Ajahn Chah (1919-1992) là vị thiền sư
người Thái rất được tin kính. Các bài thuyết pháp của Ngài rất thông
thoáng, rõ ràng, dứt khoát -sự dứt khóat của vị đã chứng thực được giáo lý
của Đức Phật. Ngài là người có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đối với nhiều
thiền sư người Mỹ.
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì
xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn. Đã
sinh, chúng sẽ diệt. Diệt rồi, chúng sẽ sinh trở lại. Sinh trở lại rồi,
chúng sẽ mất đi. Nhưng một người vô minh, không được hướng dẫn, không
muốn nhìn sự vật như thế. Khi hành thiền, được định, chúng ta muốn được
như thế mãi, không muốn có gì quấy phá, làm gián đoạn. Nhưng suy nghĩ như
vậy là thiếu thực tế. Đức Phật muốn chúng ta trước hết nhìn vào sự vật và
biết rằng những thứ này là giả tạo; rồi chúng ta mới thật sự có được sự an
bình. Khi không biết như thế, chúng ta trở thành người sở hữu của chúng
và cái bẫy của ngã tưởng sẽ xuất hiện. Vì thế chúng ta phải trở lại từ
gốc ngọn, tìm hiểu xem chúng xảy ra như thế nào. Chúng ta phải hiểu các
sự vật thật sự như chúng là, cách sự vật tác động đến tâm và tâm đã phản
ứng như thế nào; có thế chúng ta mới có được bình an. Đó là những gì
chúng ta cần phải quán sát. Nếu chúng ta không muốn sự vật xảy ra theo
cách của chúng, thì chúng ta không có được sự bình an. Dầu chúng ta có cố
gắng làm khác đi, nhưng sự vật vẫn xảy ra như thế; thì đó là bản chất của
chúng.
Nói một cách đơn giản, đó là chân lý. Vô
thường, khổ và vô ngã là bản chất của sự vật. Chúng không có gì khác hơn
thế, nhưng chúng ta tạo cho sự vật nhiều ý nghĩa hơn chúng thật sự là.
Thật sự không khó để phát triển trí tuệ.
Nó có nghĩa là quán sát nguồn gốc và tìm hiểu bản chất của sự vật. Khi
tâm xao động, bạn cần phải nhận ra rằng: “Điều này không kéo dài mãi. Nó
vô thường!” Khi tâm an tĩnh, đừng bắt đầu nghĩ, “Ôi, thật là an lạc!” Vì
điều đó cũng không chắc chắn.
Khi có ai đó hỏi, “Bạn thích ăn thứ gì
nhất?”, đừng quá bận tâm để trã lời câu hỏi đó. Nếu bạn trả lời rằng, bạn
thật sự thích món gì đó, thì có gì quan trọng đâu? Thử suy nghĩ xem -nếu
bạn ăn món đó mỗi ngày, bạn có còn thích nó nhiều như vậy không? Có lẽ sẽ
có lúc bạn phải kêu lên rằng “Ôi, lại món này nữa!”
Bạn có hiểu điều đó không? Có thể cuối
cùng bạn sẽ phát chán về chính cái thứ mà bạn đã thích. Đó bởi vì là sự
vật đổi thay, và đây là điều bạn cần phải biết. Khoái lạc không trường
tồn. Bất hạnh cũng không trường tồn. Tình yêu không bền chắc. Thanh
tịnh cũng không chắc chắn. Lo âu không chắc chắn. Tất cả mọi thứ, tuyệt
đối là không chắc chắn. Vì thế nếu có bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta đều
hiểu như thế, thì chúng ta sẽ không bị chúng chế ngự. Tất cả mọi việc đều
không chắc chắn, không có gì là ngoại lệ, vì vô thường là bản chất của
chúng. Vô thường có nghĩa là sự vật không cố định hay trường tồn, và nói
một cách đơn giản, chân lý này chính là Phật pháp.
Anica,
vô thường, là chân lý. Chân lý có mặt để
chúng ta nhận chân ra nó, nhưng chúng ta thường không nhìn kỹ, nhìn rõ nó.
Đức Phật nói: “Những ai thấy Pháp là thấy Ta.” Nếu chúng ta nhận ra vô
thường, tính chất không chắc chắn, trong tất cả các pháp, thì tâm nhàm
chán, buông xả sẽ phát sinh: “Ôi, thì cũng chỉ có thế! À, ra vậy! Thật sự
cũng chẳng có gì quan trọng quá, cũng chỉ có vậy!” Tâm trở nên rất chắc
chắn về điều đó: “Nó chỉ có chừng ấy!” Sau khi nhận thức được như thế,
chúng ta không cần phải làm điều gì quá khó khăn trong công phu thiền quán
của mình. Bất cứ điều gì chúng ta đối mặt, tâm sẽ nói: “Chỉ có thế!” và
tâm dừng lại. Chấm dứt mọi chuyện. Chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả các
hiện tượng đều giả tạo; không có gì chắc chắn hay thường hằng, mà đúng ra
tất cả mọi thứ không ngừng thay đổi và có đặc tính của vô thường, khổ và
vô ngã. Nó giống như một trái banh sắt đã được nung đỏ trong lò lửa.
Phần nào của trái banh sắt đó không nóng? Hãy thử sờ nó đi, nếu bạn muốn.
Sờ phía trên, nó nóng. Sờ phía dưới, cũng nóng. Sờ hai bên, cũng nóng.
Tại sao nó nóng? Vì nguyên trái banh sắt đó nóng đỏ ở khắp nơi. Hiểu được
như thế, chúng ta sẽ không sờ nó. Khi tâm bạn khởi nghĩ: “Cái này thật
tốt! Tôi rất thích! Ước gì tôi được nó!”, thì đừng dành cho những tư
tưởng đó một sự tin cậy nào; đừng coi chúng quan trọng quá. Nó là một
trái banh sắt nóng đấy. Nếu bạn sờ vào phần nào của trái banh, nếu bạn cố
cầm nó lên, bạn sẽ chịu nhiều đau đớn, da của bạn sẽ phỏng rộp, chảy máu.
Chúng ta cần phải luôn quán tưởng về điều
này: đi, đứng, nằm, ngồi. Ngay cả khi chúng ta đang ở trong nhà vệ sinh,
hay đang đi đâu đó, khi chúng ta đang ăn hay đang bài tiết các chất thải
từ đồ ăn, chúng ta cần phải nhận thấy rằng tất cả những gì ta trãi nghiệm
đều không chắc chắn, đều vô thường mà cũng là khổ và vô ngã. Sự vật không
cố định, vô thường thì không chắc chắn và không thật. Tất cả đều là thế,
không có ngoại lệ nào –cũng giống như trái banh sắt nóng -đâu có nơi nào
ta sờ vào mà không bị phỏng. Tất cả mọi thành phần của nó đều nóng, vì
thế chúng ta không tìm cách sờ vào nó.
Đây không phải là điều gì khó khăn mà
không luyện tập được. Thí dụ cha mẹ thường dạy con không được chơi với
lửa: “Đừng đến gần lửa! Rất nguy hiểm! Con sẽ bị phỏng!” Đứa trẻ có thể
không tin hay không hiểu cha mẹ muốn nói gì. Nhưng nếu em chạm vào lửa
chỉ một lần và bị phỏng, sau đó cha mẹ không còn cần phải giải thích điều
gì hay cố gắng kiềm chế em nữa.
Không cần biết là tâm bị cuốn hút, bị chế
ngự bởi điều gì đến mức độ nào, bạn cần phải luôn nhắc nhở nó. “Điều ấy
không trường tồn! Điều ấy không bền chắc!” Thí dụ, bạn có một cái ly, và
nghĩ rằng nó rất đẹp. “Chiếc ly này đẹp làm sao! Tôi phải cất kỹ đi,
không được để nó bể.” Lúc đó bạn phải tự nhắc nhở mình, “Nhưng nó không
bền chắc.” Bạn có thể dùng nó uống nước, để ly xuống, rồi lỡ tay đụng nó
bể đi.
Dầu chiếc ly không bể hôm nay, thì ngày
mai, nó cũng sẽ bể. Nếu nó không bể ngày mai, thì ngày hôm sau nữa. Bạn
không nên đặt lòng tin của mình vào những vật dễ bể.
Vô thường là chánh Pháp. Sự vật không
vững bền hay thực có. Không có gì về chúng là thật, chỉ có chân lý này
là thật. Bạn có đồng ý không? Điều chắc chắn nhất là: được sinh ra, bạn
phải già, phải bịnh và chết. Thực tế đó là chắc chắn, thường hằng, và sự
thật thường hằng đó dựa trên chân lý về vô thường. Quán sát sự vật thật
thấu đáo bằng con mắt của ‘không thường hằng, không chắc chắn,” một sự
chuyển hóa sẽ xãy ra thành thường hằng, và chắc chắn, lúc đó ta không còn
phải bận tâm về sự vật nữa.
Các vị đệ tử của Đức Phật đã thức tỉnh nhờ
chân lý về vô thường. Từ sự thức tỉnh đó, họ trở nên nhàm chán, buông xả
đối với sự vật, hay nibbida. Sự nhàm chán này không phải là do có
mâu thuẫn, bất mãn. Nếu có sự bất mãn, thì đó thực sự không phải là nhàm
chán, không thể đưa đến con đường đạo. Nibbida không phải giống như sự
chán đời theo thế gian thường tình. Thí dụ, sống trong gia đình, khi
không được thuận thảo với nhau, chúng ta có thể bắt đầu nghĩ là mình đang
trở nên nhàm chán mọi thứ giống như giáo pháp đã dạy. Tuy nhiên không
phải thế; đó chỉ là do các phiền não, uế nhiễm của ta đang lớn mạnh, làm
trái tim ta đau đớn. “Tôi thật chán ngán –tôi sẽ rũ bỏ tất cả!” Đó là sự
nhàm chán do phiền não, uế nhiễm tạo ra. Khi sự phiền não, thất vọng đối
với những việc xảy ra không theo ý ta muốn trở nên quá sức chịu đựng của
ta.
Giống như cách ta suy nghĩ về metta,
tâm từ. Ta nghĩ rằng ta phải có tâm từ đối với tất cả chúng sanh. Vì thế
ta tự nhủ mình, “Tôi không được có lòng sân hận đối với ai. Tôi phải có
lòng bi mẫn. Thật vậy, tất cả mọi chúng sanh đều đáng thương.” Rồi bạn
bắt đầu thương yêu tất cả, và kết cục là đưa đến tham đắm, dính mắc. Hãy
cẩn thận về điều đó! Đó không phải là thứ tình yêu thương ta vẫn thường
nói đến. Đó không phải là lòng từ bi trong chánh pháp. Đó là tâm từ pha
lẫn với lòng ích kỷ. Chúng ta đòi hỏi, mong đợi một sự đáp trả, mà lại
gọi đó là từ bi. Sự “chán đời” thông thường của chúng ta cũng thế, “Ôi,
tôi thật chán ngán tất cả, tôi muốn trốn khỏi nơi này!”. Đó chỉ là tâm uế
nhiễm nặng nề. Đó không phải là sự nhàm chán hay xả bỏ; chỉ là ta dùng
cùng một tên để gọi chúng. Đó không phải là con đường đạo của Đức Phật.
Đúng ra thì sự nhàm chán không có mâu thuẫn, xung đột, không có ác ý đến
bất cứ ai. Bạn không than phiền hay đổ lỗi –mà bạn nhìn mọi thứ đều trống
không.
Có nghĩa là lúc đó tâm bạn rổng rang. Nó
không còn bám víu vào điều gì. Điều đó không có nghĩa là thế giới này
không còn có người, có vật, không có gì cả. Vẫn còn có người, có sự vật,
có tâm rổng rang. Nhưng tâm ta nhìn chúng với ý thức rằng, chúng không
bền chắc. Vạn pháp được tiếp nhận như chúng là, thuận theo dòng chảy tự
nhiên của sinh diệt.
Thí dụ, bạn có thể có một chiếc bình. Bạn
có thể thấy rằng nó đẹp, nhưng tự chính nó, nó chỉ có mặt một cách tự
nhiên. Nó không có gì để nói; chỉ có bạn là người có tình cảm về nó, là
người sẽ sống hay chết vì nó. Nếu bạn thích hay không thích nó, nó cũng
không bị ảnh hưởng. Đó là chuyện của bạn. Nó như như, nhưng bạn là người
có tình cảm thích hay không thích, rồi bám víu vào chúng. Chúng ta so
sánh tốt xấu về thứ này, thứ nọ. “Tốt” làm tâm xao động. “Xấu” cũng xao
động tâm. Cả hai đều là uế nhiễm.
Chúng ta không cần phải chạy đi đâu cả;
chúng ta chỉ cần suy gẫm, quán tưởng điều này. Đó là cách tâm vận hành.
Khi chúng ta không thích gì, đối tượng của sự không ưa thích không bị ảnh
hưởng gì cả; nó cũng vẫn chỉ là nó. Khi chúng ta ưa thích gì, nó cũng
không bị ảnh hưởng bởi sự ưa thích đó, mà cũng vẫn là nó. Tất cả chỉ là
chúng ta tự làm khổ mình thôi.
Bạn cho là điều gì đó tốt, điều khác vĩ
đại hơn, nhưng đó chỉ là do bạn tự suy nghĩ ra. Nếu bạn có chánh niệm,
bạn sẽ ý thức được rằng tất cả vạn pháp đều bình đẳng.
Một thí dụ dễ hiểu là với đồ ăn. Chúng ta
thường cảm thấy rằng loại đồ ăn này hay loại đồ ăn kia rất ngon. Khi
chúng ta nhìn thấy những đĩa đồ ăn này trên bàn, trông chúng rất hấp dẫn;
nhưng một khi mọi thứ đã vào bao tử, thì đó lại là chuyện khác. Chúng ta
nhìn các dĩa đồ ăn và nói, “Cái này là cho tôi. Cái kia là cho anh. Cái
nọ là của cô ta.” Nhưng sau khi chúng ta đã ăn rồi, và bài tiết ra, có lẽ
không có ai đi tranh giành những thứ đó và nói: “Đây là của tôi. Đó là
của anh.” Có đúng vậy không? Lúc đó bạn có còn muốn sở hữu hay tham đắm
chúng không?
Đó là nói một cách vắn tắt và đơn giản.
Nếu bạn đã thấy rõ ràng như thế với tâm kiên định, thì vạn pháp đều bình
đẳng. Khi chúng ta còn ham muốn và suy nghĩ theo cách “của tôi” và “của
anh,” thì chúng ta sẽ đi đến xung đột. Khi chúng ta nhìn mọi thứ bình
đẳng, như nhau, thì chúng ta không coi chúng thuộc về ai –chúng chỉ là các
duyên hiện hữu như chúng là.
Khi chúng ta nhận thức rằng vạn vật là một
pháp, tất cả đều có cùng bản chất, chúng ta sẽ không còn bám víu, sẽ buông
bỏ chúng xuống. Chúng ta nhìn thấy chúng trống không và chúng ta không
thương hay ghét chúng; chúng ta được thanh tịnh. Có lời nói rằng, “Niết
bàn là hạnh phúc tối thượng; niết bàn là cái không tối thượng.”
Hãy lắng nghe kỹ điều này. Hạnh phúc ở
thế gian không phải là hạnh phúc tối thượng, tuyệt đối. Những gì chúng ta
coi như trống không, không phải là sự trống không tối thượng. Nếu nó là
sự trống không tối thượng, thì sẽ chấm dứt mọi ham muốn và bám víu. Nếu
nó là hạnh phúc tối thượng thì sẽ có được an bình. Nhưng thứ an bình
chúng ta được biết thì vẫn là chưa tối thượng. Thứ hạnh phúc chúng ta
biết thì cũng chưa là tối thượng. Khi chúng ta đạt đến Niết bàn, thì lúc
đó sự trống không là tối thượng. Hạnh phúc là tối thượng. Đã có sự
chuyển hóa. Tính cách của hạnh phúc được chuyển hóa thành an bình. Có
hạnh phúc nhưng chúng ta không gán cho nó một ý nghĩa đặc biệt gì. Cũng
có cả khổ đau. Nhưng khi những điều này xảy ra, ta coi chúng như nhau.
Giá trị của chúng như nhau.
Những tình cảm yêu hay ghét cũng giống
nhau. Nhưng khi chúng phát khởi trong ta, ta không coi chúng là giống
nhau. Nếu điều gì dễ chịu, ta thực sự hạnh phúc với nó. Nếu khó chịu, ta
muốn trốn tránh nó. Nên đối với chúng ta, chúng không giống nhau, nhưng
sự thật là chúng thực sự giống nhau. Chúng ta phải luyện tập như thế này:
chúng giống nhau vì chúng không bền chắc và vô thường.
Giống như thí dụ về đồ ăn. Chúng ta cho
rằng loại đồ ăn này ngon, loại kia tuyệt với, loại nọ dở. Nhưng khi chúng
ta đã ăn, rồi bài tiết ra, chúng đều giống nhau. Lúc đó bạn không nghe ai
than phiền rằng, “Sao tôi được ít quá!” Lúc đó tâm ta không bị chúng lôi
cuốn.
Nếu ta không thực sự chứng nghiệm chân lý
về vô thường, khổ đau và vô ngã, thì không thể chấm dứt được khổ đau. Nếu
có chánh niệm, ta có thể chứng nghiệm chân lý này trong từng giây phút.
Chúng hiện hữu nơi thân và tâm, và ta có thể nhận ra chúng. Đó là lúc ta
có thể tìm được sự bình an.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Trích dịch theo Vạn Pháp Sinh Diệt
–Everything Arises, Everything Falls Away, NXB Shambhala 2005)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/nhin_suvat.htm