
nhận được. Do đó đi đôi với sự biết hổ thẹn là ý thức về nhu cầu hành
trì chánh niệm.
Sự sợ làm điều sai quấy cũng phát sinh
khi chúng ta ý thức được mình là đối tượng của luật nghiệp quả. Mọi người
đều biết một câu từ kinh Tân Ước: ‘Bất cứ ta gieo gì, ta sẽ gặt nấy’,
nhưng liệu ta có thật sự hiểu ý nghĩa của câu này khi thực hành? Nghiệp,
hay sự giải thích của lý nhân quả trên bình diện đạo đức là nền tảng của
Phật giáo. Sự sợ không dám làm điều ác căn cứ trên sự hiểu biết là chính
mình chứ không ai khác sẽ lãnh hậu quả. Chúng ta không nên trốn tránh sự
hổ thẹn và trách nhiệm; chúng là người bảo vệ, ngăn cản ta khỏi rơi vào
những hoàn cảnh khó khăn, phiền não trong cuộc đời.
Không có gì có thể bào chữa được cho
những hành động bất thiện. Hoàn cảnh khó khăn phải là động lực giúp ta tu
tập. Giả sử chúng ta đang tức giận ai: tâm sân hận này não hại chính ta
hơn là người bị giận – và đối với tất cả mọi ý tưởng tiêu cực khác đều
giống như thế, không kể đó là cao ngạo, ghen tị, đố kỵ, hoặc là tính hay
đổ lỗi cho người khác. Nhưng sự tiêu cực cũng có thể làm não hại người
khác nếu chính họ cũng phản ứng lại với những cảm giác tương tự; trong
trường hợp đó họ cũng tạo nghiệp xấu. Ta cũng có thể tạo ra sự tiêu cực
nơi tha nhân mà không ý thức được. Đức Phật đã nói, ‘Này các tỳ kheo, hãy
ghi nhớ lời ta, nghiệp bao gồm chủ định’, nhưng con đường tâm linh đòi hỏi
trước tiên là ta phải chịu trách nhiệm về tư tưởng, lời nói và hành động
của ta. Nếu không khóa xe, ta tạo cơ hội cho người ăn cắp, đối với đời
sống tâm linh cũng thế: chúng ta nên tránh tạo cơ hội cho người khác gây
nghiệp xấu.
Kiến Thức
Tài sản kế là kiến thức (văn tài).
Đức Phật đã để lại một di sản có thể đưa chúng ta đến an lạc và hạnh phúc
hoàn toàn, nhưng trước khi có thể khởi sự bước đi trên con đường này,
chúng ta cần hiểu thêm về nó. Chúng ta cần biết các phương pháp và giáo
lý của Đức Phật. Tiếc thay, chúng ta đã có quá nhiều dữ liệu trong đầu
đến nỗi khó mà tiếp thu thêm cái mới. Thêm nữa, chúng ta thường ngay tức
khắc so sánh các dữ liệu mới với những gì mình đã biết, xem coi chúng có
ăn khớp với nhau không. Sự so sánh và đánh giá này, dựa trên quan điểm
riêng của ta, thật sự không đưa đến đâu cả. Thay vào đó, ta nên có chút
lòng tin nơi giáo lý này, thử nghiệm nó, xem nó ảnh hưởng đến chúng ta như
thế nào. Nếu không có hiệu quả, chúng ta có thể tìm phương cách khác,
nhưng nếu chỉ so sánh trên khía cạnh thuần tri thức, theo sách vỡ thôi là
sai lầm. Sự so sánh như thế chỉ có giá trị và ích lợi khi ta đã đi trọn
vẹn con đường cho đến đích. Chỉ từ cái nhìn của sự Giác Ngộ và tỉnh thức
tột cùng con người mới có thể thấy được những con đường khác đưa đến cùng
cứu cánh. Trước khi đạt đến điểm này, sự tiếp thu các thông tin mới chỉ là
tri thức.
Kiến thức thu thập được từ giáo lý của
Đức Phật, một khi đã nhập tâm rồi, có thể đem ra thực hành ngay, nếu như
chúng ta có thể nhớ. Tâm trí ta thường quá bận rộn với thế sự nên hoàn
toàn quên việc tâm linh, thế nên chúng ta cần luyện tâm trí trong đời sống
hằng ngày. Một trí nhớ tốt rất ích lợi cho ta, nếu không, thì viết ra giấy
cũng tốt – ví dụ như, viết ra ‘ngăn ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ –
và dán lên nơi nào đó. Bất cứ khi nào nhìn thấy những chữ đó, chúng ta sẽ
được nhắc nhở để ngăn ngừa và chế ngự cái xấu, để phát triển và duy trì
điều thiện. Dĩ nhiên, lắng nghe các bài pháp thoại và ghi chú cũng tốt,
cho đến khi mọi thứ đã khắc sâu vào tâm trí để ta có thể hiểu và thực hành
giáo lý của Đức Phật một cách hiệu quả.
Bố Thí
Tài sản kế chót, bố thí (tài thí), bổ
sung cho giới thứ hai: không lấy của không cho. Bố thí –cho mà không nghĩ
đến việc nhận lại- thường được Đúc Phật đặt lên hàng đầu trong các loại
công đức. Đối nghịch với bố thí là vị kỷ hay thói coi mình là trung tâm
của vũ trụ, biểu lộ qua lòng tham muốn sở hữu cho riêng mình và tỏ ra bực
tức nếu có người muốn lấy gì của mình. Sự vị kỷ này là nguồn gốc của tất
cả mọi khổ đau của chúng ta: nếu không có cái ngã này thì có ai để khổ đau?
Do đó tất cả giáo lý của Đức Phật đều hướng về sự nhận thức được ảo tưởng
tạo ra từ sự quan trọng hóa bản ngã của mình. Bằng cách phát huy tâm bố
thí rộng rãi, chúng ta sẽ loại bỏ được lòng vị kỷ.
Sự thực tập chúng ta đang nói đến liên
quan đến nhiều thứ hơn là làm giảm thiểu những hành động đầy chấp ngã. Một
người độ lượng, rộng rãi không chờ đến lúc có người mong đợi quà tặng từ
họ, ví dụ như trong một dịp đặc biệt nào đó, hay đến khi được hỏi mới nghĩ
đến việc bố thí. Trong xã hội chúng ta, phần lớn ai cũng có nhiều hơn họ
cần, nên không khó để tìm những món vật chất để cho - nhưng cũng vì vậy
nên khó mà cho được những món quà vật chất có ý nghĩa. Trong kinh này Đức
Phật nói rằng lý do chánh đáng duy nhất để duy trì của cải là để chia phần
với người. Dĩ nhiên, còn tùy từng cá nhân làm thế nào để quản lý của cải
và muốn cho bao nhiêu, nhưng sự chia sẻ như thế phải thực sự hiệu quả:
không nên chỉ là bố thí của cải cho người nghèo. Ngay nếu như không có của
cải, chúng ta vẫn có thể chia sẻ nhiều thứ khác được: thì giờ, năng khiếu,
tình thương yêu, hạnh lắng nghe. Năng lượng của chúng ta ít ra cũng đem
lại lợi lạc cho tha nhân không kém gì tiền bạc.
Theo Đức Phật, còn có một điều đáng
quan tâm nữa: đó là sự trong sáng của người nhận làm thanh lọc vật cho. Sự
bố thí cần phải thích đáng, biểu hiện sự quan tâm đến người nhận và nhu
cầu của họ. Sự phán đoán thường dễ biến thành lòng thương hại, và lòng
thương hại, nói đúng ra, không phải là một cảm xúc tích cực hay trong sáng.
Chúng ta có thể bố thí từ lòng trắc ẩn,
lòng độ lượng, hay từ sự mong muốn tạo được nghiệp tốt, nhưng tâm bố thí
chân thật phát xuất từ sự nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều là thành
phần của cùng một thực tại, là những biểu hiện của hiện hữu. Điều này khó
ý thức được vì cái ảo tưởng rằng tất cả chúng ta đều tách biệt, nhưng
trong thực tế, không có gì tách biệt với bất cứ cái gì khác. Nói một cách
đơn giản, nếu chúng ta làm cho một người hạnh phúc, chúng ta làm tăng thêm
hạnh phúc cho cuộc đời. Tất cả chúng ta đều có khả năng -thật ra, là trách
nhiệm- ban trải hạnh phúc khắp nơi.
Hơn thế nữa, bố thí phải hoan hỷ. Có
người gây nhiều bất mãn với những hành vi, ý nghĩ, quan điểm phô trương mà
họ cố bắt người khác chấp nhận. Nhưng ta có thể giúp đỡ những người như
thế bằng cách nhắc họ rằng làm điều tốt nhất thiết phải với niềm vui. Tất
cả chúng ta đều cần được động viên để hướng đến điều thiện; vì tiếc thay,
điều này không tự động xảy ra. Mỗi người sanh ra với ba gốc rễ tốt và ba
gốc rễ xấu, tất cả đều biểu lộ bằng cách này hay cách khác, và chúng ta
luôn cần nỗ lực để tăng cường các gốc rễ tốt thay vì xấu. Gốc rễ xấu
chính là vô minh, trong ý nghĩa rằng ta bị ảo tưởng về bản ngã dẫn dắt với
niềm tin rằng ‘tôi là một ai đó’. Từ gốc rễ này phát sinh hai rễ xấu khác
là tham và sân. Ba gốc rễ tốt là khả năng được trí tuệ, tình thương yêu,
và độ lượng.
Qua sự chia sẻ tài sản vật chất bên
ngoài, chúng ta sẽ cảm nhận được tài sản nội tại của tâm bố thí. Thực vậy,
nỗ lực của chúng ta trong việc hành trì tất cả bảy loại tài sản đưa đến
nhiều kết quả tích cực đến nỗi tài sản nội tâm trở nên đáng giá hơn bất cứ
tài sản thế tục nào. Một khi đã cảm nhận được hoàn toàn giá trị của những
của cải này, chúng ta sẽ không thể nào đánh mất niềm vui nội tâm, trong
khi đó ngay cả người giàu có nhất cũng không thể kéo dài thú vui nghiền
ngẫm các sổ tài khoản của mình - vì chắc rằng người đó đang lo lắng cho sự
trồi sụt giá cả của các chứng khoán của mình. Trong khi chúng ta thì lại
có thể tích lũy tài sản nội tâm, đồng thời cũng có thể chia sẻ chúng với
tha nhân. Không ai có thể lấy mất tài sản này. Có lẽ điều tốt đẹp nhất
chúng ta có thể chia sẻ được là niềm hỷ lạc mà đời sống tâm linh mang lại,
điều này chắc chắn sẽ giúp khuyến khích người khác để họ tự tìm đến niềm
vui này.
Có thể nói rằng hạnh bố thí, đứng đầu
trên mọi đức hạnh, khai mở các cánh cửa của những đức hạnh khác. Khi thật
sự bố thí, chúng ta mở lòng với tha nhân; chúng ta không muốn gì cho bản
thân. Chính yếu ở đây là ‘buông xả’; thật vậy, buông xả là chìa khóa để
vào con đường tâm linh nói chung, và vào thiền định nói riêng. Những quan
điểm chúng ta đã tích lũy và khăng khăng bám víu vào chúng cản ngăn không
cho ta nhận thức được chân lý, và sự phát khởi lòng tham sân càng gây khó
khăn cho việc tìm ra được chân hạnh phúc luôn có mặt bên trong ta.
Trí
Tuệ
Tài sản cuối cùng trong số bảy tài sản là trí tuệ (tuệ tài), trong ý
nghĩa đối nghịch với vô minh. Trí tuệ biểu thị sự chứng nghiệm trong
hiểu biết, trí tuệ được chiêm nghiệm và cảm nhận trong tim ta. Để có thể
hiểu được những điều chiêm nghiệm, chúng ta cần có kiến thức về con
đường tâm linh và các giáo lý giảng dạy về con đường đó. Chúng ta hiểu
được rằng qua sự vun trồng chánh niệm, chúng ta có thể chứng nghiệm được
sự an lạc và thanh tịnh trong thiền định - bằng cách nhận biết được lòng
tham, sân, cùng si mê vọng tưởng bên trong ta, và cố gắng loại trừ chúng.
Vậy thì kinh nghiệm thực chứng
(understood experience) là bước đầu tiến đến trí tuệ, vì cả hai, sự chứng
nghiệm và sự hiểu biết đều cần thiết trên con đường tâm linh. Đạt được
kiến thức không khó. Chúng ta vẫn không ngừng thu thập kiến thức, từ mẫu
giáo đến đại học, để vươn lên trong đời sống thế tục, nhưng không thể vì
thế mà ta đến gần được trí tuệ hơn. Kiến thức của chúng ta về con đường
tâm linh cần được đem ra thực hành trong suy tư, thảo luận và hành động
hằng ngày. Chúng ta kinh qua và hiểu được con đường ấy nếu chúng ta tránh
được sự ghét bỏ những điều ta không thích và sự bám víu vào những gì làm
ta hài lòng. Chỉ khi đó chúng ta mới ý thức được những thói xấu của mình,
và dựa trên đó cố gắng chuyển hóa chúng để chúng không còn cản trở bước
tiến của ta nữa. Chính ngã chấp cản trở con đường tâm linh: Tôi muốn, tôi
sẽ, tôi phải, tôi có thể, tôi nên, tôi muốn vứt bỏ cái này hay cái kia.
Hãy buông bỏ quy định này để trở nên một quan sát viên trung lập của đời
sống nội tâm của mình, rồi thanh lọc những điều xấu, đó là con đường tâm
linh giúp phát huy trí tuệ.
Đọc (văn) và hiểu (tư) giúp mở các
cánh cửa tâm linh, nhưng chúng không mang lại cho ta sự chứng nghiệm.
Hiểu là một tiến trình của trí não; chứng nghiệm là tiến trình của tâm.
Nếu hai điều này không đi đôi với nhau, chúng ta chỉ mới đi được nửa đường.
Nếu cả tâm và trí đều tham dự, chúng ta
có thể phát triển một cái nhìn mới về cuộc đời và về chính mình, không còn
nhìn cuộc đời qua cái nhìn hạn hẹp của tự ngã, nhưng nhìn nó như là một
tổng thể. Thí dụ, nếu nói đến khổ đau hay dukkha, khuynh hướng tự
nhiên của chúng ta là phản kháng lại nó – và khi ta càng chống đối lại một
điều gì, ta lại càng cảm thấy đau đớn hơn. Nhưng khi ta hiểu được rằng
đau khổ là thường tình, ta sẽ không còn chống đối nó nữa. Kết quả là, khi
chúng ta phát khởi lòng bi mẫn đối với bản thân và tất cả muôn loài, chúng
ta không còn đau khổ như thế nữa.
Tiến trình này chỉ có thể được cảm
nhận qua sự thực tập hằng ngày. Nếu muốn xây dựng đời sống của mình trên
một nền tảng tâm linh thật sự, chúng ta phải hành trì chánh niệm mỗi ngày
để có thể giúp phát sinh sự ‘chứng nghiệm trong hiểu biết’. Điều này lúc
đầu có thể khó khăn, vì nó mới lạ, nhưng một khi chúng ta đã thực tập
trong một thời gian, sống chánh niệm trở thành một việc tất nhiên. Suy cho
cùng, sống chánh niệm như thế cũng giúp chúng ta tránh khỏi bao ác nghiệp.
Cuối bài kinh, câu kệ kết này tóm lược
tất cả bảy tài sản:
Bất
cứ ai sống đời đạo hạnh, với tự tin và lòng tin,
Biết sợ trách móc và có lương tri,
Tu tập tâm rộng lượng và kiến thức,
Với trí tuệ là tài sản thứ bảy –
Bất kỳ ai đã tìm được những tài sản này,
Dầu nam hay nữ,
Đều được coi như những người giàu có,
Họ không sống cuộc đời vô nghĩa.
Đó là lý do thiện hữu tri thức phải
Thực hành tự tin và trì giới,
Cũng như trí tuệ và tín tâm,
Sống chánh niệm với những lời Phật dạy.
Chương 6
Năm
Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận
Có năm phương cách để đối trị sân hận. Chúng giúp xóa tận gốc rễ của
sân hận. Đó là gì? Nếu sân nổi lên, cần làm như sau: vun trồng tâm từ,
vun trồng tâm bi, vun trồng tâm xả. . . . Đừng để ý, đừng quan tâm đến
người đó. Nếu oán ghét nổi lên, hãy nhớ đến quy luật làm chủ hành động
của mình, đó là: “Người làm hành động gì là chủ của hành động đó, sẽ
thừa hưởng hành động đó, sẽ tái sinh từ chúng, bị bó buộc vào chúng,
nương tựa nơi chúng, và những tốt, xấu người ấy đã làm sẽ là di sản của
người ấy.”
Anguttara-Nikàya
V.161
(Tăng Chi Bộ
– V.161)
Bất cứ ai đã kinh nghiệm trạng thái sân hận đều biết chúng khó
chịu thế nào. May mắn thay, Đức Phật đã dành cho chúng ta những lời hướng
dẫn rõ ràng về cách buông bỏ sân, cách sống sao để tránh sân hận, và Đức
Phật đã truyền đạt lời dạy của mình bằng những câu chuyện để giúp chúng ta
ghi nhớ những lời giáo huấn ấy.
Tất cả chúng ta đều biết tâm sân hận khó chịu thế nào, nhưng chúng ta lại
thấy khó buông bỏ chúng, do đó lời dạy thực tiễn của Đức Phật thật rất hữu
ích. Bài thuyết giảng đầu tiên, ngắn gọn về đề tài này được gọi là: “Năm
Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận”, và nó được nói như sau:
Có Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận.
Chúng giúp xóa bỏ mọi dấu vết của sân hận. Đó là gì? Nếu sân dấy khởi, đây
là điều cần làm: Hãy vun trồng tâm từ, vun trồng tâm bi, vun trồng tâm xả.
Nhưng làm sao chúng ta có thể vun trồng những tình cảm này ngay ở giây
phút ta đang cảm thấy sân hận? Nói cho cùng, từ, bi và xả là ba trong bốn
tình cảm cao thượng nhất. Tình cảm thứ tư, hoan hỷ, không được nhắc đến ở
đây có lẽ là vì hoan hỷ với người ta vừa cảm thấy sân hận là điều đòi hỏi
quá sức, nhưng nếu chúng ta không thể thực hiện bất cứ một trong ba điều
kể trên, thì còn có một cách thứ tư, đó là:
Đừng chú ý, đừng quan tâm đến người đó.
Nếu chúng ta nhận thức và chấp nhận rằng trong một số trường hợp, chúng ta
không thể kiểm soát tình cảm của mình, không thể chế ngự sân hận, rằng
chúng ta chỉ tự hại mình, thì chúng ta có thể ít nhất cố gắng không trụ
tâm nơi đó. Chúng ta có thể tránh xa người đó hoặc làm gì khác cho đến
khi cơn sân hận đã giảm xuống chút ít hay hoàn cảnh đã thay đổi đủ cho
chúng ta có thể thực hành tâm từ bi trở lại.
Vào một dịp khác Đức Phật đã cho một thí dụ như sau: “Chúng ta nhìn thấy
một người bạn ở bên đường, nhưng chúng ta không tiến bước về phía đó, bắt
tay, thăm hỏi bạn; thay vào đó, chúng ta hành động như thể ta không nhìn
thấy anh ta”. Chúng ta ở phía bên nây đường vì chúng ta biết rằng gặp mặt
người ấy chỉ khiến ta tức giận.
Phương cách thứ năm đặc biệt quan trọng:
Nếu sân hận dấy khởi, ta cần nhắc nhở tâm về điều luật mình làm chủ
hành động của mình, đó là: “Người hành động là chủ của hành động mình,
người đó phải thừa hưởng hậu quả hành động mình, người ấy sẽ sinh ra từ
các hành động của mình, người ấy bị trói buộc vào chúng, nương tựa vào
chúng, và bất cứ điều phải, điều trái nào người ấy đã làm, sẽ là điều
người ấy phải nhận lãnh”.
Làm chủ hành động của mình có nghĩa là làm chủ nghiệp của mình. Cách nhìn
về nghiệp như thế -như là một sở hữu- rất thông thường, nhưng nó có thể
cho ta một cái nhìn rất mực hữu ích. Nếu chúng ta giận dữ với ai vì họ đã
làm điều bất thiện, chúng ta cần phải tự nhủ rằng tất cả mọi người đều
lãnh nhận kết quả của sự chủ tâm của mình. Luật nhân quả áp dụng cho tất
cả mọi thứ trong vũ trụ cũng như cho mỗi cá nhân. Những hành động có chủ
tâm sẽ mang đến hậu quả mà ta không thể nào tránh né. Tuy nhiên hai người
cùng thực hiện một hành động giống nhau có thể nhận lãnh những hậu quả
khác nhau.
Đức Phật đã giải thích sự việc này bằng một thí dụ: “Nếu bạn bỏ một thìa
muối vào một ly nước, nước đó sẽ không còn uống được. Tuy nhiên nếu bạn
vãi muỗng muối đó xuống sông Hằng, thì nước sông này không thay đổi chút
nào”. Ly nước đem so sánh với sông -tượng trưng cho sự tích luỹ ít ỏi của
các việc thiện: nếu chúng ta tạo thêm một bất thiện nào trên chỉ một ly
đầy các việc thiện, chúng ta có thể biết là hậu quả sẽ nghiêm trọng thế
nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta có cả một con sông đầy các thiện nghiệp ở
phía sau, thì chỉ một hành động bất thiện có thể không gây thiệt hại gì.
Vì chúng ta không biết người khác đã làm gì, nghĩ gì trong quá khứ, dầu
trong kiếp này hay trong các kiếp quá khứ, không có cách gì ta có thể đoán
biết được nghiệp quả của người khác. Tuy nhiên, ta biết qua những gì ta có
thể nhìn thấy nơi chính bản thân, là tất cả mọi người đều hái quả của các
hành động của họ.
Nếu ai đã hành động không khéo léo khiến chúng ta do đó bị thiệt hại, hay
tổn thương, chúng ta có thể dễ dàng trở nên sân hận. Điều quan trọng là ở
ngay giây phút đó, ta có thể nhớ rằng tất cả mọi người có cách sống riêng
ở đời, tạo nên những tập quán nhân quả của riêng họ. Chúng ta như thế nào
trong hiện tại hầu hết là do kết quả của các hành động có chủ tâm của ta.
Nếu không chú tâm tìm hiểu giáo pháp của Đức Phật -nhiều người không có
hứng thú gì trong việc này- thì sẽ không có ai đọc quyển sách này. Vì thế
có đủ lòng ưa thích để đọc, để lắng nghe Pháp là một cách để tạo nghiệp
lành- nếu với chủ tâm tốt, vì ta cũng có thể tạo ra nghiệp xấu khi làm
việc gì đó bên ngoài có vẻ là thiện. Vấn đề này khá phức tạp, tuy nhiên,
nếu ta có thể tự nhắc nhở mình về luật nhân quả, có thể sẽ giúp ta dễ
buông bỏ sân hận hơn. Đó là năm phương cách để diệt bỏ các sân hận mà ta
được biết đến.
Trong một số trường hợp Đức Phật khuyên ta nên xa lánh những hoàn cảnh có
thể gây khó chịu cho ta. Chúng ta nên tránh những sự gặp gỡ khiến ta nổi
sân, nhất là khi tình cảm ta không được quân bình và dễ kích động -cũng
như ta nên bảo vệ mình khỏi người xấu, lũ voi hoang dại, rừng rậm và những
thứ nguy hiểm khác. Dầu ta không nên chạy trốn những hoàn cảnh khó xử,
việc thú nhận rằng ta không thể đối mặt với mọi hoàn cảnh, là điều hoàn
toàn có thể chấp nhận được. Chúng ta cần phải cố gắng hết sức mình để hành
xử trong mọi hoàn cảnh với tâm từ bi, nhưng cũng phải chấp nhận rằng đôi
khi ta phải bó tay, không thể thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Xả được coi là tình cảm cao thượng nhất, và không nên nhầm lẫn nó với thái
độ dửng dưng. Xả không chỉ hàm chứa lòng từ bi -điều mà dửng dưng không
có- mà nó còn phát khởi từ tri kiến về vô thường, về thực chất là mọi
chuyện của ngày hôm nay sẽ khác đi ở ngày mai. Bên trong ta hay bên ngoài,
tất cả mọi thứ đều luôn thay đổi; ngay chính niềm tin và quan điểm của ta
hôm nay cũng sẽ hơi khác đi ngày mai, và bất cứ cố gắng nào để ngăn cản
quá trình này cũng đưa đến khổ đau. Xả có nghĩa là chấp nhận mọi thứ như
chúng là, như thế đối với người nguyện tiến bước trên con đường tâm linh,
điều ấy có nghĩa là không tạo ra xung đột bằng cách xen vào việc của người.
Xả hàm chứa một sự chấp nhận và bằng lòng êm ái. Như thế ta có thể làm gì
với sự phiền não này? Điều cần lưu ý trước tiên là phải chắc chắn rằng ta
không làm điều gì để tạo thêm khổ đau, rồi thì xem xét mỗi hoàn cảnh với
sự cảm thông, và sửa đổi những gì có thể. Nếu chúng ta có thể sửa đổi
những điều kiện bên ngoài mà không đánh mất sự bình an nội tâm, thì càng
tốt, nhưng nói chung, chúng ta chỉ có thể có những sửa đổi sâu xa nơi bản
thân, và điều đó cũng đủ khó rồi.
Đoạn kế tiếp trong kinh là những lời giảng giải dài hơn về cùng một chủ đề
của Ngài Xá Lợi Phất, người là “cánh tay mặt” của Đức Phật. Ngài Xá Lợi
Phất nổi tiếng thông thái, trí tuệ và thường diễn giải các bài kinh của
Đức Phật. Khi được hỏi rằng những lời dạy của ngài Xá Lợi Phất có đúng
không, Đức Phật luôn đáp đúng.
Ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: “Có năm cách để đối trị sân hận, qua những
phương cách này ta sẽ có thể đối trị được sân hận. Năm cách đó là gì? Nếu
một người không trong sạch trong hành động, nhưng lời nói trong sạch, thì
sân hận đối với người đó cần được chế ngự. Nếu một người có lời tà ngữ,
nhưng trong sạch trong hành động, thì sân hận đối với người đó cần được
chế ngự. Thêm nữa, nếu có người hành động lẫn lời nói đều không trong sạch
nhưng đôi khi họ cũng có lòng tin, thì sân hận đối với người đó cần được
chế ngự. Lại nữa, nếu có người hành động lẫn lời nói đều không trong sạch,
mà lúc này lúc khác cũng không có lòng tin, thì sân hận đối với người đó
cũng cần được chế ngự. Lại nữa, nếu có người lời nói lẫn hành động đều
trong sạch, và lại lúc này hay lúc khác mở lòng đón nhận niềm tin, thì sân
hận đối với người đó cần được chế ngự”.
Như vậy ngài Xá Lợi Phất đã kể ra năm loại người khác nhau – và tiếp tục
trình bày, bằng những ẩn dụ ngắn, cách làm sao để đối phó với từng người,
kiềm chế được sân hận đối với họ. Lời nói của chúng ta có thể tốt lành
nhưng ta lại hành động xấu xa, hay những lời chúng ta nói có thể không
được khéo léo nhưng ta có hành động thiện. Giả thuyết thứ ba là cả hành
động và lời nói có thể đáng trách, nhưng tâm cởi mở. Trường hợp thứ tư, kể
cả tâm cũng đóng chặt, cứng nhắc. Cuối cùng là, lời nói và hành động đều
đáng biểu dương, cùng với một trái tim cởi mở.
Chúng ta làm thế nào để chế ngự sân hận đối với loại người thứ nhất?
Giống như một vị sa môn mặc y phấn tảo, gặp giẻ rách nằm trên đường, vị ấy
với chân trái giữ tấm vải, chân mặt kéo thẳng ra, rồi xé lấy phần vải còn
nguyên vẹn, để mang theo, cũng thế với người có hành động không trong sạch,
nhưng lời nói trong sạch, tâm ta lúc ấy nên nghĩ tới lời nói thanh cao hơn
là việc làm uế nhiễm của người ấy. Bằng cách đó lòng sân hận đối với người
ấy sẽ được chế ngự.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, tất cả vải vóc đều dệt bằng tay, rất đắt
tiền, nên chư tăng ni thường mặc những y bằng vải chấp vá. Nếu họ tìm thấy
những mảnh vải trên đường hay giữa các đống rác, họ có thể nhặt về để may
lại với nhau. Trong câu chuyện thí dụ này, một vi sa môn tìm thấy mảnh vải
rách, ông xé lấy phần còn sử dụng được, và bỏ lại các phần khác. Đó là
cách ta nên ứng dụng khi nghĩ đến người có hành động bất thiện, nhưng lời
nói thiện: chúng ta nên bỏ qua những hành động xấu mà chỉ nghĩ đến lời nói
của họ. Nói vậy không có nghĩa là ta sẽ ngó lơ những hành động bất thiện
họ đã làm; ta vẫn nhìn ra nhưng không phán xét họ, vì kết án hay buộc tội
đều dẫn đến sân hận. Rất ít có gì hoàn hảo trên thế gian, nên trên lý
thuyết ta có thể bực bội từ sáng đến tối. Nhưng nếu ta chỉ chủ tâm đến
những tánh tốt của người mà ta thấy giận ghét (không phải là không có lý
do), thì ta có thể chế ngự cơn giận của mình. Có thể họ có rất nhiều điều
xấu, mà chỉ có ti li điều tốt, nhưng ta vẫn nên hướng chủ tâm đến điều tốt
của họ.
Làm vậy, chính chúng ta mới là người được nhiều lợi ích hơn cả, vì có thể
người kia không hề biết đến sự bất mãn của ta. Ngay nếu như chúng ta có
nói điều đó ra, họ khó có thể chấp nhận ý kiến của ta. Có lẽ tốt nhất là
nhắc nhở rằng họ đã làm điều gì đó không tốt, nhưng sẽ hoàn toàn không ích
lợi gì nếu ta giận dữ nói cho họ biết là ta cảm thấy oán trách họ. Phương
cách để chế ngự sân hận, và trở về với nội tâm tĩnh lặng của mình, là hãy
nghĩ đến những điều tốt của người. Những xáo trộn nội tâm chỉ làm cho cuộc
đời thêm khó sống.
Ngài Xá Lợi Phất sau đó lại cho một thí dụ khác:
Giả dụ như có một mặt hồ bị bao phủ bởi những rong rêu, một người đang
nóng bức, chảy mồ hôi, mệt nhoài, khát nước, nghĩa là đang chịu khổ, tiến
gần đến hồ, leo xuống hồ, gạt bỏ lớp rong rêu ở nhiều chỗ với cả hai tay,
vốc nước lên tay uống, rồi tiếp tục cuộc hành trình. Cũng bằng cách đó đối
với người có lời nói không trong sạch, nhưng hành động tốt, ta phải chú
tâm không phải vào lời nói ô uế mà vào hành động thanh cao của người ấy.
Do đó ta có thể chế ngự sân hận đối với người đó.
Vậy là ta thấy một người đang đi trong
cái nắng cao độ, mệt lả, khát nước. Vì rong rêu bao phủ mặt nước, anh ta
không thể giải cơn khát của mình ngay lập tức. Nhưng anh ta đã biết nghĩ
để đẩy lớp rong rêu qua một bên, uống nước và được hồi sức. Tương tự,
chúng ta có thể để qua một bên những lời nói không tốt đẹp của một người
mà chỉ nghĩ đến những hành động trong sạch, tốt đẹp của họ. Hãy nhớ đến,
thí dụ như, những trường hợp khi họ đã giúp đỡ người khác, hay nghĩ đến
những đặc tính của họ, và để qua một bên những điều họ khiến ta bực bội
trong giai đoạn này.
Những thí dụ như thế tạo thành những
phương tiện hỗ trợ mạnh mẽ, dễ nhớ cho việc thực hành này. Chúng ta chỉ
cần tưởng tượng ra những mảnh giẻ rách nằm đó, sờn rách, nhưng có thể tái
sử dụng được. Hay hình ảnh những rong rêu được gạt sang một bên để phơi
bày nguồn nước sạch trong, tươi mát. Sau đây là câu chuyện ví dụ thứ ba:
Giả dụ trong lỗ chân trâu có một ít nước, và có một người đang bị sức nóng
chế ngự, sướt mồ hôi, mệt nhoài, khát, do đó đang rất khốn khổ, đi ngang
qua và nhìn thấy nước. Anh ta nghĩ, “Nếu ta vớt chút nước ít oi đọng lại
trong lỗ chân trâu bằng hai tay hay với một vật chứa nào, ta sẽ khuấy động
nước khiến không uống được nữa. Do đó, tôi thà là phải quỳ xuống giống như
con bò trên bốn chân để hớp được ngụm nước, rồi tiếp tục cuộc hành trình”.
Và đó là điều anh ta đã làm. Cũng thế, với những ai có lời nói và hành
động không thanh tịnh, nhưng tâm họ đôi khi cũng mở rộng tiếp nhận niềm
tin, thì ta không nên để tâm đến hành động và lời nói uế nhiễm của họ lúc
ấy. Thay vào đó, ta nên quán chiếu rằng tâm người đó đôi khi cũng rộng mở,
cũng có niềm tin. Do đó ta nên chế ngự sân hận đối với một người như thế.
Nếu người lữ hành này vục tay hay dùng đồ múc vào nước, thì nước sẽ
bị vẩn bùn, không uống được. Cũng thế, nếu chúng ta chỉ nghĩ đến những
điều tồi tệ nhất của một ai đó, nghĩ đến những lời nói khó nghe của họ và
phản ứng: chúng ta sẽ bị “khuấy động”. Khi tình cảm khó chịu này càng tăng
lên, chúng ta sẽ không còn thấy an nhiên. Điều quan trọng trong câu
chuyện thí dụ là người lữ hành đã quỳ gối xuống để uống nước, vì nói một
cách bóng bẩy, chúng ta cũng phải quỳ gối xuống, và hiểu với tất cả lòng
khiêm hạ rằng chúng ta chỉ có thể tìm được sự bình an ở nội tâm khi chúng
ta biết chấp nhận những hành động, lời nói không thanh tịnh của người.
Ví
dụ này có lẽ dễ nhớ, vì uống từ nước đọng trong dấu chân trâu không phải
là một điều tốt đẹp để tưởng nghĩ đến. Những nếu chúng ta đang khát lả -ý
chỉ nỗi bất an trong tâm do sân hận mang đến- chúng ta sẽ chấp nhận uống
bất cứ thứ nước nào có thể tìm thấy. Chúng ta chịu đựng những uế nhiễm của
người, chúng ta tránh khuấy động chúng lên, kết quả là ta có thể giữ được
sự bình an trong nội tâm mình. Người lữ hành trong câu chuyện thí dụ được
uống chút gì đó, và chúng ta thì cũng có thể tìm được điều gì đó để làm
dịu bớt căng thẳng trong sự liên hệ giữa ta với người mà hành động và lời
nói quá uế nhiễm. Chúng ta tự nhắc nhở mình rằng họ cũng có tấm lòng đôi
khi cũng rộng mở để đón nhận niềm tin. Hơn thế nữa, kể cả khi ta nghĩ đến
hành động và lời nói của họ, ta cũng có thể nhớ lại rằng một con người như
vậy cũng có điểm tốt nơi họ. Nhìn được họ như thế, chúng ta có thể có sự
chấp nhận và giảm bớt sự nóng nảy, sôi sục trong ta.
Đây là câu chuyện thứ tư:
Hãy tưởng tượng ra một người, bịnh
nặng, đau đớn, đang bước đi trên đường. Anh ta đang ở một nơi cách xa các
làng mạc ,không thể tìm được đồ ăn hoặc thuốc men, hay ai đó để trông
nom, chỉ dẫn giùm anh ta. Nhưng rồi cũng có người nhìn thấy anh ta, cảm
thấy thương xót, phát khởi tâm thiện với ý nghĩ, “Mong rằng người đàn ông
đó tìm được thức ăn, thuốc men thích hợp, một ai đó để chăm sóc cho anh,
dẫn đường cho anh, nếu không anh ta khó thoát chết!” Cũng thế, đối với
một người mà hành động, lời nói đều không trong sạch, và cũng chưa từng mở
lòng đón nhận niềm tin, chúng ta cần phải có lòng từ bi, thương xót, thiện
ý, với tư tưởng, “Mong rằng con người cao quý này có thể từ bỏ những tánh
xấu trong ý nghĩ, hành động, lời nói, và mong rằng anh ta có thể thực hành
những ý nghĩ, lời nói, hành động thanh cao; mong anh ta, khi thân đã hoại
sau khi chết, không phải đọa vào thế giới hạ tiện, đi trên con đường đau
khổ". Bằng cách đó, chúng ta có thể chế ngự được sân hận đối với một
người như thế.
Thí dụ này trình bày cho ta thấy những
liên hệ nghiệp quả, người ta sẽ phải đối mặt với hậu quả của các hành động
của mình ra sao, do đó chúng ta có thể phát khởi lòng thương xót cho họ
như thế nào. Nếu nói hay hành động hay có những ý nghĩ bất thiện, chúng ta
thật sự đang bị tham sân hành hạ, như thể đang bị bịnh hành khổ. Chúng ta
nói, hoặc hành động do sân hận, hay hành động hoặc lời nói của ta phát
xuất từ lòng tham. Tất cả chúng sanh đều khổ đau như thế do sự độc hại của
vọng tưởng, mà như Đức Phật đã giải thích, là do sự độc hại tiềm ẩn của
tham và sân. Tất cả đều tạo cho ta bất an, và bao điên đảo trên thế giới:
trong gia đình, trong thương trường và giữa các quốc gia.
Nếu tham sân có thể được coi như một
dịch bịnh, thì Đức Phật có thể được xem như một vị đại dược sư, và Pháp,
giáo lý của Ngài, là thuốc chữa. Thuốc chữa bịnh có thể không dễ uống,
nhưng chắc chắn là ta sẽ được chữa lành. Câu chuyện ẩn dụ của người bịnh
không tìm được sự giúp đỡ, do đó thật đúng và dễ nhớ. Chúng ta đã gặp rất
nhiều người đau khổ vì những hành động bất thiện, những lời nói không
thanh tịnh, và sự thiếu lòng tin của họ, và phản ứng hợp lý duy nhất của
ta là đối xử với họ bằng lòng thương cảm, với hy vọng rằng họ sẽ chóng
khỏi bịnh, tìm được sự bình an nội tâm, do đó chấm dứt việc phải gặt hái
những hậu quả đớn đau của họ. Chúng ta thường mong mọi người thân được sức
khỏe, thì không khó khăn gì để chúc họ một loại sức khỏe tốt khác: không
bị tham sân chế ngự. Cách nhìn sự vật như thế có thể mang nhiều lợi ích
cho sự tu tập của ta.
Thí dụ thứ năm và cũng là cuối cùng
tươi sáng hơn:
Giả dụ có một hồ nước trong, sạch sẽ, mát mẻ, ở một vị trí rất đẹp,
một nơi chốn đặc biệt, dưới bóng những rặng cây xanh. Và hãy tưởng tượng
có người đi ngang qua đấy mệt lả vì nóng, mồ hôi tuôn tràn, khát lả, nghĩa
là đang rất khốn khổ. Anh ta bước xuống hồ, tắm mát, uống nước hồ đó. Rồi
leo trở ra ngoài, ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng thế, với người mà hành
động, lời nói thanh tịnh, và lòng luôn cởi mở, đầy lòng tin, chúng ta lúc
đó phải chú tâm, quán chiếu về sự thanh tịnh trong lời nói và hành động,
cũng như tấm lòng cởi mở, có tín tâm của người ấy. Do đó ta có thể chế ngự
sân hận đối với một người như thế.
Người mà hành động, lời nói thanh tịnh
và tâm thường cởi mở được so sánh với một hồ nước tuyệt vời với nước trong
lành, mát mẻ. Ngay nếu như ta có thể bị tổn thương bằng cách nào đó bởi
một người như thế, ta có thể chế ngự bất cứ sự phát khởi nào của sân hận
bằng cách nhận ra rằng họ là nguồn phước báu cho chúng ta và cho bao người
khác, và rằng không có cơ sở nào để ta gán ép tình cảm sân hận đối với họ,
vì cách cư xử của họ trong đời quá đỗi thanh tịnh, đời sống tình cảm của
họ thì tràn đầy tình thương, bi mẫn. Bài kinh kết thúc với câu kinh sau
đây:
Tâm ta có thể tìm được sự bình an ở
người mà trong mọi hoàn cảnh đều phát khởi tín tâm và sự tự tin.
(Anguttara-Nikaya v. 162 –
Tăng Chi Bộ số 162)
Chúng ta có thể tăng trưởng thêm sự an bình nội tại gấp bội bằng cách
thường xuyên tiếp xúc với người mà ta hoàn toàn tin tưởng. Đức Phật thường
nhấn mạnh với chúng ta điều quan trọng là phải giữ bạn hiền, tìm kiếm
thiện hữu tri thức: những người sống đời thanh cao, đi theo con đường đạo,
và có thể giúp ta làm giống như họ. Một người như thế sẽ nhìn cuộc đời
rất khác với kẻ chỉ thích vật dục, và người ấy có thể giúp ta làm được như
thế. Tuy nhiên, ta cần phải duy trì lòng tin vào một người bạn như thế.
Nếu lòng tin của ta đối với họ bị lung lay, chúng ta sẽ không tìm được sự
bình an cho đến khi ta có thể thiết lập lại được niềm tin đó. Nếu không,
có thể ta cần phải buông bỏ tình bạn đó.
Sân và tâm luyến ái muốn được thương
yêu là hai mặt của một đồng tiền. Trong mỗi hoàn cảnh chúng ta đều có cùng
một trở ngại tiềm ẩn. Nếu có ai đó xúc phạm đến ta, đó có thể là biểu hiện
của việc họ thiếu sót tình thương đối với ta, những cũng có thể là do họ
không được khoẻ, hay có thể chỉ là họ không biết phải giao tiếp với người
khác như thế nào. Tuy nhiên, đối với chúng ta, hành vi của họ có thể được
coi là một sự chống đối. Nếu ta muốn được thương yêu, nhưng không được như
thế, ta sẽ cảm thấy buồn, rồi đưa đến sân hận. Tình thương có thể là thuốc
chữa cho tất cả mọi người, giúp cho thân tâm của họ được tốt hơn -nhưng
đây không phải là loại tình yêu đòi hỏi điều kiện, cũng như tùy thuộc vào
ta có thể tìm được người nào đáng yêu không. Nói cho cùng thì chỉ có bậc
Giác ngộ mới hoàn toàn đáng yêu. Ta hướng tâm mình đến tình thương yêu, và
khi tình thương yêu đó đã trở thành một đặc tính của tâm thì sẽ không còn
là vấn đề nếu đối tượng có đáp trả lại tình thương của ta không. Dẫu cho
người kia có thương yêu hay không thể thương yêu, không ảnh hưởng gì đến
ta cả. Ước muốn được yêu thương chỉ là một khía cạnh khác của ngã chấp.
Nếu chúng ta không chắc rằng mình có đáng yêu hay không, và ta chọn để
người khác quyết định điều đó cho ta, chắc là ta sẽ thất vọng, vì tất cả
mọi người thường hay thay đổi ý kiến, cũng như chúng ta.
Trước hết ta phải xác định với chính
mình là chúng ta thực sự đáng yêu, và với ý nghĩ này trong tâm ta nhận
thức rằng mọi người cũng đáng yêu như thế. Dầu ta đều có những lỗi lầm như
mọi người khác, chúng ta vẫn xứng đáng được thương yêu. Như thế ta cũng
phải nhận thức rằng ta không cần phải đi tìm ai đó để yêu thương ta, vì
cội nguồn thực sự của tình thương yêu đã được tìm thấy ở trong tim ta. Do
đó sẽ không cần phải sân hận hay buồn khổ nếu có ai đó không màng đến ta.
Vì họ chưa hoàn toàn có khả năng yêu thương, ta nên thương cảm cho họ.
Do đó khi đoạn diệt sân hận, chúng ta
cũng cần buông bỏ việc tìm kiếm tình thương yêu từ người khác. Như thế là
tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết, vì sân hận không thể phát khởi từ
trái tim tràn đầy tình thương yêu. Nhưng tình cảm thì luôn thay đổi, và
trái tim mấy ai luôn bền vững, nên việc chế ngự sự không bền vững này là
một trong những khía cạnh quan trọng trên con đường thực hành tâm linh của
ta. Nếu chúng ta có thể thành công, thoát khỏi quyền lực tình cảm của kẻ
khác, khỏi những điều kiện bên ngoài nói chung, bằng cách vun trồng sức
mạnh nội lực của tình thương yêu để nó không còn phải khuất phục trước
những quyền lực này, thì chúng ta mới thực sự thực hành tâm linh. Dầu
chúng ta có đến được cuối con đường thực hành này hay không, không phải là
vấn đề; chúng ta chỉ cần tiếp tục đi theo con đường thanh tịnh hoá đó.
Chương 7
Chúng Ta Phải Tin Vào Gì?
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đi du hành qua Kosala cùng với đại
chúng Tỷ-kheo, đến Kesaputta, thị trấn của các người Kàlàmà. Bấy giờ,
người Kàlàmà ở Kesaputta nghe tin rằng: Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh,
Thích tử, Phật, người đã rời bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã đến
Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau về Sa-môn Gotama được lan truyền
rộng rãi:
‘Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư
thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài
đã giảng Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài
đã giảng về đời sống phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn
thanh cao.
Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy.”
Anguttara-Nikaya
iii.65
Tăng
Chi Bộ - Kinh Kalama iii.65 (5)
(5)
Hòa Thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 1, trang 337,
NXB Tôn Giáo 2005
Kinh Kalama là một trong những bài kinh nổi tiếng nhất của Đức Phật,
và kinh này đặc biệt quan trọng đối với những ai muốn đi theo con đường
tâm linh, nhưng phải đối mặt với một số lượng lớn những giáo pháp trước
mắt -không biết phải đi theo con đường nào. Bộ tộc Kalama là một trong
nhiều bộ tộc ở Ấn Độ vào thời Đức Phật còn tại thế. Đức Phật đã hướng dẫn
cho họ cách tìm ra lời giải cho câu hỏi trên.
Kinh bắt đầu bằng câu "Như vầy tôi nghe,' xác định là bản kinh đã
được đọc lại sau khi Đức Phật nhập diệt bởi tôn giả Ananda, là em bà con
đồng thời cũng là thị giả của Đức Phật suốt hai mươi năm.
“Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn du hành qua Kosala cùng với
đại chúng tỳ kheo, đi đến Kesaputta, thị trấn của các người Kalama. Bấy
giờ các vị Kalama ở Kesaputta nghe tin rằng Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh,
Thích tử, Phật, đã từ bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã đến Kesaputta.
Và những lời tốt đẹp như sau về Đức Thế Tôn được lan truyền rộng rãi:
‘Ngài là Đức Thế Tôn, bậc Ứng cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư
Thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân. Ngài
đã giảng Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối. Bằng
lời nói và trí tuệ, Ngài đã giảng về đời sống phạm hạnh hoàn toàn tinh
khiết. Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị Ứng cúng như vậy’.
Vì
thế người Kalama của Kesaputta đi đến nơi Đức Phật đang trú ngụ. Có người
cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi xuống một bên; có người chào Đức Thế
Tôn rồi ngồi xuống; người khác chấp hai tay lại vái Đức Thế Tôn; người lại
xướng tên họ gia tộc mình; người khác nữa chỉ ngồi xuống mà không nói gì”.
Theo đoạn kinh này rõ ràng người Kalama không phải là đệ tử của Đức Phật.
Họ biết điều quan trọng là đi đến gặp Đức Phật, nhưng không phải tất cả
đều thấy việc phải nghe Đức Phật là điều quan trọng. Họ đơn giản là muốn
tìm hiểu các giáo lý, và danh tiếng của Đức Phật –đã đến tai họ trước khi
Ngài đến- rằng Ngài rất khéo giảng dạy giáo thuyết về sự thanh tịnh bản
thân. Mọi người chào hỏi Đức Phật theo cách mà họ cho là đúng. Ta có thể
hình dung ra được khung cảnh ấy có lẽ hơi lộn xộn một chút, với hàng trăm
người đến, đảnh lễ, cung kính thưa hỏi, thông báo tính danh, hay chỉ tìm
một chỗ để ngồi xuống. Giá mà tất cả đều là đệ tử Đức Phật thì khung cảnh
có lẽ sẽ trật tự, yên tĩnh hơn: mọi người có lẽ sẽ chỉ vái chào rồi ngồi
xuống – nhưng đó rõ ràng không phải là trường hợp như thế ở đây. Ở đây
thính giả là những người đang trên cuộc hành trình tìm đến tâm linh, những
người đã từng nghe được những điều tốt lành về thái tử Siddhattha Gotama
của dòng họ Thích Ca, hay Đức Phật như ngài đã trở thành.
Sau khi đã ngồi xuống như thế, người Kalama ở thành
Kesapputta bạch cùng Đức Thế Tôn.
Có lẽ là vị trưởng lão trong thành đã đứng lên trình bày vấn đề mà hình
như là của tất cả đám đông:
‘Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến
Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng quan
điểm của người khác, họ bài xích, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế
Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn [đẳng cấp giáo sĩ – không phải tất
cả bà-la-môn đều là giáo sĩ, nhưng tất cả giáo sĩ đều là bà-la-môn]
khác đến Kesaputta, cũng làm như thế: Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan
điểm của mình, nhưng quan điểm của người khác, họ bài xích khinh miệt, chê
bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân
vân trong những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, ai là người đã nói lên sự thật
và ai đã gian dối.’
Dĩ nhiên đó là điều khiến cho bài kinh này trở nên khá phổ biến: bất cứ
người có chút thông minh nào ngày nay cũng đã trải qua kinh nghiệm này.
Từ mỗi và mọi phía, ta sẽ được nghe những điều khác nhau, và có quá nhiều
kẻ nói lên quan điểm, lập trường của họ với ta, với đầy vẻ thuyết phục như
nhau. Do đó, ở đây, người Kalama cũng đã nhận xét thấy là các vị diễn giả
này tung hô những ý kiến của họ, không kể gì đến người khác, miệt thị quan
điểm của người khác, và tuyên bố rằng chỉ có ý kiến của họ là có giá trị
nhất. Kết quả là người Kalama đã trở nên rất nghi ngờ, phân vân không
biết phải tin vào đâu. Đây là câu trả lời của Đức Phật:
‘Đúng thế, các vị Kalama, các vị đáng phải nghi ngờ, các
vị đáng phân vân. Đối với việc người ta không thể chắc chắn, thì phải
phát sinh nghi hoặc trong lòng’.
Đức Phật đồng ý; Ngài đã hiểu vì sao họ phải nghi ngờ trước bao nhiêu quan
điểm khác nhau, nhất là khi có nhiều vị giáo sĩ đã lăng mạ, sỉ vả lẫn nhau.
Vì lẽ đó, Ngài đã đưa ra mười nguyên tắc, mà giờ chúng ta đều được biết.
Không cần phải nói, những nguyên tắc này cũng dành cho cả chúng ta. Thật
thú vị khi Đức Phật khuyên rằng, chính bản thân Đức Phật, và những lời dạy
của Ngài, cũng phải được phán xét bởi các nguyên tắc ấy. Sau đó, Đức Phật
cũng đưa ra những quy luật tương ứng theo đó người ta có thể tìm được
những phương hướng đích thực của mình, nhưng để bắt đầu Ngài đã liệt kê
những tiêu chuẩn được coi như không chính đáng, không đầy đủ.
‘Chớ có tin bởi những lời đồn đãi, . . . hay bởi người ta
nói với bạn, . . . hay bởi truyền thống, . . . ‘
Do đó đừng tin vào điều gì chỉ vì nó đã được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác, từ thầy qua trò, và do đó được gọi là truyền thống. Sự nhấn mạnh
vào tính xác thực của truyền thống không chứng tỏ được điều gì cả.
‘. . . hay bởi các tư tưởng đương thời, . . .’
Cũng đừng bị lầm lạc bởi yếu tố rằng quan điểm đó rất phổ biến, rất nổi
tiếng, hay rất hợp thời. Như thế cũng không nhất thiết là sai, nhưng điều
đó không nên là lý do duy nhất để ta tin theo một quan điểm nào đó.
' . . . hay bởi oai lực của các thánh điển, . . .’'
Chúng ta cũng không nên chỉ dựa vào oai lực của các thánh điển. Các bài
thuyết giảng của Đức Phật dầu gì cũng không là thánh điển. Có thể cũng
rất hợp lý khi ta tôn trọng các kinh sách cao quý của Đức Phật một cách
nghiêm chỉnh, nhưng cái ý nghĩ tự động gán ghép oai lực cho các kinh sách
thì bị bác bỏ mạnh mẽ.
'. . . hay chỉ bởi những diễn giải hợp lý, . . .'
Không có lý lẽ suy luận gì đủ để bảo đảm tính cách chân thực hay hiệu quả
tâm linh của một giáo lý.
‘. . . hay bởi những lý thuyết suy diễn hay ý kiến cá
nhân, . . .'
Sự
phê phán nghiêm khắc này nhắm thẳng đến tất cả các quan điểm, ý kiến được
ca tụng, những cách suy nghĩ quen thuộc khiến ta bị dính mắc bởi sức mạnh
của thói quen. Và còn có rất nhiều cách khiến ta có ý kiến này nọ: bởi tư
tưởng, qua sự tưởng tượng của ta, bởi những sự chấp nhận, thoả thuận một
cách chủ quan, và bởi những chọn lựa, thiên kiến có tính cách cá nhân. Vì
thế chúng ta không nên tuân theo những sự cám dỗ quen thuộc để cho phép
chúng ta bị dẫn dắt bởi những ý kiến hay khái niệm được ưa thích.
'. . . hay bởi ngưỡng mộ những thành quả cá nhân và cá
tính của một vị thầy đặc biệt nào đó, hay bởi uy lực của vị thầy. . .’
Ngay chính những điều này cũng chưa là những lý do đủ chính đáng để ta đi
theo con đường tâm linh nào. Độc nhất trong lịch sử các tôn giáo, Đức Phật
không bảo người ta phải chấp nhận quyền lực của một ai đó, dầu cho đó là
tự nhiên, siêu nhiên, được gán ghép, hay chỉ áp đặt, như là một vị đạo sư,
và điều đó bao gồm cả Đức Phật. Chính Ngài có bao đức tính cao quý, được
coi là rất lôi cuốn, tuyệt đối thuyết phục, đáng tin tưởng – nói một cách
khác, Đức Phật có đủ oai lực – nhưng ngay chính oai lực của Đức Phật, đối
với Ngài, cũng không thể được chấp nhận như là lý do duy nhất để tuân theo
giáo lý của Ngài.
“Nhưng này hởi các vị Kalama, khi nào tự mình biết rõ như
sau: ‘Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị
người trí chỉ trích, và nếu chấp nhận thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh, khổ
đau,’ thì, đúng thế, hãy từ bỏ chúng”.
Đức Phật nhấn mạnh rằng mọi người phải chịu trách nhiệm cho bản thân, rằng
mọi người phải tự quán sát, và tự biết, chứ không nên có lòng tin mù quáng,
và tuân phục quá đáng. Nếu ta không hiểu gì là bất thiện, là đáng trách,
thì ta phải tiếp tục kiếm tìm. Sau đó Đức Phật lại hỏi:
'Các
vị nghĩ thế nào, này các Kalama: khi có người khởi lòng tham ái, thì đó là
ích lợi hay bất hạnh cho họ?'
‘Bạch Thế Tôn, đó là bất hạnh cho họ’.
‘Này các vị Kalama, với lòng tham, người này bị tham chinh phục, không
chế ngự được tâm do tham, người này sát hại, lấy của không cho, xâm phạm
vợ người, nói láo và khích lệ người khác cũng làm như thế; và điều này sẽ
đem đến bất hạnh, đau khổ cho họ lâu dài’.
‘Thật đúng vậy, bạch Thế Tôn’.
'Các
vị nghĩ thế nào, này các Kalama: khi có người khởi lòng sân hận, vọng
tưởng, thì đó là ích lợi hay bất hạnh cho họ?'
‘Bạch Thế Tôn, đó là bất hạnh cho họ’.
‘Này các vị Kalama, với lòng sân hận, vọng tưởng, người này bị sân hận,
vọng tưởng xâm chiếm, không chế ngự được tâm bởi lòng sân hận, vọng tưởng,
người này sát hại, lấy của không cho, xâm phạm vợ người, nói láo và khích
lệ người khác cũng làm như thế; và điều này sẽ đem đến mất mát, khổ đau
cho họ lâu dài’.
‘Thật đúng vậy, bạch Thế Tôn’.
Vì thế nếu tâm tham phát khởi - rồi giết người, trộm cắp, tà dâm, bất
lương, tất cả đều từ tâm tham đắm – thì chúng ta đã phạm vào bốn giới đầu
tiên. Sân hận, cũng thế, cũng có thể đưa đến những hành động xấu ác như
trên. Ở đây Đức Phật dạy rằng giới là căn bản cho con đường tâm linh. Nếu
chúng ta muốn “thánh thiện” nhưng đồng thời lại phạm các giới luật đạo đức,
thì ta khó có cơ hội để biến sự “thánh thiện” đó trở thành sự phát triển
tâm linh thật sựï.
'Này các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: những việc này là bất thiện
hay thiện?’
‘Bất thiện, bạch Thế Tôn.’
‘Chúng đáng trách hay không đáng trách?’
‘Bạch Thế Tôn, đáng trách.’
‘Người tri thức khen hay chỉ trích chúng?’
‘Bạch Thế Tôn, chỉ trích.’
‘Và những việc này dẫn đến mất mát, đau khổ, hay không? Các vị thấy thế
nào?’
‘Các pháp này thật sự dẫn đến mất mát, khổ đau. Đó là chúng con nhìn sự
việc như thế.’
Như thế là Đức Phật đã hỏi các thính giả của Ngài về những điều bản thân
họ tin tưởng, và để họ tự quyết định cho chính mình.
“Như vậy, chính vì lý do đó, chúng ta có thể nói như thế
này: Chớ có tin vì lời đồn đãi, vì truyền thống, vì những quan điểm hợp
thời, vì uy lực của kinh điển, hay chỉ vì những suy diễn hợp lý, vì lý
thuyết diễn giải hay ý kiến hợp lòng, vì vẻ ngoài hay cá tính của ai đó,
hay vì oai lực của vị đạo sư. Chỉ khi các vị tự biết: ‘Các pháp này là
bất thiện, các pháp này đáng chê trách, chúng bị bậc tri thức chỉ trích,
và khi thực hiện, chấp nhận, chúng sẽ đưa đến mất mát, khổ đau’, thì, đúng
vậy, các vị nên từ bỏ chúng”.
Vị thầy chỉ cho ta con đường, nhưng chúng ta không chỉ đi theo vì oai lực
của vị thầy, và chúng ta không nên nghĩ rằng vị thầy ấy có thể dẫn dắt
chúng ta đến đích mà không cần đến sự tham gia của ta. Không có tư tưởng
được tán thán nào có thể giúp chúng ta trừ khi ta có thể nhận thức rõ ràng
được điều gì là thiện, điều gì là không.
“Nhưng nếu các vị có thể tự nhận ra: ‘Các pháp này là thiện, các
pháp này không thể bị chê trách, chúng được các bậc tri thức tán thán, và
khi thực hành, chấp nhận, chúng đưa hạnh phúc, bình an,’ thì các vị nên
chấp nhận chúng”.
Sau đó Đức Phật nói về sự đối nghịch với lòng tham đắm: sự giải thoát khỏi
tham đắm.
‘Này hỡi các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: khi có người phát khởi tâm
đoạn diệt khỏi tham đắm, điều đó đem đến lợi ích hay bất hạnh cho họ?’
-Bạch Thế Tôn, lợi ích.
-Giải thoát khỏi tham, không bị tham xâm chiếm, tâm người đó không bị tham
chế ngự, người đó tránh xa giết hại, tránh xa lấy của không cho, tránh xa
tà dâm, tránh xa việc nói lời không chân thật, mà người đó cũng không
khuyến khích người khác làm những chuyện bất thiện. Như thế người đó sẽ
được hạnh phúc, bình an lâu dài.’
-Đúng vậy, Bạch Thế Tôn.
‘Này hỡi các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: khi có người phát khởi
tâm đoạn diệt khỏi sân hận, vọng tưởng, điều đó đem đến lợi ích hay bất
hạnh cho họ?’
-Bạch Thế Tôn, lợi ích.
-Giải thoát khỏi sân hận, vọng tưởng, tâm người đó không bị sân hận, vọng
tưởng xâm chiếm, với tâm không bị sân hận, vọng tưởng chế ngự, người đó
không giết hại, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, mà
người đó cũng không khuyến khích người khác làm những chuyện bất thiện.
Như thế người đó sẽ được hạnh phúc, bình an lâu dài.
-Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
‘Này hỡi các vị Kalama, các pháp này là thiện hay bất thiện?’
-Bạch Thế Tôn, là thiện.
-Đáng chê trách hay không đáng chê trách?
-Không đáng chê trách, bạch Thế Tôn.
-Các bậc tri thức chỉ trích hay ngợi khen các pháp này?
-Bạch Thế Tôn, ngợi khen.
-Các pháp này, nếu chấp nhận và thực hành, chúng sẽ đưa đến bình an hay
không? Các vị thấy thế nào?
-Các
pháp này nếu được chấp nhận và thực hành sẽ mang đến bình an, hạnh phúc.
Đó là cách nhìn nhận của chúng con.
Đức Phật thường khuyên chúng ta hãy tự vấn lương tâm để phân biệt điều
thiện và điều bất thiện. Nếu việc quán sát này không đưa đến kết luận,
chúng ta cần thảo luận với người đáng tin cậy và hiểu biết, nhưng cuối
cùng thì mỗi chúng ta đều phải tự kết luận thì mới có thể phát triển tuệ
giác. Không ai có thể làm công việc đó cho ta.
Vì thế đây là liệt kê của mười điều mà ta không nên để chúng dẫn dắt ta đi
sai đường. Trước nhất là lời đồn đại: chúng ta không nên tin vào những gì
người khác nói với ta mà không suy nghĩ về những lời nói đó một cách độc
lập. Chúng ta không nên để bị gia đình, bè bạn ảnh hưởng đến độ ta không
suy nghĩ gì khi chấp nhận ý kiến của họ vì chúng ta không muốn bị nghĩ là
khác người.
Hai là, chúng ta không nên để mình bị lầm lạc bởi lòng tin mù quáng vào
truyền thống. Các phong tục tập quán được coi là đúng chỉ vì chúng đã được
tuân theo quá lâu, nhưng có thể chúng không có giá trị, nếu chúng dẫn dắt
ta đến mất mát, khổ đau.
Ba là, những quan điểm có tính thời thượng. Ảnh hưởng của các quan điểm
thời thượng tạo nên bởi các phương tiện truyền thông hiện đại thường có
thể rất nguy hại, vì khó thể nhận biết chúng. Từ lúc ta còn thơ ấu, chúng
đã có mặt, rồi dần dần chúng ngự trị trong ta như thể đó chính là ý kiến,
quan điểm của ta. Chúng ta bị dẫn dắt để tin vào những điều mà ta chưa
từng suy nghĩ thấu đáo - chỉ chấp nhận như là một quan điểm thuyết phục
nhất ở trước mắt. Như đoạn kinh đã nói rõ, đây không chỉ là một hiện tượng
thời hiện đại. Từ lâu nó vốn đã như thế.
Bốn là, oai lực của các thánh điển. Dĩ nhiên, đây đã là nguyên do của bao
vấn đề trọng đại, vì tất cả các kinh điểm, ngay cả những cái được coi là
thánh điển, thực ra cũng đã được viết bởi con người, và con người có thể
cũng lầm lạc. Bất cứ văn tự nào cũng có thể có sai lầm, chúng đầy những
hạn chế của nhân loại lầm lạc.
Hai điều kế tiếp, liên quan đến một nền tảng không vững chắc để đặt niềm
tin. Việc coi trọng những lý luận trí tuệ, hợp lý rõ ràng cũng có những
lợi thế. Tuy nhiên, chỉ có lý trí không cũng là điều nguy hiểm, vì nó có
thể hướng đến những mục đích vật chất, hạn hẹp và bỏ qua khía cạnh tâm
linh. Nếu ta không thể kết nối cái đầu và trái tim, mà chỉ suy nghĩ theo
lý trí, chúng ta có thể thực sự đã sử dụng những khả năng tri thức của
mình rất hợp lý, nhưng chúng ta luôn ở trong tình trạng nguy hiểm là có
thể sử dụng chúng sai mục đích, và đã đi sai đường. Nhưng tâm là một nhà
ảo thuật, nó có thể quay bất cứ hướng nào; ngay khi trái tim dự phần vào
các suy nghĩ của ta, mang theo tình cảm, khả năng yêu thương, thì mức độ
hiểu biết của chúng ta đã hoàn toàn khác.
Tiếp đến là những ý kiến cá nhân, những lý thuyết suy diễn hợp ý ta.
Những điều này xưa tới nay vẫn rất phổ biến. Dĩ nhiên là chúng ta có
khuynh hướng tin vào những lý thuyết của chính mình - điều đó rõ ràng là
chưa hề thay đổi suốt 2500 năm nay – nhưng chúng có thể gây ra những hậu
quả nghiêm trọng nếu như chúng không chính xác, và thường thì không dễ
đáng giá tính xác thực của một lý thuyết: người thì cho rằng nó tuyệt vời,
kẻ khác có thể gọi đó là lừa đảo, người khác nữa thì không biết đúng sai.
Chúng ta cần tìm hiểu, chứng nghiệm từ bản thân để xem điều gì đó là tốt
hay xấu.
Cuối cùng, điều gì đã được giáo huấn? Chúng có thực sự tốt như đã được rao
tụng hay chúng có thể dẫn ta lạc đường? Chúng ta dễ bị choáng ngợp trước
các vị thầy đạo mạo, nhưng vẻ lôi cuốn bên ngoài không bảo đảm rằng những
lời dạy của họ là đúng hay thích hợp. Ngay như hiện nay, nhiều vị thầy tâm
linh có khả năng tạo ra được những ảnh hưởng sâu rộng chỉ bằng sự hiện
diện của mình. Dù là sự quảng báo đến đông đảo quần chúng có thể dưới
nhiều hình thức mới, hiện đại hơn, nhưng nó vẫn đi từ người này sang người
kia rất giống như trước kia.
Sau khi điểm qua các điều vừa liệt kê, Đức Phật tiếp:
'Tuy nhiên, nếu các vị tự nhận biết rằng: Các pháp này là
thiện, không bị chê trách, được bậc tri thức khen ngợi, và nếu được chấp
nhận, được thực hiện sẽ dẫn đến bình an, hạnh phúc, thì này các vị
Kalama, các vị có thể tự tin mà chấp nhận chúng. . . Đó chính là lý do cho
những lời ta vừa nói với quý vị. Bằng cách như thế đó, đoạn diệt khỏi
tham, sân, với tâm sáng suốt, rõ ràng thông hiểu, tràn đầy chánh niệm, vị
đệ tử chân chánh tõa chiếu tâm từ, bi, hỷ và xả đến cùng khắp thế giới.’
Nếu chúng ta đoạn diệt được các ái, tà kiến, khỏi tham sân, thì tâm không
còn mê muội nữa, nó có thể phân xét rõ ràng, khách quan. Trái lại, tâm bị
ô uế nặng nề bởi tham ái và sân hận thì mờ mịt. Tham và sân là những hành
động hoàn toàn chủ quan, nên nếu ta có thể chế ngự chúng, thì tâm trở nên
khách quan. Không còn lẫn lộn, tâm trở nên trong sáng, rõ ràng trong
chánh niệm và tuệ giác. Nếu tâm đầy chánh niệm, chúng ta không thể cùng
lúc phát khởi tâm sân tham. Do đó Đức Phật luôn đề cao chánh niệm, để
chúng ta có thể rèn luyện quán sát bản thân và thế giới quanh ta một cách
khách quan và thực tế. Điều này giúp xoá tan đi những sự tô vẻ một cách
chủ quan của chúng ta đối với các sự việc. Thay vì ‘Tôi muốn như thế này’
hay ‘Tôi không muốn phải chịu đựng điều đó’, chúng ta có thể nhìn sự vật
như chúng thực là.
Chánh niệm giúp chúng ta vun trồng bốn tình cảm cao thượng nhất: từ, bi,
hỷ và xả - theo truyền thống được gọi là tứ vô lượng tâm hay bốn tâm thánh
thiện, vì có thể vào được các trạng thái tâm này đích thực là “thiên thai”;
như là lên thiên đàng. Ở các giai đoạn trong quá trình tu tập của chúng ta,
ta có thể chú tâm đặc biệt vào đức tính này hay đức tính kia, dầu ta có
thể hành tất cả bốn đức tính này theo thứ tự trong chỉ vài giây phút. Xả
có thể phát triển dần dần thông qua tri kiến. Nếu chúng ta ít chấp vào
việc muốn hay không muốn điều gì, ta sẽ có thể nhìn thấy rõ ràng hơn rằng
tất cả mọi thứ đều luôn thay đổi, cho nên không đáng để ta cảm thấy bực
bội về chuyện gì. Và dĩ nhiên là nhận thức này sẽ lót đường đưa ta đến xả.
Xả có vẻ bên ngoài giống như lãnh đạm, hờ hững, vì thế ta cần phân biệt rõ
ràng giữa xả và các tình cảm tiêu cực khác. Hờ hững có thể được coi gần
như là đối nghịch với xả, vì dầu rằng nó có vẻ giống, nhưng nó đưa đến
những hậu quả rất khác nhau; nó có thể trở thành một tấm chắn sắt hữu hiệu,
vì chúng ta sẽ không để bất cứ thứ gì có thể đến gần ta. Điều đó có thể
khiến chúng ta phần nào cảm thấy an toàn hơn, nhưng thật ra nó biểu lộ,
nhấn mạnh thêm sự thiếu tự tin của ta. Sự vắng mặt của tình thương, lòng
bi mẫn trong tình cảm lãnh đạm, thờ ơ, khiến ta thêm trơ trẻn, cô đơn bên
lề cuộc đời: làm người dự kiến thay vì người tham dự. Sự thờ ơ, lãnh đạm
có vẻ như là một phương cách hữu hiệu để bảo vệ bản thân, nhưng thật ra sự
bảo vệ tốt nhất là tình thương yêu của chúng ta. Khi nào trong tim ta còn
đầy tình thương yêu, lòng bi mẫn, chúng ta hoàn toàn an nhiên, tự tại,
không phải tiếp xúc với các tình cảm tiêu cực như là sân hận, ác tâm, ghen
ghét, ganh tỵ, cao ngạo, chống đối hay chướng ngại. Nhờ được thanh tịnh
hoá, cuộc sống nội tâm của ta do đó sẽ được bình an, tự tại.
‘Với tâm như thế, tâm đoạn trừ khỏi sân, ác ý, giải thoát khỏi lo lắng,
uế nhiễm, vị thánh đệ tử chắc chắn, trong ngay kiếp sống này, được bốn
điều an ủi’.
Đức Phật nhắc đến sự an ủi này với các vị Kalama chỉ vì dầu họ là những
người thông minh, họ chưa phải là đệ tử của Đức Phật, và Đức Phật để tùy
họ tự quyết định phải làm gì. Nhiều người trong chúng ta ngày nay cũng
trong cùng hoàn cảnh – đi tìm điều gì đó để có thể vén mở những tăm tối
trong tâm hồn ta, giải thoát ta khỏi những âu lo. Nhưng Đức Phật chưa bao
giờ dứt khoát nói: 'Hãy theo ta!' Đức Phật chỉ chỉ bày cho ta chân lý, và
con đường thực hành để chứng nghiệm. Nếu lời khuyên dạy của Đức Phật nghe
hợp lẽ, ta có thể nghe theo; nếu không, ta cứ tiếp tục như trước đây. Đức
Phật cũng không khuyến khích khuynh hướng từ bỏ tôn giáo riêng của ai;
Ngài chỉ giảng giải giáo lý của Ngài với những ai muốn lắng nghe. Theo
giáo lý đó, khi tâm không còn cần phải bám víu vào gì hay sân hận với ai,
thì niềm vui nội tại sẽ phát sinh, tâm sẽ nhẹ nhàng, không vương phiền não.
Ngược lại, những biện minh yếu ớt cho các hành động vô tâm sẽ tan rã khi
tâm không còn vướng bận với phiền não, và trở nên thanh tịnh. Bốn sự an ủi
mà Đức Phật đã giảng dạy cho người Kalama như sau:
‘Nếu
có đời sau, có kết quả, sự chín mùi của nghiệp thiện ác, thì khi thân hoại
diệt sau khi chết, ta có thể được tái sinh giữa các chúng sanh an lạc, ở
cõi trời. Ta chắc chắn có được điều an ủi đó.’
Điều đó có nghĩa là, nếu ta tin tưởng rằng hành động sẽ mang lại hậu quả,
và rằng có một thế giới sau khi ta chết, thì chúng ta có thể - nếu ta đã
hành nghiệp thiện- tin rằng ta sẽ được thoải mái sau khi chết. Điều an ủi
thứ nhất này là chắc chắn.
‘Mặt
khác, nếu không có đời sau, không có quả, không có sự chín mùi của các
nghiệp thiện ác, thì ta cũng có thể sống hạnh phúc trong cõi đời này,
không có khổ đau, đoạn trừ được sân, ác ý. Ta cũng có thể chắc chắn với
điều an ủi thứ hai nấy.’
Vậy là Đức Phật nói rằng nếu như chúng ta không tin vào luân hồi và rằng
dựa theo đó hành động sẽ không mang đến hậu quả, thì ít nhất chúng ta cũng
có thể hưởng thụ cuộc sống ngay tại đây, ngay lúc này, được giải thoát,
nhờ vào tâm thanh tịnh, xa rời những ác tâm, lo lắng, buồn khổ. Chúng ta
có thể chắc chắn về điều an ủi thứ hai này.
‘Nếu
việc ác có xảy ra, tuy nhiên ta không cố ý làm hại ai, thì phiền não đâu
có đến với người không ác ý? Ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ ba này.’
Giờ ta nói đến trường hợp nếu như không có đời sống sau đó, mà kết quả
hành động của ta là ở ngay hiện đời. Trên căn bản đó, nếu chúng ta không
hành ác nghiệp thì chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ không phải chịu
những hậu quả xấu trong hiện đời. Chúng ta có thể chắc chắn về điều an ủi
thứ ba này.
‘Nếu
việc ác không có xảy ra, thì ta tự biết mình thanh tịnh trên cả hai phương
diện (cố ý hay không cố ý). Ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ
tư này.’
Rồi, cuối cùng là, nếu chúng ta không tin rằng hành động của ta sẽ mang
lại hậu qủa nào, nếu chúng ta không tin vào nghiệp lực của nhân quả, thì
ta vẫn có thể tin tưởng vào một lương tâm trong sạch. Chúng ta có thể tin
tưởng vào điều an ủi thứ tư này.
‘Với
tâm như thế, tâm đoạn trừ khỏi sân, ác ý, lo lắng, không uế nhiễm, vị
thánh đệ tử ấy có thể chắc chắn về bồn điều an ủi đó ngay trong kiếp này.’
Chúng ta có thể hưởng lợi lạc từ bốn thứ an ủi này ngay tại đây,
ngay bây giờ. Chúng ta không cần phải đợi đến những gì xảy ra trong tương
lai để xác định là ta đã không uổng phí thời gian. Nếu ta đã không hành ác
nghiệp nào, thì ta không phải sợ ác nghiệp. Nếu ta đã hành thiện nghiệp,
thì ta có thể chắc chắn rằng chúng sẽ đem lại những quả thiện. Nếu không
có kết quả mờ ám gì trong hành động của ta, thì ta không phải sợ rằng ác
nghiệp sẽ xảy đến với ta.
Rõ
ràng là người Kalama rất hoan hỷ được nghe những điều này, nên họ trả lời:
‘Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Với tâm không sân hận, đoạn trừ các ác kiến,
giải thoát khỏi những lo lắng, uế nhiềm, vị thánh đệ tử chắc chắn về bốn
điều an ủi này ngay trong kiếp sống này. Bậc Thiện thệ, Bậc thiện thệ!
Giống như một việc gì đó đã bị đảo lộn, giờ được sắp xếp trở lại, hay việc
gì đó đã bị che giấu, giờ lại được hiển lộ, hay như người đi lạc được chỉ
đường đi, hay ánh sáng đã được mang vào trong bóng tối, để tất cả mọi
người có mắt đều có thể được thấy rõ ràng. Bằng cách đó, bậc Thế tôn đã
giảng giải giáo lý bằng nhiều cách. Chúng con xin nương trú nơi Đức Thế
Tôn, nơi pháp của ngài, và nơi tăng đoàn! Mong Thế Tôn nhận chúng con làm
đệ tử, kể từ hôm nay cho đến hết đời.’
Những lời dạy của Đức Phật đủ sức thuyết phục người Kalama đến độ họ cảm
thấy muốn tự nguyện coi Đức Phật như vị thầy của họ, cũng như chấp nhận
Pháp, giáo lý của Đức Phật, và tăng đoàn, là tụ hội của những ai tin theo
giáo lý của Đức Phật, và như thế là họ đã trở thành đệ tử của Đức Phật.
Sự cởi mở tâm linh diễn bày ở đây khá đặc biệt vào thời điểm đó; mọi người
đều hiểu rằng họ phải tự quyết định chọn lựa con đường tâm linh của mình.
Chỉ có lương tâm của họ, hay lời khuyên của các bậc thiện tri thức, hay sự
tự quán sát các hậu quả hành động của họ, là được đề nghị để họ phải dựa
vào. Thông điệp của Đức Phật là chúng ta phải cẩn thận đừng để trở thành
nạn nhân bị ảnh hưởng bởi những cơ chế tín ngưỡng khéo léo – là những
điều có thể xảy ra dưới nhiều hình thức vi tế, nhất là với các vị thầy đầy
lôi cuốn hay những ai được coi như những vị có quyền lực tâm linh. Và
chúng ta chẳng bao giờ nên quên điều đó - không phải để khuyến khích lòng
nghi hoặc đối với các vị đạo sư hay các giáo lý, mà là để xét xem trong
những lời dạy đó có gì đúng với nội tâm ta.
Chúng ta là những vị thầy tốt nhất của mình, vì những gì ta cần biết, cuối
cùng, cũng được tìm ra ngay chính nơi ta; và với một số phương thức để tự
quán sát, ta có thể tự biết về mình bằng cách đó càng ngày càng sâu rộng
hơn. Những hoài bão tâm linh của tôi dựa vào gì? Con đường tâm linh của
tôi gồm có những gì? Tôi phải làm gì để thanh tịnh hoá bản thân? Tôi có
tự lừa dối mình tin vào điều gì đó hay tôi hết lòng thực hành? Mục đích
của kinh này là để giúp chúng ta có thể nhận thức được rằng những gì ta
cần làm không chỉ là tin vào điều gì đó, mà là phải suy xét, và tự biết
mình.
Chương 8
Chúng ta sống đời phạm hạnh để chế ngự và vượt qua bảy kiết sử (6a).
Bảy kiết sử đó là gì? Tham kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết
sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử và vô minh kiết sử.
Nếu có
người chế ngự được bảy kiết sử này, hoàn toàn đoạn diệt chúng, bứng gốc
chúng như bứng cây cọ khỏi mặt đất, để chúng hoàn toàn bị hủy diệt và
không thể mọc trở lại, thì có thể nói là người đó đã dứt trừ được tham ái,
vứt bỏ được các kiết sử, với chơn chánh hiện quán kiêu mạn, đã đoạn tận
khổ đau.
Anguttara-Nikiya vii 8-9
Tăng Chi
Bộ vii 8-9 (6)
____________________________________________________________
(6)
Hòa Thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 3, trang 285, NXB
Tôn Giáo 2005
(6a) Kiết Sử (hay Kết Sử): là sự ràng buộc, sai khiến chúng sanh, khiến
chúng sanh toan tính, hành động không đúng với chánh Pháp và mãi chịu luân
hồi sinh tử.
Trong bài thuyết pháp này Đức Phật nói -một cách khá ngắn gọn- về
bảy kiết sử làm trở ngại chúng ta đạt được hạnh phúc, giải thoát. Phần
kinh phía trên là trọn đoạn kinh. Trong bài giảng súc tích, đầy thuyết
phục này, chúng ta được khuyên dạy rằng chỉ cần đoạn trừ được bảy kiết sử
này, ta sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau. Các kiết sử này là những
trói buộc giam cầm ta, và trong nội tâm, tất cả chúng ta, đều bị giữ trong
gọng kiềm của chúng. Do đó, việc đối trị chúng đòi hỏi rất nhiều nghị lực
của chúng ta.
ÁI
Điều đầu tiên này nghe không giống như một kiết sử. Đúng ra nghe nó còn
có vẻ như một điều gì khá tốt. Dĩ nhiên cũng tốt nếu ta có sức lôi cuốn
đối với ai đó, nhưng chớ lầm tình cảm yêu thương với sự bám víu, chấp chặt,
vì đó chính là nguồn gốc của bao phiền não -đó là vấn đề mà ta thường
phải đối diện khi ta yêu ai đó, nhưng không hiểu rằng tình yêu là một
chức năng của con tim. Thay vào đó, cái mà ta gọi là tình yêu là cái mà
sự hấp dẫn, lôi cuốn ngay lập tức biến thành sự bám víu với ước muốn được
chiếm hữu, và sự lệ thuộc vào việc đối tượng của tình yêu của ta có đáp
trả lại sự chiếu cố của ta không. Chúng ta không thể sống mà không có sự
hiện diện, quan tâm, và lòng chung thủy của họ.
Loại tình thương này luôn bị sợ hãi làm hoen ố và sân hận phủ mờ. Sợ hãi,
sân hận có cùng những đặc tính tiêu cực: vì chúng ta không thể thật sự yêu
những gì ta sợ, mà chính là những gì ta sợ có thể đem lại sân hận cho ta.
Chúng ta sợ phải mất người ta yêu. Nói như thế không có nghĩa là ta ghét
họ: chúng ta chỉ ghét cái ý nghĩ phải mất họ và tình yêu của họ.
Một khi chúng ta đã chọn lựa một hoặc hai người (trong sáu tỷ người trên
trái đất) để yêu, thì dường như họ cũng phải yêu trả lại ta. Nếu điều đó
không xảy ra, hay nếu ta không giữ được họ, do họ chết, hay vì họ thay đổi
quan điểm, đối tượng để yêu, ta coi đó là một bi kịch. Nhưng đó không
phải là cách hiểu đúng vế ý nghĩa của tình yêu hay cuộc sống, và không
đúng với giáo lý của Đức Phật.
Mấu chốt của tình yêu và cuộc sống là để phát triển hơn nữa khả năng yêu
thương của trái tim ta. Cũng như là tri thức thì được huấn luyện bằng sự
nỗ lực nắm bắt các dữ liệu, trái tim cũng cần những cơ hội để phát triển,
và bất cứ nỗ lực để thương yêu nào cũng giúp cho trái tim được trưởng
thành. Mục đích duy nhất của trái tim là để thương yêu, nhưng nếu chúng
ta chỉ áp dụng điều đó với một người, một số trường hợp ta chọn lựa, thì
ta đã làm cho khả năng phát triển của trái tim bị hạn hẹp, và tự xây những
bức tường quanh ta để giam cầm bản thân.
Khi ái kết hợp với chấp, thì sự tiến hóa của cá nhân đó bị cản trở vô cùng.
Chấp là đeo bám người ta -thường chỉ là một người- và điều đó cản trở khả
năng yêu thương của ta được phát triển, trong khi khả năng đó lý ra phải
là vô điều kiện thì nó mới có thể tự do phát triển. Khi không có điều kiện,
chúng ta sẽ không còn chọn lựa người nào đó để yêu thương, như là họ phải
dễ thương, họ sẵn lòng yêu thương ta hay họ là người đã thương yêu ta
trước.
Tất cả những điều kiện trong tình thương yêu chế chính tình thương của ta.
Dầu hạn chế như thế, loại tình thương này lại đưa đến bao tấn bi kịch
trong đời sống hằng ngày, bao nỗi sợ hãi, bao xáo trộn không ngừng trong
tâm hồn ta, và nó sẽ không bao giờ có thể giải phóng được con tim ta.
Giáo lý của Đức Phật là giáo lý để giải thoát mọi khổ đau. Qua sự thực
hành các giáo lý này, đời sống của ta mỗi ngày đều được deã chịu hơn,
nhưng đó chỉ là yếu tố phụ, không phải là trọng tâm của Phật giáo. Để có
thể hoàn toàn hiểu rõ được ý nghĩa của các giáo lý, chúng ta phải hoàn
toàn chuyển đổi cách suy nghĩ thông thường, và vun trồng khả năng yêu
thương của ta là một phần trong quá trình chuyển đổi này. Điều này không
thể tự động xảy ra, mà ta phải coi mọi giao tiếp với người như là những cơ
hội để ta huân tập, rồi bắt đầu thực hành trong những hoàn cảnh này.
Cơ hội tuyệt vời là khi ta phải đối đầu với những người ta thấy khó ưa
nhất, vì ta có thể phát triển tình thương yêu trong một sự liên hệ không
phải lệ thuộc nhiều vào các điều kiện, và tất cả những thứ gì khác mà ta
cần để ươm mầm cho tình yêu thương sẽ tự động từ đó tuôn trào. Điều này
lúc đầu có thể khó thực hành, nhưng chúng ta sẽ không phải quá khó nhọc
nếu như ta đã tập luyện cho mình tánh quan tâm, lo lắng đối với những
người mà ta chỉ có mối liên hệ bình thường. Dĩ nhiên là yêu thương người
ta có lòng ưa thích sẽ không khó khăn gì, nhưng để tập yêu thương người mà
bình thường ta cũng chẳng hứng thú gì thì đó là một việc đáng thực hành.
Cuối cùng ta còn phải thực tập yêu thương những người mà ta không cảm thấy
ưa thích. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng làm việc đó, thì trong tận
cùng sâu thẳm, chính là ta tự làm tổn thương bản thân và trái tim ta sẽ
không bao giờ được yên ổn.
SÂN
Kiết sử thứ hai, sân, phát khởi từ sự
thiếu khả năng thương yêu không giới hạn của chúng ta. Phần đông chúng ta
không mong đợi một cuộc sống không có sân hận, nên ta cảm thấy quá phiền
phức khi cố gắng chế ngự chúng – vì dầu sao khi sinh ra đời là ta đã mang
theo bao sân hận, nếu không ta đâu có mặt ở nơi này. Tuy nhiên, sân hận ở
đây bao gồm căm ghét, ác ý, giận hờn, và các tình cảm này có những ảnh
hưởng rất tiêu cực. Dầu tình cảm tham ái suy cho cùng cũng tai hại không
kém, nhưng tình cảm sân hận này có ảnh hưởng độc hại hơn đối với chúng ta.
Phần đông chỉ cố gắng dẹp bỏ
những tình cảm xung đột của họ khi chúng đã bành trướng lên thành giận hờn,
căm ghét, và thường được thực hiện không đúng cách, bằng cách tránh mặt
người khiến ta cảm thấy khó chịu. Đây là một hành động khó thể thực hiện,
vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn toàn trốn tránh những hoàn cảnh
khó xử, kể cả việc phải gặp gở những người khó chịu. Trốn tránh họ không
phải là giải pháp; chạy trốn vấn đề không phải là cách giải quyết vấn đề.
Cũng có những lúc ta bó buộc phải lùi bước trước những tình huống quá sức
chịu đựng của ta. Tuy nhiên, khi điều đó xảy ra, ta phải tự thú nhận rằng
ta không có khả năng thương yêu, trong mọi hoàn cảnh, hơn là viện cớ rằng
vì ta không thể chịu đựng nổi người kia. Đó là sự thất bại nơi chính bản
thân ta, không phải ai khác hơn.
Tất cả đều xảy ra ngay nơi tâm ta. Ta không cần một nơi chốn đặc biệt nào
cho cuộc sống tâm linh, không cần y áo đặc biệt nào, không cần ngôn ngữ bí
truyền nào. Chúng ta cần biết rằng tất cả tùy thuộc vào ta, rằng hoàn
cảnh, trạng thái, tha nhân và ngoại cảnh, không là gì hơn là những chất
kích hoạt. Chỉ khi nào ta nhìn ra được như thế, ta mới có thể cất bước
trên con đường tâm linh, trái lại khi nào ta còn thấy thế giới quanh ta
đáng trách, thì ta không thể tu tập được. Mong đợi người khác thay đổi tốt
hơn căn bản là tự đánh lừa mình, vì cuối cùng thì ai cũng làm những gì họ
nghĩ là đúng theo quan điểm của họ, không phải của chúng ta.
Bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải một hoàn cảnh khó xử, đều cố gắng
thoát ra khỏi đó, nhưng nếu ta đang thực hành theo một con đường tâm linh
thì ta chỉ bỏ cuộc sau khi đã nhiều lần cố gắng thương yêu, hoà giải với
một người hay một nhóm người nào đó mà không thành công. Lúc đó ta sẽ hiểu
rằng sự bực bội, căm ghét, tranh chấp là mảnh đất để ta tu tập, và những
người liên quan chính là các vị thầy của ta. Họ giúp ta khám phá ra những
gì đang diễn ra trong nội tâm ta.
Chúng ta sẽ hoàn toàn đánh mất sự tự do ngay khi ta để mình bị vướng mắc
trong các xúc cảm của mình - dầu đó là tham hay sân. Chúng ta sẽ không có
tự do nếu để tham trói buộc hay sân chế ngự – và cuối cùng thì hai loại
phản ứng này sẽ đi chung với nhau, vì cả hai chỉ là biến tướng của sự bám
víu, cố chấp. Càng có nhiều những quan điểm cá nhân, ta càng chất chứa
nhiều xung đột trong nội tâm. Trái lại, càng tách biệt khỏi sự bám víu, cố
chấp, chúng ta càng có thể phát triển tình cảm thân thiện, tương trợ đối
với người.
Sự đối nghịch tích cực của sân là từ bi, và Đức Phật đã mạnh mẽ khuyên
chúng ta vun trồng tình cảm đó đến với mọi chúng sanh qua thiền quán từ bi
(metta bhavana).Trước hết, Đức Phật khuyên ta nên coi mọi
nghịch cảnh, sự đối đầu với người như một cơ hội để tu tập. Mỗi ngày, từ
sáng đến tối, chúng ta đều có cơ hội để xem người khác như thầy của mình,
bất cứ khi nào ta giao tiếp và đối xử với họ với lòng từ bi; chúng ta luôn
có cơ hội để hành động với trái tim thương yêu, không bám víu.
Tình thương yêu của ta bị cản trở bởi thành kiến, chỉ trích, so sánh và
phán đoán, dầu chắc chắn rằng mục đích sống của nhân loại không phải là để
đảm nhiệm vai trò của một quan toà, để phán xét bản thân hay người khác.
Nhưng thực tế là chúng ta thường phán đoán người khác, do đó ta cần phải
tự khẳng định với mình rằng hành động đó chỉ là một sự lãng phí thời gian,
năng lượng và cản trở sự phát triển của một trái tim yêu thương.
Thật thú vị khi Đức Phật so sánh sân hận với sự rối loạn hoạt động của túi
mật, vì ngay như bây giờ, khi ai đó nổi giận, người ta cũng bảo là họ sôi
mật (sôi gan). Điều Đức Phật muốn chỉ rõ ở đây là không phải đối tượng của
sự nóng giận của ta bị tổn thương, mà là chính bản thân chúng ta.
Đức Phật cũng so sánh sân hận với ngọn gió thổi trên mặt hồ nước, làm dậy
sóng khiến ta không thể soi rõ mình dưới đó. Cũng thế, sân hận cản trở sự
tự biết mình, vì tình cảm giận dữ không cho ta có cái nhìn rõ ràng về bản
thân. Đó là nguyên nhân của bao khổ đau trong các mối liên hệ giữa người
với người, của những sự đổ vỡ trong tình bạn, khiến nội tâm ta bị xáo trộn.
Không biết phải phản ứng với tha nhân như thế nào, ta tránh gặp họ trừ
những người mà ta có thể dựa vào sự thân thiện, lòng tốt của họ -dầu rằng
ta cũng không bảo đảm là có được sự thân thiện đó. Vấn đề là sự quá bám
víu vào sự hỗ trợ tình cảm của kẻ khác; chúng ta chạy đuổi theo những lời
khen tặng và trốn tránh những lời khiển trách – là những việc làm phí sức
và phí thời gian. Khi nào ta còn là nô lệ cho các cảm xúc và các vấn đề
của mình, thì sự liên hệ giữa ta và người có thể chỉ yên ổn ở bề mặt, chứ
không phải ở một mức độ sâu hơn, từ trái tim đến trái tim. Chúng ta sẽ có
đủ tự tin trong các phản ứng của mình, chứ không phải đợi người khác phải
thân thiện hay chấp nhận ta trước khi ta sẵn sàng đến với người –chỉ khi
ta đã tu tập tưới tẳm trái tim mình- để phát triển khả năng yêu thương của
chúng ta. Chúng ta phải học nhìn mọi việc như là một cơ hội để hiểu về
bản thân hơn; và với cái nhìn đó, với sự hiểu biết rõ ràng hơn về bản thân,
ta sẽ dễ hòa đồng với người hơn.
Bằng cách đó chúng ta có thể chấp nhận được mọi hoàn cảnh. Mọi người ta
gặp đều có thể giúp ta nhìn rõ mình hơn -dầu đó là người phát thư, hàng
xóm, đồng nghiệp hay chỉ là một ai đó ngồi trong chiếc xe đậu ở kế bên,
hay kẻ mới vừa giành chỗ đậu xe với mình. Lúc nào chúng ta cũng có thể
phát khởi tâm thương yêu đối với họ. Điều này còn dễ thực hiện hơn nhiều
nếu ta nhận ra rằng tất cả mọi người đều ở trong những hoàn cảnh như nhau;
nếu chúng ta có thể nhận thức được rằng dầu khổ đau chỉ là do ta tạo ra,
nhưng không phải ta là người duy nhất khổ đau. Khổ đau là đặc tính chung
của muôn loài, và tất cả những hoàn cảnh riêng của từng cá nhân mà ta biết
tới đều là các biến thể của chung một chủ đề. Sự hiện hữu của nhân loại
thắm đẫm khổ đau trong từng giây phút, từng giờ, từng ngày. Dĩ nhiên là
chúng ta rất muốn gạt chúng sang một bên, nhưng điều đó khó thể thực hiện.
Một khi ta biết chấp nhận điều này, cuộc sống sẽ trở nên đơn giản hơn
nhiều, và khi lòng bi mẫn đối với bao nỗi khổ đau quanh ta phát khởi, ta
sẽ không còn nhiều phiền não trong liên hệ với người nữa.
KIẾN
Kiết sử thứ ba bao gồm tất cả mọi ý kiến, quan điểm cá nhân để tạo nên một
nền tảng qua đó ta có thể dùng để đưa ra các phán đoán. Theo Đức Phật,
nói cho cùng, tất cả đều sai, vì chúng được dựa trên những cái nhìn hai
chiều của ‘tôi’ và ‘anh/chị’. Quan điểm này khiến chúng ta nghĩ rằng các
ý niệm về tốt, xấu của ta là tiếng nói của chân lý. Chúng ta sống trong
một thế giới tương đối qua đó có rất nhiều cách khác nhau để nhìn sự vật.
Do đó, ta thường thấy ý kiến của người khác với của ta. Cái mà ta thấy
tốt, thấy đẹp, thì người khác thấy xấu, thấy không ưa. Chưa chứng ngộ,
chúng ta không thể biết đâu là sự thật tuyệt đối –và ngay nếu như có chứng
ngộ, ta cũng không thể phán đoán về điều gì đó mà được tất cả mọi người
đều đồng ý, vì phàm nhân chỉ có thể chấp nhận sự thật tương đối.
Điều đó có nghĩa là chúng ta đang sống trong một thế giới huyễn hoặc, vì
có sự khác biệt giữa quan điểm, ước vọng của ta và thực tại. Sự việc
không bao giờ diễn ra theo như ý ta muốn, dĩ nhiên rồi, và ta sẽ phản ứng
bằng sự chống đối lại với những gì không giống như ý ta mong muốn. Trên
thế giới này, do đó, chỉ có những cái nhìn sai lầm, nhưng ta tiếp tục sử
dụng những quan điểm cá nhân của ta như một nền tảng đạo đức mà ta dựa vào
đó để sống cuộc đời mình -để ước mơ và hành động.
Trên bình diện của sự thật tuyệt đối, chúng ta không thể chọn lựa một quan
điểm về sự thật; ta chỉ có thể chứng nghiệm nó. Và khi chúng ta đã kinh
nghiệm được sự thật tuyệt đối, ta sẽ không còn có nhu cầu phán xét, kết
tội ai, không còn cần phải nắm bắt hay xua đuổi điều gì. Khi chúng ta đã
chứng nghiệm được rằng mọi thứ đều luôn bị chi phối bởi vô thường, sinh
sinh diệt diệt, từ sát na này qua sát na khác, thì không còn cần phải
phiền muộn về bất cứ điều gì. Nếu ta có thể huân tập sao cho tâm trí mình
có thể phát triển tình thương yêu và hiểu biết, thì trở ngại lớn nhất mà
ta còn phải đối đầu chính là các quan điểm của ta. Vì chúng ta đầy các
quan điểm nên không thể học hỏi thêm điều gì mới lạ.
Đức Phật so sánh trạng thái tâm này với một chiếc bình đất chứa nước đầy
tới miệng bình, nên không thể chế thêm nước vào. Khi đối diện với điều gì
mới lạ, tự động chúng ta xét xem những điều ấy có thích hợp với các quan
điểm đã thành hình trong ta không trước khi chấp nhận chúng. Nhưng dựa
trên căn bản đó thì con đường ta đi sẽ bị cản trở, vì một con đường tâm
linh thật sự, dựa trên sự thật tuyệt đối, không bao giờ có thể hợp với các
ý kiến, quan điểm cá nhân đó. Vì thế càng có nhiều ý kiến, cuộc sống tâm
linh của ta càng khó khăn. Trái lại, một thái độ cởi mở như một đứa trẻ
thơ có thể giúp ta nhiều hơn, một khả năng để nhìn các sự kiện mới như
chúng là mà không có thành kiến chen vào. Là người trưởng thành, chúng ta
thường có thói quen bám víu vào tính đáng tin cậy của hồi ức hay thói
không thể bỏ được các ý kiến chúng ta về sự vật phải như thế nào. Nhưng
một trong những giây phút đại ngộ thực sự chỉ có thể xảy ra khi ta có thể
nhìn sự vật như chúng là, chứ không phải như chúng ta đã tưởng tượng ra
trước đó. Không được bảo đảm bởi sự khách quan tuyệt đối, những suy nghĩ
chủ quan của ta không bao giờ có thể phản ảnh được thực tại, vậy mà chúng
ta a dua theo bất cứ các phong trào tư tưởng thời thượng đương thời nào,
khiến cho ta trở nên phụ thuộc vào ý kiến của người khác thay vì sự tự tin
ở mình và tự suy nghĩ mọi sự rốt ráo.
Đức Phật đã nói Ngài chỉ là người hướng dẫn, và chính chúng ta phải ứng
dụng các phương pháp Ngài đã chỉ dạy bằng cách tự kiểm chứng chúng với
thực tế cuộc sống. Bất cứ đối tượng nào chúng ta hướng tới -đồng loại,
bản thân, cuộc sống, thế giới- những gì chúng ta theo đuổi vẫn là những
tình cảm, cảm thọ dễ chịu, với hy vọng rằng khổ đau, phiền não sẽ có thể
qua đi càng nhanh càng tốt. Dĩ nhiên, hy vọng đó thật hão huyền: vì những
gì tốt đẹp, dễ chịu sẽ không kéo dài và những khổ đau, khó chịu không thể
đè nén chúng lâu.
Chỉ việc có thân đã đủ để khiến cuộc sống không dễ chịu. Thân luôn đòi
hỏi ta phải chăm sóc nó, và vì ta đã đặt ra cho mình một trách nhiệm khó
hoàn thành là giữ cho nó luôn ở trong trạng thái khỏe mạnh, không bao giờ
bị gián đoạn, tâm ta sẽ luôn lo nghĩ phải làm sao để được như thế, khiến
chúng ta vô cùng căng thẳng. Tự cố gắng để theo đuổi điều gì khác hơn là
mục đích tâm linh - kể cả sự tìm kiếm những gì dễ chịu- đều không ích lợi
cho đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh là sự tìm kiếm không phải những
gì dễ chịu, mà là những gì đúng, là tuệ giác về bản chất của sự vật như
chúng là.
Việc đầu tiên chúng ta quan sát được ở sự vật như chúng là, là chúng thay
đổi từ giây phút này sang giây phút khác. Mỗi ngày qua đi rất nhanh và
cuộc đời của chúng ta cũng qua nhanh. Tất cả những tư tưởng đã qua đi
trong đầu hoàn toàn biến mất. Chúng ta có thể cẩn thận viết một vài điều
xuống với chi tiết, nhưng ta sẽ không bao giờ có thể khôi phục lại được sự
tinh nguyên của tư tưởng lúc ban đầu. Tình cảm và cảm xúc chúng ta nhớ
lại không còn ở đó nữa, vậy mà ta vẫn tin rằng mình là một cái gì vững
chắc. Khi nhìn lại những hình ảnh cũ , chúng ta có thể nói, ‘À tôi nhớ cái
này’, nhưng ta không thể hoàn toàn tin tưởng vào ký ức -chúng chỉ là biểu
hiện của quá khứ. Nếu ta nhìn hình ảnh của mình một cách trung thực, thì
cái ý nghĩ về sự vững bền của chúng ta trở nên khó chấp nhận.
Bằng cách đó và trong quá trình thực tập tâm linh, chúng ta có thể dần dần
nhận thức được rằng mỗi giây phút là một chuyển đổi, và bắt đầu hiểu được
sự thật tuyệt đối là gì. Thông thường, tất cả mọi thứ chúng ta kinh nghiệm
qua chỉ là tương đối, và loại thực tại này là những gì chúng ta cố gắng
nắm bắt qua các giác quan, khi ta nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ và nghĩ. Điều
đó sẽ không bao giờ là một sự thực tập hoàn toàn thành công khi nói về
kinh nghiệm của những gì đang xaûy ra, vì mục đích của nó làm cho chúng ta
cảm thấy dễ chịu thoải mái. Với một mục đích như thế tâm lập tức phân loại
các xúc chạm giác quan nhö là dễ chịu hay khó chịu, và sẽ không có sự suy
nghĩ chân chánh nào phát sinh vì mọi người nghĩ và cảm xúc khác nhau về sự
vật. Một cách nhìn sự vật không thể bao giờ cũng đúng cho tất cả mọi người:
tiếng chuông bò và mùi phân bò có thể gợi những kỷ niệm dễ chịu cho ai đó,
trong khi người khác có thể thấy khó chịu và bực bội. Vì thế tất cả mọi
việc ta cảm nhận qua mũi, mắt, tai và xúc chạm, là hoàn toàn có tính cách
cá nhân và tự động liên hệ tới một cái nhìn cá nhân. Những quan điểm này
làm cho cuộc đời chúng ta khó khăn và càng khiến ta sân hận và tham ái.
Chúng ta luôn bị lôi kéo giữa hai tình cảm này, kéo tới kéo lui, kéo lên
kéo xuống, giống như một lưỡi cưa.
Để
chấm dứt tình trạng khổ đau này và tìm được sự thanh tịnh, tâm trí ta phải
kết hợp với nhau để tạo ra những kinh nghiệm thực chứng. Chúng ta phải
kinh nghiệm các sự kiện như chúng thật sự là, không phải như ta tưởng
tượng chúng như thế nào. Đức Phật đã so sánh cách sống của chúng ta với
trẻ con chơi trong căn nhà lửa. Chúng không muốn ra khỏi nhà vì chúng
không muốn để lại đồ chơi - những quan niệm đã giữ chúng ta lại trong nhà.
Vì thế những 'quan điểm sai lầm' không phải là việc không nắm bắt được
những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và đưa ra những kết luận
sai lầm. Mà đúng ra, chúng là biểu hiện của khuynh hướng cấu thành ý kiến,
đánh giá, và phán đoán sự vật. Sự quán sát về các sự vật như chúng là, mặt
khác, đòi hỏi sự thực tập, thời gian, và ý muốn nhận thức được sự thật.
Với một ý chí như thế ai cũng có thể đạt được tri kiến thực sự.
NGHI
Kiết sử kế tiếp, nghi như một trạng thái cố định của tâm, đôi khi cũng
được gọi là hoài nghi. Đức Phật so sánh nghi với những người lữ hành lạc
hướng, đi lòng vòng trên sa mạc, mà không có bản đồ hay lương thực. Cuối
cùng rồi họ cũng bị bọn cướp trấn lột và giết đi. Kiết sử nghi là khuynh
hướng đối chiếu mọi thứ với những ý kiến riêng của chúng ta, và loại bỏ
tất cả những gì không hợp với chúng. Nếu những suy nghĩ của chúng ta đủ
mạnh, ta sẽ nghi ngờ tất cả những gì không đúng theo ý kiến của ta.
Để có thể chấp nhận một quan điểm mới mẻ, chúng ta phải chuẩn bị để nghi
vấn ngay chính quan điểm của mình. Thiền quán là một phương cách hữu hiệu
để bắt đầu quá trình này: bất cứ ai đã hành thiền một vài lần phải biết
rằng tư tưởng của chúng ta căn bản là không đáng tin cậy. Chúng tự phát
khởi lên không cần mời mọc, rồi sau đó biến mất đi. Hơn thế nữa, chúng
thường là vô nghĩa. Nếu chúng ta rời khỏi chiếu thiền và tiếp tục coi
những tư tưởng này là nghiêm túc, mà không nghi nghờ gì về những ý kiến mà
chúng dựa vào, là chúng ta đã không tập trung khi hành thiền.
Cần phải có thời gian trước khi ta đạt đến một thời điểm trong thiền khi
chúng ta có thể định tâm đến nỗi không có tư tưởng nào phát khởi lên.
Ngay bây giờ thì, thiền sinh có cơ hội để kinh nghiệm sự phát khởi của các
tư tưởng như là những chuyển động của tâm, cũng như hơi thở là chuyển động
của thân, để nhận thấy rằng cả hai hiện tượng vừa sinh vừa diệt. Lúc ấy sự
việc trở nên rõ ràng rằng các suy nghĩ của ta chắc chắn không phải là chân
lý. Khi chúng ta bắt đầu đặt nghi vấn về các quan điểm và phán đoán của
chính mình, ta bắt đầu được giải phóng khỏi kiết sử nghi, và có thể bắt
đầu buông bỏ các quan điểm của mình để đón nhận những điều mới lạ. Lòng
nghi hoặc lúc đó sẽ không còn là một kiết sử nữa mà là một sự cởi mở đối
với những điều mới lạ.
Đó thật là một thử thách, vì cách suy nghĩ của chúng ta đã huân tập theo
những con đường, mẫu mực quen thuộc suốt cuộc đời, và thái độ nghi ngờ đối
với những gì trái ngược với chúng đã tiềm ẩn trong ta, khiến con đường tâm
linh khó khăn hơn. Nó đòi hỏi một sự chuyển hướng hoàn toàn ngược lại -
không phải trong cái nghĩa là không còn có thể sống trên thế gian này nữa
nhưng là một sự chuyển đổi hoàn toàn trong thái độ của chúng ta.
Kiết sử nghi cũng là một vấn đề trong mối liên hệ hàng ngày của phần đông
chúng ta. Không phát triển được khả năng thương yêu của con tim, chúng ta
không chỉ nghi ngờ về khả năng của chính mình, chúng ta còn cho phép mình
chấp nhận sự nghi ngờ của người khác về mình. Một thái độ như vậy hoàn
toàn không cần thiết: nếu người khác không chấp nhận chúng ta, đó là thái
độ và nghiệp của họ. Đó là điều tiên quyết chúng ta cần nhận thức- rằng
bất cứ điều gì người khác làm đó là vấn đề của họ, không phải của chúng ta,
ta không cần phải phản ứng lại. Chúng ta thường vội vàng xem những phản
ứng của người khác đối với ta như là một điều gì đó có liên quan đến ta,
trong khi thật ra chúng chỉ là những việc ngẫu nhiên xảy ra hàng ngày ở
quanh ta. Chúng ta không cảm thấy phiền muộn bởi những gì một người nào đó
ở Phi Châu có thể nói hay làm vào lúc này; vậy thì tại sao, ta lại bị
phiền toái bởi những gì người láng giềng của ta vừa nói hay làm - là một
điều thật ra cũng chẳng quan trọng gì với ta? Điều quan trọng trong quan
hệ giữa ta với người là phát triển tình thương yêu đối với nhau.
Khi lòng hoài nghi còn hiện hữu, chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn
rằng một điều gì đó có ích lợi, tốt đẹp cho chúng ta không, ta có khả năng
thực hiện một điều gì đó không, hay người khác có vui lòng, có chấp nhận
điều gì đó không. Để có thể thực hành theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta
trước hết phải chấm dứt cách suy nghĩ này. Chỉ khi thực hành rồi chúng ta
mới có thể khám phá ra là chúng có tốt, có hữu ích hay không và chúng sẽ
có những ảnh hưởng gì.
Mạn
Kiết sử mạn (tự cao) bao gồm có lẽ không nhiều về thái độ cao ngạo, tự phụ,
mà là sự tin tưởng, về mặt tri thức và tình cảm, rằng có một điều gì đó về
chúng ta thường hằng, cá biệt, cần được bảo vệ. Đây là một trong những
kiết sử nguy hại nhất. Ngã mạn, niềm tin rằng chúng ta là một ai đó –hay
hơn nữa, là một người đặc biệt, một người thông minh hơn người - là hình
thức căn bản của tự cao, tạo nên bao vấn đề không dứt cho ta, và sẽ tiếp
tục khiến cuộc sống thêm căng thẳng nếu như ta vẫn khư khư bám lấy nó. Đó
là cái ngã khiến ta ảo tưởng rằng mình hiểu biết, và chạy đuổi theo những
gì mang lại cho ta sự thoải mái, dễ chịu, trốn tránh sự khổ đau, khó chịu.
Ngã là một ảo tưởng, một huyễn hoặc mà tất cả nhân loại đều tin vào đó,
khiến cho không biết bao thảm họa đã xảy ra. Lý do duy nhất khiến nhân
loại tạo ra chiến tranh, dối trá, sát hại, tham ô là vì họ muốn được an
toàn, muốn bảo vệ cái ngã của họ.
Chúng ta tin vào cái ngã cũng giống như ta tin vào tất cả mọi vọng tưởng
khác. Ngã mạn đã sẵn ươm mầm trong quá trình tư duy của chúng ta, do đó
nó đã cắm rể sâu trong lãnh địa cảm xúc của ta: nếu ta nghĩ về vấn đề gì
đó đủ lâu, ta có thể cảm giác được nó. Khi nào ta còn tự nhìn mình như
những con người tách biệt, và tiếp tục suy nghĩ theo cách đó, ta sẽ tiếp
tục có những tình cảm ‘Tôi, của tôi’ là nguồn gốc không dừng dứt của bao
vấn đề, bao phiền não. Chúng ta sẽ tiếp tục coi màn kịch này, và nền tảng
mà ta dựa trên đó để đóng vai trò của mình, một cách tuyệt đối nghiêm
chỉnh. Khi chúng ta ngồi trước màn ảnh truyền hình để xem một vở tuồng,
ta không coi nó là thực –nhưng đối với cuộc đời thì ta coi thật sự nghiêm
trọng, dầu rằng căn bản thì nó cũng được dựng thành bởi những điều tương
tự.
Ngã mạn là gốc của mọi vấn đề, các vấn đề khác phát sinh từ đó, và chúng
ta không thể hy vọng sẽ giải quyết được nó ngay lập tức – các kiết sử tham
sân và nghi cần được chuyển đổi trước. Con đường hành đạo theo sự hướng
dẫn tâm linh của Đức Phật không phải là để hủy diệt tự ngã, mà là để chúng
ta có thể buông bỏ, và nhìn thấu suốt ngã tưởng, để một ngày ta có thể
nhận ra rằng tất cả mọi lăng xăng, bao lo toan của ta không để làm gì cả,
và cuộc đời ta sẽ giống như một cuộn phim đang diễn ra trước mắt ta.
Đố Kỵ
Kiết sử đố kỵ, ganh ghét là một biểu hiện của sân và sự thiếu vắng tình
thương yêu. Nó phát sinh từ sự thiếu hiểu biết rằng chúng ta thuộc về một
tổng thể mà bản năng muốn tách biệt chỉ có thể làm nguy hại cho ta. Do đó,
nó có thể được đối trị bằng tâm hoan hỉ, lòng thông cảm, phát sinh từ nhận
thức rằng tất cả chúng ta tùy thuộc vào nhau và không có gì khác nếu ta
hay ai đó được điều tốt lành nào. Tất cả chúng ta đều có mặt ở đây trên
trái đất này với nhau, cùng như tất cả chúng ta đều được cấu tạo bởi những
thành phần giống nhau. Dầu có ý thức được điều đó hay không, tất cả chúng
ta đều tương quan với nhau. Nếu thảm hoạ xảy ra ở một nơi nào đó, tất cả
chúng ta đều bị ảnh hưởng. Khi chiến tranh bùng nổ ở một nơi nào trên thế
giới, thì những chấn động tiêu cực cũng lan đi khắp hành tinh nhỏ bé này.
Dĩ nhiên khi điều tốt lành xảy ra cũng giống như thế, niềm hân hoan thông
cảm cũng phát đi những chấn động tích cực, chế ngự sự phát khởi của lòng
ganh tỵ.
Đức Phật đã khuyên chúng ta chỉ cần vun trồng bốn loại tình cảm, không cần
gì khác hơn. Chúng được gọi là 'brahma vihara' hay tình cảm thánh
thượng. Đầu tiên là một trái tim thương yêu vô điều kiện, thứ hai là lòng
bi mẫn, thứ ba là tâm hoan hỷ (đối nghịch với lòng ganh tỵ), và từ những
tình cảm này phát sinh tâm xả, là điều thứ tư và cao thượng nhất của mọi
tình cảm.
CHẤP NGÃ
Kiết sử cuối cùng -được dịch thẳng từ tiếng Đức Selbstsucht
(self-addiction), mà tôi dùng ở đây để nói đến kiết sử này- là sự bám víu
vào ngã. Chúng ta quá quan tâm đến cái ngã của mình, hay là những gì mà ta
coi là ngã. Ngoài nó ra, ta không thấy điều gì tốt lành ở người hay ở
hoàn cảnh mà ngã không quan tâm đến. Chúng ta hoàn toàn tập trung vào
những vấn đề của ngã; điều quan trọng là ta phải xét xem cuộc đời mình
được tạo dựng trong sự ích kỷ đến mức độ nào và để nhận thức rằng điều đó
thật sự đã làm cuộc sống hàng ngày của ta khó khăn đến độ nào - rằng không
có bất cứ kết quả tích cực nào có thể phát sinh từ đó. Lòng ích kỷ ngăn
trở sự hình thành của bất cứ sự thực hành tâm linh nào, khiến cho lý tưởng
về tình thương yêu vô điều kiện vẫn là một ảo tưởng vô vọng. Nếu cái ngã
là trung tâm điểm của mọi việc và không có gì quan trọng hơn, thì ta không
thể nào diệt trừ được sân hận vì bất cứ điều gì có thể đe dọa cái ngã hay
khiến nó lo sợ phải đánh mất sự hỗ trợ mà nó mong muốn, sẽ bị chống đối.
Tánh ích kỷ là một thái độ luôn có mặt, hình thành theo thói quen và rất
phổ biến: tất cả nhân loại đều coi rằng mình rất quan trọng và cả thế giới
phản ảnh sự chấp ngã này. Những khó khăn mà một cá nhân phải đối mặt có
thể truy nguồn từ ngã chấp. Chỉ khi nào ta có thể quán sát về điều này một
cách nghiêm chỉnh, thì ta mới không tưởng tượng rằng nếu buông bỏ cái tôi
sẽ là một thiệt hại, và không thể tránh khỏi thất bại. Sự thật là điều
ngược lại; đó mới chính là cách để đoạn trừ những vấn đề của chúng ta.
Điều này cũng chẳng mới lạ gì, vì những hành động và cách sống theo thói
quen, dựa trên chấp ngã, đã đưa ta đến không biết bao nhiêu vấn đề (không
kể đến việc nghiện rượu hay các chất độc hại khác). Chỉ việc bảo vệ cái
ngã một cách điên cuồng và đặt nó ở trung tâm của mọi hành động của chúng
ta cũng đủ khiến cuộc đời thêm khó khăn. Nó luôn là nguyên do đưa đến sự
xung đột, hiềm khích giữa người với nhau, tất cả cùng với một sự chấp ngã
như nhau.
Việc buông bỏ cái ngã chỉ có thể xảy ra khi ta có tri kiến. “À, điều đó
nghe cũng tốt – tôi sẽ thực hành buông bỏ nó”, tự nhủ mình như thế chưa đủ,
vì nó không dễ dàng như thế. Chúng ta cần phải thực tập buông bỏ trong
cuộc sống hằng ngày cũng như khi hành thiền, đối mặt với nó từng phút giây.
Suốt con đường tâm linh là một cuộc hành trình của sự buông bỏ -đó là,
buông bỏ mà không trước hết phải có sự thay thế. Tuy nhiên ở cuối
cuộc hành trình, một khi chúng ta đã buông bỏ tất cả, Đức Phật bảo rằng
chúng ta sẽ được tự do, chấm dứt mọi đau khổ- một cuộc đời không bám víu,
đoạn diệt sân hận, thoát khỏi tà kiến, khỏi nghi, khỏi tự cao, khỏi ganh
tỵ và khỏi chấp ngã.
Sống được như thế sẽ giúp chúng ta hỗ trợ người khác đi cùng con đường.
Những người đang tìm kiếm sự giải thoát cho chính mình thường có thể cảm
nhận và cuốn hút theo tinh thần giải thoát ở người khác. Đây là những lời
dạy của Đức Phật và cơ hội để thực hành chúng dành cho tất cả mọi người.
Chương 9
Bốn
Pháp Cơ Bản
Có bốn pháp cơ bản, được coi là xác thực, lâu đời, được lưu lại từ
truyền thống xưa.
Giá trị của chúng không hề
suy chuyển từ xưa đến nay, và sẽ còn mãi vững bền. Người trí, dầu là tỳ
kheo hay cư sĩ, đều không thể bài bác. Bốn pháp cơ bản đó là gì?
Vô tham là một điều dạy cơ bản, được coi là xác thực, . . . vô sân là
một điều dạy cơ bản, . . . chánh niệm là một điều dạy cơ bản, . . .
chánh định là một điều dạy cơ bản. . ..
Tham diệt, ta sẽ được an,
Không còn dấu
vết hận thù trong tim;
Với định và
niệm bên trong,
An bình, ổn
định ta thì được ngay.
Anguttara
Nikaya iv.29
(Tăng
Chi Bộ iv.29)
Trong bài thuyết
pháp này, Đức Phật đề cập đến bốn nguyên tắc cơ bản: vô tham, vô sân,
chánh niệm và chánh định. Bốn pháp căn bản này, được nhắc đến trong nhiều
bài thuyết pháp của Đức Phật, đôi khi còn được coi là bốn chủ đề chánh
trong cuộc sống tâm linh. Khi Đức Phật dạy rằng chúng xác thực, lâu đời,
truyền thống, rằng chúng có giá trị hôm nay cũng như trong quá khứ, và
chúng sẽ vẫn còn giá trị trong tương lai, chúng ta có thể kết luận rằng
chúng không phải chỉ đặc biệt trong riêng cộng đồng tôn giáo của chúng ta,
tính xác thực của chúng không bị chi phối bởi lòng tin nào –hay sự thiếu
lòng tin nào- của chúng ta. Giải thoát khỏi tham, giải thoát khỏi sân,
chánh niệm và định tâm là điều kiện thiết yếu cho một cuộc sống an lạc,
cũng như trên con đường đạo. Và sự tuyên bố của Đức Phật rằng chúng sẽ
luôn có giá trị đối với ngày nay vẫn đúng cũng như đã đúng hơn 2500 năm
trước; chân lý đó dễ dàng được chấp nhận. Nếu chúng ta có thể nhận ra
được rằng chúng mang một thông điệp cho quá khứ, hiện tại và tương lai,
thì điều này có thể tạo cho chúng ta đủ lòng tin vào những lời dạy này,
cho phép chúng ta phát triển được những trạng thái tâm căn bản này ở bản
thân.
Chúng ta đã có sẳn bốn đặc tính này. Phát triển chúng có nghĩa là làm cho
chúng đủ mạnh để có thể nghiêng cán cân thăng bằng về hướng chúng và chế
ngự sự yếu đuối thường có khuynh hướng cản trở chúng trong ta. Trái ngược
lại với chánh niệm là vô tâm, trái ngược với định tâm hay sự tự tại là sự
bất ổn tình cảm, trong khi vô tham và vô sân thì trái ngược lại, hiển
nhiên, là với tham và sân. Ta càng bồi dưỡng sự thánh thiện, tinh xảo
trong ta, thì các yếu tố uế nhiễm, xấu xa càng khó phát khởi, cho đến một
ngày nào đó, ta sẽ không còn phải đối phó với chúng ở bất cứ nơi đâu, lúc
đó nội tâm an bình, thanh tịnh sẽ hiển bày.
Chánh Niệm
Chúng ta bắt đầu với chánh niệm, vì chánh niệm luôn đứng trước tiên trong
bất cứ sự thực hành nào. Không có chánh niệm sẽ không thể học hỏi được gì,
nói chi đến việc tự hiểu mình. Tất cả chúng ta đều sử dụng chánh niệm
trong những sinh hoạt hằng ngày như quay đúng số điện thoại, dán đủ tem
trên bì thư. Ở sở làm, ta cũng cần có chánh niệm mới có thể hoàn thành
công việc của mình tốt đẹp, vì nếu không ta sẽ khó giữ được việc làm.
Loại chánh niệm đó thật rất cần thiết, vì nó là một đòi hỏi thiết yếu
trong cuộc sống. Chúng ta bắt buộc phải sử dụng nó vì không còn cách chi
khác nữa. Chúng ta sử dụng nó cùng với một mục đích như khi ta làm việc -chính
là để sinh tồn. Tuy nhiên, sự chánh niệm này chỉ có thể biến thành một
yếu tố tâm linh, nếu như ta áp dụng nó ngay trên bản thân mình. Chúng ta
có thể bắt đầu bằng cách quán sát bản thân một cách khách quan -bằng cách
đó để có thể hiểu được bản thân- và dựa vào đó thay đổi cho tốt hơn.
Chánh niệm chỉ biến thành một yếu tố tâm linh khi nào ta áp dụng nó ngay
nơi bản thân, và sự quán thân chánh niệm này là một công việc rất thú vị.
Chúng ta sẽ cần thường xuyên chánh niệm về môi trường quanh mình -đó là,
biết chuyện gì đang xảy ra quanh ta- nhưng không phải để chỉ trích hay
phán đoán, vì tính phán đoán là một trạng thái tâm tiêu cực, có tác động
tai hại. Ngay cả khi thế giới quanh ta trở thành đối tượng của sự chú tâm
của ta, có nhiều trường hợp, trong đó, ta có khuynh hướng phản ứng lại,
nhưng nếu có chánh niệm, ta cũng có được đôi điều lợi ích từ đó. Thí dụ,
khi chúng ta phản ứng lại với những gì một người nào đó đã nói, hay với vẻ
bề ngoài, với hành động của ai đó, thì sự chánh niệm có thể biến đổi mọi
thứ, bằng cách cho ta một cái nhìn sáng suốt hơn về cuộc sống nội tâm của
mình. Rồi mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng vì sao quanh ta hay trong ta được an
lạc. Mọi người đều bị dính mắc trong chính các phản ứng của họ, lúc nhiều
lúc ít, đôi khi ồn ào, lúc lắng đọng. Có những lúc ta phải ghìm nén các
phản ứng của mình, lúc khác lại cho nó tuôn tràn. Kết quả có thể khá nguy
hại, vì tư tưởng và hành động tiêu cực có thể chất chứa lại trong tâm, là
nơi chúng sẽ được hình thành chặt chẽ hơn, để tới lần sau chúng sẽ còn
bùng nổ nhanh chóng hơn.
Chánh
niệm khiến ta nhận biết được các phản ứng này, nhận thức được rằng chúng
không đem lại lợi ích gì cho ta. Đúng ra, cá nhân hay hoàn cảnh đã châm
ngòi cho các phản ứng tiêu cực của ta không hề hấn gì. Chỉ có chúng ta là
bị thiệt thòi.
Chánh niệm giúp chúng ta ý thức được các trạng thái tình cảm, các đối
tượng suy tư, và cho phép ta chuyển hoá các tình cảm tiêu cực thành tích
cực. Đặc biệt trong những trường hợp khi ta có thể cảm nhận được các trạng
thái tình cảm của ta, trước khi ta bị dính mắc vào đó. Một khi đã vướng
vào các trạng thái tiêu cực, thì tự tháo gỡ ra sẽ khó khăn hơn nhiều. Điều
quan trọng là ta phải thường xuyên mang chánh niệm soi đến các trạng thái
tình cảm của mình. Một trạng thái u buồn thường khiến ta tô lên mọi thứ
một màu đen, ngược lại một trạng thái vui vẻ, dễ chịu lại thay đổi hoàn
toàn cái nhìn của ta. Dĩ nhiên đây là cách người ta tạo ra những cái nhìn
khác nhau về sự vật. Chúng ta thường hoang mang khi người khác không nhìn
thấy vấn đề giống như ta nghĩ, rồi kết luận rằng họ không biết phân biệt,
kém thông minh, trong khi thật ra là do trạng thái tình cảm của họ đã
khiến họ phản ứng khác ta.
Điều quan trọng nhất trong công phu tu tập là chánh niệm về thân, bao gồm
ý thức về các oai nghi và chuyển động của thân. Cũng dễ thực hành điều
này vì thân thì rõ ràng, xúc chạm được, trong khi các trạng thái tình cảm
và quá trình tư duy thì không thể nắm bắt và ta chỉ có thể kinh nghiệm
được chúng khi chúng đã xảy ra trong tâm. Chánh niệm về thân là cần thiết
để sinh tồn, nhưng tôi đoan chắc rằng một vài chuyển động vô thức thông
thường có thể bộc lộ khá nhiều về ta. Nếu chúng ta có thể quán sát mình
đủ cẩn thận -chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi như thế nào - ta bắt đầu nhận
biết về các ngôn ngữ của thân, cách nó biểu lộ tư tưởng, tình cảm của ta,
và chúng ta sẽ có thể, nếu cần, khiến chúng trở nên khéo léo tế nhị hơn.
Lý do tầm thường nhất để chánh niệm về thân trong những sinh hoạt hằng
ngày là để ta tránh đứt tay, té ngã, hay đụng đầu. Nếu chúng ta không
phải lo về những tai nạn này, ta sẽ không chú tâm, cho đến khi tai nạn xảy
ra khiến ta phải ân hận sau này. Dầu thế cũng chưa chắc là ta có thể hiểu
được mình, ngoài việc ngầm nói 'tôi là như thế đó'. Tuy nhiên, nếu chúng
ta có thể sử dụng lợi thế của người quan sát về các hành động của mình, ta
sẽ có khả năng để phán đoán những sửa đổi nào là cần thiết và khả thi.
Dĩ nhiên việc đọc được các hành động đầy cá tính của người khác thì dễ
dàng hơn là tự nhận ra các ngôn ngữ của bản thân mình. Thật vậy, đó là
cách chúng ta đánh giá đúng nhất về người. Chúng ta thấy dễ hiểu người
khác qua hành động của họ hơn là ý nghĩa lời nói của họ. Chuyện thường
xảy ra là ai đó có thể nói đúng, nhưng cách nói không thuyết phục. Đó bởi
là vì thân và lời nói không đi đôi với nhau, và chúng ta có thể cảm nhận
được điều đó -ta cảm thấy thân họ biểu lộ điều gì đó khác với lời họ nói.
Rõ ràng, những sự quán sát đó nơi người khác có thể giúp ta phát hiện được
sự khác biệt giữa lời nói và cử chỉ của mình, và bằng cách đó giúp ta hiểu
được bản thân hơn. Sự quán sát khách quan như thế không phải là chỉ trích
hay phán đoán. Đơn giản đó chỉ là cách để học hỏi từ người khác những hành
động, cử chỉ nào là ích lợi hay có hại.
Chúng ta có thể thực hành chánh niệm ở bốn lãnh vực: thân, thọ, tâm và
pháp (dầu các lãnh vực này tương quan nhau, và không thực sự tách biệt).
Bốn lãnh vực này thường được gọi theo truyền thống là bốn căn bản chánh
niệm. Chánh niệm về thân, chúng ta đã vừa bàn qua. Chánh niệm về thọ là
sự ý thức xem một cảm thọ là lạc, khổ hay trung tính. Chánh yếu là những
cảm giác ở nơi thân, nhưng cũng liên quan đến cảm xúc, và chúng có thể dẫn
đến những phản ứng mãnh liệt trong tâm tư ta. Các cảm giác đau đớn, khó
chịu nơi thân có thể kèm theo trạng thái tâm bực dọc, cũng như những phản
ứng tâm tiêu cực. Như thế ta có thể thấy rằng cảm giác, tình cảm và tâm
thức đi chung với nhau.
Các trạng thái tình cảm khó nhận biết hơn là các phản ứng tâm thức, hình
thành nội dung tư tưởng của ta. Trong bốn lãnh vực, chúng ta chánh niệm
về lãnh vực nào không quan trọng, nhưng ta phải đặt trọng tâm vào một
trong bốn nếu ta muốn hiểu rõ về mình hơn, vì chỉ khi biết rõ mình, ta mới
có thể biết được những gì đang xảy ra trên thế giới. Một khi ta đã trở
thành đối tượng quán sát của chính mình thì rõ ràng thế giới quanh ta, tha
nhân, và cả bản thân chúng ta, tất cả đều có những đặc tính cơ bản giống
nhau.
Các nghiên cứu khoa học thành công có thể mở mang thêm tri thức cho ta,
nhưng chỉ có thế; chúng không mang được cho ta nội tâm an bình. Ngược lại,
sự quán sát bản thân có thể không làm tăng thêm kiến thức của ta, nhưng nó
phát triển trí tuệ và mang lại thanh tịnh cho ta. Chính vì nhiệm vụ này
mà ta cần đến chánh niệm. Chúng ta sẽ hiểu được một trong sáu tỷ người
trên thế giới này, và nhận thức được rằng dưới những vỏ bề ngoài khác biệt,
thực sự chúng ta rất giống nhau. Ta cũng sẽ khám phá ra được điều gì ích
lợi cho ta và điều gì có thể kéo ta xuống vực thẳm.
Đức Phật luôn đặt chánh niệm ở trọng tâm của con đường hành đạo, vì nhờ có
chánh niệm ta mới có thể hiểu được bản thân và thế giới đúng như chúng là.
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với một loại thực tại qua đó mọi người có
vẻ như là một thực thể tách biệt, mỗi cá nhân hướng đến những gì họ thích;
tầng thức ở đó ta tự đồng hóa mình với người thân cận, với sở hữu, với
công việc của mình, và trong phạm trù đó ta lại sống tách biệt với những
người khác và môi trường chung quanh. Ở cấp độ đó sẽ không bao giờ có sự
bình an vì mỗi người là một vương quốc biệt lập, không thể xâm phạm. Với
công phu tu tập chánh niệm, chúng ta có thể nhận ra rằng trong thực tế tất
cả chúng ta đều tương quan, liên hệ lẫn nhau, hợp thành một tổng thể mà ta
không thể có cách nào hiện hữu khác hơn. Tất cả chúng ta đều thở cùng một
bầu khí quyển, cùng chết nếu không có nó; ta chia sẻ tất cả mọi điều kiện
căn bản để cùng hiện hữu, kể cả việc tùy thuộc lẫn nhau. Qua chánh niệm
ta biết rằng thân và tâm có thể gây bao khó khăn cho ta, và điều đó không
ngoại lệ chúng sanh nào. Như thế ta sẽ củng cố thêm tình đoàn kết với tất
cả chúng sanh, là một điều rất quan trọng trong việc làm giảm bớt khó khăn
cho ta.
Vô Sân
Vô tham và vô sân là những điều dạy khác mà Đức Phật cũng coi là
căn bản đối với đời sống đạo. Không ai nghi ngờ về sự đáng có mặt của
các đức tính này, nhưng một số người nghĩ rằng sân là một phản ứng hợp
lý đối với những điều bất thiện. Cũng như phần lớn các quan điểm của
chúng ta, ý nghĩ này, dầu là rất phổ biến, cũng hoàn toàn sai. Theo Đức
Phật, chúng ta chỉ có thể đạt được giải thoát bằng cách buông xả tất cả
mọi quan điểm của mình một cách rốt ráo, và thay thế chúng với chân lý
của những kinh nghiệm thực chứng.
Sân nộ đối với những điều xấu không thể làm giảm đi bao tiêu cực trên thế
gian. Nó chỉ làm tăng trưởng thêm sân hận trong lòng ta, khiến ta thêm
khổ sở. Và điều này lại cộng thêm vào niềm hận thù chung trên hành tinh
của chúng ta, khiến bao vấn đề của ta bị nhân lên, dầu trong gia đình, ở
sở làm hay giữa các quốc gia.
Sân nộ dưới hình thức nào cũng làm kiệt quệ tình cảm vì nó tiếp tục xâm
lấn sự bình an trong tâm ta. Nhiều người chẳng bao giờ đi đến chỗ thực sự
bắt đầu giảm lòng sân hận của mình vì họ quan niệm rằng họ có quyền căm
ghét bất cứ điều gì làm tổn hại họ. Họ đã hoàn toàn đồng hoá mình với
những gì mà họ xem là đúng, và cảm thấy có quyền được bày tỏ sự phẫn nộ
đối với những gì họ nghĩ là sai, đưa đến một kết quả không thể tránh khỏi
là không có hoà bình trong tâm họ cũng như trong thế giới quanh họ. Trái
lại, chỉ có một cuộc chiến dằng co trong tâm họ giữa sự chấp nhận và kết
tội. Chính Đức Phật đã nói, hận thù không thể giải hận thù, chỉ có tình
thương mới làm được điều đó.
Chấp nhận được điều gì mà mình cho là xấu là một thách thức lớn. Chúng ta
có thể khởi đầu bằng cách tự hỏi mình -khi ta cảm thấy sân, hờn hay giận
ghét, khinh thị ai- những tình cảm này có đem lại điều gì lợi ích cho ta
không? Đây là bước khởi đầu nên ta rất cần đến sự trợ giúp của chánh niệm.
Dầu tình cảm sân hận của ta đúng hay sai, đó không phải là điểu đáng bàn,
quan trọng là chúng ta cảm thấy thế nào trong nội tâm. Một khi đã thực
tập chánh niệm về các tình cảm sân hận, cay cú trong ta một vài lần, ta sẽ
nhận thức được rằng trạng thái tâm tương ứng với các tình cảm ấy không dễ
chịu chút nào. Sẽ có lúc những câu hỏi sau khởi lên trong ta: 'Tất cả là
cho cái gì? Tại sao tôi phải khiến cuộc sống của tôi thêm khó khăn với
các tình cảm này?' Suy cho cùng, người mà ta căm ghét, khinh bỉ hay không
chịu nổi thường không biết chi nhiều về các tình cảm của ta. Phần lớn các
tình cảm này cũng chỉ là những ý nghĩ trong đầu ta vì ta muốn tránh sự va
chạm, cãi vả hay đối đầu công khai có thể xảy ra từ việc bộc lộ chúng ra
bằng lời nói.
Ở
một giai đoạn nào đó khi ta đã đạt được tri kiến, ta sẽ nhận thức được mức
độ mà tư tưởng bất thiện có thể làm nẩy sinh ra những trạng thái tâm không
bình yên, hoang vắng, ngăn cản mọi tình cảm vui vẻ, phấn khởi trong ta, và
sân hận có thể biến thành trạng thái điên cuồng như thế nào, làm phát sinh
những sự nung nóng tình cảm đáng sợ, khiến người ta giận đến tím tái.
Nếu muốn chuyển đổi, ta phải nhận ra rằng chỉ tự mình ta tạo ra cuộc sống
nội tâm của mình, không ai khác chịu trách nhiệm cho việc đó. Vì thế, ta
cần phải có khả năng nhận diện được sân hận, oán hờn hay ghẻ lạnh khi
chúng phát khởi trong ta, với sự hiểu biết rằng chúng không đem lại chút
hạnh phúc nào cho ta. Khi đó, có lẽ ta cũng nên 'vun trồng' điều ngược
lại - như Đức Phật đã dạy- dầu rằng việc thay thế lòng sân hận, nhẫn tâm
với lòng từ bi thì không dễ.
Điểm mấu chốt của cả quá trình này là sự nhận thức được rằng những tình
cảm tiêu cực này chỉ làm hại chính ta. Càng có nhiều sân hận, oán thù
trong lòng, cuộc sống của ta càng khó khăn, và ta càng thấy xa cách với
mọi người. Tuy nhiên, điều lợi ích lớn nhất của các trạng thái tình cảm
này -nếu chúng ta có thể quán niệm chúng- là nỗi đau khổ khiến chúng ta
thực sự muốn thay đổi điều gì đó. Những người có tánh sân thường dễ đi
theo con đường đạo vì họ không có được sự an bình trong nội tâm.
Điều quan trọng ở giai đoạn này là phải biết rằng khi ta tự quán sát bản
thân thì ta mới có thể có những chuyển hoá sâu xa. Sự chuyển hoá này
không thể thay đổi cả thế giới -ngay cả Đức Phật hay chúa Jesus của
Nazareth cũng không làm thế được. Thế giới ngày nay rất khác thế giới của
2500 hay 2000 năm trước. Dân số đã tăng lên nhiều và đã có biết bao tiến
bộ kỹ thuật vượt bực. Nhưng những khó khăn của cá nhân chúng ta căn bản
cũng như xưa, vì lòng hận thù, chiến tranh và khổ đau vẫn luôn tiếp diễn.
Chúng ta khó thể biến thế giới thành tốt đẹp hơn, nhưng chúng ta có thể
khiến cá nhân mình tốt hơn, và đó là điều tốt đẹp nhất ta có thể đóng góp
cho thế giới.
Vì
thế không ích lợi gì để khiển trách người khác hay kết tội họ thiếu trách
nhiệm. Khi chúng ta có thể tạo ra an bình trong nội tâm, là ta đã tạo ra
thêm hoà bình trên trái đất này, bởi ít nhất là cá nhân mình, và cũng có
thể ảnh hưởng đến những người quanh ta -một sự ảnh hưởng hoàn toàn phụ
thuộc vào sức mạnh và ổn định của một nội tâm thanh tịnh. Một khi đã biết
điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta, rằng đó là bổn phận của ta, và
ta đã quyết định không muốn tiếp tục sống như trước đây, chúng ta sẽ khám
phá ra mình tự nhiên thường kiểm soát các cảm xúc trào dâng bằng cách
chánh niệm hơn về các cảm thọ của mình, và bằng cách đó chúng ta thoát
khỏi những dằn thúc, xung đột nội tâm. Ta nhận ra rằng mình cảm thấy bực
bội vì không có được điều mình muốn, và giận dữ khi phải lấy cái ta không
thích, và ta cũng sẽ thấy rằng sự phản kháng lại những sự việc này cũng có
thể được chấm dứt.
Với sự hỗ trợ của chánh niệm và phương pháp tự quán sát mình do Đức Phật
đề ra, chúng ta đã ở tư thế sẵn sàng để bắt đầu vun trồng những tình cảm
tích cực, trái ngược lại với các tình cảm tiêu cực này. Khó thể chuyển
đổi sân hận thành thương yêu, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể thay thế
sân hận với bi mẫn. Nếu ai có gây khó khăn cho ta, trước hết ta có thể
nhận ra rằng chính họ cũng phải đối đầu với bao vấn đề như chúng ta. Ta
phải nhớ rằng người này suy cho cùng cũng không khác gì ta, những sự khác
biệt chỉ là ở ngoài mặt. Chỉ cần liên hệ với người khác, ta sẽ nhận ra
rằng tất cả chúng ta đều tương quan nhau trên một bình diện sâu hơn.
Người khác cũng lập tức chia sẻ kinh nghiệm của bản thân họ khi ta tiếp
chuyện với họ, nhìn họ hay đơn giản là ở cùng một nơi với họ. Đồng thời ta
cũng không thể biết những gì họ đã trải qua –thí dụ, những mất mát, đau
khổ gì- nên nếu ta xem họ như những người không đáng cho ta quan tâm,
hoặc nghĩ họ không tốt bằng ta, thì hoàn toàn không thích hợp. Điều này
đúng trên nhiều lãnh vực, dầu trong gia đình, ngoài xã hội, hay trên cả
thế giới. Là con người ta phải biết tất cả những gì tốt, xấu trong nội
tâm mình. Sống theo con đường đạo có nghĩa là phải phát triển, củng cố
cái thiện để điều xấu bị đẩy lùi về phía sau. Có lẽ trong muời người thì
chín đã sống theo nguyên tắc là tự bằng lòng với những cái tốt của mình,
và biện minh cho cái xấu bằng cách đổ lỗi cho người khác, nhưng ai muốn đi
theo con đường đạo thì phải chọn lựa một thái độ hoàn toàn khác.
Có
rất nhiều phương cách để vun trồng vô sân. Cách tốt nhất là quán từ bi –
metta bhavana, là điều chắc chắn có thể đóng góp đáng kể vào việc phát
triển một thái độ tích cực hơn. Tuy nhiên, chỉ có thế thì chưa đủ, cuộc
sống hằng ngày cho ta biết bao cơ hội để thực hành bằng cách tỏ ra thân
thiện, dễ thương. Sự bình đẳng trong cách đối xử cơ bản với người, sự
liên hệ, tình thương yêu, bằng hữu, chỉ có thể được phát triển bằng cách
bồi dưỡng cho chúng thêm lên trong mọi hoàn cảnh. Thí dụ, ta có thể phát
triển nó đối với người ta mới quen, với những người ta chỉ có liên hệ
chung chung trong các sinh hoạt đời thường. Chúng ta cần phải nhắc nhở
bản thân về mục đích của mình từng giây phút trong ngày, vì tâm rất dễ
quên. Ta lại cần đến chánh niệm -để nhớ thực hành.
Tất cả chúng ta đều có thể chọn lựa điều mình muốn tìm hiểu, khám phá thêm,
nhưng buồn thay, chúng ta ít khi tò mò về những gì đang xảy ra trong tâm
ta. Chỉ có chánh niệm mới giúp ta bắt đầu nhận ra cách ta đối xử với
những người quanh ta trong cuộc sống hằng ngày như thế nào –có thể là một
cách bình thường, hoặc với lòng sân nộ hay với sự thân thiện. Đó là một
sự thực tập không ngừng nghỉ, luôn hiện diện để tạo ra những ứng xử thân
thiện, cởi mở với tha nhân, nhưng cần thiết phải làm thế. Ngay cả như khi
ta không thể chịu đựng nổi ai đó, chúng ta cũng không có lý do chính đáng
để biện minh cho tình cảm của mình. Điều quan trọng là đến một lúc nào
đó ta phải hiểu rõ ràng, thấu suốt rằng nếu ta tiếp tục với quan điểm đó,
thì ta sẽ không thể nào chuyển hoá được gì. Lòng sân hận hiện hữu, nhưng
ta không có lời biện minh cho nó. Đó là một yếu điểm của bản tính con
người mà ta bắt buộc phải chấp nhận, mà ta không thể thiếu, nhưng ta có
thể chuyển hoá nó thành ra sức mạnh của ta, đó là tình thương yêu.
Vô Tham
Phần lớn những
người có tánh tham thì không dễ khuyên họ tu tập như là những người hay
sân vì họ thường cảm thấy hạnh phúc hơn. Tham không khiến cho cuộc sống
nội tâm của ta bị xáo trộn như là với sân. Đó chỉ là một cảm giác khó
chịu: thí dụ như khi chúng ta không có được những gì mà chúng ta muốn -
dầu rằng nếu điều đó xảy ra quá thường- tham có thể trở thành sân hận đối
với hoàn cảnh hay người mà đã không đem lại cho chúng ta sự thoả mãn. Trừ
điều đó ra phần lớn những người có tâm tham thường có một sự dễ dàng hơn
vì họ có thể đạt được một mức độ thoả mãn nào đó một cách dễ dàng vì lúc
nào họ cũng hướng đến việc hưởng các lạc thú ngay lập tức. Kết quả có thể
là chánh niệm về sự đau khổ ở một mức độ thấp hơn, và do đó một mức độ
thấp hơn trong việc tham gia vào sự tu tập hơn là những người hay sân.
Đồng thời một người có tánh tham thường cảm thấy sự thực tập của họ được
nhiều kết quả hơn. Vì thế chúng ta có thể kết luận rằng về phương diện
này cả hai loại người tham và sân đều có những thuận lợi và bất thuận lợi
riêng.
Để thoát được khỏi tham là một lý tưởng sâu sắc. Căn bản thì tham là một
hình thức của ngã chấp: chúng ta chỉ chú tâm đến những gì mà chúng ta tham
cầu cho bản thân và xếp đặt sao cho cuộc đời ta được dễ chịu, thoải mái,
trong lúc chúng ta bỏ qua, không để ý đến nhu cầu của người khác, ngay cả
khi chúng ta ở trong hoàn cảnh có thể giúp đỡ họ. Ở một bình diện sâu hơn
là sự có mặt của cái mà trong thuật ngữ Phật giáo gọi là “ước muốn được
hiện hữu”, là nguyên nhân sẽ tiếp tục mang chúng ta trở lại thế giới này
qua sự tái sinh. Sự thôi thúc mãnh liệt nhất trong tất cả mọi thôi thúc –muốn
được sống- là một tướng của tham, che giấu sự sợ hãi cái chết. Sợ mất sự
hiện hữu trong hình tướng hiện tại của chúng ta. Chúng ta có thể có vài
khái niệm về những gì sẽ đến sau đó, nhưng cái thân mà qua đó chúng ta đã
tự đồng hóa mình sẽ hủy hoại. Ứơc muốn được hiện hữu là một động lực sâu
xa đứng phía sau của sân hận cũng như những tham cầu khác.
Dĩ nhiên lòng tham cầu
không chỉ là sự muốn có mặt ở đây. Chúng ta còn muốn một cái gì hơn là
cái cơ thể vật lý này, chúng ta muốn được là ai đó, muốn được công nhận,
được thương yêu, và hỗ trợ bởi những người quen biết, thân thuộc –và chúng
ta muốn được đẹp đẽ, thông minh, thành đạt, giàu sang hay danh tiếng.
Nhưng bất cứ gì mà ta muốn có, tựu trung lại cũng là -muốn được hiện hữu:
tất cả cũng đều bắt nguồn từ ước muốn đó. Do chưa được giác ngộ, tất cả
chúng sanh đều có sự thôi thúc này, và nó càng phát triển mãnh liệt, ta
càng kiên quyết thỏa mãn nó.
Chúng ta có thể cố gắng để tạo cho mình một cảm giác về giá trị tự thân:
phải sở hữu những gì đáng giá. Chúng ta có thể cố gắng đạt được một cảm
giác về giá trị của mình, và tạo ra chúng bằng các công việc hay nghề
nghiệp của mình. Dầu có thể chúng ta cũng biết rằng tất cả những điều đó
điều khó thể thực hiện, ta vẫn hành động ngược lại, vì chúng thực sự khiến
ta có cảm giác có mặt, hiện diện, và tạo cho chúng ta cảm giác về sự hiện
hữu của bản thân qua cảm giác tạm bợ rằng chúng ta xứng đáng là cái gì đó.
Ý
muốn được hiện hữu mang nhiều bức xúc trong đó. Tất cả chúng ta đều biết
thật khó để tự ngồi xuống, tĩnh lặng và không làm gì hết -chỉ có mặt mà
không suy nghĩ, không hành động, không đọc hay viết, không coi truyền hình,
nghe radio hay điện thoại – và đó là vì không có ai ở đó để xác nhận rằng
chúng ta là một ai đó. Đó là lý do thực sự của sự bức xúc, áp lực ta phải
làm điều gì đó -bất cứ là gì. Đồng thời chúng ta cũng luôn tìm ra những
lý do hoàn toàn chánh đáng để làm những gì đó: ta sẽ không bao giờ thấy sự
chấm dứt của trách nhiệm và công việc, mỗi ngày lại mang đến cho ta những
công việc mới để làm, vì thế không bao giờ ta có thể hoàn thành tất cả.
Do
đó một cách tự nhiên và đáng tiếc là ước muốn được hiện hữu cũng ảnh hưởng
đến việc hành thiền của ta. Các tư tưởng phát sinh để xác nhận rằng ta có
mặt ở đây. Ngay giây phút mà sự suy nghĩ dừng lại, thì sự bức xúc, hay
ngay cả nỗi sợ hãi, cũng phát khởi -‘Tôi sẽ ở đâu nếu tôi không suy tư?’-
và rồi ngay lập tức những luồng tư tưởng mới lại thành hình. Bất cứ ai
mới tọa thiền đều biết rằng rất khó để đạt được trạng thái an tĩnh là nơi
khi không có gì xảy ra và cũng không cần phải tự xác nhận mình, vì tất cả
những ước muốn của chúng ta đều được dựa trên những ước muốn được xác nhận,
được bao gồm trong một cái gì đó.
Phương cách để phát triển vô tham là kiểm soát tư tưởng của chúng ta để
xem coi chúng có quá tập trung vào bản thân không, hay chúng cũng bao gồm
người khác, dầu gần hay xa ta. Vô tham cũng có thể phát triển đến độ ta có
thể chấp nhận cái nhìn của người khác, bên cạnh cái nhìn của ‘tôi’.
Vô
tham phát sinh cùng lúc với tâm rộng lượng, và niềm vui được chia sẻ.
Thực ra tâm rộng lượng có thể được huân tập, và một khi ta đã thực tập
được nó, ta luôn vui mừng hạnh phúc được có cơ hội để chia sẻ mà không có
ý nghĩ muốn được nhận trả lại điều gì. Một khi sự chia sẻ đã trở thành
một bản năng tự nhiên thứ hai, thì những rào cản giữa ‘tôi’ và ‘anh/chị’
sẽ biến mất, hay ít nhất cũng giảm bớt. Vì suy cho cùng, nếu ta có thể
mang lại hạnh phúc cho ai đó, là chúng ta đã mang niềm vui đến cho thế
gian, và chính bản thân chúng ta cũng đầy an vui như thế. Có một cách suy
nghĩ rất phổ biến nhưng hoàn toàn sai lầm là chúng ta chỉ có niềm vui từ
những gì mang đến cho ta niềm vui. Thế giới sẽ khá buồn thảm nếu sự thật
là như thế. Câu hỏi chúng ta cần đặt ra cho bản thân là: ‘Thật sự điều
gì mang lại niềm vui cho tôi và tôi có thể san sẻ bao nhiêu niềm vui đó
cho người khác?’ Niềm hoan hỷ thực sự đó là cách ta nhân rộng thêm niềm
vui trên thế giới này.
Dầu cho đó là người hàng xóm hay một người ở thật xa xôi, nếu họ có được
hạnh phúc, niềm vui thì ta cũng sẽ được những ảnh hưởng tích cực. Vì ta
thở cùng một bầu không khí, tất cả chúng ta đều tham gia vào lương tâm
toàn cầu, trong đó, niềm vui, niềm hạnh phúc, tánh tham, không tham, sân
hận và thương yêu đều có những dấu ấn riêng của chúng. Vì thế ta càng có
khả năng khơi nguồn được những tình cảm tích cực nơi bản thân và san sẻ
điều đó, thì thế giới càng trở nên tốt đẹp hơn.
Định
Lãnh vực thứ tư của những điều dạy căn bản là khinh an,
thiền định. Tâm định (samma Samadhi, trong tiếng Pali) là kết quả
viên mãn của công phu hành thiền rốt ráo, đòi hỏi sự nhất tâm, trú tâm
vào chỉ một đối tượng. Tâm bình thường trong cuộc sống hằng ngày của ta
luôn nhảy từ ý này sang ý nọ, và tiếc thay, nó cũng không khác khi ta
bắt đầu hành thiền, vì đã quen suy nghĩ, tính toán như thế qua bao nhiêu
năm tháng, tâm ta không thể ngay lập tức tách khỏi thói quen đó. Nhưng
nếu ta thường xuyên tạo ra các cơ hội để nó có thể lắng đọng xuống, tâm
sẽ dần dần được tĩnh lặng. Tìm cho ra được điểm dừng của tâm, và trú
tâm vào đó là một chứng nghiệm tuyệt vời. Ai đã từng kinh qua đều biết
nó an lạc đến thế nào. Đối với người chưa từng hành thiền, điều này
nghe có vẻ quá khó, nhưng tất cả mọi người đều có khả năng đó. Giáo lý
của Đức Phật không phải dành cho các vị thầy tâm linh thông thái mà là
cho những người bình thường, cho chúng ta. Chúng ta cũng có thể học
hành thiền.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải thực hành mỗi ngày để đạt được kết quả. Thân
ta chỉ dễ uốn nắn, mềm dẻo với sự luyện tập thường xuyên, và tâm ta cũng
như thế. Nói chung, chúng ta thường hiểu việc rèn luyện tâm như là một sự
tập trung cao độ. Như thế rất dễ mệt, bất cứ ai đã từng làm những công
việc đòi hỏi sự suy nghĩ nhiều đều đồng ý như thế. Nhưng suy tư là một
tâm hành khó thể đưa ta đến mức độ sâu xa nhất của tâm; chúng ta không thể
chứng nghiệm được bản thể của sự vật chỉ bằng nghĩ suy. Điều đó chỉ có
thể đạt được qua công phu hành thiền – nói là ‘qua cánh cửa của thiền’ vì
sự chứng nghiệm trong thiền không phải là mục đích của việc tu hành theo
Phật giáo, mà chỉ là một bước quan trọng trên con đường đạo, vì chúng ta
không thể nghĩ về sự Tuyệt Đối –ta chỉ có thể chứng nghiệm nó. Dầu ta có
đạt được sự chứng nghiệm hay chỉ tìm được sự an tĩnh sâu lắng, trong lúc
hành thiền, ta vẫn có thể hiểu rằng niềm hạnh phúc mà ta từng kiếm tìm
trong cuộc sống, thực ra nằm ở ngay trong ta. Từ những kinh nghiệm tự
thân, ta biết rằng ta không thể tìm được hạnh phúc qua người khác, vì họ
cũng đang đi tìm hạnh phúc cho chính họ. Chỉ có qua con đường hành thiền,
chúng ta mới có thể tiến đến sự chứng nghiệm được hạnh phúc, tự tại, niềm
vui và sự tuyệt đối nơi chính bản thân, nơi nội tâm ta.
Tâm định tĩnh bắt đầu bằng cách hướng đến một đối tượng thiền quán, và hơi
thở là đối tượng đặc biệt thích hợp cho mục đích này, vì nó hoàn toàn
trung tính: mọi người đều cần đến nó để sinh tồn, và nó có những chuyển
động không dừng nghỉ để tâm có thể trụ vào. Chúng ta cũng có thể thêm vào
đó một tên gọi – thí dụ, ‘an bình’- để tâm có việc gì đó mà làm. Vì vậy,
ta tự nhủ thầm ‘an bình’ khi thở vào, và ‘an bình’ khi thở ra. Sau những
công phu thực hành liên tục, tâm có thể trụ nơi hơi thở, có thể không phải
là hằng giờ không dừng nghỉ, nhưng đủ lâu để buông bỏ quá trình tư duy, và
bước vào những trạng thái sâu lắng hơn. Rồi ta sẽ bước qua ngưỡng cửa để
đặt chân vào những ngõ ngách sâu lắng của tâm.
Điều quan trọng cần nhớ lúc bắt đầu của mỗi buổi hành thiền là ý thức về
lãnh vực thứ tư của chánh niệm -đối tượng của các suy nghĩ của ta- để đặt
tên chúng một cách có ý thức, phù hợp. Lúc đó ta sẽ nhận thức được rằng
phần lớn những suy nghĩ của ta xoay quanh những chuyện của quá khứ hay
tương lai, và ta có khuynh hướng không sống trong phút giây hiện tại, ngay
bây giờ, mà luôn suy tư về những gì đã qua hay mơ mộng đến những gì có thể
xảy ra. Ta trở nên ý thức rằng những suy nghĩ như thế không phải là cuộc
sống thực tế, chúng chỉ là sự bám víu vào quá khứ hay mong đợi ở tương lai.
Ta ý thức được rằng hoàn toàn không thể tiên đoán tương lai hay thay đổi
quá khứ, do đó tốt nhất là hãy sống trong giây phút hiện tại. Chúng ta
chỉ có thể sống ngay giây phút này đây.
Khi thiền quán, ta chỉ có thể ý thức được hơi thở hiện tại; không thể trụ
vào hơi thở trước đó hay hơi thở tiếp theo. Khi bắt đầu hướng tâm chánh
niệm vào hiện tại bằng cách đó, ta sẽ ý thức được ý nghĩa thực sự của
chánh niệm. Bất cứ điều gì sẽ xảy ra trong tương lai hay đã xảy ra trong
quá khứ, không có ý nghĩa gì. Nếu chúng ta nhận thức đủ sâu xa rằng ta
thực sự chỉ sống ngay trong giây phút này, ta sẽ cố gắng để tĩnh thức
trong từng phút giây của cuộc sống. Khi hành thiền, có nghĩa là ta theo
dõi từng hơi thở, nhưng ta cũng phải ý thức đến các vọng tưởng để đặt tên
cho chúng.
Như thế là ta đã thực hành hai trong bốn lãnh vực của chánh niệm (tứ niệm
xứ): chánh niệm về thân (quá trình theo dõi hơi thở) và chánh niệm về đối
tượng của những suy nghĩ của ta (đặt tên các vọng tưởng). Điều này sẽ
giúp chúng ta có thể duy trì sự thực tập chánh niệm suốt trong ngày, vì sự
rèn luyện chánh niệm thường xuyên sẽ đưa ta đến tâm tự tại, định tĩnh,
giúp ta có thể nhìn thế giới này trong một ánh sáng hoàn toàn khác. ‘Cái
tôi’ không còn được coi là một cá thể riêng biệt hay trung tâm của vũ trụ;
thay vào đó, một thế giới hoàn toàn mới lạ với những không gian, vẻ đẹp
chưa từng thấy sẽ mở ra trước mắt ta.
Trên hết, ta sẽ có thể nhận ra được chân lý tuyệt đối, hoàn toàn trái
ngược với chân lý tương đối –thí dụ như là niềm tin rằng mỗi cá nhân ngồi
trên chiếu thiền với những suy nghĩ của chỉ riêng mình.
Sự tự tại hay chánh định, thì cũng giống như vô tham và vô sân, là kết quả
của tâm chánh niệm. Chúng ta càng phát triển tâm chánh niệm, thì tâm phản
quang của ta càng sâu lắng, việc duy trì đời sống tâm linh của ta càng trở
nên dễ dàng hơn. Ta không nên nghĩ rằng mình phải đạt được tất cả ngay lập
tức, chỉ vì chúng ta đã có ý hướng tu tập. Cũng như mọi thứ trong cuộc
đời, ta phải tiếp tục mỗi ngày, từng bước từng bước, dần dần tiến lên.
Sau này, khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả hai, ngoại hình lẫn nội tâm của ta
đều thay đổi. Ngoại hình thì ta đã già hơn, trong khi nội tâm ta có biết
bao chuyển hoá, bao tái tạo. Ngôn từ ta sử dụng có thể không thay đổi
nhưng một kinh nghiệm mới mẻ về cuộc đời đã phát sinh. Đến lúc này ta
phải thấy rõ rằng bốn điều dạy cơ bản về vô tham, vô sân, chánh niệm và
chánh định, lúc nào cũng quan trọng, đối với bất cứ tôn giáo nào, và cho
bất cứ con đường tâm linh nào.
Chương 10
Tâm Từ Bi
Những ai muốn đạt tới an lạc thường nên học hạnh thẳng thắn, khiêm cung,
biết sử dụng ngôn ngữ từ ái, những kẻ ấy biết sống đơn giản mà hạnh phúc,
nếp sống từ hoà, điềm đạm, ít ham muốn và không đua đòi theo đám đông.
Những kẻ ấy sẽ không làm bất cứ một điều gì mà các bậc thức giả có thể
chê cười.
Và đây là điều họ luôn luôn tâm niệm:
Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc,
tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành,
những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những
loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta
không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh
và những loài sắp sinh.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng
của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn
đốn.
Như một bà mẹ đang
đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất. Chúng ta hãy đem lòng từ
bi mà đối xử với tất cả mọi loài.
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và
muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất
cứ một cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán
hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là
còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là
nếp sống cao đẹp nhất.
Không
lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành
trí giác, hành giả chắc chắn sẽ vượt khỏi tử sinh. (7)
Metta
Sutta, Nipata Sutta i.8
(Kinh
Từ Bi, Kinh Lời Phật Dạy i.8)
(7) Thiền Môn Nhật Tụng, Thiền Sư Nhất Hạnh, NXB Tôn Giáo 2000, trang 23
Bài kinh về lòng từ bi -Karaniya-metta-sutta trong tiếng
Pali- là một trong những bài kinh nổi tiếng nhất của Đức Phật. Kinh này
nằm trong những chương cổ nhất trong bộ đại tạng kinh Pali, kinh Nipata,
là kinh được tất cả các nhà học giả coi như những lời dạy xác thực của Đức
Phật.
Bài kinh ngắn và xúc tích này bàn đến ba lãnh vực trong giáo lý của Đức
Phật, được biết đến trong tiếng Pali như là sila, samadhi và
panna, thường được dịch là giới, định, và tuệ. Trong thuật ngữ Phật
giáo, trí tuệ đồng nghĩa với cái thấy nội tâm và luôn được nhắc đến như là
sự thật tuyệt đối, hay chân đế, vì thế kinh này chỉ cho chúng ta con đường
đi từ một cuộc sống của chúng sinh tầm thường đến trạng thái giác ngộ cao
siêu. Kinh dẫn ta đến đó qua con đường của tình thương yêu: trong đoạn
kinh này chúng ta được nghe về một tình cảm đối với tất cả chúng sanh, một
tình cảm được diễn tả như là tình thương của một người mẹ. Tình mẫu tử chỉ
là một ẩn dụ, diễn tả một đời sống tình cảm tràn đầy thương yêu, không kể
đó là của người nam hay nữ.
Sutta có nghĩa là ‘bài thuyết giảng’, metta là ‘từ bi’, và
karaniya là ‘biết thế nào’. Đức Phật không chỉ nói về tình thương
yêu phải như thế nào; Ngài còn hướng dẫn cho chúng ta các phương cách thực
hành. Thực ra, tất cả chúng ta đều mong muốn thế giới phải như thế nào:
không có chiến tranh, không xung đột, thương yêu và hạnh phúc giữa muôn
người. . . . Những điều tuyệt vời này, chúng ta đều biết quá rõ, nhưng làm
thế nào để thực hiện chúng. Đó là vấn đề trọng yếu –làm sao để thể hiện
tư tưởng ra thành hành động- và đó là lý do tại sao bài kinh này được gọi
là karanìya, phương cách để thực hiện. Trong tiếng Pali, bài kinh
này là những vần thơ, nhưng ở đây tôi sẽ chuyển thành văn xuôi.
Người rõ ràng nhận
thức được rằng tâm bình an là mục đích sống của họ, thì họ cần phải nỗ lực
để đạt được điều đó.
Tâm bình an có thực sự
là mục đích sống của chúng ta không? Thực ra, chúng ta có hoàn toàn hiểu
rõ mục đích sống của mình không? Chúng ta muốn kiếm được nhiều tiền hay
có địa vị gì không? Chúng ta có muốn trở nên giàu sang hoặc nổi tiếng?
Hay có lẽ chúng ta chỉ đơn giản muốn tìm những điều thú vị trong cuộc sống?
Hay chúng ta muốn có được tâm bình an? Hãy thành thật mà nói, chúng ta
thực sự đang tìm kiếm điều gì? Có phải là chúng ta muốn đạt được tất cả
những giấc mơ vật chất rồi sau đó có thêm tâm bình an không? Điều đó có
khả thi không? Tìm cho được điều gì thực sự là quan trọng nhất trong cuộc
sống, điều ấy có thực sự là tối quan trọng không? Nếu chúng ta vẫn còn
nghĩ rằng mình có thể làm bất cứ điều gì mình mơ tưởng, rồi cuối cùng tâm
bình an cũng xuất hiện bằng cách nào đó, thì đúng là đã đến lúc chúng ta
cần phải tỉnh thức.
Dĩ nhiên, hoà bình có nghĩa là sự chấm dứt của chiến tranh, và có thể
chúng ta tin tưởng rằng một ngày nào đó tất cả mọi người đều được tận
hưởng nền hoà bình. Tuy nhiên, giấc mộng thiên đường đó sẽ khó trở thành
sự thật trừ khi ta bắt đầu từ bản thân. Sự bình an trong tâm của chúng
sinh có một ý nghĩa hoàn toàn khác với sự bình an trong chính trị. Nếu
nhân loại trên thế giới có được sự bình an trong tâm, thì họ sẽ chẳng bao
giờ bắn giết người khác. Hòa bình thực sự chỉ có thể bắt đầu từ bên trong
chúng ta và đó là kết quả của những cố gắng, nỗ lực cá nhân.
Một điều thú vị đã được nhắc đến trong câu đầu tiên của bài kinh: Tâm bình
an không thể tự nhiên có. Sự bình an của nội tâm đòi hỏi một nỗ lực nhắm
đến một số thái độ nội tâm nào đó. Đôi khi ý nghĩa về một tâm bình an
thường được hiểu là một thái độ không thiết đến việc gì nữa. Trong khi chỉ
việc hành thiền cũng đã đòi hỏi khá nhiều nỗ lực. Nếu ta cố gắng đạt được
tâm bình an bằng cách tách biệt mình ra khỏi người khác, thì ta không thể
tìm được sự bình an mà chỉ là một cảm giác thờ ơ, dễ đưa đến thái độ hoài
nghi, yếm thế. Trong khi một nội tâm bình an đầy sinh khí và trách nhiệm:
đó là sự hướng tâm đến những lý tưởng cao đẹp nhất. Bài học chính yếu có
thể rút ra từ bài kinh này (hay thực ra từ tất cả các bài kinh Phật giáo)
là chúng ta cần coi việc đạt được tâm bình an là mục tiêu tiên quyết. Điều
đó không nhất thiết có nghĩa là ta phải sống một cuộc đời yên tĩnh. Không
có nghĩa là ta phải từ bỏ công việc làm của mình trước khi theo đuổi mục
đích đó. Ở bên ngoài, chúng ta có thể linh hoạt và hoàn toàn an tĩnh ở
bên trong -đó là, khi ta thật sự biết thái độ nội tâm nào sẽ giúp ta đạt
được mục đích đó.
Mạnh
mẽ, thẳng thắn, tận tâm. . .
Thẳng thắn có nghĩa là thành thật, chân thành, không chạy đuổi theo những
lợi ích của riêng mình. Nó có nghĩa là chân thật - là một điều gì đó còn
hơn là không nói dối. Hình như lúc nào chúng ta cũng có thể tìm được một
lý do gì đó để nói hay làm điều gian dối, không chân thật: ta tự nhủ rằng
đó có lẽ là cách tốt nhất, hay cách đó tạo ra ít bất lợi nhất ở thời điểm
đó. Nhưng lời nói của chúng ta cần phải hoàn toàn chân thật: sự thể hiện ở
bên ngoài của ta cần phải phản ảnh những suy nghĩ và tình cảm bên trong.
Lời nói của chúng ta phải đến từ trái tim, không chỉ từ một bộ phận đầy lý
trí, vì nếu chúng ta để trái tim mình nói tức là chúng ta đã biểu lộ tình
cảm của mình, và cốt lõi của sự thật luôn được biểu lộ qua những gì ta nói.
Chỉ có những lời nói từ trái tim mới chuyển tải sự thật. Một người nào đó
có thể có một sự thật khác, nhưng khi họ diễn tả nó từ trái tim họ, và bạn
cũng làm thế, thì kết quả là những gì trong các bài kinh đôi khi gọi là
những lời nói ‘cao thượng.’ Những lời nói đó được coi là cao thượng vì nó
giúp chúng ta hiểu rõ mình hơn. Khi nào ta còn trao đổi với nhau chỉ bằng
những từ ngữ đầy tính lý luận, tri thức, hay lý thuyết suông về những suy
nghĩ, hy vọng và mục đích của ta, thì ta còn chưa đạt được sự chân thật
trong nội tâm.
Đó là một khía cạnh thực tại. Nếu ta thực sự muốn chứng nghiệm được sự
bình an trong nội tâm, ta cần phải hướng đến sự thật tuyệt đối, là điều
lúc nào cũng đúng, chứ không phải chỉ đúng trong một vài hoàn cảnh nào đó.
Sự thật tuyệt đối có tính vũ trụ, bao trùm tất cả, và chỉ có thể chứng
nghiệm được trên con đường tâm linh. Để có thể nhận thức được sự thật này,
ta phải có khả năng thiền định, không còn vọng tưởng. Sự nghĩ suy rất ích
lợi để kiếm sống, để đọc báo, hay cũng có thể là để chế tạo ra một cái gì
đó; nhưng nó không đủ để hiểu được chân lý tuyệt đối. Sự suy nghĩ của
chúng ta thường dựa vào quan điểm của ngã: ‘Tôi’ nghĩ! Không cần phải qua
nhiều cuộc trao đổi ta mới biết ai cũng có những suy nghĩ khác nhau, ngay
chính trong một nhóm ít người cũng thế. Như thế thì chân lý tuyệt đối làm
sao có thể được diễn tả qua tư tưởng?
Thay vì suy tưởng, chúng ta cần phải thực tập thiền quán để chứng nghiệm
đời sống nội tâm của ta. Dựa trên căn bản này, chúng ta sẽ có được một
cái nhìn toàn diện hơn về bản thân và thế giới. Khi cách chúng ta nhìn sự
vật thay đổi, thì mọi thứ sẽ hoàn toàn đổi khác.
Do đó có hai phương hướng để đạt được giá trị biểu hiện bằng từ ngữ chân
thật: một mặt, nó nhắc nhở rằng sự thật phải đến từ trái tim ta, giúp ta
giao tiếp với người; mặt khác, nó nói đến chân lý tuyệt đối mà ta đeo đuổi.
Điều này không có nghĩa là ta cần phải dẹp bỏ tất cả mọi nghĩ suy khi đang
truy tìm chân lý tuyệt đối, nhưng con đường tiến đến chân lý tuyệt đối là
con đường của chứng nghiệm và nhận thức được sự chứng nghiệm của mình.
Một đặc tính nội tâm khác được nhắc đến trong bài kinh là sự tận tâm. Tận
tâm có nghĩa là người khác có thể dựa vào ta: chúng ta đáng tin cậy khi
chúng ta giữ lời hứa hay đúng hẹn, khi chúng ta có trách nhiệm cho sự nghĩ
suy, lời nói và hành động của mình, tóm lại, có nghĩa là khi chúng ta
biết chấp nhận nghiệp của mình. Ta biết rõ rằng mình phải chịu trách nhiệm
cho tất cả những ý nghĩ, lời nói, hay việc làm của mình, ta hiểu thế nào
là làm chủ nghiệp của mình. Nếu chúng ta vẫn còn nghĩ rằng người khác chịu
trách nhiệm cho sự suy nghĩ, lời nói hay việc làm của ta, là ta chưa bước
chân lên con đường tâm linh. Nếu thế thì trong lúc cố gắng để trở thành
người bạn tốt nhất của mình, chúng ta lại trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất
của mình. Khi nào ta còn chưa có thể làm chủ được sự nghĩ suy của mình
trong đời sống hằng ngày và còn tiếp tục để các tư tưởng tiêu cực phát
sinh, là chúng ta còn tiếp tục gây đau khổ cho bản thân. Nếu chúng ta tin
rằng một việc gì đó xảy ra là do lỗi của người khác là chúng ta đã sai lầm.
Tất cả chúng ta đều biết sự tận tâm có nghĩa là gì trong cuộc sống đời
thường: là làm việc một cách chăm chỉ, và thực hiện những việc phải làm
một cách cặn kẽ. Trong cuộc sống tâm linh nó mang nhiều ý nghĩa hơn: nó
có nghĩa là chịu trách nhiệm cho chính bản thân.
Còn về sức mạnh, đó là do nỗ lực mà phát sinh. Nó cũng biểu hiện tiềm lực,
tính kiên nhẫn chịu đựng của chúng ta, về cả hai mặt tâm lý và sinh lý.
Như sức mạnh tâm linh là sự đo lường của năng lực tinh thần của chúng ta.
Nó là những thành quả mà ta có thể tích lũy trong công tác phát triển nội
tâm của mình. Bình an và hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng chính nỗ lực
của chúng ta, và sẽ không có việc gì mang đến nhiều ý nghĩa và hạnh phúc
cho cuộc đời ta hơn là những việc chúng ta thực hiện nơi bản thân, nơi tâm
của mình.
Cái mà chúng ta phải đối mặt là trạng thái tâm hôn trầm, bị coi là một
chướng ngại ngăn trở tâm định tĩnh khi hành thiền. Khuynh hướng tự nhiên
của tâm là sự dễ duôi. Thân ta dễ đi xuống đồi hơn là leo lên đồi và tâm
ta cũng thế. Đức Phật dạy rằng không có gì đứng yên trong vũ trụ, và điều
đó cũng đúng đối với chúng ta: ta đi lên hay đi xuống chứ chẳng bao giờ
đứng yên. Tất cả vạn vật đều luôn chuyển động, dầu ta có ý thức được điều
đó hay không. Thí dụ, trái đất luôn quay quanh trục của nó, dầu rằng ta
không hề cảm giác được sự chuyển động này. Cũng thế, chúng ta có thể
không nhận thấy rằng mình đang tụt hậu, nhưng điều đó đang xảy ra khi ta
chểnh mảng trong việc tu tập, và không màng đến chân lý tuyệt đối. Trái
lại, với tâm mạnh mẽ, đầy nghị lực, chúng ta có thể, trong đời sống hằng
ngày, quán sát tư tưởng, cảm giác của mình và sử dụng khả năng đặt tên
chúng –là điều chúng ta học được trong thiền- để nhận thức rõ rằng tâm ta
đang ở tầng thức nào, và ta có đi đúng hướng hay không.
Ý
là gốc của tất cả mọi việc: chúng ta không thể nói hay làm bất cứ điều gì
mà không có sự chuẩn bị trước trong tâm, nhưng ta thường không để ý đến
điều này vì ta phản ứng theo chúng quá nhanh. Biết thế, ta cần thực tập để
có được tâm đầy nghị lực; loại tâm sẽ đeo đuổi, tìm kiếm sự thật tâm linh
thay vì chạy các dục lạc và những tiện nghi dễ dãi.
Thân tình, Hoà nhã, Không kiêu mạn
Khi nói về kiêu mạn, chúng ta cần phân biệt giữa sự kiêu mạn thế tục và sự
kiêu mạn tâm linh. Sự kiêu mạn thế tục là lòng tự phụ về sự thành đạt,
địa vị, hay khả năng của chúng ta. Sự kiêu mạn tâm linh là sự suy nghĩ
rằng chúng ta biết tất cả vì chúng ta đã đọc hay đã nghe về một điều dạy
nào đó và đã hiểu trên bình diện tri thức. Một thái độ như thế sẽ không
đưa chúng ta đến đâu: ta phải thực hành Pháp. Tốt hơn là chúng ta không
đọc gì trước, nếu như chỉ để đạt được một niềm hãnh tiến về tâm linh.
Có một sự thỏa mãn nào đó về những khả năng của bản thân có thể cũng tốt,
nhưng kiêu mạn vì nghĩ rằng mình có nhiều kiến thức hay khả năng hơn người
chỉ khiến ta càng xa rời mọi người hơn. Nếu chúng ta giao tiếp với người
bằng cách này, ngôn ngữ của trái tim sẽ bị đè nén vì ta chỉ sử dụng tri
thức lý luận, thường thiếu vắng những đặc tính của con tim. Đó là lý do
tại sao sự kiêu mạn tâm linh cản trở ta thu thập được nhiều kiến thức.
Trí tuệ và kiến thức không giống nhau, và ngôn ngữ phát ra dưới sự chế
ngự của kiến thức khó thể chuyển tải trí tuệ. Kiến thức chỉ hữu ích nếu
như nó có thể đem ra thực hành. Hãy suy nghĩ ít lại và hành động nhiều
hơn! Teresa của Avila đã nói, “Hãy đừng suy nghĩ nhiều quá; mà bắt đầu
thương yêu nhiều hơn!”
Bước đầu để đạt được trí tuệ là thâu thập thông tin, dữ liệu (văn), kế đến
là phát triển tri thức (tư) và bước thứ ba (tu) là bước thực sự thay đổi
tất cả: sự chuyển hoá những trạng thái tiêu cực thành tích cực, sự chứng
nghiệm những trạng thái vũ trụ của vạn vật, sự chứng nghiệm về các tầng
tâm thức với những đặc tính khác hẳn với thực tại mà ta thường biết trong
cuộc sống. Trí tuệ là khả năng nhận thức được những sự chứng nghiệm này.
Sự khác biệt giữa tri thức và trí tuệ thường bị hiểu lầm –cũng như là
những hậu quả của sự hiểu lầm đó. Xin đừng lầm lẫn như thế –vì chúng ta
là người phải sống với những hậu quả này, cũng như ta sẽ là người đầu tiên
được lợi lộc từ nhận thức về sự khác biệt này. Giúp đỡ người khác bằng
cách cho họ thông tin, kiến thức thì cũng rất tốt, nhưng trí tuệ thì không
thể trao truyền lại cho ai - mỗi người phải tự phát triển trí tuệ cho
chính mình.
Còn nói về sự hòa nhã, đây là một đặc tính của trái tim. Đức Phật đã ví
tính chất của sự hoà nhã với ngọn tre trong gió. Trong gió bão, ngọn tre
uốn cong sát đất nhưng nó không gãy, và khi gió đã lắng dịu thì nó lại
đứng thẳng dậy. Vì thế, hòa nhã có nghĩa là sẵn sàng để nhường nhịn,
không tranh cãi, không cố gắng chứng tỏ mình đúng, không cảm thấy cần
thuyết phục người khác, không tỏ ra hiểu biết hơn người, đồng thời cũng
không để ta bị lung lạc. Đặc tính của trái tim là sự trao tặng. Đó là sự
rộng lượng của trái tim, một quà tặng của trái tim. Một trái tim cứng rắn
không thể nào khoan nhượng, mà chỉ biết bám vào bản thân, che chắn mình
bằng những bức tường. Chỉ có trái tim mềm dịu, khoan nhượng là có thể
hiến dâng, ban tặng. Một trái tim như vậy mới có thể đưa ta đến với tình
thương yêu không bờ bến, đó là metta (từ bi).
Thân thiện không có nghĩa là giao tiếp với người khác bằng sự hời hợt, giả
tạo, luôn đồng ý với người, và chỉ nói với họ những gì họ muốn nghe để tỏ
lòng thân thiện. Trái lại, đó là sự giao tiếp với nhau bằng lòng chân
thành, bằng trái tim, với sự nhận thức rằng tất cả chúng ta cơ bản đều
giống nhau, những sự khác biệt chỉ là ở bề ngoài. Sự thân thiện phát xuất
từ trái tim chứng tỏ một sự hiểu biết về đặc tính vũ trụ của nhân loại,
của tất cả chúng sanh và tất cả mọi thứ quanh ta.
Tất cả mọi hiệu hữu đều mang tính chất khổ đau, phiền não. Làm người thật
khó, và càng khó hơn để trở thành một người tốt. Nếu chúng ta nhận biết
được những khổ đau nơi bản thân, thì ta cũng sẽ nhận ra được chúng nơi tha
nhân. Như thế thì thân thiện không còn chỉ là sự lịch sự, mà là một điều
gì đó thực sự đến từ trái tim.
Biết đủ, Sống giản đơn mà hạnh phúc
Biết đủ và dễ bằng lòng không được đánh giá cao trong xã hội, vì tất cả
nền kinh tế dựa vào việc chúng ta không hạn chế những ham muốn của mình.
Càng ít đòi hỏi, ta càng ít hỗ trợ cho sự tiêu thụ. Nếu chúng ta dễ dàng
bằng lòng với mọi thứ thì ta đã không góp tay vào việc thúc đẩy nền kinh
tế. Sự đơn giản và biết đủ gần như không có mặt trong những xã hội dư
thừa. Sự biết đủ, không đòi hỏi, trên thế giới này gần như không thể có,
vì các sở hữu vật chất của chúng ta bị hư hao, chúng phải được lau chùi
hay làm mới –hay bảo hiểm nếu chúng rất có giá trị- và chúng ta luôn lo sợ
đánh mất chúng. Sự biết đủ thật sự cũng không phổ biến ở những xã hội
nghèo, vì người dân ở đó không có cơ hội để sống một cách phung phí. Vì
thế mặc dầu giá trị của một xã hội dư thừa có thể không ích lợi gì, nhưng
ở đó ta dễ biết đủ hơn, vì ta có cơ hội để thụ hưởng mọi thứ và nhận ra
rằng tất cả mọi thứ trên thị trường, không mang đến được cho ta hạnh phúc.
Cũng như vị thái tử -vị Phật sẽ thành- sống trong nhung lụa đã có thể từ
bỏ tất cả. Từ bỏ một cái gì đó sẽ dễ dàng hơn khi ta đã chứng nghiệm được
tính vô thường của nó, tính không có khả năng mang lại sự thỏa mãn như nó
đã hứa hẹn, và sự thiếu vắng một bản thể, một cốt lõi vững chắc của nó.
Trái lại, ta sẽ khó từ bỏ điều gì khi ta chưa được biết đến, hay sở hữu nó.
Trong xã hội của chúng ta, ta có thể sống một cuộc sống đơn giản vì ta đã
nhận ra rằng những gì ta nghĩ sẽ mang hạnh phúc đến cho ta, chỉ có hiệu
quả ngược lại, và sự sung túc mà chúng ta đã đổ mồ hôi để có được chỉ mang
lại hạnh phúc cho một ít người (trong chúng ta).
Dukkha (Khổ) là một từ quan trọng trong Phật pháp. Nó không chỉ
có nghĩa là khổ đau, mà còn bao gồm tất cả những bất như ý trong cuộc sống.
Nói một cách khác, nó chính là những ước muốn không được thỏa mãn. Nếu
chúng ta nhận thấy mình luôn bám theo bánh xe ham muốn và luôn muốn thỏa
mãn nó không dừng dứt, thì ta sẽ không bao giờ có được tâm bình an. Càng
ít bằng lòng với những gì mình có, thì ta càng ham muốn nhiều hơn, do đó
ta càng phải vất vả hơn để tìm cách thỏa mãn chúng. Nhưng càng thỏa mãn
chúng, thì ta càng trở nên thất vọng. Càng hướng ra ngoài để tìm kiếm
hạnh phúc, sự thỏa mãn, thì ta càng ít tìm thấy nó ở bên trong ta.
Trái lại, càng ít ham muốn thì ta càng ít vất vả. Nếu chúng ta biết đủ,
chúng ta sẽ không luôn muốn một cái gì thêm nữa từ thế giới bên ngoài.
Nhu cầu và ham muốn của ta càng ít, thì ta sẽ càng thấy thoải mái hơn, và
càng dễ dốc tâm đi theo con đường tâm linh, tìm hạnh phúc nội tâm. Chúng
ta không thể cùng lúc đi theo hai hướng khác nhau. Dầu chúng ta phải chăm
sóc thân, nhưng sự biết đủ và bằng lòng với một ít những sở hữu vật chất
sẽ giúp ta tìm được sự bình an cho tâm. Đức Phật đã dạy chỉ có bốn thứ
cần thiết: thực phẩm, một mái nhà che đầu, quần áo đủ để bảo vệ ta và
thuốc men. Chúng ta có thể xét lại xem mình đang sở hữu những gì nữa.
Nếu ta có những nhu cầu vượt qua bốn nhu cầu căn bản đó, là chúng ta đang
đi tìm sự thỏa mãn ở thế giới bên ngoài, và sẽ phải nỗ lực hơn trong các
sinh hoạt thế gian.
Các
căn thanh tịnh, trong sáng
Hai loại thiền tập được nói đến ở đây một cách tóm tắt nhất: thiền chỉ (thanh
tịnh các căn) và thiền tuệ (sự hiểu biết rõ ràng). Tuy nhiên, chúng ta
cũng có thể, nói chung, coi đó là ‘tâm trong sáng’. Thực thế, khi tham
thiền chúng ta phải gạt bỏ mọi ái dục trong thời gian đó. Ta không thể ăn,
uống, nằm, hay tìm kiếm những xúc chạm giác quan khác khi đang tọa thiền;
ta chỉ có thể làm một trong hai việc. Nếu chúng ta có thể khiến các căn
lắng dịu, ta sẽ có thể đạt được thiền định sâu xa. Lúc đó, ta sẽ biết
thanh tịnh nghĩa là gì, và đối với chúng ta, không có gì quan trọng hơn là
thiết lập sự thanh tịnh nội tâm. Qua chứng nghiệm của tâm hoàn toàn thanh
tịnh, ta cũng có thể nhận ra rằng những xúc chạm giác quan - thấy, nghe,
nếm, ngửi, xúc chạm, và ý (trong Phật giáo, ý là giác quan thứ sáu) -luôn
bị tâm chi phối. Mắt chỉ có thể nhìn màu sắc, và hình dáng, tai chỉ có
thể nghe âm thanh, và tất cả những hoạt động này được diễn ra trong tâm.
Tùy theo sự diễn giải của tâm, mà phản ứng sẽ theo sau. Vì thế để thanh
tịnh các căn, bước đầu tiên trong thiền tập là ngưng suy tưởng. Mỗi ý
nghĩ đều kéo theo một cảm xúc, rồi một nhận thức, và một tư tưởng mới lại
xuất hiện: một vòng quay không dừng dứt mà thanh tịnh và an bình không thể
có mặt. Nhưng với sự chú tâm và thiền định thực sự, chúng ta sẽ không còn
chạy ra ngoài, đuổi theo các giác quan, chấm dứt cảm xúc theo mọi thứ xảy
ra trong tâm, chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sự bình an nội tâm.
Một khi đã cảm nhận được sự thanh tịnh này, ta sẽ biết là không có gì quan
trọng hơn để chúng ta theo đuổi. Đã thực hành qua thiền quán phương cách
thiết lập tâm bình an, ta cũng có thể duy trì một ít cảm xúc này trong
cuộc sống hằng ngày, và lúc đó ta sẽ biết điều gì là quan trọng, để chấm
dứt tìm kiếm sự thỏa mãn trong những hoạt động thế tục.
Đến “với sự thấy biết rõ ràng”. Vì phần đông chúng ta đều tự cho
mình là thông minh, ta cho là sự hiểu biết của mình sáng suốt, rõ ràng.
Tiếc thay, điều đó hoàn toàn sai lầm. Những xét đoán của ta đối với thế
giới quanh mình đều bị uế nhiễm bởi những ảo tưởng về ngã, bởi lòng tin
rằng chúng ta khác với mọi người, rằng ta là một “cái ngã” đặc biệt. Bị
giới hạn bởi các ảo tưởng này, sự thông minh của ta chỉ hoạt động ở tầng
thức thế tục, nhưng nếu ta đoạn diệt được các ảo tưởng này, ta có thể hoạt
động trên một tầng thức vượt trội hơn những cái tầm thường và đạt được
chân lý tuyệt đối.
Chúng ta chỉ có thể đạt được sự hiểu biết rõ ràng khi tâm ta hoàn toàn
được thanh tịnh, khi các luồng tư tưởng, các ngọn sóng cảm xúc đã lắng
đọng. Khi nhìn ra mặt biển sóng gió, ta chỉ nhìn thấy các làn sóng, và
cái thấy của ta không thể đi sâu hơn bề mặt đó, cũng thế khi ta nhìn vào
nội tâm của mình. Nhưng một khi ta đã tìm được sự thanh tịnh thật sự qua
thiền tập, ta sẽ khám phá ra rằng tất cả vũ trụ đều nằm trong ta. Chúng
ta là một vi mô trong cái vĩ mô; tất cả những gì ta cần biết, đều nằm ở
trong ta. Như Đức Phật đã thuyết, “Cả vũ trụ này, hỡi các tỳ kheo, đều
nằm trong thân và tâm này.” Sự hiểu biết rõ ràng có nghĩa là nhận thức
được những đặc tính vũ trụ trong ta: vô thường, bất như ý (thí dụ, không
đầy đủ và không thỏa mãn), và ‘vô ngã’ (thiếu một bản thể cố hữu). Chỉ
khi tâm đã hoàn toàn lắng đọng, tự tại, không còn ham muốn hay tìm kiếm
điều gì, thì những điều này mới hiện ra rõ ràng trong tâm, đó là sự giác
ngộ nội tâm. Nó được gọi là tri kiến –quá hiển nhiên, không cần giải
thích thêm – là cái thấy ở bên trong.
Cư xử từ hòa, không tham lam
Lòng tham trong cuộc sống đời thường khiến ta khó từ bỏ những ham muốn của
mình. Ở đây, tham không có nghĩa muốn mọi thứ hai hay ba lần, mua xe mới
luôn hay ăn thật nhiều, mà là lúc nào ta cũng hướng ra ngoài để thỏa mãn
các ước muốn bên trong. Trên bình diện tâm linh, tham có nghĩa là ước
muốn được hiện hữu, không có khả năng chấp nhận sự thật về cái chết không
thể tránh khỏi và coi sự hiện hữu là quan trọng tuyệt đối. Ước muốn này
đi kèm theo với lòng khao khát được không hiện hữu, mà nó thể hiện ra khi
có chuyện không như ý xảy ra và ta không còn muốn có mặt ở đó, khi chúng
ta chán nản, hay khi ta muốn người khác biết việc gì sẽ xảy ra khi ta
không có mặt.
Một khi ước muốn được hiện hữu đã trở nên bớt mãnh liệt, thì ta sẽ nhận ra
rằng ta có thể sống thoải mái hơn, và rằng mọi việc không còn quá quan
trọng như thế nữa vì sự ta có mặt ở đây cũng không còn quá quan trọng nữa.
Nhưng không quan trọng hóa cuộc sống không có nghĩa là chấm dứt cuộc sống,
không có nghĩa là phải đi tự tử. Đúng hơn, ước muốn không hiện hữu chỉ là
mặt trái của ước muốn được hiện hữu. Nó có nghĩa là ta biết mình vô
thường đến đâu. Không ai chắc rằng mình sẽ sống ngày mai hay ngay cả có
về đến nhà tối nay không? Chúng ta phác họa, chúng ta hy vọng, chúng ta
dự định – nhưng có ai biết rằng mình sẽ còn sống đến sang năm không? Hãy
hoàn toàn buông xả một lần đi, và nhận thức rằng chúng ta hoàn toàn vô
thường! Chỉ có duy nhất giây phút này đây: tất cả mọi thứ khác đều đã qua
đi hay chỉ là một hy vọng. Tương lai không hiện hữu vì, khi nó đến, nó
trở thành hiện tại. Quá khứ, cũng như tương lai, chỉ có mặt trong tâm
tưởng của chúng ta. Kinh nghiệm thực sự chỉ có ngay giây phút này khi ta
thực sự có mặt và trong khoảng thời gian đó ta có thể cảm nhận tất cả thật
sự phù du như thế nào. Chỉ có một điều đáng quan tâm là sống ngay giây
phút này sao cho tốt đẹp: đầy thương yêu và rộng lượng, dâng hiến, với một
trái tim hòa ái, và chịu đựng, biết rằng chúng ta, tất cả chúng ta, thực
ra chỉ là một. Chúng ta phải nhận thức rằng dầu có vẻ như tất cả chúng ta
đều tách biệt, giống như những đơn vị riêng lẻ lơ lửng trong vũ trụ, đó
chỉ là một trò lường gạt của tâm, một ảo ảnh (kiến thức về sự liên hệ
tương quan giờ đã được công nhận một cách khoa học). Chúng ta cần nhận
thức một lần cho tất cả rằng ước muốn được hiện hữu không thể được thỏa
mãn – không bao giờ. Tất cả chúng ta đều đang trên đường đến nghĩa trang,
chỉ còn là vấn đề thời gian và tuổi tác không phải là một yếu tố quyết
định. Điều khác biệt duy nhất là khi chúng ta già đi, chúng ta không còn
phạm lầm lỗi của tuổi trẻ, là tin rằng chúng ta sẽ trẻ mãi.
Ước muốn được hiện hữu lôi kéo mọi thứ vào vòng luân chuyển của nó: lòng
ham muốn được sở hữu, bám víu vào vật chất, và hưởng thụ các dục lạc. Ước
muốn được hiện hữu, một thể hiện tâm linh của lòng tham, đưa chúng ta từ
phiền não này sang phiền não khác, mà có thể chúng ta chẳng bao giờ biết
được điều đó. Lần nữa, ở đây không có ý nói là chúng ta phải chết đi, mà
là ta phải biết mình có mặt ở đây chỉ trong một thời gian ngắn, rằng chúng
ta chỉ là những vị khách trên trái đất này, những diễn viên trong một vở
tuồng. Nhưng ngay khi vừa mặc lên người bộ đồ tuồng và xuất hiện trên sân
khấu lần đầu tiên, chúng ta bắt đầu đồng hóa với vai diễn, tưởng rằng ta
thực sự là nhân vật mà ta đang sắm vai. Chúng ta cần sở hữu các vật chất
để chứng tỏ rằng ta thực sự là nhân vật đó và sẽ duy trì như thế mãi. Ta
càng hành động như thế thì các quan điểm của ta càng trở nên cứng nhắc.
Và điều đó sẽ tạo ra nhiều phiền não hơn trên khía cạnh tâm linh: các quan
điểm của chúng ta quá sâu dày đến nỗi phải cần rất nhiều nỗ lực để hiểu
được gốc rễ của những tương quan sâu xa hơn, để có thể buông xả. Bao giờ
cũng thế, điều cốt yếu là “buông xả”.
Không Làm Điều Ác Nào Dù Nhỏ Đến Đâu Để Các Bậc Hiền
Trí Phải Chê Bai
Điều này hướng đến giới luật thứ nhất: không làm tổn hại. Tuân giữ giới
luật này giúp cho ta có một đời sống an ổn, lương tâm không cắn rứt, và
được bình an. Nếu biết tuân giữ giới luật, ta sẽ có một sự thanh tịnh cơ
bản để hành thiền. Như ta đã thấy, bài kinh này bao gồm ba lãnh vực của
Phật giáo: những hành vi đạo đức như là một sự hỗ trợ căn bản (giới),
thiền quán để khám phá ra được sự thanh tịnh (định), và tuệ giác phát sinh
từ các điều kiện trên (tuệ).
Nguyện
tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc,
Chúng sinh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung bình,
Thấp cao không đồng
đẳng,
Hết thảy chúng hữu tình,
Lòng từ không phân biệt,
Hữu hình hoặc vô hình,
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc
Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất mãn điều gì,
Đừng mong ai đau khổ,
Vì tâm niệm sân si,
Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Hãy mở rộng tình thương,
Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của mình,
Hãy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp.
(Nghi Thức Tụng Niệm,
Chùa Đạo Quang, TX USA)
Nói một cách
khác, chúng ta nguyện cho tất cả mọi người, không có ngoại lệ, như là
chúng ta nguyện cho chính mình. Người mẹ được nhắc đến ở đây như là một
biểu tượng cho sự thương yêu chăm sóc dịu dàng. Có thể chúng ta cũng đã
gặp những người mẹ không được tốt như thế, nhưng nói chung các bà mẹ
thường hy sinh cho con mình trong cung cách mà những đứa con của họ không
thể làm cho họ. Cũng cần phải nhắc rằng tình cảm bảo vệ che chở mà người
mẹ dành cho đứa con độc nhất của mình, không phải là một điều lý tưởng –nó
chỉ là một ẩn dụ cho lý tưởng đó- và Đức Phật thuyết giảng tiếp rằng chúng
ta cần phải phát triển những tình cảm như thế không chỉ đối với con mình
mà phải đối với tất cả chúng sanh. Điều này đặc biệt thú vị đối với các
bậc cha mẹ, là những người cần phải so sánh cách họ đối xử với con mình và
cách họ đối với người khác. Sự khác biệt thật là to lớn, và chúng ta cần
phải từ từ giảm bớt điều đó. Con cái và cha mẹ, đó là một sự liên hệ đặc
biệt, nhưng Đức Phật dạy rằng tất cả mọi người ở một kiếp nào đó có thể là
con, mẹ hay cha của chúng ta. Nếu không có con cái, chúng ta có thể quan
sát cách mẹ ta đối xử với ta như thế nào và có thể suy gẫm về mối liên hệ
đặc biệt này, thường là không tốt cho đứa trẻ, vì kết quả là đưa nó đến sự
bám víu. Chúng ta cần phải suy gẫm để làm thế nào phát triển những tình
cảm ta dành cho con cái, cha mẹ ta, vượt qua những giới hạn đó. Chúng ta
cần phải phá vỡ những hạn chế trong tình thương của ta vì tất cả chúng ta
đã từng có những mối thâm tình với nhau trước đó.
Tại sao chúng ta phải hạn chế mình với chỉ một hay hai người trong số sáu
tỉ người? Vì ta làm thế, nên lòng sợ hãi phát sinh, sợ hãi rằng chúng ta
sẽ mất những người mình yêu thương. Và đó là dấu chấm hết của tình thương
thanh khiết, vì sợ hãi tựu trung là từ sân hận mà ra. Điều đó không có
nghĩa là chúng ta không nên thương yêu con mình; chúng ta chỉ ghét cái ý
nghĩ là sẽ mất chúng. Nhưng nếu thế thì tình thương yêu trong sáng của
chúng ta đã bị tổn thương, vì tình thương yêu chân thật chỉ có thể là vô
điều kiện và không giới hạn. Chúng ta cần phải buông bỏ điều kiện là ta
muốn những người này phải có mặt ở đây và phải luôn ở bên ta. Nếu có con
cái, chúng ta sẽ có được một quan điểm cá nhân sâu sắc về sự khác biệt
giữa sự quan trọng của con mình và sự quan trọng của những người khác.
Chúng ta cần phải tự vấn xem có phải là tốt hơn nếu ta từ bỏ lòng sợ hãi
đánh mất con cái của mình, để phát triển những tình thương như thế đến,
thí dụ, những người hàng xóm của mình. Có thể họ coi không được dễ thương
như con mình, có thể họ rất già cả, nhưng mà điều đó thì có vấn đề gì?
Vấn đề thật sự là họ không phải là “của tôi”, tuy nhiên họ cũng là những
hàng xóm “của tôi”, và họ sinh sống trên cùng trái đất, thở cùng bầu không
khí, và sử dụng cùng con đường như tôi. Họ là “của tôi” cũng như mọi
người khác.
Cái gì là của tôi? Cái thân này? Cái thân mà cuối cùng rồi cũng đi ra
nghĩa trang, có thể là vào lúc bất tiện nhất mà chúng ta không thể nghĩ ra.
Còn tâm thì thế nào? Nếu nó là của chúng ta, vậy tại sao nó lừa đảo, gài
bẫy ta, khiến ta phải đau khổ? Những đứa con của tôi có thật là của tôi
không? Chắc chắn là chúng sẽ có cái nhìn khác khi chúng lớn lên. Vì thế,
cái gì là của tôi? “Của tôi” chỉ có nghĩa là chúng ta có mặt ở đây và cảm
thấy mình là một phần của vũ trụ mà ở trong đó ta cố gắng để đóng góp hết
sức mình.
Tất cả chúng ta đều cố gắng tránh làm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, loại
môi trường độc hại nhất phải kể đến là tư tưởng hữu lậu và sự vô tâm. Qua
sự phát triển lòng từ bi, chúng ta làm sạch và bảo vệ môi trường. Nếu
thái độ tử tế và hành động bi mẫn được lan rộng, ta sẽ có thể ngăn cản sự
ô nhiễm môi trường gây ra từ những hành động vô tâm.
Chúng ta có thể làm giảm bớt sự khác biệt to lớn giữa việc quan tâm đến
con cái mình, và quan tâm đến người hàng xóm của chúng ta bằng cách chánh
niệm về tình cảm ta dành cho con cái, rồi chuyển tình cảm đó sang cho
người khác. Tất cả họ là “của tôi” vì họ cũng có mặt ở đây cùng lúc, ăn
những loại thực phẩm tương tự, có cùng các nhu cầu, và tất cả đều tuỳ
thuộc lẫn nhau, mỗi cá nhân đều có một số ảnh hưởng đến cuộc đời ta.
Cảm giác về một tổng thể như thế giúp chúng ta ít cảm thấy tách biệt hay
bị đe dọa, do đó chúng ta ít có những sự tranh giành, phản ứng tiêu cực,
hay hoài nghi, là do cảm giác bị cô lập, bị đe dọa sinh ra. Nếu tình
thương của người làm mẹ, làm cha như chúng ta, có thể mang đến cho ta tinh
thần đoàn kết, dựa trên tình cảm rằng tất cả chúng ta đều là con người –có
mặt cùng lúc và trên cùng trái đất- như thế thì tình thương này thật đúng
nghĩa. Tuy nhiên, nếu tình mẫu tử chỉ dùng để nuôi dưỡng con cái mình,
thì sai lệch ý nghĩa. Đối với thế tục, thế là đủ, nhưng không đủ trên
bình diện tâm linh là nơi chúng ta có thể sử dụng tình thương này làm vườn
ươm để mở cửa trái tim và thực tập lòng từ ái. Đó là những lời nhắn nhủ
của Đức Phật, đặc biệt là trong bài kinh này.
Từ
bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ hải,
Trên dưới và quanh mình,
Không hẹp hòi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ còn thức tỉnh,
Giữ niệm từ bi này,
Thân tâm thường thanh
tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm trì,
Đạt Chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử.
(Nghi Thức Tụng
Niệm, Chùa Đạo Quang, TX USA)
Đây là phần
diễn tả về sự giác ngộ. Các quan điểm, ý kiến của ta là kẻ thù lớn nhất
của ta, vì ta tin vào chúng, và coi như chúng thuộc về ta. Có thể nói
rằng vì chúng là quan điểm của ta, chúng giới hạn ta, chúng khiến ta
không thể dễ dàng chấp nhận ý kiến của người khác; chúng còn có thể gây ra
sự xung đột, tranh chấp với người có ý kiến khác ta. Vì mỗi người đều có
quan điểm riêng của mình, chúng ta khó thể sống chung hoà bình với nhau.
Rất ít khi có những ý kiến giống nhau, dầu đó là về nghệ thuật, hay triết
học, đừng nói chi đến chân lý. Khi nào ta còn bám víu vào những quan điểm
cá nhân và tin vào chúng một cách tuyệt đối thì chúng ta đã tự cô lập lẫn
nhau.
Quan điểm là những suy luận lý trí nhưng không dựa trên các kinh nghiệm
thực chứng. Ngược lại, căn bản của giáo lý của Đức Phật đều dựa trên sự
thực chứng. Đó là bình minh của tri kiến, hướng dẫn ta bước trên con
đường đạo. Quan điểm luôn phát xuất từ tâm thức tầm thường, trái ngược
với tri kiến phát xuất từ con tim. Do đó, nếu chúng ta muốn xem xét coi
một điều gì đó có phải là tri kiến hay chỉ là một quan điểm, ta cần xem
rằng trái tim mình có dự phần hay chỉ là do ta nghĩ tưởng ra. Theo Đức
Phật, chính yếu là do các quan điểm của ta đã ngăn trở ta đạt được tri
kiến.
Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều có quan điểm, nhưng ta không cần phải tin
vào chúng một cách tuyệt đối. Nếu ta không quá chấp vào chúng, ta sẽ cởi
mở hơn đối với quan điểm của người khác; ta có thể sẽ nói: “Ồ, quan điểm
đó cũng có lý.” Sự tai hại của tất cả mọi quan điểm là luôn dẫn ta đến
ngã tưởng.
Tiếp đến, là giới hạnh và tuệ giác. Nền tảng của con đường tâm linh là
giới hạnh, hành động hợp đạo lý, nhưng chúng ta không cần phải có giới
hạnh viên mãn trước khi hành thiền, nếu không tất cả mọi khóa tu thiền có
thể phải đóng cửa. Chúng ta phải nỗ lực trên mọi lãnh vực: giới hạnh,
thiền định và tuệ giác. Không cần phải đạt đến sự hoàn hảo trong một lãnh
vực rồi mới có thể chuyển đến lãnh vực khác.
“Không bám víu vào dục lạc” là điều trọng yếu. Chúng ta cần phải chọn lựa
cuộc sống tinh thần hơn là đời sống vật chất và phải biết những ưu tiên
của mình. Nếu ta phải chọn lựa giữa hành thiền và uống trà, hay đi dự
khóa tu thiền và đi trượt tuyết, ta sẽ, nếu ta không bám víu vào dục lạc,
luôn chọn hành thiền. Có thể là ta cũng được thụ hưởng dục lạc trong khoá
tu thiền, nhưng một khi đã đạt được sự chứng nghiệm tâm linh, ta sẽ không
còn đi tìm dục lạc; vì ta đã khám phá ra được một cõi hoàn toàn khác của
sự chứng nghiệm nơi bản thân. Đối với những sự xúc chạm của giác quan, ta
cảm nhận chúng một cách thuần khiết hơn, mạnh mẽ hơn, nhưng không còn muốn
bám víu, hay tái tạo lại chúng. Đó là, dầu thế nào ta cũng không bị xao
lãng khỏi những cảm nhận giác quan thuần khiết. Bất cứ ai đã từng dự đôi
khóa tu thiền đều biết rằng sau một buổi tọa thiền sâu lắng, ta nhìn màu
xanh lá cây trong thiên nhiên hình như là xanh hơn, và màu xanh trời cũng
thế. Những ấn tượng giác quan trở nên nhạy bén hơn, tạo ra các dấu ấn
mạnh mẽ hơn, và vì ta không muốn bám víu vào chúng hay tái tạo chúng, nên
chúng chỉ là những ấn tượng thuần khiết và giản đơn.
Sống không bám víu có nghĩa là ta đã thay đổi những chọn lựa của mình.
Điều gì thực sự quan trọng? Chúng ta thường chỉ biết câu trả lời khi ta
nhận ra rằng tất cả những gì ta đã đạt được cho đến giờ đã tan thành mây
khói. Nhưng ta cũng có thể nhận thức được điều đó chỉ bằng quán sát sự vô
thường của các cảm nhận giác quan vi tế nhất. Khi ta thấy rằng những cảm
nhận giác quan không bao giờ trụ lại với ta, ta trở nên ý thức rằng việc
tìm kiếm hạnh phúc qua các giác quan có thể không phải là một chọn lựa
đúng. Phần đông chúng ta chẳng bao giờ nhận thức được như thế, nhưng Đức
Phật đã nói có một số người “với chút ít bụi trong mắt”, họ sẽ hiểu. Một
số ít đã thành công trong việc khám phá ra tri kiến này, họ đã tìm được
một con đường mới.
“Không còn sanh” chứng tỏ đã giác ngộ. Dĩ nhiên là còn rất nhiều điều
người ta có thể nói về đề tài này, nhưng ở đây tất cả những điều tôi muốn
nói lên là có thể chúng ta sẽ nhận ra rằng những ham muốn của chúng ta
được tái tạo từng giờ, hay cả từng giây phút. Chúng ta luôn muốn một điều
gì đó mới mẻ. Lúc thì ta muốn đi dạo, sau đó lại muốn ngồi, rồi đứng lên,
rồi đọc sách, nghỉ ngơi, đi ra vườn -một chuỗi ham muốn không ngừng nghỉ.
Khi một ai đó đã đạt được tuệ giác viên mãn; sự tái sinh của mọi ham muốn
ngưng bặt.
Tóm lại chúng ta có thể nói rằng bài kinh này trước hết mô tả một cách chi
tiết về những tính cách hay thái độ mà ta có thể chọn lựa cho mình: ai
cũng có quyền chọn lựa. Thứ hai, thiền quán mang trí tuệ đến cho tâm.
Qua sự hiểu biết đúng đắn, với niềm phấn khởi và tâm sáng suốt, trái tim
ta sẽ rộng mở, sẵn sàng để ban tặng, dần dần giảm bớt các ý kiến, ham muốn
xúc chạm, cho đến một ngày sự thanh tịnh và tuệ giác toàn vẹn sẽ phát sinh.
Chương 11
Đạt
Được Tri Kiến
Một thời xa xưa Vua
Milanda
Rời thủ đô Sagala của
Ngài
Đến viếng Nagasena, một
tỳ kheo,
Giống như dòng sông
Ganges chảy về biển.
Đến rồi, Vua đặt nhiều
câu hỏi
Với Đại đức, vị sa môn
đã xua tan bóng tối
Thắp lên ánh lửa của
chân lý;
Rất nhiều câu hỏi,
nhiều vấn đề sâu xa.
Cũng thế những câu trả
lời cho câu hỏi
Quả của thiền quán sâu
xa và rốt ráo;
Làm lắng dịu tâm, làm
dễ chịu người nghe,
Khiến người nghe ngạc
nhiên và thán phục.
Phân tích giới luật và
giáo lý siêu phàm,
Gỡ bao mối chỉ rối, bao
sợi dệt chồng chéo,
Lời giải bày thông minh
của vị sa môn
Bằng ẩn dụ và suy luận.
Mong rằng bạn cũng
hướng hiểu biết đến đây,
Để tâm an lạc, tràn đầy
phấn khởi,
Lắng nghe những bài
giảng sâu sắc này,
Để hủy diệt mọi gốc
nguồn nghi vấn.
Milindapanha i.1
(Kinh Milanda Vấn Đáp)
Kinh Milanda Vấn Đáp ghi lại cuộc trao đổi giữa một vị quốc vương, Milanda,
và Nagasena, một vị tỳ kheo Phật giáo nổi tiếng. Vua Milinda sống ở thế
kỷ thứ hai trước Công nguyên, và là người kế vị nền cai trị ở Hy Lạp do
Đại Đế Alexander dựng nên sau khi thống lĩnh tây bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ
tư trước công nguyên. (Tên của Ngài được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘Menandros’.)
Mặc dầu tác phẩm này không thuộc hệ thống đại tạng kinh, nhưng nó được coi
là bản kinh Phật giáo quan trọng và sớm nhất sau khi Đức Phật nhập diệt (parinibbana),
và thường được nhắc đến. Bản kinh bao gồm một phần giới thiệu ngắn,
như trên, về nội dung của bài giáo lý theo phong cách tán dương, ca tụng
truyền thống, tiếp theo sau bởi bảy chương xếp theo trình tự của các câu
hỏi và câu trả lời, mà tôi chỉ chọn một, là câu hỏi thứ 13 của chương 2:
-Thế nào là
Định? Đức vua hỏi tiếp – hành tướng của Định là như thế nào – thưa Đại Đức?
Đại Đức Na-tiên đáp:
-Tâu đại vương! Định là quy tâm về một mối, là cột tâm, là tập trung tâm
lại không cho loạn động. Trong tất cả thiện Pháp, Định là chủ trì, Định là
tột đỉnh, Định là tối thắng, Định là chỗ hướng về, Định là nơi tụ họp,
Định là chỗ tiến tới, là chỗ chảy xuống. . .!
-Xin Đại Đức hãy cho thí dụ!
-Ví như các cây xà ở nóc nhà, hướng đến nóc nhà, gặp nhau ở nóc nhà, và
thế là nóc nhà được coi là điểm quan trọng nhất trong ngôi nhà, với tất cả
mọi đặc tính tốt đẹp; là chỗ hướng tới, là nơi tụ họp, là chỗ chảy xuống.
-Xin Đại Đức hãy cho một thí dụ khác nữa!
-Ví
như đại vương dẫn bốn loại quân binh ra trận mạc. Bốn loại quân binh ấy sẽ
y cứ nơi đức vua, họ xem đức vua là lớn, là bậc thống lĩnh tối cao, đức
vua là chủ trì, là nguyên đỉnh, là tối thắng, là chỗ hướng về, là nơi tụ
họp, là chỗ tiến tới, là nơi chảy xuống, tâu đại vương! Ví dụ này như thế
nào thì các thiện pháp sẽ y cứ Định là bậc chủ trì như vậy, do Định mà
phát sanh y như thế ấy; đúng như câu Phật ngôn mà Đức Thế Tôn đã thuyết:
‘Này các thầy tỳ kheo! Các thầy hãy tinh cần tiến tu thiền định. Người nào
có thiền định rồi, người ấy sẽ thấy được bản thể của sự vật.’
-Đại Đức Nagasena! Ngài thật là thông suốt.(8)
Đức Phật thường thuyết về chánh niệm hay định. Một trong những bài pháp
cuối cùng, Đức Phật đã thuyết cho một vị đệ tử:
‘Các
trạng thái tâm thức cao thượng này không được gọi là sự buông bỏ trong
điều luật cao thượng của Tăng đoàn; chúng được coi là những trạng thái
định tĩnh trong điều luật cao thượng của tăng đoàn.” (Majjhima-Nikaya i.40
–Trung Bộ Kinh i.40)
(8) Kinh Mi Tiên Vấn Đáp,
Dịch Giả: Hòa Thượng Giới Nghiêm, NXB Tôn Giáo 2002.
Trong chú giảng ta tìm được lời giải thích sâu rộng hơn về điều này:
Những ai trong cuộc đời này tinh tấn tu tập trạng thái tâm cao cả này với
ý định để lại nó phía sau (có nghĩa là không bám víu vào nó), nhắm đến
phát triển tuệ giác dựa trên căn bản thiền quán. Họ sẽ đạt được sự an lạc
trong tuệ giác qua sự phát triển của định rốt ráo, hoặc ngay cả qua sự
phát triển của định cận hành (access concentration), là cách
để chấm dứt tâm bám víu. Do đó Đức Thế tôn đã nói, ‘Hãy tu tập phát triển
thiền định. Ai đạt được định sẽ thấy mọi vật như chúng là.” (Visuddhimagga
xi.121 –Thanh Tịnh Đạo XI.121) (9)
Tới đây một sự liên hệ được thiết lập giữa định và sự tái sinh:
Sự phát triển định sẽ dẫn ta tới những trạng thái hiện hữu cao hơn. Do
đó, những kẻ phàm phu này (những người chưa đạt được quả Dự lưu hay bất cứ
những trạng thái thanh tịnh siêu việt nào tiếp theo sau đó), người mà
tiếp tục tu tập định và người mà - dầu họ có muốn tái sinh vào cõi phạm
thiên hay không – chưa mất định, tìm được qua sự phát triển định sự lợi
lạc của những hình thức tái sinh tốt đẹp hơn. (Visuddhimagga xi.122 –Thanh
Tịnh Đạo XI.122)
Như thế tâm đạt định ít nhất cũng chắc chắn được tái sinh tốt đẹp hơn.
Đức Thế Tôn do đó lại giảng tiếp:
Những người đã đạt được sơ thiền ở một mức độ nào đó sẽ được tái sinh
cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm thiên. Và ngay cả sự tu tập định
cận hành cũng dẫn đến sự tái sinh tốt đẹp hơn trong những thiện thú thuộc
dục giới. (Visuddhimagga xi.123 –Thanh Tịnh Đạo XI.123)
Chúng ta có thể hiểu là tầng thức cao hơn này có nghĩa là một sự tái sinh
tốt đẹp hơn trong cõi người hay cõi trời.
Tuy nhiên, những người đã đạt được đến tầng thiền thứ tám và đã phát
triển được định với mục đích chấm dứt sinh tử, đạt được niết bàn ngay
trong kiếp sống này, và được an trú ở đó trong hạnh phúc, họ tìm được sự
lợi lạc của diệt qua sự phát triển thiền định. Do đó người trí không
quên tận tâm theo đuổi sự tu tập thiền định, nó mang lại những quả báo
không thể tính lường, thanh lọc ô nhiễm của ái dục. (Visuddhimagga
xi.124 –Thanh Tịnh Đạo XI.124)
(9) Thanh Tịnh Đạo –Visuddhimagga
(Bhadantacariya Buddhaghosa –Bhikkhu Nanamoli – Ni Sư Thích Nữ Trí Hải),
NXB Tôn Giáo 2001 Tập 2
Có một ẩn dụ khá thú vị trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của
Luận sư Buddhaghosa về việc làm thế nào chúng ta có thể dần dần định tâm,
và làm thế nào chúng ta có thể nhận chân được tâm định:
Vì tâm vị Tỳ kheo này từ lâu đã bị phân tán trong những đối tượng sắc và
vô sắc pháp, nó không muốn theo dõi đối tượng của sự tu định qua pháp niệm
hơi thở, giống như chiếc xe do con bò điên hung dữ kéo đi chệch đường.
Giả sử bây giờ một mục tử muốn huấn luyện con bê điên hung dữ đã được nuôi
dưỡng từ sữa của bò mẹ điên hung dữ. Người đó phải dẫn con bê rời xa bò
mẹ, cột nó vào một trụ cột nặng đóng chặt xuống đất ở gần đó. Và con bê
giật qua, giật lại, nhưng không thể đi đâu, nên đành ngồi hay nằm xuống
bên trụ cột. Cũng giống như thế, vị tỳ kheo muốn huấn luyện và làm chủ
cái tâm đã được nuôi dưỡng quá lâu bằng sắc pháp, đã trở nên hư hỏng, thì
vị ấy có thể đem tâm xa rời sắc pháp, đến khu rừng rậm hay chỗ hoang vắng,
và ở nơi đó có thể buộc nó bằng sợi dây chánh niệm vào trụ cột của hơi thở
vào, ra. Và tâm của vị ấy, quay qua, trở lại, không thể tìm được đối
tượng quen thuộc, và cũng không thể rứt ra khỏi sợi dây chánh niệm để chạy
trốn, sẽ dần dần ổn định bên chính đối tượng này, trong ‘định cận hành’
hay an chỉ định. Do đó cổ đức nói:
Giống
như người cột trâu để thuần
chặt chẽ vào trụ,
Hãy cột tâm của người
chặt vào đối tượng tâm.
(Visuddhimagga
VIII.153-4 –Thanh Tịnh Đạo VIII.153-4)
Đoạn này muốn nhấn mạnh một mặt vào sự quan trọng của định, mặt khác, sự
khó khăn thế nào để có thể đạt được nó: đó là một công việc vất vả như là
việc muốn thuần một con trâu điên. Ở đây cũng nói đến những kết quả mà ta
có thể mong đợi. Có hai loại định được nói đến ở đây: định cận hành và an
chỉ định. Một số bản văn ở Miến Điện cũng nói đến định tạm thời, là loại
định tất cả chúng ta đều biết tới, thí dụ như khi ta muốn gọi điện thoại,
ta phải chú tâm vào việc quay đúng các số. Loại định này rõ ràng không
liên hệ đến thiền tập, và không được Đức Phật đề cập đến trong giáo pháp
của Ngài.
Định
Cận Hành (Access Concentration)
Định cận hành là một trạng thái thiền định trong đó, mặc dầu niệm an trú
trên đối tượng thiền quán, tưởng vẫn còn như những đám mây lơ lửng trong
tiềm thức. Vì thế dường như có hai việc xảy ra: niệm trụ vào hơi thở,
đồng thời các vọng tưởng lởn vởn qua đầu mà ta không thể xác định được
nội dung, vì chúng xảy ra quá nhanh. Trong trường hợp này ta phải quyết
tâm hơn nữa để hướng tâm đến đối tượng thiền quán một cách rốt ráo. Tuy
nhiên, ta không nên cố gắng áp đặt những sự suy nghĩ có mục đích. Quá bận
tâm với các thiền quả chỉ đem lại kết quả trái ngược, vì thiền là để buông
xả, không phải để chấp chặt. Định cận hành không đưa ta đến các tầng
thiền định nhưng ta đã biết được một cảm giác khác với khi tâm còn hoàn
toàn lăng xăng. Tâm an định rốt ráo (an chỉ định) là tâm có thể trụ trên
đối tượng thiền quán (như là hơi thở, từ bi, hay quán cảm thọ) để có thể
bước vào các tầng thiền định.
Các Tầng Thiền Định
Rất ít người quan tâm đến các trạng thái thiền định, nhưng thực ra chúng
tạo nên những phương cách thiền tập, như các câu trích từ trong Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhimagga) đã chỉ rõ. Những phương pháp thiền quán sâu
sắc khác cũng hướng ta đến con đường của tuệ giác, nhưng chỉ có thiền định
tự động đưa đến sự chuyển hóa trạng thái tâm của ta, cho ta cái nhìn xuyên
suốt của tuệ giác hay tri kiến. Thật ra, chúng ta có hai phương pháp
thiền, chỉ và quán, nhưng quan trọng là ta phải hiểu mục đích tu tập của
mình. Sự hướng dẫn hoàn hảo nhất cũng thành vô dụng nếu như ta không biết
hướng đi của mình, và những phương pháp hữu hiệu nhất cũng vô ích nếu ta
không hiểu mục đích của chúng. Thiền tập không phải là mò mẫm trong bóng
tối để tìm ra những kết quả bất ngờ nào đó. Trái lại, thiền là khoa học –khoa
học của tâm, mà mọi người đều có thể ứng dụng, nếu như họ có đủ hiểu biết
và thực tập thường xuyên. Thiền có thể được mô tả một cách hợp lý như là
khoa học, vì nó đã được diễn tả bằng những từ ngữ rõ ràng, và các kết quả
của nó cũng đều cụ thể và có thể được lập lại; không có gì là ngẫu nhiên
hay may rủi trong đó.
Chính Đức Phật cũng đã mô tả các kết quả của thiền về mặt thiền định một
cách rõ ràng, chính xác, dầu không đào sâu. Giờ chúng ta sẽ xét về các
thắng tri mà chúng mang đến cho ta, với sự cảnh báo rằng những lời dạy của
Đức Phật chỉ là những mũi tên chỉ đến con đường đạo; chính chúng ta phải
tự đi từng bước trên con đường đó.
Sơ Thiền
Lầy thí dụ về chánh niệm trên hơi thở, ta có thể nói rằng sơ thiền được
ghi nhận bằng sự chứng nghiệm hơi thở càng lúc càng vi tế hơn, rồi trở nên
không thể cảm nhận được nữa, cho đến lúc một cảm giác an lạc nơi thân phát
khởi. Sơ thiền được ghi nhận bằng năm yếu tố tích cực đối trị với năm
‘chướng ngại’ quen thuộc trong thiền tập (hôn trầm, nghi, sân, trạo cữ và
ái dục), và đưa chúng ta qua một quá trình thanh lọc tự động, giống như
một chiếc máy giặt tâm linh.
Theo Đức Phật, một khi ta đã phát triển được sơ thiền, dầu chỉ trong một
mức độ nào đó, ta chắc chắn sẽ được một sự tái sinh tốt đẹp. Cũng là điều
tốt nếu ta không quá quan tâm đến mục đích được tái sinh tốt đẹp; đúng ra,
nếu đạt được sơ thiền ngay trong cuộc sống này cũng đã đủ là một quà tặng
của cuộc sống. Chắc chắn rằng đó là một lợi thế cho bất cứ sự tái sinh
nào sẽ đến với chúng ta.
Năm yếu tố có thể tìm thấy trong sơ thiền là: tầm (initial application),
tứ (sustained application), hỷ (piti), lạc (sukha) và nhất tâm (ekaggata).
Sự nhất tâm không chỉ cần có mặt trong thiền định, mà cả trong hai phương
pháp thiền chỉ và thiền quán, cũng như nếu không có chút ít nhất tâm,
chúng ta sẽ không thể làm được việc gì ích lợi. Năm thiền chi này có
những hiệu quả tự động trên năm chướng ngại. Trước hết, tầm (vitakka)
đối trị với tinh thần uể oải, đặc tính của hôn trầm. Tứ, trụ vào một đối
tượng thiền (vicàra), đối trị nghi, vì nó mang đến cho tâm một sự
an lạc sâu lắng, nhưng nghi chỉ có thể hoàn toàn được đoạn trừ khi đã
chứng nghiệm được quả thánh đầu tiên, theo truyền thống được coi là quả Dự
lưu.
Piti (hỷ), bao gồm một cảm giác an lạc nơi thân, đối trị sân hận;
vì ta không thể cùng lúc cảm nhận sân hận và hỷ; và nó cũng làm suy yếu
sân hận vì ta biết rằng ta có thể ngồi xuống để lại chứng nghiệm được
trạng thái hỷ này bất cứ lúc nào. Thật vậy, chúng ta càng thường phát
khởi piti, thì càng tránh bị sân hận nhiều hơn, dầu rằng nó chưa
thể bị bứng gốc hoàn toàn, vì các chướng ngại và tập khí của ta chỉ có thể
đoạn diệt bằng tuệ giác, đạt được qua sự phát triển chánh niệm thiền quán.
Sukha, hay lạc, đối trị lo lắng, trạo cữ, vì nếu ta đã kinh nghiệm
được lạc ta không còn cần phải tìm kiếm điều gì nữa. Cuối cùng, nhất tâm
(ekaggatà) đối trị ái dục. Nếu ta có thể trụ tâm vào chỉ đối tượng
thiền quán ta sẽ không thể dự định gì, thí dụ như là, chúng ta sẽ ăn gì
sáng nay.
Do đó tầng thiền thứ nhất mà ta có thể chứng nghiệm như một cảm giác an
lạc vật lý, đối trị năm chướng ngại ở một mức độ chứng nghiệm sâu sắc hơn,
nhưng quan trọng hơn cả là nó giúp ta tiến bước trên con đường thiền.
Nhị Thiền
Trong sơ thiền, hành giả cảm giác sự phấn khích cộng với lạc. Khi cảm
giác phấn khích được bỏ lại đằng sau, hành giả bước vào trạng thái chứng
của nhị thiền với tâm tràn đầy an lạc sâu xa khi lạc trở thành đối
tượng thiền quán duy nhất.
Dầu an lạc là một chứng nghiệm kéo dài hơn là sự phấn khích, cảm giác đó
cũng vô thường, và hành giả sẽ quên mục đích hành thiền của mình nếu quá
bám víu vào các cảm thọ mà thiền quả này mang đến. Một điều cần được ghi
nhận thêm là lạc thọ thường đến với chúng ta qua sự tiếp xúc của các giác
quan, qua cái thấy, âm thanh, mùi, vị, xúc hay ý. Từ trước đến giờ, lạc
thọ dựa trên những điều kiện bên ngoài – nhưng trong nhị thiền, cảm giác
này chỉ dựa vào cuộc sống nội tại của ta, nhất là sự định tâm. Một khi đã
hiểu được như thế, ta không cần phải dựa vào người khác để được an lạc, và
sự liên hệ giữa ta với người sẽ bắt đầu thay đổi: khi họ làm vừa lòng ta,
điều đó chắc chắn là dễ chịu rồi, nhưng chúng ta cũng không đòi hỏi là họ
phải làm vừa lòng ta, hay nổi cáu khi họ làm ta phật ý. Nếu những điều
này không xảy ra, là ta có thể đã chứng nghiệm được lạc, nhưng không chú
tâm đủ để nhận biết được nó.
Cái nhìn của ta đối với sự xúc chạm của các giác quan có thể còn được hiểu
sâu hơn nữa. Vì ta không thể so sánh niềm an lạc sâu xa trong thiền định
với bất cứ thứ gì mà ta đã kinh qua trong cuộc sống thế tục, sự tiếp xúc
của các giác quan trở nên kém quan trọng hơn, và chúng ta sẽ không còn
luôn tìm kiếm sự thỏa mãn qua các xúc chạm giác quan.
Cuộc sống của con người lúc nào cũng đầy những sự tiếp xúc dễ chịu của
giác quan, vì cái đẹp luôn ở mọi nơi: để ta nhìn, nghe, ngửi, nếm hay nghĩ
về chúng. Nhờ đó ta có thể sống trên đời. Tri kiến này không có nghĩa là
ta không nên tận hưởng một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp; mà nó có nghĩa là ta
nhận thức được, ít nhất là một điều, tất cả những cảm giác xúc chạm của ta
đều thoáng qua (nhất là với buổi hoàng hôn, dĩ nhiên rồi), và thêm nữa là,
lạc thọ có được chỉ qua các xúc chạm giác quan không thể so sánh với trạng
thái lạc trong nhị thiền. Niềm an lạc mà ta chứng nghiệm được trong nhị
thiền thuần khiết hơn, mạnh mẽ hơn vì nó không dựa vào sự xúc chạm giác
quan, và không có bám víu kèm theo. Cảm giác này chỉ có thể có được khi
hành giả đã buông bỏ thế giới bên ngoài, đã tìm được con đường đến với
cuộc sống nội tâm. Như thế ta vẫn còn được tự do tận hưởng các xúc chạm
giác quan, nhưng không mong đợi một sự thỏa mãn hoàn toàn hay bền lâu nơi
chúng; không còn luôn chạy đuổi theo những cảm giác xúc chạm dễ chịu và
bám víu vào chúng.
Ngược lại, những cảm giác xúc chạm khó chịu cũng không còn khiến ta não
phiền, vì ta biết rằng chúng sẽ qua đi. Sau khi ta đã kinh nghiệm được
niềm an lạc thậm sâu mạnh mẽ của nhị thiền, ta không còn cần phải phản ứng
theo các cảm giác xúc chạm khó chịu nữa –chúng chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến
ta vì ta còn phản ứng theo chúng. Thay vào đó, ta bắt đầu nhìn chúng như
chỉ là một hiện tượng đến rồi đi, và vì thế, vì chúng ta đã nhận thức được
trạng thái chóng qua của chúng, ta không còn bám víu vào các lạc thọ hay
tránh né các khổ thọ mà chúng có thể mang đến cho ta. Điều đó có nghĩa là
ta sẽ tiếp nhận từng cảm giác dễ chịu khi nó đến. Nếu ta đã không tìm
kiếm, không mong mỏi, hoài vọng hay bám víu vào nó, ta sẽ trải qua những
giây phút an lạc thuần khiết, và không cảm thấy nuối tiếc khi nó qua đi.
Nếu chúng ta không thể nhận ra được các tri kiến phát khởi từ nhị thiền,
là chúng ta đã không quán sát các chứng nghiệm của mình đủ thấu đáo sau
khi xả thiền. Chúng phải là những sự nhận thức xác thực mới có thể chuyển
hóa được cuộc sống của ta. Đối với người tu thiền, không phải khó đạt
được các tầng thiền định. Phải mất bao lâu mới đạt được định, chỉ là vấn
đề thời gian, nhưng nó cũng tùy thuộc vào các điều kiện nhân quả. Những
người với tâm phân tích, lý luận mạnh mẽ, thích quán sát, nghiền ngẫm mọi
thứ, thường cần phải đạt được tri kiến trước khi họ có thể tìm được sự
thanh tịnh, bình an. Nói chung, nếu ta tìm được sự an bình, thanh tịnh
trước, rồi đến tri kiến thì là phương cách tốt hơn, vì các tầng thiền định
sẽ tự động mang tuệ giác đến cho ta.
Tam
Thiền
Trong tam thiền, hành giả cũng lại chứng nghiệm được sự an lạc, và nhận
thức được nhân quả. Một khi chúng ta đã có thể trụ đủ lâu trên đối tượng
thiền quán, ta sẽ có thể bước vào thế giới nội tâm. Một khi ta đã trải
nghiệm được những cảm giác vật lý tuyệt vời đủ lâu, ta sẽ đạt được an lạc.
Qua cảm giác kéo dài của lạc thọ, tâm bình an phát khởi vì việc tìm được
hạnh phúc và niềm an lạc mà ta đã từng kiếm tìm, dần dần khiến ta cảm thấy
tự tại. Sự tự tại này mang đến cho ta hạnh phúc.
Từ tam thiền hành giả đạt được nhận thức rằng sự tự tại chỉ có thể có mặt
khi vắng bóng các ái dục. Nếu chúng ta muốn có được an bình trong cuộc
sống đời thường mà không cần phải cố gắng xếp đặt những điều kiện bên
ngoài làm sao để chúng có thể mang đến cho ta sự tự tại (là điều
dầu gì cũng không thể có), ta cần phải buông bỏ mọi ái dục. Với tri kiến
đó ta có thể chứng nghiệm được sự an bình.
Khi
nào mà ta còn muốn thay đổi người hay hoàn cảnh chung quanh, thì ta sẽ vẫn
còn phiền muộn, khổ đau. Người duy nhất mà ta có thể thay đổi chính là
bản thân. Người khác chỉ là những yếu tố phụ trong cuộc đời của ta, và
nếu ta không vừa lòng với họ, thì tranh chấp, bực bội sẽ kề bên. Rồi vấn
đề này sẽ kéo theo vấn đề khác. Sở dĩ ta nghĩ rằng sự đau khổ của ta là
do những yếu tố bên ngoài mang đến, là vì ta chưa nhận thức được rằng
nguồn gốc của chúng là từ ở bên trong. Tam thiền có thể giúp ta nhận thức
được rằng sự tự tại chỉ có thể có khi ta không còn ôm ấp ham muốn gì. Từ
đó đưa đến cảm giác của sự nương tựa nơi bản thân và của sức mạnh nội tại.
Sự
tự tại trong tầng thiền thứ ba có thể được chuyển tải đến cuộc sống đời
thường của ta. Chúng ta thường bực bội khi gặp phải điều không vừa ý và
thường tìm người để đổ trút sự bực bội của mình. Lúc đó, ta cần phải tự
nhắc nhở bản thân về lý do thực sự của vấn đề. Trong ngày thỉnh thoảng ta
cần hồi tưởng lại những tri kiến từ các tầng thiền định - nếu sự thực hành
tâm linh của ta chỉ xảy trên chiếu thiền và không đi đâu xa hơn nữa, hay
quên luôn sau đó, thì việc hành thiền của ta không ích lợi nhiều. Cái lợi
duy nhất có thể là chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn, không bị đau ở gối nữa,
nhưng đó chắc chắn không phải là lý do để ta tu thiền.
Các tri kiến đạt được trong các tầng thiền định không chỉ phù hợp với lý
trí, mà còn phải được thực chứng mới có thể hiểu được, và sự tu chứng này
phải xảy ra cho từng cá nhân. Tốt hơn hết là các tri kiến này phát khởi,
không phải trong lúc thiền định, mà khi chúng ta đã xả thiền. Hành giả
cũng có thể chứng nghiệm được chúng trong lúc thiền định nhưng hành giả
cần phải có một quá trình tu thiền khá công phu và tinh tiến để tránh khỏi
bị lầm lạc. Do đó điều này không nên xảy ra khi ta vừa bắt đầu tu; tốt
hơn, ta cần khéo tu luyện, với khả năng cho phép, tiến sâu vào định, để
khi ra khỏi định, ta có thể hồi tưởng lại và tự hỏi mình: “Tôi đã chứng
nghiệm được gì? Đã rút tỉa được gì từ đó? Dầu sự chứng nghiệm chỉ là vô
thường, tôi đã học hỏi được gì?” Ý thức và hiểu được những sự chứng
nghiệm của mình là mục đích của thiền. Vì chúng ta thực hiện động tác này
cho chính bản thân, nên ta đã nhận được một sự rèn luyện tâm sâu sắc.
Không có chút hoài nghi nào trong tâm ta rằng các sự chứng nghiệm này là
xác thực, dầu người khác có thể hoài nghi. Cuộc sống nội tâm của ta được
chuyển hóa bằng cách đó. Nhận thức được cái biết này là cửa ngõ vào tuệ.
Tứ Thiền
Ba tầng thiền đầu không khó tu tập; tuy nhiên tầng thứ tư đòi hỏi nhiều nỗ
lực hơn. Bốn tầng thiền đầu tiên được gọi là thiền sắc giới. Chúng vẫn
còn thực thể và tương đồng với một số trạng thái ta có thể cảm nhận trong
đời sống hằng ngày, tuy nhiên chúng có một nền tảng khác. Trong cuộc sống
đời thường ta cũng có những cảm giác vật lý dễ chịu, những hỷ lạc, dầu
chưa được trọn vẹn và luôn phải dựa vào các yếu tố bên ngoài. Trong tứ
thiền, cảm giác an bình đã sâu lắng đến hoàn toàn vắng lặng. Sự chứng
nghiệm này trở thành đối tượng thiền quán và sự nhận biết được nó chỉ có
mục đích hỗ trợ.
Vì thế ở sơ thiền, đối tượng thiền quán là những cảm giác dễ chịu nơi thân,
ở nhị thiền là hỷ, ở tam thiền là lạc, và tứ thiền là tĩnh lặng. Chỉ có
đối tượng thiền quán có mặt trong tâm, không có gì khác nữa. Những đặc
tính này của các tầng thiền định có thể không rõ ràng. Khi chúng ta còn ở
giai đoạn tu tập thiền, chúng có thể thoáng qua và ta chỉ có thể nắm bắt
được chúng trong phút giây. Chúng chỉ trở thành các trạng thái thiền định
khi ta có thể duy trì được chúng, khi trong tâm ta không còn gì khác ngoài
đối tượng thiền quán.
Sự tĩnh lặng của tứ thiền dường như sâu lắng hơn, tưởng chừng như tâm đang
chìm lắng, dầu dĩ nhiên là không phải thế -tâm đang ổn định ở ngay nơi ta
đặt nó vào. Như khi ta chú tâm vào ngón chân cái ở bàn chân phải của mình,
thì nó sẽ trụ ở đó; vì thế nếu ta để tâm đi sâu vào tĩnh lặng, ta sẽ cảm
thấy chìm sâu trong sự tĩnh lặng đó.
Một khi đã kinh nghiệm được sự tĩnh lặng này, ta có thể thấy một sự tĩnh
lặng hoàn toàn như thế chỉ có thể có được nếu ta buông bỏ phần lớn ngã
chấp. Tri kiến này dọn đường cho ước muốn được giải thoát. Mọi người
khôn ngoan đều mong được tĩnh lặng, an bình và hạnh phúc. Khi ta đã nhận
thức rằng sự tĩnh lặng sâu lắng này chỉ có thể có được một khi ngã chấp
của ta đã hoàn toàn được dời vào “hậu trường”, ta sẽ có ước muốn mãnh liệt
hơn để buông bỏ ngã tưởng và ngã chấp.
Tất cả phải được chứng nghiệm, không phải tự nghĩ ra. Dĩ nhiên, các tầng
thiền định này cũng có thể không đồng nhất. Có khi thì ta chứng nghiệm
được chúng một cách sâu xa, nhưng lần khác, nếu ta không chú tâm đủ, thì
ta có thể kinh nghiệm được chút ít hỷ lạc, an bình nhưng không tràn đầy.
Tuy nhiên, sự chứng nghiệm của các tầng thiền định này cũng có thể đủ mạnh
để có một ảnh hưởng sâu xa và lâu dài. Nói theo thế tục thì ấn tượng của
tình yêu đầu tiên luôn mãnh liệt hơn. Ảnh hưởng của các tầng thiền định
ít nhất cũng phải sâu sắc như thế để ta có thể đạt được tri kiến từ đó.
Cùng với ý muốn giảm bớt chấp ngã xuất hiện một ước muốn thiết tha được
giải thoát như thường được diễn tả trong giáo lý của Phật. Chúng ta đã tự
chứng được sự thật của một trong những lời dạy căn bản của Đức Phật: rằng
ngã tưởng ngăn trở bước đường hạnh phúc của ta. Chúng ta đã biết cảm giác
đó như thế nào một khi ta buông bỏ được ngã tưởng. Do sự nhận thức này và
lòng quy ngưỡng đến những lời Phật dạy, tín tâm của ta được phát triển.
Chúng ta không cần phải phác họa ra những điều cần làm; chúng ta chỉ cần
tuân theo những lời Phật dạy với lòng tin và sự quyết tâm.
Việc kế tiếp chúng ta nhận biết là sự tăng trưởng tính cấp bách trong việc
tu tập. Do đó, chúng ta phải thực hành ngay bây giờ, không đợi đến khi ta
được có hoàn cảnh thuận tiện, thời tiết hay đạo hữu tốt hơn. Chúng ta bắt
đầu cảm nhận được sự nôn nóng, ước muốn được giải thoát và tín tâm. Chỉ
có với niềm tin, lòng tin cậy và sự tự tin mà ta có thể trở nên tự nguyện.
Chúng ta trở nên giống như những đứa trẻ tự tin nắm tay mẹ mình để qua
đường. Đứa trẻ hoàn toàn tin tưởng ở người mẹ, hoàn toàn dựa vào trí tuệ
của bà mẹ và nghe theo lời dạy của mẹ. Nếu chúng ta để cho tâm trẻ thơ
lại trở về với mình và không tự cho là mình biết tất cả hay chỉ nghe theo
bản năng của chính mình, thì ta sẽ thành công trong việc toàn tâm toàn trí
tin tưởng vào Phật pháp. Trong phần lớn trường hợp, điều này chỉ trở
thành khả thi khi ta đã tu tập đến tứ thiền đủ lâu và đủ rốt ráo. Nó cũng
tùy thuộc vào những điều kiện nghiệp quả của ta.
Trong tứ thiền, tâm tiếp nhận được một sự hỗ trợ năng lượng rất mạnh. Nếu
tu tập tứ thiền một cách đều đặn, ta sẽ có được một cái đầu sáng suốt hơn
nhiều. Điều đó gần giống như suối nguồn tâm linh của tuổi trẻ. Giống như
khi thân ta nghỉ ngơi vào buổi tối, được nạp năng lượng, tâm cũng sẽ thu
thập thêm sức mạnh khi nó kinh nghiệm được sự an tịnh sâu xa của tứ thiền.
Tâm thực sự muốn hiểu được sự tương quan giữa vạn vật cần một sự tái tạo
như thế.
Vượt Trên Bốn Tầng Thiền Đầu Tiên
Tứ
thiền được coi là bệ phóng cho bốn thiền vô sắc. Chúng được gọi là vô sắc
vì chúng không có bản thể. Mặc dầu ảnh hưởng của bốn tầng thiền đầu tiên
mạnh mẽ, nhưng các tầng thiền quả sau còn có những ảnh hưởng sâu đậm hơn.
Tầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy được gọi là vipassana jhana, là
định minh sát, tuệ minh sát (vipassana: minh sát; jhana:
định), vì chúng đặc biệt thích hợp cho việc mang đến tuệ giác. Chúng ta
có thể chấp nhận chỉ bốn tầng thiền định đầu tiên, rồi kết luận rằng mình
là các thiền giả đắc quả và có thể tự khen thưởng mình. Nhưng điều đó
không thể xảy ra ở các tầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, vì tâm thức tỉnh,
có đủ nhận thức để đạt đến những tầng định cao này, cũng có được trí tuệ
tương ưng.
Qua các tầng thiền quả này, hành giả có thể đạt được những khả năng được
coi là siêu nhiên. Tuy nhiên, chính là không phải thế. Đức Phật đã cố ý
không nhắc đến các khả năng tâm linh có thể đạt được của các vị thực tập
định jhànas, và Ngài nhắc nhở chúng ta đừng nên quá bám víu vào
chúng cho đến khi ta đã được giác ngộ.
Tuệ Giác Trong Các Tầng Thiền Vô Sắc
Tri kiến xuất phát từ các tầng thiền vô sắc không giống như ý chí
(will-power). Ý chí cung cấp cho chúng ta năng lực để có thể hoàn thành
những gì ta quyết thực hiện, nhưng nhiệm vụ của nó không phải là để giúp
ta nghĩ ra những gì ta muốn thực hiện, vì khuynh hướng thiên về kết quả
cản trở ta thực sự sống đời sống tâm linh. Nhiều người khó phân biệt điều
này và không hiểu sự khác nhau giữa ý chí và việc cố đạt được kết quả.
Nếu hành giả quá chú tâm vào kết quả thì không thể chú tâm hành thiền –
hoặc là ta thiền hoặc là ta nghĩ về những gì ta muốn đạt được. Các thành
tựu và tri kiến của thiền vô sắc được giải thích ở đây dành cho những ai
đã tu tập chúng, để chứng minh các khả năng của tâm, và làm thế nào để có
thể sử dụng chúng một cách hữu hiệu nhất. Thực thế, Đức Phật đã dạy rằng
chúng ta có thể tiến bước đến giác ngộ từ bất cứ tầng định nào.
Chúng ta cần hiểu thật rõ rằng những cảm giác ta chứng nghiệm được trong
bốn tầng thiền định đầu tiên hoàn toàn khác với những gì chúng ta trải qua
trong đời sống hằng ngày. Chúng ta có thể cảm nhận được những niềm vui
trong đời sống hằng ngày, hy vọng là rất thường xuyên, nhưng đó không phải
là niềm hỷ lạc trong thiền định. Tương tự, chúng ta có thể cảm thấy bằng
lòng trong cuộc sống hằng ngày nhưng đó không phải là sự tự tại trong
thiền định. Chỉ những ai đã tu tập thiền định mới biết được sự khác biệt
này. Tuy nhiên, niềm vui thế tục cũng có thể phát khởi trong lúc tọa
thiền, vì ta có thể hân hoan về sự kiện là ta có thể tu thiền, rằng ta đã
hết lòng cố gắng tu tập, theo dõi hơi thở hay đạt được trí tuệ. Nhưng
hành giả phải nhớ rằng niềm hỷ lạc đó chỉ là một điều kiện tiên quyết cho
việc hành thiền, không phải là thiền. Một đòi hỏi quan trọng để được tâm
an lạc và tri kiến là sự nhận thức chính xác về những gì đang diễn ra bên
trong ta, nếu không ta sẽ không học hỏi được điều gì từ đó.
Thiền vô sắc thường xuất hiện một cách tự nhiên sau tứ thiền, nhưng chúng
cũng có thể phát khởi một cách độc lập và mặc dầu hành giả có thể cảm thấy
mình đã chứng nghiệm được một cái gì đó tuyệt vời, thú vị và đáng ước
muốn, nhưng không nhận thức được đích thực chúng là gì. Đó là lý do tại
sao ta cần đi trên con đường đạo từng bước, từng bước cho đến khi không
còn sự hoài nghi nào về những gì chúng ta chứng nghiệm được. Đức Phật đã
giải thích cặn kẽ về con đường, vì thế ta biết rằng tâm chuyển hóa từ các
cảm giác thô lậu, qua hỷ lạc, đến sự thanh tịnh tuyệt đối nhất. Sự thanh
tịnh này không chỉ chứng tỏ rằng cuối cùng ta đã có thể bỏ tất cả mọi vọng
tưởng lại đằng sau -chừng ấy cũng đã là một thành quả- mà ta còn chứng
nghiệm được một điều gì đó thật sâu sắc.
Tầng Thiền Thứ Năm
Với tứ thiền, tâm ta đạt đến một điểm mà từ đó nó không thể tiến sâu
hơn nữa. Điều xảy ra kế tiếp theo là: một sự phát triển mà ta có thể đạt
được bằng nhiều cách. Nó có thể xuất hiện một cách tự nhiên: từ sự chứng
nghiệm sâu sắc này (tứ thiền), khi tâm hoàn toàn trụ vào một điểm, trở nên
dễ uốn nắn, dễ phát triển. Một cách khác nữa, tâm có thể từ trạng thái
khinh an trong tứ thiền, phát khởi sự sáng suốt, vượt lên trên sự nhận
thức chỉ nơi thân vật lý (dầu ở thời điểm đó thân sắc không được cảm nhận
một cách rõ ràng) đến kinh nghiệm của sự tràn đầy, rộng mở. Nó cũng tương
tự như sơ thiền, nhưng chứng nghiệm này, dầu có liên quan đến thân, trở
nên vi tế, thanh thoát hơn. Tâm có thể, nếu được điều khiển đúng cách, đi
đến khoảng không gian mà cơ thể ta chiếm dụng, một không gian mà cho đến
giờ ta chỉ có thể cảm nhận một cách mơ hồ. Từ đó tâm sẽ vượt xa hơn đến độ
một cảm giác về sự vô biên của không gian vô hạn sẽ tiếp nối theo, sự biến
mất của mọi giới hạn. Đức Phật đã giải thích điều đó trong một số bài
giảng như là cảm giác bỏ lại đằng sau những cây cối, rừng rậm, làng mạc,
mặt đất, trăng, sao, mặt trời, và các đường chân trời, mở rộng tâm ra thêm
nữa, và thêm nữa. Tâm ta trở nên thật nhu nhuyễn, dễ uốn nắn đến độ nó có
thể đi đến bất cứ nơi nào. Chỉ có tâm với khả năng như thế mới có thể
hoàn toàn buông bỏ mọi quan điểm của nó. Chúng ta chọn lựa cách nào để
hướng tâm đến đâu không còn quan trọng nữa; đó là sự chứng nghiệm về vô
biên nơi không còn có các giới hạn.
Từ kinh nghiệm này ta không thể làm gì khác hơn là đi đến kết luận rằng
không chỉ bản thân ta mà bất cứ thân sắc nào khác, dù là người, cầm thú,
cây cỏ, hay trăng sao, đều chưa bao giờ tách biệt -điểm nhấn mạnh ở đây là
bản thân chúng ta. Ta chứng nghiệm về sự vô hạn nhưng không có ai ở đó.
Ở đây tâm vẫn còn nhận ra người quán sát, một cách rõ ràng, sáng suốt và
sâu đậm hơn trong tứ thiền. Tứ thiền thì thanh tịnh, phóng thích năng
lượng, do đó người quán sát gần như hoàn toàn bị bỏ quên. Trong lúc chứng
nghiệm về sự vô hạn, người quan sát trở thành chủ động hơn. Mặc dầu không
có một ngã thể nào – và điều đó rất rõ ràng đối với tất cả những ai đã
chứng nghiệm được nó – người quán sát vẫn còn có mặt và tâm gọi đó là ‘tôi’.
Không chỉ là chúng ta đã bỏ lại phía sau cái ý nghĩ về một ngã thể, một
bước rất quan trọng, mà chúng ta cũng kinh nghiệm được sự toàn vẹn. Đây
là sự chứng nghiệm về một tổng thể đầu tiên có thể có được trong thiền. Ở
tầng thiền thứ năm và thứ sáu, hành giả có thể hiểu được câu ‘tất cả chúng
ta là một’ trong đời sống thực tại. Ta nhận thức rất rõ ràng rằng không
có gì tách biệt hay có bất cứ một biên giới nào –tất cả vạn vật đều hòa
lẫn vào nhau.
Tâm đã chứng nghiệm được điều đó tự động tiếp nhận một sự hiểu biết mới.
Nếu ảo tưởng, ta không thực sự chứng nghiệm và không thể đạt được tri kiến
sâu xa. Cảm giác tách biệt khỏi các chúng sanh khác, khỏi thiên nhiên,
khỏi các suy nghĩ của chính mình, hay suy nghĩ của người khác, sự tách
biệt giữa một cội cây và bản thân chúng ta, tùy thuộc vào những tà kiến đã
ăn sâu trong tâm trí ta. Không chỉ các nhà khoa học đã nhận ra rằng
không có sự ngăn cách cụ thể nào trong vũ trụ, mà Đức Phật đã chứng nghiệm
được điều đó hơn 2500 năm trước và đã đưa ra những kết luận riêng của Ngài.
Các nhà khoa học đã xác định rằng nói cho cùng thì chỉ có những mảnh năng
lượng hợp lại với nhau, rồi tan rã. Để đi đến được kết luận đó, ta không
phải tốn công đến phòng thí nghiệm. Ta có thể chứng nghiệm điều đó trong
thiền. Chúng ta đã có phòng thí nghiệm bên trong ta. Tất cả vũ trụ đều
được chứa đựng bên trong ta và ta có thể chứng nghiệm chúng.
Nhận thức được sự phân biệt là vọng tưởng giúp chúng ta chấp nhận một thái
độ khác trong sự giao tiếp hằng ngày với tha nhân. Người khác thật sự
không phải là ‘khác’, họ cũng có mặt trong không gian vô hạn đó. Điều đó
có nghĩa rằng không chỉ sự liên hệ của ta với cây, với hoa, với sông suối,
thiên nhiên thay đổi, mà trên tất cả là sự thay đổi trong liên hệ của ta
với các chúng sanh khác, vì phần lớn các vấn đề của chúng ta là với họ.
Sự nhận thức này không chỉ làm cuộc sống hằng ngày của ta dễ dàng hơn: nó
hoàn toàn chuyển hóa sự hiện hữu hằng ngày của ta.
Công phu tu thiền thực sự chuyển đổi đời sống hằng ngày của chúng ta. Nếu
không là ta đã không hành thiền đúng cách –ta đã không chú tâm hay đã chỉ
mộng mơ. Sự chuyển hóa này cần có thời gian và lúc đầu rất khó nhận biết.
Do đó, sau một thời gian, ta cần ngồi xuống, quán sát lại, là điều Đức
Phật thường nhấn mạnh. Ta có thể quán sát, thí dụ, điều gì đã làm ta sân
hận hai hay ba năm trước đây, vì hiện tại những việc đó không còn gây khó
chịu cho ta nữa. Hay chúng ta có thể xem lại tại sao trước đây ta khó
thương cảm cho ai đó, và giờ thì lại dễ dàng biết bao.
Trong các truyền thống khác, sự chứng nghiệm về tổng thể thường được diễn
tả như là một kinh nghiệm về ngã là ‘tất cả’ hay tất cả là ‘ngã’. Đây là
một kết quả khác của tầng thiền thứ năm và thứ sáu: ‘Tôi là tất cả, tất cả
là tôi’. Trong một số tôn giáo hữu thần điều này được coi là dị giáo,
nhưng trong Phật giáo, đó là sự biểu hiện của các tầng thiền này. Điều
trùng hợp là, thiền định thường được thực hành bởi các vị thần bí của mọi
tôn giáo, nhưng họ dùng những thuật ngữ khác nhau để diễn tả chúng. Trong
thế kỷ của lý trí và trong thời đại khoa học kỹ thuật của chúng ta, thiền
định được đẩy lùi về phía sau và hầu như bị bỏ quên. Nhưng đầu óc nhân
loại có khuynh hướng thiên về chúng. Nếu chúng ta mong muốn kinh nghiệm
được các tầng thức khác của tâm, không có lý do gì ta không thể đạt được
trong công phu thiền tập rốt ráo.
Đạt được không gian vô hạn rồi thì nó cho ta cơ hội để cảm nhận tình
thương yêu, bi mẫn trên một bình diện hoàn toàn khác. Nếu chúng ta thực
sự đi theo con đường đó, ta sẽ có được những kết quả cụ thể, rõ ràng. Bất
cứ sự giải thích nào về các tầng thiền cũng đầy nguy hiểm vì một số người
sẽ nghĩ rằng họ đã chứng nghiệm được những gì mà thực sự ra họ chỉ hiểu.
Từ sơ thiền đến tầng thiền thứ tám, mỗi bậc là một cảm giác. Các nhận
thức tiếp nối chỉ xuất hiện sau kinh nghiệm của tầng thiền tương ứng. Sự
giải thích không gì hơn là một cố gắng để diễn tả cảm giác bằng lời.
Chúng ta không bao giờ nên lẫn lộn giữa suy tư và cảm giác. Bất cứ ai
cũng có thể chứng nghiệm được các tầng thiền quả, nhưng với những người
thường quán sát các cảm giác của mình sẽ thấy việc đó dễ dàng hơn chút ít.
Tình thương và lòng bi mẫn trở nên dễ dàng tiếp cận hơn vì chúng ta không
gửi gắm tình thương, tình bạn cao quý, hay sự sẵn sàng để giúp đỡ ai, vì
không còn có ai khác. Tất cả chúng ta là một. Hướng tình thương đến bản
thân chúng ta cũng không đem lại sự khác biệt nào, vì nó chỉ có nghĩa rằng
tính chất của trái tim đã phát triển và bắt đầu nở hoa. Không còn quan
trọng nữa là ai đứng trước chúng ta, dầu cho họ dễ chịu hay hành xử không
theo ý ta mong muốn. Để tập được điều này, chúng ta phải thực hành thiền
tâm từ, là nơi chúng ta sẽ phát triển tình cảm đó từ những người bạn thân
đến những người khác trong một vòng tròn rộng lớn đến vô tận. Qua những
kinh nghiệm của tầng thiền thứ năm, các cảm giác không còn hướng đến một
đối tượng đặc biệt nào nữa, vì trong không gian vô tận chỉ còn có cảm giác
này tồn tại.
Tầng Thiền Thứ Sáu
Tầng thiền thứ sáu tương ứng với sơ thiền và nhị thiền. Trong sơ
thiền, nơi mà những cảm giác dễ chịu ở thân có thể được cảm nhận, niềm vui
bắt đầu phát khởi, rồi sau đó trở thành đối tượng thiền quán của nhị thiền,
qua việc buông bỏ các cảm giác dễ chịu nơi thân. Sự chuyển đổi từ tầng
thiền thứ năm qua tầng thiền thứ sáu cũng xảy ra tương tự như thế. Không
gian vô hạn, mà ta có thể cảm nhận qua thân, thay bằng thức vô biên, vì
chỉ có thức vô biên mới có thể kinh nghiệm được không gian vô hạn. Hai
việc này phát khởi cùng lúc, và để đi được từ tầng thứ năm lên tầng thứ
sáu, chúng ta chuyển sự chú tâm từ không gian vô hạn đến thức vô biên, bao
trùm cả không gian vô tận.
Chúng ta cũng có thể từ tầng thiền thứ năm đi vào tâm thức cá biệt và giới
hạn của chúng ta, rồi phát triển đến sự vô hạn. Bất cứ ai có thể duy trì
được sự chứng nghiệm của tứ thiền đủ lâu đều có thể điều khiển tâm họ theo
cách này. Thành tựu lớn nhất trong cuộc đời là sở hữu một tâm đã được rèn
luyện; theo Đức Phật nó có thể giúp chúng ta nhiều hơn cả cha mẹ hay bạn
bè thân thiết của ta.
Thức vô biên, do đó có thể được chứng nghiệm bằng hai cách: bằng cách phát
triển tâm thức đến vô cùng tận, hay bằng cách đi từ chứng nghiệm của không
gian vô hạn thẳng đến chứng nghiệm của thức vô biên. Trong thiền chứng
này chúng ta nhận thức được rằng trong không gian và tâm thức không có một
ai.
Chúng ta phải cẩn thận để đừng lầm lẫn những tầng thiền định với các trạng
thái tâm siêu việt mà chỉ có thể xảy ra với quả Dự lưu. Cả hai không gian
và thức đều thuộc về thế tục. Chúng là thân và tâm mà từ đó cấu tạo ra ta
và ở đó mọi thứ xảy ra. Tâm sân hận, sợ hãi, không kiềm chế, và không
chánh niệm là tâm khiếm khuyết. Nó chỉ quan tâm tới bản thân, và có thể
một vài người gần bên. Nó không thể buông bỏ ngã tưởng vì nó luôn quan
tâm đến ngã. Tuy nhiên, tâm đã được thanh tịnh hóa bằng thiền và chánh
niệm, có thể tự tách ra khỏi những giới hạn mà ta tự đặt ra cho mình, và
thường đem phiền não đến cho ta. Bi kịch của tâm hạn hẹp được giải quyết
bằng tâm tu tập thiền định. Nó tự thanh tịnh hóa trong sự hiện hữu mỗi
ngày, càng ngày càng sâu xa hơn để phát triển thành vô hạn.
Sự
phát triển này rõ ràng cho thấy tâm dầu có hiện hữu, cũng không thuộc về
‘cái tôi’. Ở đây chúng ta có thể nhận thức một cách khá rõ ràng là người
quán sát đã biến mất vào vô hạn. Anh ta ở ngay đây, đã quán sát, nhưng
anh cũng vô hạn. Một khi chúng ta đã tự biết mình với những giới hạn về
thân và tâm, và người quán sát đã trở thành vô hạn, chúng ta lần nữa lại
đối mặt với cùng câu hỏi: Ai là ‘cái tôi’ này? Đây là câu hỏi trọng tâm
trong Phật pháp.
Với sự hỗ trợ của tầng thiền thứ sáu, chúng ta có thể nhận thức rõ ràng
hơn rằng thực sự có tâm thức, nhưng không có ai làm chủ nó. Nếu tâm được
thanh tịnh hóa đủ qua những cố gắng đầu tiên, nó sẽ tìm được nhiều giải
thoát hơn từ những tri kiến này. Sự giải thoát này chỉ là một ý niệm mơ
hồ về những gì có thể xảy ra một khi ta thực sự buông bỏ được ngã, vì thế
đối với nhiều người hai thiền quả này bổ sung thêm động lượng và tính cấp
bách cho ước muốn được giải thoát.
Dĩ
nhiên, nếu ‘tôi’ muốn được giải thoát, thì không thực hiện được. Một rào
cản tương tự cũng xuất hiện nếu tôi muốn tận diệt sự khổ đau ‘của tôi’.
Khổ đau và giải thoát có mặt, nhưng cái ngã dựng một rào cản giữa chúng.
Nếu ta muốn đạt được giải thoát – và bước đầu tiên để đến đó, quả Dự lưu,
mang đến chỉ một mức độ rất giới hạn của giải thoát, bậc mẫu giáo của giác
ngộ, có thể nói như thế – chúng ta cần phải khám phá ra ai đang cản trở
việc Giác ngộ, không phải ai là người muốn được nó.
Hai tầng thiền quả này cho chúng ta được nếm hương vị của sự vật sẽ như
thế nào khi không có cái ngã cản trở. Sự vô giới hạn đó không giống như
sự hoàn toàn biến mất, nhưng nó hướng đến một sự tiêu diệt dần dần các
giới hạn của ta. Lần nữa điều đó là một cái gì chúng ta không thể phác
họa ra trong tâm, mà chỉ có thể chứng nghiệm.
Đồng thời ta cũng tìm được một nền tảng hoàn toàn mới cho tình thương yêu
và lòng bi mẫn. Rất khác với những thái độ đã được huân tập trong việc
phân biệt giữa người dễ thương và người không dễ thương, ta đạt đến kết
luận rằng tình thương và lòng bi mẫn là những tình cảm duy nhất trong cái
vô hạn này. Tất cả chúng ta đều ở trong không gian vô hạn và thức vô biên
này, nhưng không có ai có thể được nhận diện. Tất cả những sự tiêu cực,
chống báng, ganh tỵ đều độc hại cho tất cả mọi người trong cõi của chúng
ta. Tất cả tình thương và lòng bi mẫn đều hữu ích. Do đó qua thiền định
chúng ta nhận thức được rằng bất cứ những tình cảm nào khác đều vô ích và
uế nhiễm, chỉ làm vẩn đục sự vô hạn. Đây là một điều còn tệ hại hơn
nhiều việc ô nhiễm môi trường của chúng ta. Một khi đã kinh nghiệm và đã
hiểu được tất cả những điều đó, là ta mở được một cửa ngõ mới đến với các
cảm xúc của mình. Cửa ngõ này luôn mở nếu hành giả thực hành thiền định
đầy đủ.
Tầng Thiền Thứ Bảy
Trong tầng thiền thứ bảy tiếp theo sau những tầng thiền trước đó, tâm nhận
thức được rằng trong không gian vô hạn và trong thức vô biên hoàn toàn
không có gì để tìm thấy được. Lúc đó sự chú tâm được hướng đến sự chứng
nghiệm mà đôi khi có thể xảy ra như một chuyển động chớp nhoáng. Tâm đi
qua tầng thiền thứ bảy này biết rằng không có gì mà nó có thể bám víu vào.
Trong lúc đó, tâm đã trở nên quá bình lặng đến nỗi nó không còn cần bất cứ
thứ gì để bám víu vào.
Tâm chưa từng tu tập thiền thì bám víu vào các ý kiến của nó và vào tất cả
những gì nó thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc chạm. Tâm đã được rèn luyện qua
thiền sẽ hoài nghi điều suy nghĩ của nó có thật sự đúng không và có đúng
là nó thực sự đã biết mọi thứ. Và tâm càng vi tế càng xem ý kiến của nó
chỉ là ý kiến, cho tới khi nó dừng nghĩ đến bất cứ điều gì. Đây là mũi
tên chỉ đường đến niết bàn, làm sao ta bắt đầu biết khả năng một ngày nào
đó ta có thể buông bỏ và hoàn toàn đánh mất tự ngã. Tuy nhiên, điều này
bao gồm tất cả con đường thiền định và những tri kiến thành tựu được, mà
ta có thể hướng đến với sự hỗ trợ của thiền. Ý chí của ta cần phải thanh
tịnh đến nỗi nó không còn lệ thuộc vào những điều ta muốn hay không muốn,
hay bởi các ý kiến của ta, mà tự tại bước ra đi vào vũ trụ. Tâm tiếp tục
bám víu vào ái dục sẽ không thể chịu đựng nổi sự vô hạn này.
Con đường phải được đi từng bước, chậm rãi. Chúng ta không thể bỏ qua một
bước nào, mặc dầu ta có thể tự nhủ rằng ta đã đi một bước trước khi ta
thực sự đến. Dầu bạn đang ở bất cứ điểm nào, cũng phải là như thế. Đức
Phật đã so sánh con đường tu tập với đại dương: chúng ta từ từ tiến ra
biển, bước xuống làm ướt mình từ chút cho đến khi hoàn toàn ngập sâu trong
nước.
Tầng Thiền Thứ Tám
Tầng thiền thứ bảy là thứ ba của thiền tuệ, để lại phía sau một ấn tượng
mạnh mẽ đến nỗi tâm biết và cảm nhận được rằng sự vô hạn này không chứa
đựng bất cứ thứ gì mà ta có thể bám víu vào. Khi sự vô hạn bao trùm ta,
tâm đã sẵn sàng để buông bỏ tự ngã và hoà nhập với bản thể ban đầu của
hiện hữu là nơi không có tự ngã nào có thể được tìm thấy.
Tầng thiền thứ bảy dẫn đến tầng thứ tám là tầng tương ứng với tứ thiền.
Trong tứ thiền tâm được thư giãn, trong khi người quán sát vẫn còn hoạt
động ở phía sau, nhưng ở tầng thứ tám, tâm không còn tỉnh thức và nhận
biết như thế, thay vào đó nó trụ nơi bản thân. Cảm giác này thật khó giải
thích. Nó bỏ lại đằng sau bốn uẩn thuộc về tâm (trong ngũ uẩn -khandhas).
Tầng thứ tám cũng được gọi là phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng là chi thứ
ba sau sắc và thọ, và là người quán sát của chúng ta. Trong tầng thứ tám
này, người quán sát trở nên lu mờ đến nỗi nó không thể nói gì về chứng
nghiệm này. Tuy nhiên, tâm trú ngụ trong sự an bình tuyệt đối và tiếp
nhận một nguồn năng lượng khổng lồ. Nó cho chúng ta thấy đã có biết bao
đau khổ trong tư tưởng và sự quán sát, ngay chính như khi ta nghĩ đến
những điều tốt đẹp nhất. Kết quả của tầng thiền thứ tám là chúng ta nhận
thức được rằng tâm hoạt động không ngừng đem lại đau khổ. Nếu thân phải
làm việc cực nhọc như là chúng ta luôn đòi hỏi nơi tâm thì nó không thể
chịu đựng nổi. Chỉ có người thực hành thiền quán mới có thể tạo được một
ít thanh tịnh cho tâm trong thiền định.
Sau tầng thiền thứ tám, ta thấy rõ ràng rằng suy nghĩ là gánh nặng cho
chúng ta đến thế nào. Do đó một chúng sanh luôn bị đau khổ dày vò vì tất
cả mọi xúc chạm đều dẫn đến suy tưởng. Đức Phật hoàn toàn chấp nhận sự
giải thoát từ đau khổ để vào thiền định. Tương tự, chúng ta có thể tận
hưởng những dục lạc nếu chúng ta ngưng tìm kiếm chúng và chỉ kinh nghiệm
chúng khi chúng xảy ra. Nếu chỉ thấy toàn đau khổ sẽ làm nản chí chúng ta
khi ra khỏi tầng thiền thứ tám, ta sẽ trở nên trầm cảm đến nỗi không còn
muốn tiếp tục con đường đạo. Tuy nhiên bằng cách nhận thức được đau khổ,
ta có thể tìm được đủ sinh khí và năng lượng để giúp ta buông bỏ ngã tưởng.
Chương 12
Trí Tuệ
Bát Nhã
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi vào trí tuệ cùng tột sâu thẳm, soi thấy
năm uẩn đều không, liền vượt khỏi mọi khổ ách.
Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Này Xá-lợi tử, tướng không của các pháp không sinh không diệt, không
sạch không nhơ, không thêm không bớt. Cho nên trong tánh không, không có
sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không
có sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý
thức giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho đến không có
già chết cũng không có già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo, không trí
cũng không đắc, vì không sở đắc.
Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại; vì không ngăn
ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết- bàn.
Chư Phật ba đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
Thế nên biết trí tuệ cùng tột là thần chú lớn, là thần chú sáng lớn,
là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng, dứt trừ hết thảy
khổ ách, chân thật không hư, cho nên nói câu thần chú trí tuệ cùng tột;
liền nói thần chú rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
(Phật
Ở Trong Lòng, H.T. Thích Thiện Siêu NXB Tôn Giáo 2003, trang 392)
Kinh Hrdaya Prajnaparamita là một bản kinh nổi tiếng, đặc biệt được tôn
trọng trong truyền thống thiền Phật giáo ở Triều Tiên và Nhật Bản, và đã
có mặt khoảng hơn 1000 năm. Tựa bản kinh trong tiếng Sanskrit: Hrdaya
có nghĩa là trái tim, prajna là trí tuệ, paramita giới
hạnh và sutra là bản kinh (hadaya, panna, parami và sutta
là những từ tương đương trong tiếng Pali, nhưng ở đây chúng ta sẽ dùng
từ Sanskrit vì chúng ta bàn về một bản văn tiếng Sanskrit). Bản kinh này
có thể dịch sát nghĩa là ‘Bài thuyết pháp về giá trị của trí tuệ.’ Tuy
nhiên, nó thường được dịch là ‘Tâm Trí tuệ bát nhã’ hay đơn giản là ‘Kinh
Trái Tim’.
Kinh do một vị đại sư thiền soạn thảo (10). Kinh giải thích vắn tắt về
những yếu tố cuối cùng trong chuỗi duyên sanh siêu việt, bắt đầu với sự
giải thoát khỏi những tình cảm tiêu cực và tiến dần đến hoàn toàn giải
thoát. Dầu kinh chỉ có thể được hiểu từ cái nhìn của sự thật tuyệt đối,
mà tâm phàm phu không thể nào liên tưởng đến, nó vẫn là một bài kinh nổi
tiếng và thường được trích dẫn. Kinh được bắt đầu như sau:
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi sâu vào trí tuệ cùng tột.
Avalokitesvara xuất phát từ hình ảnh các vị thần thánh ở Ấn Độ khoảng cùng
thời với lúc giáo lý của Đức Phật được truyền bá khắp lục địa này. Ngài
thường được mô tả với nhiều tay, biểu tượng của lòng hoan hỷ vô thượng,
khả năng hành thiện và che chở bảo vệ bao chúng sanh, Ngài do đó đại diện
cho lòng bi mẫn dưới hình tướng người nam. Quan Âm (Kwan Yin) là
hình tướng người nữ của cùng một biểu tượng trong truyền thống Trung Hoa.
Bồ Tát (bodhisattva) là người toàn tâm toàn trí tìm kiếm giác ngộ.
Đức Phật do đó là một Bồ Tát trước khi chứng đắc thành Phật. Bodhi
có nghĩa ‘giác ngộ’ và sattva là ‘người’, vì thế từ này có nghĩa
là ‘người giác ngộ’, nhưng nó cũng có thể được dùng để ám chỉ ‘người đang
đi tìm giác ngộ và nguyện làm tất cả để đạt được mục đích đó.’
(10) Ở đây có lẽ Ni Sư
Ayya Khema muốn nói đến Luận sư Long Thọ, là người có công hệ thống hóa
các tư tưởng được nêu lên trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Khi đi sâu vào trí tuệ cùng tột, ngài nhận thấy rằng tất cả mọi thứ
trên thế giới đều là không.
Ở
đây chúng ta có Bồ Tát Avalokitesvara chìm sâu trong quán tưởng và nhận ra
rằng tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm trên thế gian, hoặc về thân, về
thọ, tưởng, hành, hay thức, trong thực tế tất cả chỉ là không. Năm phân
loại được nhắc đến ở đây là năm uẩn (skandhas), thường được dịch
như là ‘những thành tố của sự hiện hữu’ hay ‘tổng hợp’, và chúng phân biệt
các kinh nghiệm của ta bao gồm những gì. Trong phần diễn tả chuỗi liên
hoàn của duyên sanh thế tục có hình ảnh một con quỷ, thân che phủ da cọp,
tay cầm một bánh xe tượng trưng cho vòng tròn này, và đầu đội một vòng
nguyệt quế với năm sọ người, tượng trưng cho năm uẩn (skandhas).
Trên tất cả, năm thành tố này mà từ đó con người được tạo thành –thân,
thọ, tưởng, hành và thức- là không, là trống rỗng. Nhưng chúng trống rỗng
về cái gì? Chúng trống rỗng hình tướng. Đó là, chúng rỗng vắng về tất cả
những gì có thể mang đến cho chúng một ý nghĩa nào. Ở đây chúng ta sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, khi cố gắng hiểu được khái niệm này. Thật vậy, có thể
có một sự hiểu lầm khá tai hại. Sự rỗng vắng không có nghĩa là tất cả đều
không có mặt trong thế giới này –không thể nghi ngờ gì về sự có mặt của
một thế giới đầy biến động. Nhưng tất cả mọi thứ trong đó, bản chất của
chúng là vô thường. Không có bất cứ thứ gì có thể được coi là ngoại lệ
đối với định luật này, mà nó cũng có thể được diễn tả như là một quy tắc
chủ đạo rằng không có gì tự hiện hữu. Vì thế các pháp đối với chúng ta là
bền vững, trong thực tế chỉ là bề ngoài, vì chúng luôn thay đổi không
ngừng. Không có gì ở trong chúng mà có thể sở hữu hay lưu giữ được.
Trong ý nghĩ đó thì chúng là rỗng vắng.
Và tất cả mọi khổ ách được Ngài xóa bỏ bằng cách nói,
‘Này Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc.’
Xóa bỏ mọi khổ ách có nghĩa là chấm dứt mọi đau khổ (dukkha). Xá
Lợi Phất là cánh tay phải của Đức Phật lịch sử và là vị đệ tử đệ nhất trí
tuệ, vì thế những người muốn bày tỏ sự chứng ngộ của mình thường tìm gặp
Đức Phật hay Xá Lợi Phất. Và đây chính là những gì mà Avalokitesvara đang
làm. Avalokitesvara chứng ngộ được sự đoạn diệt hoàn toàn của tất cả những
cay đắng, khổ đau ở bên trong, ngài đã tự chứng được thực tế đó. Ngài
nhận thức được rằng thế giới hình tướng là rỗng không và rỗng không chẳng
gì hơn là thế giới hình tướng. Rỗng không có nghĩa là thiếu vắng hình
tướng, rằng không có một bản thể nhất định nào đối với vật gì; người cũng
như thú, cùng tất cả vũ trụ thiên nhiên, đúng ra là tất cả những đối tượng
vật chất, không nắm giữ điều gì chắc chắn, bền vững bên trong chúng. Sự
thật đơn giản mà ngài đã chứng ngộ được là tánh không có trong tất cả vạn
vật. Tuy nhiên nếu không có kinh nghiệm cá nhân thực sự về những gì mà từ
ngữ đó nói đến thì khó mà hiểu được. Nói một cách khác là tất cả là không
và không là tất cả –nhưng những lời này cũng rất khó hiểu.
Thế giới hình tướng thì trống rỗng –nó không chứa đựng gì cả- và thực tế
này bao trùm vạn vật. Chính là chúng ta đã tạo nên thế giới nhị nguyên
bằng cách phân biệt các sự vật qua cách nói: ‘Đây là người. Đây là hoa.
Đây là thú. Đây là điều tốt, đó là điều xấu.’ Với những sự phân biệt như
thế, tâm lăng xăng cũng bắt đầu, và ta luẩn quẩn trong đó, không thể thoát
ra vì luôn phải tìm một cái gì khác nữa để phán đoán.
Dĩ
nhiên, trên tất cả là chúng ta tự phán xét mình: ‘Tôi đã làm tốt việc này’,
‘tôi đã thất bại điều kia,’ ‘tôi muốn làm điều này tốt hơn,’ ‘tôi đã làm
việc đó rồi’,‘tôi rất tốt,’ ‘tôi rất xấu.’ Khuynh hướng phân biệt, phán
xét, chọn lựa, khiến cho chúng ta gần như không thể nhận ra rằng tất cả
mọi đối tượng của sự phán xét, đánh giá của chúng ta không có gì cả, rằng
tánh không bao trùm tất cả và rằng không có sự phân biệt (nhị nguyên) ở
trong bất cứ cái gì. Nó chỉ có vẻ như là mọi thứ đều khác và tách biệt.
Thế giới của chúng ta là một thế giới giả tạm, gọi là maya trong
truyền thống Ấn Độ. Nhưng vì mắt ta thấy hiện tượng, tai nghe tiếng nên
ta tin vào sự giả tạm, coi đó là thật.
Sắc tức là không, không tức là sắc.
Không gì có bản thể; chỉ có hình tướng bên ngoài. Những gì hiện ra trước
mắt chúng ta như thật, thực sự chỉ giống như bọt nước trên mặt biển. Các
bong bóng nước hoàn toàn quên rằng chúng không thể tách biệt khỏi đại
dương đã tạo ra chúng, để rồi bắt đầu phát khởi đủ mọi ý nghĩ về bản thân,
rồi nói với nhau rằng: ‘Bạn biết không, tôi là một bong bóng đẹp hơn bạn
nhiều,’ hay ‘tôi khá cao còn bạn khá thấp,’ hay ‘tôi thông minh hơn bạn,’
hay ‘hãy nhìn tôi, tôi có thể lộn ngược hai vòng.’
Những ý nghĩ này không thể thay đổi được sự thực là trong thực tế các
bong bóng này chính là nước biển, chúng được hình thành do sự chuyển động
của biển. Những gì mà chúng ta coi như là sắc của vạn vật cũng là một với
không, cũng như bong bóng nước là một với biển và biển là một với bong
bóng nước –tất cả vạn vật đều là một phần của tổng thể này.
Cũng thế đối với thọ, tưởng, hành, thức.
Lần nữa, Avalokitesvara nhắc đến năm uẩn (skandhas). Ngài giải
thích với Xá Lợi Phất rằng không có gì trong chúng ta hơn là năm thành tố
này, mà tự chúng cũng là không. Cũng giống như sự ta tự cho mình là cái
gì đó hơn là sự tổng hợp của những thành tố này, là bề ngoài hơn là sự
thực, thì chính chúng (năm uẩn) cũng chỉ là bề ngoài, không có bản thể
nhất định, dầu chúng ta đã coi chúng quan trọng đến thế nào. Rồi Ngài lập
lại:
Xá Lợi Phất, tất cả vạn pháp trong thực tế đều là không.
Cho đến thời điểm này, chúng ta hình như có được một loại trí tuệ mà tôi
sẽ gọi là ‘giây phút đạt đạo’ -một giây phút không có gì phát sinh, không
có gì đoạn diệt. Trước khi đạt được trí tuệ này và mô tả nó ở đây,
Avalokitesvara đã phải công phu tu tập nó bằng cách tìm ra một định hướng
hoàn toàn mới cho tâm thức. Nhưng giờ chúng ta được nghe về các quả chứng
mà Avalokitesvara đạt được, khi ngài giải thích về viễn ảnh của một thực
tại tuyệt đối phát sinh tiếp ngay sau khi ngài đạt được trí tuệ.
Qua các bài viết của ngài Long Thọ, một trong những vị đại sư Đại thừa,
chúng ta biết rằng không thể hiểu được Pháp trừ khi chúng ta có thể phân
biệt được sự thật tương đối và tuyệt đối. Con đường mà chúng ta đã chọn
trên thế gian này dĩ nhiên là con đường của sự thật tương đối, ở đó ta
nhìn thấy vạn vật bằng con mắt nhị nguyên, và tất cả các hình tướng đều có
ý nghĩa. Nhưng cũng có một con đường khác mà ta có thể đi, là con đường
của sự thật tuyệt đối, nơi hình tướng không còn là hình tướng, và thực tại
thì rỗng không. Thực tại tuyệt đối này chính là niết bàn (nirvana
hay nibbana –Pali).
Không sinh, không diệt. Không nhơ, không sạch. Không thêm, không bớt.
Trong thực tại tuyệt đối không có sinh, cũng không có diệt; đó là không có
tử, do đó không có sinh. Tất cả thế giới hình tướng mà chúng ta coi quá
quan trọng đã được trả trở về thực tại mà từ đó chúng phát sinh. Giống
như những bọt bong bóng trên mặt biển của thực tại tuyệt đối, khi đã nhận
thức ra được thực tại tuyệt đối này là chúng ta tự để mình hòa quyện trở
lại với biển. Chúng ta không còn muốn là những bong bóng nhỏ lăng xăng
trồi sụt để khẳng định tánh bong bóng cá biệt của mình, vì đã nhận thức
được rằng một sự tự khẳng định như thế chỉ mang đến đau khổ. Qua tri kiến
này, rồi từ đó ta hòa nhập trở lại với bản thể ban đầu của chúng sanh, ta
nhận thấy được rằng không có gì phát sinh hay chấm dứt. Ở đó không có gì
sinh ra hay diệt, không có gì tăng hay giảm. Không có cái hai, không có
cái đối nghịch, tách biệt. Đó là một tổng thể, không có hình tướng của
hiện tượng chia rẽ. Thế giới giả tạm được khôi phục trở lại tính không.
Trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Trong tánh không, sự phân loại của năm uẩn không phát sinh; do đó, cũng
không có sự hiện hữu của chúng sanh.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Nếu không có uẩn nào, hoặc là thân hay tâm, thì cũng không có sự xúc chạm
của các căn. Như thế điều này đưa ta đến một hướng ngược lại với chuỗi
duyên sanh thế tục, nơi mà sự phát khởi của tâm thân được coi như dẫn đến
sự xúc chạm giác quan. Ở đây, khi đã nhận thức được các sự xúc chạm giác
quan đã phát khởi từ năm uẩn như thế nào, ta càng có thể nhận thức sâu hơn
rằng trong thực tế các uẩn tự chúng là giả có, trống rỗng, nên không còn
có điều kiện gì để thân và tâm phải có mặt. Không có các giác quan, thì
dĩ nhiên, sẽ không có các xúc chạm của giác quan, do đó:
Không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân hay ý; cũng không có vô minh hay
trí.
Vô minh, được coi là động lực chính của chuỗi duyên sanh thế tục, và do đó
của tất cả mọi hiện hữu, cũng không còn ở đó nữa. Không còn có ai để có
thể là vô minh.
Dĩ nhiên, điều này không diễn tả được bản chất thực sự của thực tại tuyệt
đối. Bất cứ sự diễn tả nào cũng chỉ có thể là hướng ta đến một tri kiến
như thế. Nó không bao giờ có thể diễn tả được ý nghĩa thực sự của nó đối
với những người chưa từng chứng nghiệm qua. Điều nó có thể làm là bày tỏ
cho ta biết tất cả mọi khổ đau sẽ được đoạn diệt như thế nào. Không thể
tận diệt khổ đau trong thế giới này, nhưng chắc chắn rằng có thể tận diệt
cái ngã và do đó buông xả được bản chất nhị nguyên. Như thế chúng ta sẽ
không còn có thể coi là thật những sự phân biệt giả tạm cơ bản mà chúng ta
đã bày vẽ ra. Chúng ta nhận ra năm uẩn qua đó sự hiện hữu của ta kết hợp,
tích tụ lại với nhau, cũng là giả có, và không còn coi sự hiện hữu tương
hợp đó là tuyệt đối quan trọng. Ngay giây phút của một chứng nghiệm như
thế, chúng ta hiểu rằng tất cả mọi thứ khác cũng như thế, và rằng chúng ta
chẳng bao giờ cảm thấy cần phải đánh mất sự tiếp xúc với bản thể nguyên
thủy của mình, vì bất cứ khi nào chúng ta làm thế thì chúng ta sẽ chỉ thấy
khổ đau.
Không có già chết, cũng không có hết già chết.
Già và chết không xảy ra ở đây, vì không có sinh. Trở lại hình ảnh của
đại dương, thì điều này có nghĩa là nếu không có bọt biển trên mặt biển
thì không có sự vỡ tan; nếu một bong bóng biển không được tạo ra thì nó
cũng không phải bị diệt. Thật thế, sự đau khổ của già và chết chấm dứt
khi –và chỉ khi- không còn có khả năng của sinh nữa. Không có cách gì
khác để tránh khỏi sự đau khổ này.
Không có khổ đau, cũng không có hết khổ đau, không có hoại diệt, cũng
không có hết hoại diệt.
Điều tiên quyết là ta nhận thức được sự khổ đau, một sự nhận thức sâu sắc,
mãnh liệt đến nỗi ta không còn bám víu vào thân và tâm. Sự buông xả hoàn
toàn việc bám víu vào thân -một sự bám víu luôn mang đến khổ đau, khi nhận
thức ra, đã mở ra cánh cửa dẫn đến sự đoạn diệt của khổ đau. Lúc đó người
ta có thể nhận ra bản ngã của mình chỉ có vẻ như là một cá thể tách biệt,
độc lập và không có một yếu tố quan trọng hay đặc biệt nào có thể gán cho
cái ngã vì nó chỉ được xem như là một hiện tượng giả tạm.
Như thế ta có thể sẵn sàng để cho cái ngã được hòa nhập trở lại với bản
thể đầu tiên của chúng sinh, nơi không còn khả năng phân biệt hay không
phân biệt của ngã, của sinh, của sắc, thinh, hương, vị. Cũng như không
còn nữa sự đau khổ hay sự chấm dứt đau khổ, chúng cũng được nhận ra là
không, là giả có. Ở nơi không có gì -nơi chúng ta hiểu rằng từ ban sơ
trong thực tế đã không có gì– không có gì có thể khổ đau và ở nơi không có
khổ đau, thì khổ đau không cần phải được chế ngự.
Thế giới hình tướng khiến ta lầm lạc tin tưởng rằng nó có thể thỏa mãn
chúng ta, vì tâm ta rất dễ chóng quên những khía cạnh đau khổ của sự vật
mà chỉ trụ trên những khía cạnh dễ chịu. Chúng ta có thể gọi tâm là một
nhà ảo thuật: nó có thể biến hóa ra bất cứ thứ gì, nhưng nó cũng có thể tự
hướng đến sự chứng nghiệm về sự thật tuyệt đối.
Chúng ta tìm thấy loại chứng nghiệm như thế được diễn tả trong tất cả các
bản văn thần bí và từ đủ loại thần linh. Mặc dầu cách diễn tả khác nhau,
loại kinh nghiệm mà chúng ta nói đến thường rất giống nhau. Thí dụ,
Meister Eckhart, một thầy dòng Đo-mi-ních gốc Đức, cuối thời trung cổ đã
nói, ‘Con người không là gì cả’ –và lập tức bị kết án về những điều vừa
nói.
Vì
thế giới chúng ta sống đầy khổ đau, nên chúng ta tìm kiếm sự giải thoát ra
khỏi khổ đau. Đôi lúc ta cũng có thể kinh nghiệm được những sự giải thoát
như thế, nhưng chúng luôn vô thường như bất cứ mọi giây phút khổ đau nào.
Tất cả mọi thứ đều tiếp tục đoạn diệt. Do đó, trong thực tế, không có gì
thực sự từng có mặt, khi nhìn lại hình như mọi thứ đều vuột khỏi tay ta.
Chúng ta có thể quán sát quá trình đó xảy ra trên chiếc đồng hồ. Mỗi giây
phút là sự di chuyển đến giây phút kế tiếp. Nếu nó đứng yên, tất cả quá
trình trong đó từng giây phút là một thành phần phụ thuộc sẽ bị phá vỡ.
Bản chất của thời gian là nó qua đi và kinh nghiệm của chúng ta có thể
không thuộc vào tương lai hay quá khứ. Như thế, sẽ còn lại điều gì? Chỉ
là khoảng khắc của một giây trong tích tắc của giây kim đồng hồ -đó có thể
là một hình ảnh tốt như bất cứ hình ảnh nào để chuyển tải ý niệm của không.
Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến. Chỉ có kim đồng hồ chuyển động,
tất cả mọi thứ khác đều giả tạm.
Vì không có khổ đau, nên cũng không có sự chấm dứt khổ đau, cũng không có
con đường đến giải thoát. Bồ Tát Avalokitesvara đã đi trên con đường giải
thoát rồi. Con đường đó chỉ hiện hữu trên thế giới này và nó trở nên cũ
mòn khi ta đã nhìn được mặt thật của thế giới. Trên bình diện tuyệt đối
hoàn toàn không có gì xảy ra, chỉ hoàn toàn trống không. Cũng không có ai
ở đó để tận hưởng nó.
Không có trí tuệ, cũng không đắc trí tuệ.
Vô minh và trí tuệ cùng có mặt trong thế giới hình tướng thân thuộc của
chúng ta. Trong thế giới này có người khôn, kẻ ngu, người đang đi trên
đường trí tuệ để tìm kiếm phương cách giải thoát và cũng có kẻ không màng
gì đến tất cả những thứ đó. Tuy nhiên ngay khi chúng ta đang du hành trên
con đường của sự tuyệt đối, những sự phân biệt đều biến mất. Trong bản
thể ban sơ của con người không có gì để biết, hay không biết, không có sự
tìm kiếm và cũng không có khám phá.
Ngay cả cụm từ ‘bản thể ban sơ của con người’ cũng phải được xóa bỏ trước
khi ta có thể hiểu nó muốn nói đến điều gì. Chúng chỉ là những thuật ngữ.
Tất cả mọi thuật ngữ đều dùng để nói đến những thực tại tương đối, ngay cả
thuật ngữ ‘thực tại tuyệt đối’. Ở đây chúng ta đối mặt với vấn đề phải
diễn tả những kinh nghiệm siêu việt với những từ ngữ chỉ có thể dùng để
diễn tả những kinh nghiệm tầm thường. Đó là lý do tại sao những sự diễn
tả được dùng thường có vẻ nghịch lý và không thể hiểu được.
Vì Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại, không sợ hãi.
Bất cứ ai đã chứng đắc được điều này trong cuộc sống thì tâm họ hoàn toàn
không phiền não. Họ không còn cảm thấy bị ảnh hưởng bởi những gì mà các
bong bóng khác làm, vì họ giờ đã biết rằng trong thực tế các bong bóng kia
chỉ là không khí và chúng sẽ vỡ tan khi thân đã già. Nhận thức này sẽ
tháo gỡ được bao gánh nặng khỏi tâm tư, khiến cho nó không phiền não và
không sợ hãi.
Như thế tâm không sợ hãi là cái gì? Là tâm không còn phải lo bảo vệ một
cái ngã, không phải khẳng định một đẳng cấp hay danh dự, không phải chứng
minh một chứng đắc nào. Như thế sẽ không còn chỗ cho sự tấn công, do đó
không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì phát sinh. Thân không còn là một sở
hữu cá nhân. Tâm cũng không tùy thuộc vào ai. Cả hai chỉ là những tướng
trạng của một thế giới hình tướng duyên hợp rồi chỉ để rã tan lần nữa lúc
chết.
Tất cả chúng sinh chưa giác ngộ đều có những nỗi sợ hãi, ngay cả khi đã
qua ba giai đoạn đầu của chứng ngộ, khi vẫn còn những dấu vết của ngã.
Trong tâm ta, sợ hãi mang nhiều tên và hình tướng: sợ bóng tối, sợ người
lạ, tuổi già, bịnh tật, khủng bố và chiến tranh. Trong thế giới hình
tướng, chúng ta không ngừng đặt tên cho tất cả mọi thứ để buộc chúng với
hình tướng. Chúng ta giới hạn tất cả mọi thứ vào trong không gian và thời
gian, để có thể nắm bắt và hiểu được chúng.
Sau mọi nỗi sợ hãi đều ẩn giấu sự sợ hãi cái ngã bị tấn công hay bị tiêu
diệt, dầu là thân vật chất, tình cảm hay tâm linh. Bao giờ còn có một cái
ngã thì sẽ còn có những nỗi sợ hãi. Sự chấp ngã điên rồ càng mạnh thì nỗi
sợ hãi càng lớn hơn và cuộc sống của người đó càng khốn khổ hơn. Giải
thoát khỏi sự sợ hãi chỉ đến khi chúng ta đã được giải thoát, với sự chứng
ngộ được tánh không.
Ngài xa lìa mọi vọng tưởng điên đảo, chứng đắc niết bàn trong hiện tại.
Chúng ta phác họa ra bao ý nghĩ về niết bàn phải như thế nào. Chúng ta
huyễn hoặc ra bao phương cách để có thể xếp đặt một cuộc sống huy hoàng
cho bản thân. Chúng ta có những quan điểm về người và bản thân, và chúng
ta tưởng tượng ra thiên đường hay cõi trời với các thiên thần. Nhưng tất
cả những sự tưởng tượng này đều không có căn cứ - một giấc chiêm bao mà
ta chỉ có thể thức tỉnh khi đã chứng ngộ. Tất cả mọi thứ đều là giả tạm,
đến rồi đi, cái này tiếp nối cái kia không dừng dứt. Nếu chúng ta có thể
nghĩ về bao nhiêu người đã từng sống trên trái đất nhỏ bé này, họ đã đến
và đi như thế nào và giờ đến lượt chúng ta- và nếu chúng ta có thể nhớ
rằng ta chỉ ở đây trong chốc lát như thế nào trước khi ta cũng ra đi và
nhường chỗ cho những người khác tiếp nối, và rằng cuối cùng không có ai sẽ
nhớ chúng ta thực sự là như thế nào –ta sẽ thấy rằng ta chỉ là một phần
của thế giới giả tạm, của sự tưởng tượng.
Sự
chứng ngộ hoàn toàn thanh tịnh -vắng bặt tất cả mọi sự tưởng tượng: ‘Không
là tất cả, và tất cả là không.’ Đây là sự chấm dứt của mọi mộng ảo. Chúng
ta có thể kinh nghiệm được niết bàn ngay bây giờ, trong chính cuộc sống
hiện tại; ta có thể sống trong sự giải thoát. Đức Phật đã giác ngộ ở tuổi
ba mươi lăm, và tiếp tục sống cho đến khi Ngài được tám mươi trong trạng
thái hoàn toàn giải thoát, dùng khả năng của Ngài để giúp người khác thoát
ra khỏi thế giới mê lầm với niềm tin rằng Ngài có thể giúp những người với
‘một ít bụi trong mắt họ.’
Chư Phật trong ba đời –quá khứ, hiện tại và tương lai- đều nương theo trí
tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
‘Buddha’ không phải là tên gọi, đó là một danh hiệu có nghĩa là ‘Đấng Giác
Ngộ’, và đã có những vị Phật trước đó. Siddhartha Gautama, là vị Phật mà
giáo lý của người vẫn còn được truyền đạt đến chúng ta ngày nay, là vị
Phật thứ bảy trong chu kỳ vũ trụ tính theo truyền thống Nguyên Thủy, (hay
thứ hai mươi bốn theo truyền thống Đại thừa). Tất cả các vị Phật, người
này tiếp theo người kia, chứng đắc như nhau. Thật vậy, tất cả những vị
giác ngộ đều đi trên một con đường và đạt đến cùng một giác ngộ về sự thật
tuyệt đối.
Đức Phật của thời hiện tại là người mà giáo lý của Ngài chúng ta nói đến
hôm nay. Đức Phật tương lai là người sẽ được gọi là Di Lặc (Maitreya hay
Metteyya trong tiếng Pali), nhưng thời gian xuất hiện của ngài vẫn còn xa,
vì thế chúng ta không nên hy vọng có thể được sống vào thời của một Đức
Phật, vì những thời điểm như thế rất hiếm hoi. Chúng ta được khuyên tốt
hơn là dấn thân thực hiện việc đại sự của ta ngay bây giờ, và thích nghi
với hoàn cảnh hiện tại hơn là chờ đợi, hy vọng những điều kiện tốt hơn
trong tương lai. Sự giác ngộ không chỉ có thể có khi Đức Phật còn tại thế,
mà còn có thể có được bất cứ lúc nào khi Pháp –những lời dạy còn lưu
truyền hậu thế của Ngài để dẫn dắt chúng ta theo đúng hướng- còn hiện hữu.
Pháp vẫn luôn hiện hữu khi ta còn tìm đến, khám phá ra nó bằng cách đọc
hay nghe Pháp như hôm nay.
Tất cả những ai nương theo trí tuệ bát nhã đều đạt được giải
thoát viên mãn.
Sau khi đã nói tất cả những điều này, Bồ Tát Avalokitesvara tiếp tục
khuyến khích tất cả hãy tự chứng nghiệm trí tuệ này.
Vì thế tất cả chúng ta hãy nương theo trí tuệ tột cùng này. Đây là thần
chú lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng, dứt trừ
hết thảy khổ ách, chân thật không dối, khai mở trí tuệ cùng tột.
Ngay ở đó, câu tiếp theo, gần như một thần chú:
Hãy đến, tất cả chúng sanh, hãy cùng đi đến sự giải thoát cùng tột này, sự
giải thoát vĩ đại, vô thượng, đến Giác ngộ. Đó là tâm trí tuệ bát nhã.
Câu chú bằng tiếng Phạn như sau:
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi, svaha. (Yết đế, yết đế, ba
la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề sa bà ha).
Mà ta có thể dịch sát nghĩa như sau:
Hãy đi, hãy đi
Hãy đi xa hơn nữa,
Hãy vượt qua chính mình,
Để đến được Giác ngộ.
Những lời này Bồ Tát Avalokitesvara muốn nhắn gửi đến tất cả chúng sanh;
ngài dạy tất cả mọi người hãy cùng nhau đi đến ‘một sự tự do rộng lớn, một
sự tự do vô hạn, đến giác ngộ, đến tâm trí tuệ bát nhã.’
Tựa kinh, Hrdaya Prajnaparamita hay ‘tâm trí tuệ bát nhã’ thật khéo chọn,
vì nó muốn nói rằng khi đạt được trí tuệ phải có sự giải thoát của con tim.
Trí tuệ là một chứng đắc, nhưng nó cũng là một cảm giác, vì thế liên quan
đến trái tim. Nếu chúng ta chỉ hiểu ngữ văn kinh một cách lý trí, thì rất
khó hiểu, ý nghĩa kinh sẽ vẫn lạ lẫm, huyền bí cho đến khi ta có thể thực
sự cảm nhận chúng trong trái tim ta. Chỉ với cả hai bộ phận: lý trí và
trái tim, chúng ta mới có thể mở lòng ra đón nhận sự giải thoát khỏi tất
cả mọi phân biệt, mọi ảo tưởng, mọi chia rẽ. Và cả mọi phiền não, vì một
khi đã đạt được tánh không, không là gì cả, và có thể trụ trong đó, thì
không có gì còn có thể khiến chúng ta phiền não bằng bất cứ cách nào. Tất
cả mọi sự sợ hãi đều đoạn diệt, vì con đường đã được đi qua. Bất cứ ai đã
đi trên con đường này đều thưa cùng Đức Phật hay Xá Lợi Phất, ‘Con đường
đã đi, phận sự đã thành, không còn gì phải làm nữa’.
Khi cảm giác rằng không còn gì cần phải làm nữa được mở ra, có nghĩa là ta
đã đạt được sự an bình, thanh tịnh thực sự. Đây không phải là sự an tịnh
vật lý bề ngoài mà là một cuộc sống nội tâm an bình, tĩnh lặng; chính đấy
là tất cả mọi việc đều đã hoàn thành. Kết luận này bao gồm tất cả mọi mục
đích và trọng điểm của thiền. Nếu chúng ta không soi việc hành thiền và
con đường đạo dưới ánh sáng này, ta sẽ bị dính mắc và khó có tiến bộ trong
việc hành thiền. Trái lại, nếu chúng ta thực sự cố gắng hành thiền, nếu
chúng ta tự nguyện đi theo con đường đạo, chúng ta sẽ trước sau gì cũng
đến được nơi đó. Một sự quán sát tâm sâu sắc sẽ cho ta thấy rằng niềm ước
muốn thầm kín sâu sắc nhất là đạt được được sự thanh tịnh sâu xa, sự tự
tại và hạnh phúc, cùng với sự chấm dứt mọi phiền não - và chỉ trên con
đường đạo, chúng ta mới có thể đạt được những điều này.
Kinh Hrdaya Prajnaparamita không phải là kim ngôn của Đức Phật (11), nhưng
Đức Phật đã diễn tả cùng một kinh nghiệm và trí tuệ như thế trong những
lời sau:
Có một cõi không có đất hay nước, không có lửa hay không khí (bốn ‘yếu tố’
căn bản mà từ đó tất cả vạn vật được hình thành). Không có cõi của không
gian vô tận, cũng không có cõi của thức vô biên (định thứ năm và thứ sáu),
không có cõi của không, cũng không có cõi ở đó chúng ta có thể nói gì về
tưởng (định thứ bảy và tám). Thế giới này cũng không có ở đó, cũng như
không có thế giới kia, không có mặt trời cũng không có mặt trăng. Không
có đến, không có đi, không có thường hằng, không có sinh, cũng không có tử.
Niết bàn dựa trên tánh không, không lay chuyển, vượt trên tất cả mọi tưởng
tượng. Đó là sự đoạn diệt của tất cả mọi khổ đau.’ (Udana viii.1) (12)
Niết bàn tối thượng hơn tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng ra; nó
không thể nghĩ bàn. Chúng ta do đó phải buông bỏ mọi suy nghĩ và để làm
được thế chúng ta phải sẵn sàng để buông xả bản thân. Như thế ta mới có
thể chứng nghiệm được một thực tế nơi không có sinh, cũng không có tử,
không đến, cũng không đi. Đó là sự chấm dứt của mọi khổ đau.
(11)
Có lẽ vì tác giả theo Phật giáo Nguyên Thủy nên không coi Bát Nhã
Tâm Kinh là do Phật thuyết.
(12)
Udana (Ưu-đà-na): Tự thuyết (một phần trong Tiểu Bộ Kinh).
Tài Liệu Tham
Khảo
Xin Chân thành cảm ơn các tác giả của các Sách tham khảo.
+ Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn
Giáo- Hà Nội 2000.
+ Kinh Pháp Cú, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
+ Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thơ,
Diệu Phương xuất bản 2003.
+ Nghi Thức Tụng Niệm, Chùa Đạo Quang, TX USA
+ Nhật Tụng Thiền Môn, Thiền Sư Nhất Hạnh, NXB Tôn Giáo 2004
+ Kinh Thủy Dụ, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, Đặc san Hoa Nghiêm, Vu Lan PL
2548.
+ Kinh Tăng Chi Bộ, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo Hà Nội
2005
+ Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, Dịch Giả: Hòa Thượng Giới Nghiêm, NXB Tôn Giáo
2002.
+ Thanh Tịnh Đạo –Visuddhimagga (Bhadantacariya Buddhaghosa –Bhikkhu
Nanamoli – Ni Sư Thích Nữ Trí Hải), NXB Tôn Giáo 2001 Tập 2
+ Phật Ở Trong Lòng, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo 2003.
+ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Diễn Giải, Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh,
1999.
+ Kinh Nhật Tụng Cư
Sĩ, Tỳ Kheo Tăng Định biên soạn, NXB Tổng Hợp 2004.
+ Phật Học Danh Số,
Thích Nữ Đức Trí, Canh Thìn 2000
+ Danh Từ Phật Học Thực Dụng, Tâm Tuệ Hỷ, NXB Tôn Giáo, 2005
+ Tụng Niệm Hàng Ngày Của Cư Sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, Citta Phước, Bản
Thảo, 2005
+ Từ Điển Phật Học – Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách,
NXB Thuận Hóa, Huế 1999.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/hayden_dethay.htm
|
|