Tiếng
Pàli của lý Duyên khởi hay Duyên sinh là "Paticcasamuppàda",
còn được dịch là "Tùy thuộc Phát sinh", tiếng Anh là
"Dependent Origination". Thuyết nầy bao gồm 12 thành tố, nên cũng
được gọi là Thập Nhị Nhân Duyên.
Trong Tăng Chi Bộ, chương 10 Pháp,
kinh số 92, Đức Phật giảng cho ông Cấp Cô Độc:
"Ở đây, này Gia chủ Cấp
Cô Độc, vị Thánh đệ tử quán sát như sau:
Do cái này có, cái kia có.
Do cái này sinh, cái kia sinh.
Do cái này không có, cái kia không có.
Do cái này diệt, cái kia diệt."
Đó là tóm lược lý Duyên khởi. Rồi
Ngài giảng rộng ra:
"Tức là do duyên vô minh, có
các hành.
Do duyên các hành, có thức.
Do duyên thức, có danh sắc.
Do duyên danh sắc, có sáu nhập.
Do duyên sáu nhập, có xúc.
Do duyên xúc, có thọ.
Do duyên thọ, có ái.
Do duyên ái, có thủ.
Do duyên thủ, có hữu.
Do duyên hữu, có sinh.
Do duyên sinh, có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Như vậy, là sự tập khởi của
toàn bộ khổ uẩn này."
Tiếp theo, Đức Phật giảng về sự
đoạn diệt các khổ uẩn:
"Do vô minh diệt, không có dư
tàn, nên các hành diệt.
Do các hành diệt, nên thức diệt.
Do thức diệt, nên danh sắc diệt.
Do danh sắc diệt, nên sáu nhập diệt.
Do sáu nhập diệt, nên xúc diệt.
Do xúc diệt, nên thọ diệt.
Do thọ diệt, nên ái diệt.
Do ái diệt, nên thủ diệt.
Do thủ diệt, nên hữu diệt.
Do hữu diệt, nên sinh diệt.
Do sinh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
diệt. Ðây là Thánh lý được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ."
Như thế, khi thuyết giảng lý
Duyên khởi, Đức Phật dạy cho chúng ta thấy rằng vì vô minh và bị mê
si mà sự hiện hữu và khổ đau hiện tại đã phát sinh; do sự diệt tận
của vô minh, và từ đó ái diệt và thủ diệt, mà không còn sự tái sinh
nào sẽ tiếp theo; và như vậy, tiến trình hiện hữu được dừng lại, và
cùng với sự dừng lại ấy, là sự chấm dứt mọi đau khổ.
*
Ở đây, xin trình bày sơ lược tóm
tắt về các liên hệ giữa 12 thành tố của lý Duyên khởi như sau:
"Vô minh duyên hành":
Do vô minh (avijjà), các hành (sankhara) có điều kiện để sinh
ra. Hành là những tư tâm sở (cetanà) hay ý chí, đưa đến tái sinh,
còn gọi là hành nghiệp. Vô minh ở đây chủ yếu là vô minh về Tứ Diệu
Ðế, vô minh về lý nhân duyên, vô minh về quá khứ và hiện tại của
chúng ta.
Do vô minh, đôi khi chúng ta làm những
hành động thiện, nhưng phần lớn chúng ta làm những hành động bất thiện,
vì đa phần những điều chúng ta làm đều bắt nguồn từ tham và sân. Dưới
ảnh hưởng của vô minh chúng ta làm đủ mọi loại hành động. Thật ra,
vì chúng ta không biết đâu là đúng, đâu là sai, hoặc chúng ta chỉ hiểu
chung chung rằng những hành động thế này là thiện, những hành thế kia
là bất thiện. Vì mù quáng bởi vô minh mà chúng ta thường làm những điều
lầm lạc, dù rằng đôi khi chúng ta cũng làm được những việc tốt.
Hai chi phần này, Vô Minh và Hành,
thuộc thời quá khứ, và đây là hai yếu tố đã đem chúng ta đến thế
gian này. Những hành động thiện trong quá khứ của chúng ta như bố thí,
trì giới, có những ý nghĩ tốt đẹp, v.v. là những thiện nghiệp (kusala-kamma),
đã giúp chúng ta sinh ra làm người, có mặt trong thế gian này.
"Hành duyên thức":
Tùy thuộc nơi hành nghiệp, thiện và bất thiện, chi phần thứ
ba khởi sinh, đó là Thức (vinnàna), tức tái sinh trong thế gian này.
Thức là thời hiện tại và thuộc nhóm quả dị thục. Thức sinh khởi
như kết quả của Vô Minh và Hành trong quá khứ. Ở đây, Thức không có
nghĩa là tất cả các loại tâm mà chỉ là tâm tục sinh sau khi chết. Như
vậy, khởi đầu của kiếp sống hiện tại này, chúng ta có Kiết Sinh Thức
- Thức nối liền - nghĩa là Thức nối liền kiếp sống hiện tại với
quá khứ. Thức tái sinh phát khởi, chúng ta được tái sinh, đó là lý do tại
sao ta dùng chữ "tái sinh", mà không dùng chữ "đầu thai" với
ý nghĩa một linh hồn đi tái sinh. Bởi vì không có một linh hồn bất tử
trong quan niệm của đạo Phật.
"Thức duyên danh sắc":
Tâm không thể làm việc một mình, nó có một số tâm sở (cetasika) phối
hợp làm việc chung với nó, và vì là tâm nên nó không thể tồn tại
đơn độc, nó cần một cái thân vốn là kết quả của những hành động
trong quá khứ. Do vậy, tùy thuộc nơi Kiết sinh thức - thức nối liền, chúng
ta có tâm và thân, tức là Danh (nàma) và Sắc (rùpa). Danh là
phần tinh thần, còn Sắc là phần vật chất.
"Danh sắc duyên lục nhập":
Do có thân và tâm, hay danh và sắc, ta có 6 Căn hay 6 Nhập (àyatana).
Chúng ta có năm căn bên ngoài: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân. Còn gọi là
"ngũ môn" hay năm cửa. Chẳng hạn qua nhãn môn, chúng ta tiếp nhận
một đối tượng của sự thấy, và qua nhãn môn, chúng ta buông bỏ đối
tượng đó; vì thế, con mắt có hai chức năng: thu nhận và buông bỏ.
Chữ "căn" được dùng ở đây với ý nghĩa của một "căn cứ",
dựa vào đó mà tâm có thể thực hiện. Căn thứ 6 là ý căn. Đây
là một căn thuộc bên trong, hay nội môn. Nó không những chỉ là một căn
hay môn, mà nó cũng còn là dòng tiến sinh của chúng ta - trong Pàli gọi là
Bhavanga hay "hữu phần". Chính dòng tiến sinh này dẫn chúng
ta đi hết kiếp sống này đến kiếp sống khác trong vòng sinh tử luân hồi.
"Lục nhập duyên xúc":
Tùy thuộc vào 6 căn, ta có Xúc (phassa). Xúc là sự va chạm hay
tiếp xúc giữa một đối tượng giác quan bên ngoài với bề mặt của bộ
máy cảm giác tương xứng, hay giữa căn và cảnh (trần). Tùy thuộc nơi
năm cửa giác quan (ngũ môn) và ý căn (ý môn), ta có Xúc. Chẳng hạn,
khi một cảnh sắc và phần nhạy cảm của con mắt (tức nhãn căn) nằm
trong một khoảng cách thích hợp và có ánh sáng thích hợp, lúc đó, sự
tiếp xúc giữa căn và cảnh khởi sinh, hình sắc đó tiếp chạm với phần
nhạy cảm của con mắt. Tương tự như vậy với âm thanh và nhĩ căn, v.v.
"Xúc duyên thọ": Vì
có xúc nên ta có cảm giác, như vậy, Thọ (vedanà) phát sinh. Khi có sự
tiếp chạm với một đối tượng qua căn, ta có cảm thọ. Nếu sự
tiếp xúc là mềm mại, ta có thể cảm nghe một cảm giác dễ chịu; nếu
sự tiếp xúc là thô nhám, ta cảm thấy một cảm giác khó chịu; hoặc đôi
khi, ta có một cảm thọ trung tính, không khổ không lạc, v.v.
"Thọ duyên ái": Vì
có thọ mà Ái (tanhà) khởi sinh, không có thọ thì tham ái không sinh
khởi. Khi có cảm thọ dễ chịu - qua thấy, nghe, ngữi, nếm, v.v., tham ái,
thích thú sinh khởi. Còn đối với các cảm thọ khó chịu thì sao? Trong bộ
luận Thanh Tịnh Ðạo, có giải thích: "Một bệnh nhân đang có một
cơn đau kinh khủng, có một cảm thọ khó chịu. Lúc đó, tham vẫn khởi
lên, bởi vì người ấy có một ước muốn thoát ra khỏi cơn đau đó, muốn
thoát ra khỏi cái cảm thọ khó chịu đó. Như vậy tham khởi lên bằng hai
cách: theo cảm thọ dễ chịu và theo cảm thọ khó chịu".
"Ái duyên thủ": Một
khi ái đã sinh thì Chấp Thủ (upàdàna) liền theo sau. Sự khác
biệt giữa Ái và Thủ rất rõ ràng: Ái là tham muốn nhẹ nhàng, trong khi
Thủ lại là ăn rễ thâm sâu, buộc chặt chúng ta vào một cái gì đó.
Tham tự nó thì không dính mắc, không tiến đến trạng thái chấp thủ,
nó chỉ là sự ước muốn hay mong muốn bình thường. Tuy nhiên, với một
phàm nhân không giác niệm, tham ái liền dẫn theo lòng chấp thủ.
"Thủ duyên hữu": Vì
có chấp thủ, nên tạo duyên để tạo hiện hữu. Hữu (bhava) nghĩa
là ta đang khởi sự trở thành, thu thập nghiệp lực mới cho đời sống
tương lai. Hữu có hai mặt: nghiệp hữu (kamma-bhava) là hành động tích
lũy của quả dị thục, và sinh hữu (upapatti-bhava) là quả dị thục
hướng đến tái sinh. Nói một cách khác, do duyên Ái và Thủ, chúng ta
hành động tạo nghiệp, bây giờ là những hành động hiện tại (là nghiệp
hữu), và đồng thời, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tái sinh trong tương
lai (là sinh hữu).
"Hữu duyên sinh": Do bởi
những hành động hay nghiệp hiện tại, chúng ta đang chuẩn bị cho lần tái
sinh sắp tới, đó là tái sinh hay Sinh (jàti), mang ý nghĩa của sự khởi
đầu của kiếp sống tương lai.
"Sinh duyên già chết":
Do tái sinh trong thế gian nên ắt sẽ đưa đến Già Chết (jarà-marana).
Jarà là tuổi già, già một cách dần dần, và rồi, Marana là
chết. Tất cả mọi hiện tượng xảy ra như một hệ quả tất nhiên.
Chúng ta đã sinh ra nên phải chịu buồn rầu, bi, khổ, ưu, não, tuyệt vọng,
v.v. vì chúng sẽ hiện khởi như kết quả của việc sinh.
*
Chúng ta thấy ở đây có cả thảy
12 chi phần, thường được phân thành 3 thời: quá khứ, hiện tại, và vị
lai. Hai chi Vô Minh và Hành thuộc về quá khứ; năm chi: Thức, Danh Sắc, Lục
Nhập, Xúc, Thọ thuộc hiện tại, xem như là quả dị thục của quá khứ.
Ái, Thủ, Hữu cũng thuộc hiện tại và làm nhân cho tương lai. Sinh và Già
chết thuộc về tương lai, kết quả của những nhân đã gieo trong hiện tại.
Từ Sinh đến Già chết, chỉ có hai chi được đề cập ở thời
tương lai; tuy nhiên, chúng bao hàm cả năm chi phần trong nhóm quả dị thục
hiện tại - từ Thức đến Thọ. Sự kết hợp của năm chi phần này tạo
ra cái gọi là đàn ông hay đàn bà, và chính năm chi phần này là cái được
sinh ra, già chết và rồi lại tái sinh, cứ tiếp tục mãi mãi không ngừng,
do những hành nghiệp từ quá khứ cũng như trong hiện tại.
Trong quyển sách "Cây Giác Ngộ"
(The Tree of Enlightenment), Giáo sư Peter Santina phân chia 12 chi phần thành 3
nhóm: 1) nhóm tai ách (ô trược): vô minh, ái và thủ; 2) nhóm hành động
(nghiệp): hành và hữu; và 3) nhóm khổ đau: thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ, sinh, và già chết.
Trong nhóm thứ nhất, vô minh là căn
bản. Do vô minh mà chúng ta tham đắm vào các dục lạc giác quan, vào hưởng
thụ, vào những ý tưởng sai lầm, nhất là ý tưởng về cái ta độc lập
và thường còn. Do vậy, vô minh, ái và thủ là nguyên nhân của nghiệp
(hành động).
Nhóm thứ hai là nghiệp (hành động),
gồm có hành và hữu. Hành bao hàm những dấu ấn, hay thói quen hình thành
trong dòng tâm thức, hay sự tiếp diễn không ngừng của thức. Những dấu
ấn ấy được tạo thành bởi những hành động lập đi lập lại từ nhiều
kiếp trước, trở thành thói quen. Những thói quen đó dẫn dắt nhiều
hành động của ta trong hiện tại. Ngoài ra, còn có những hành động tạo
tác trong kiếp sống này, và được gọi là hữu. Những thói quen vốn
phát triển từ nhiều kiếp trước cùng với những hành động tạo tác
trong kiếp này dẫn đến tái sinh với thân ngũ uẩn, rồi già chết, khổ
đau, v.v. Đó là nhóm thứ ba.
Khi hiểu được sự vận hành của
lý Duyên khởi, ta có thể phá vỡ vòng luân hồi sinh tử đó, bằng cách gột
bỏ những bất tịnh của tâm - là vô minh, ái và thủ. Một khi các bất tịnh
này bị loại bỏ, sẽ không còn hành nghiệp, và nguồn thói quen cũng không
sanh khởi. Khi những hành nghiệp ngưng thì tái sinh và khổ đau cũng ngưng.
*
Trong Trường Bộ, kinh số 15, Ðức Phật có dạy ngài
Ananda rằng: "Nầy Ananda, giáo pháp Duyên Khởi rất thâm sâu, thật sự
thâm sâu. Chính vì không thông hiểu giáo pháp này mà thế gian giống như một
cuộn chỉ rối ren, một tổ chim, một bụi rậm lau lách, và không thể
thoát khỏi các đọa xứ, cõi dữ, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi
sinh tử." Trong một đoạn kinh khác, thuộc Trung Bộ 28, Ngài dạy rằng:
"Ai hiểu được lý Duyên khởi, người ấy hiểu Pháp; và ai hiểu
được Pháp, người ấy hiểu lý Duyên khởi".
Cho nên, giáo lý Duyên khởi là một
giáo lý tinh yếu, thâm sâu, quan trọng, không phải dễ dàng thực chứng
và thông hiểu. Là một phàm nhân cư sĩ còn đang tu học, ở đây, chúng
tôi chỉ có thể trình bày tóm tắt sơ lược theo kiến giải thô thiển của
mình.
Bình Anson,
Perth, Tây Úc, tháng 10-2004
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/
lyduyenkhoi.htm