- NIỀM TIN TAM BẢO
Phật giáo đã ra đời và tồn
tại đến nay trên 2500 năm lịch sử, được khám phá bởi con người Si -
Dat - Tha sau quá trình tự thân nổ lực nội chiến quần ma, dẹp tan nguồn hôn ám cho ánh quang minh chiếu rọi khắp xó
ngỏ mọi phương trời. Từ đó, con người vinh hiển ấy được nhận lảnh
cái danh hiệu Phật - bậc đa ỵhoàn toàn giải thoát giác ngộ. Những
lời dạy của Ngài gọi là Pháp. Những người học hỏi, thực hành sống
như Ngài gọi là Tăng. Vậy là từ đây Phật giáo
đã hình thành khá rõ nét qua thể chế ba ngôi: Phật - Pháp - Tăng.
Ơí giai kỳ này, tức Phật còn tại thế, với sự trực
tiếp hoằng hóa của chính Đức Thế Tôn, Phật giáo hoàn toàn mang tính
cách của con đường dẫn lối,như nguyên lý của vạn hữu, chưa có những
ngõí rẻ, sự tô điểm hay họa trang được tạo
bởi chư vị đệ tử Ngài lên đạo lộ ấy
như sau khi Đức Phật nhập diệt
Nhưng từ giai đoạn sau nà
y,
tức thời chia rẽí bộ phái, song hành bên lớp áo tín ngường là khởi
điểm của lớp son phấn, bề hình thức bắt đầu trình diễn, mà qua đó đã làm cho người ta ngộ nhận xem đạo Phật
là một tôn giáo như những tôn giáo khác.
Tuy nhiên, như phần trước đã nói: Nếu quan niệm rằng,
tôn giáo là một tổ chức được xây dựng trên ba quyết tố: Đức tin, Đấng Giáo chủ ( với mọi khả tính siêu
việt ),và hệ thống triết lý, thì Phật giáo cũng có thể gọi là một
tôn giáo. Song, vượt lên trên quan niệm ấy, là con đường tu tập dẫn đến quả vị Phật. Và trong lộ
trình đó, tất thảy không có một bàn tay cứu rỗi, ban ơn, giáng phước
nào xuất hiện như quá trình thực hiện của chính con người Si - Dat - Tha
là một biểu mẫu và lời dạy của Ngài là một minh xác hùng hồn :
" Hãy tự thắp đuốc mà đi.
Hãy tự làm hải đảo
Hãy tự làm công việc của chính mình
Như Lai chỉ là bậc chỉ đường’’.
Như thế, một cách thức nào đó
cho thấy, niềm tin ở đây ( tôn giáo của đạo Phật ) hoàn toàn là
biểu hiệu của cái đặc tính người, ý thức sống với và vút ngàn lên
trên là sự giải thoát giác ngộ, sự thể nhập pháp giới tính hay sự
toàn đạt nièm tin vô ngã, bằng những bước đi trong tiến trình tự lực,
tự hành, tự tri. Và tự giác để giác tha giác hạnh viên mãn.
Nếu ï hiểu Phật giáo đóng vai trò giới thiệu thì sự
giới thiệu ấy được biểu hiện cụ thể qua con số 84000 pháp môn tu (
trong vô lượng pháp môn ). Mỗi pháp môn là một con đường dẫn đến chân lý. Mỗi con đường thì
phù hợp cho một số hạng căn cơ khác nhau, và tu tập ’’TÍN’’ cũng
là một trong những con đường, mà theo lời tuyên xác của Đức Thế Tôn được trong Tương Ưng Bộ KinhV, thì:
" Cho đếï
n khi nào,
này các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về sự tập khởi, sự chấm
dứt vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm căn, cho đến khi ấy , này các Tỳ kheo Ta chưa
tuyên bố ta đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác".
Ơí đây, trên căn bản
của
nguyên lý Duyên khởi:
‘’ Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt ’’
cho thấy: nếu tu tập thành tựu Tín căn, bốn căn kia cũng được tu tập thành tựu...Đó là
điểm nhất quán trong giáo lý Đức Phật .
Thế nên, Tín trong Đạo Phật cần
phải được khéo hiểu với tín trong tôn giáo của Đạo Phật . Vì rằng
chữ Tín thường được đi ra từ tôn giáo, và khi nói đến tôn giáo, người
ta thường cho đó là sự tín ngưỡng. Mà từ tín ngưỡng dẫn đến
mê tín- cuồng tín- bạo tín- bạo động, thì không xa như lịch sử nhân loại đã trình diễn quá nhiều trên
sân khấu trần gian này. Nhưng, nếu có ai nhỡí gọi là tín ngưỡng Đạo Phật , điều này cần được xác minh kỹ: Tín là
niềm tin hướng nội. Có nghĩa sự tự tín có mặt năng lực siêu việt
đang trú ngụ nơi tấm thân nhỏ bé này (tất nhiên sự tự tín ấy
đã được kinh qua và cảm nhận trong những sát na của chuỗi sống).
Từ đó, Quy là
trở về với
tự nội, Ngưỡng là hướng đến cái khả tính siêu việt trong mỗi con người;
nổ lự , tinh cần bằng những phương pháp nào đó, bào sạch tất cả tập nhiẻm để khả tính siêu việt hoàn toàn được
hỉển bày.
Với tinh thần đó để ta đi và
o
tìm hiểu Tín với ý nghĩa Đạo Lộ.
I- Vậy thế nào là Chánh tín ?
Hiểu bình dị là tin đúng, tin chân chánh. Khác
với nó là tin sai. Nhưng diễn thích như vậy thì chẳng giải thích được vấn đề, chỉ là sự định vị duy lý
bị bỏ lửng. Ở đây có hai cách để hiểu:
Một , gọi là tin đúng tất hàm ẩn có khuôn giá trị để đong lường sự đúng - sai. Trên thực tế cho
thấy làm sao có thể có một thứ khuôn mẫu nào được chấp nhận , bởi
mọi hiện tượng tâm- vật đều thay đổi trong từng
sát na của thời gian. Cho nên tin đúng ở đây là đúng với giá trị nhân
bản trong tương giao, bảo giữí và phát huy những đức tính cao quý ấy.
Hai gọi là tin đúng tất nó
đã được đem thí nghiệm và ứng dụng qua bộ máy vô ngã, rồi đến sự cảm nghiệm, thực nghiệm tâm linh. Chỉ trong trực
nghiệm mới thoát ly tương đãi thời không, sinh diệt...mới như như, mới
chánh. Thế, với Đạo Phật , chánh tín không còn mang nghiã tin đúng,
mà là tin vô ngã vậy.
II- Thế nào là Chánh Tín Tam Bảo ?
TIN PHẬT
Lòng tin chân chánh đối với Tam Bảo gọi là Chánh Tín
Tam Bảo. Đó là gì? Tin Phật , tin Pháp, tin Tăng.
Tin Phật có 3 :
1. Phật lịch sư í: là lịch sử của Phật , là Phật kinh điển. Theo kinh điển (1), Phật vốn là
Bồ Tát Hộ Minh ở cung trời Đâu Suất tự nguyện
trở lại với loài người vì một đại sự nhân duyên ‘’ Khai thị
chúng sanh ngộ nhập Phật chi tri kiến‘’. Vì lẽí tự nguyện nên mọi
chi tiết trong cuộc đời : dòng dõi, thân thế, điạ
vị...đều mang tư ý nhằm minh chứng hay thức tỉnh chúng sang thoát khỏi
sự cám dỗ của dục vọng; ‘’tuồng ảo hoá đang bày ra đấy’’. Vậy
tin Phật lịch sử là tin có khả năng ngộ nhập tri kiến Phật.
2. Phật triết lý : Là Phật nói về hay Phật của
kinh điển.
Phật hoằng hóa suốt 49
năm, dùng vô số phương tiện, nói vô số lời,
chung quy được kết tập thành 12 bộ, gọi là Thập nhị bộ Kinh.
Trước , Phật chuyển lời Phật , nói lời Phật .
Sau, kinh chép lời Phật , rồi diễn lời Phật .
Yï Phật của Phật nói gì ? Là " bản lai vô phước
tướng Phật ‘’.
Lời Phật của Kinh nói gì ? Là ‘’Tri ngã truyền pháp như
phiệt dụ dã’’.
Vậy tin Phật triết lý là thế nào ?
Là tin như con đường, như ngón tay
chỉ mặt trăng.
Là tin: ‘’ Nhược nhân ngôn, Như Lai hữu sỡ thuyết pháp
tức vi báng Phật ‘’.
3. Phật nguyên lý: Đó là gì ?
La:ì ‘’ Ly nhất thiết tướng thị danh chư Phật ‘’,
hay,’’Bản lai vô phước tướng Phật ‘’.
Bổn lai vô phước tướng là "bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm...vô vô minh diệc vô vô minh tận...".
Ly nhất thiết tướng là thể nhập vô tướng nhất thiết
tướng , là như như. ‘’ Vô sở tùng lai diệc
vô sở khứ ‘’. Không đến từ đâu, không đi về đâu.
Không đến từ đâu là bất sinh.
Không đi về đâu là
bất diệt.
Không đê
ïn không đi là
đương xứ thị, là hiện tiền, là Trung đạo. Cho nên nói,’’đạo cốt
truyền tâm" là vậy (Dĩ tâm truyền tâm ).
Đạo mà
có thể nói được thì không phải đạo (Đạo khả Đạo
phi thường Đạo). Cũng vậy, nguyên lý mà ngôn ngữ có thể chuyên
chở đâu còn là nguyên lý. Tin Phật nguyên lý đâu còn là Phật nguyên lý
nữa, mà phải tin tức phi tin. Tin tức phi tin là thể nhập, là bắt kịp
cái khoảnh khắc "đang là"ì, dung
thông cả thiên đàng lẫn địa ngục, tuyệt đối
và tròn đầy, hư mà linh , không mà diệu.
TIN PHÁP.
1) Pháp nguyên lý
Là nguyên lý của vạn pháp, là thực tướng của vạn pháp.
Nguyên lý hay thực tướng của vạn pháp , đó là gì ? Là Bát Bất Trung đạo.
" Bất sinh diệc bất diệt.
Bất thường diệc bất đoạn.
Bất khứ diệc bất lai.
Bất nhất diệc bất dị ’’.
Nếu có hỏi, sao gọi nguyên lý là "bất ...bất..",
thì chỉ có thể trả lời: Vì nó là " Duyên sinh - Vô ngã.
’’Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt ’’.
Nếu hỏi tiếp, sao gọi nguyên lý là Duyên sinh Vô ngã ? Đến đây duy chỉ còn im lặng.
Im lặng là cách trả lời hay nhất.
Đó là câu nói của một danh nhân nào không rõ.
Im lặng là sống với. Là thể nhập sơn hà đại địa, hóa hiện sum la vạn tượng mà hợp đạo. Trời
Đâït chẳng hề nói năng, bốn mùa vẫn vận hành; Thu qua , Đông lại,
Xuân sang, Hè đến, mọi vật vẫn sinh sôi nẩy nở...
Nên, nguyên lý là cái không thể nói, nói là hữu ngã. Nếu
có nói ròng suốt 49 năm như Đức Thế Tôn cũng chỉ
là phương tiện.
Để rồi, nói mà
im lặng,’’
Vong thị vô, vô thị Phật ‘’, mất tất cả mà được tất cả. Đó là nguyên lý, là vô ngã.
Nguyên lý là duyên sinh. Vì duyên sinh nên vô tướng. Vô tướng
mà hiện ra vô lượng tướng, ’’Một là tất ca í’’. Vô lượng tướng
rồi cũng trở về im lặng, trở về cái một, ’’ Tất cả là một
’’.
Cho nên, tin Pháp nguyên lý là một cách nói cần được hiểu
là ‘’Nhập pháp giới ‘’ chứ không phải ‘’ Ngộ pháp giới’’.
Ngộ là còn vướng, là cái chỗø ‘’Bồ đề bổn vô tho ü’’ hay
"Ưng vô sở tru û’’. Ưng vô sở trụ là nhảy tỏm trong trùng khơi
đại dương mà phiêu du hóa hiện, ’’Sanh kỳ tâm’’ vậy.
Ơí đây, có một điều cần lưu
ý. Theo cách hiểu thông thường, pháp hữu v
i là pháp bị làm ra, bị
tác thành... gọi là tục đế. Ngược lại, pháp
vô vi được gọi là Chân đế, Niết bàn... vì là pháp không bị
tác thành... Và, nếu hiểu Pháp nguyên lý như là pháp vô vi e chắc không
tránh khỏi sự hụt hẩn, khiến ta rơi vào cái nguyên lý khách quan để chiêm ngưỡng (Tịnh độ ở kia), thay vì
là nguyên lý đang là để sống trong (Tịnh độ
ở đây).Vậy nên, Pháp nguyên lý phải là pháp dung thông cả hữu vi
lẫn vô vi, là bàn tay với hai mặt trắng đen, vì chân lý chỉ có một.
2) Pháp triết lý
Đó là
gì ? Là 12 bộ Kinh chữ,
ba tạng Kinh chữ. Là pháp phương pháp, pháp cách thức nói về sự thật
hiện hữu của tất cả pháp qua trung gian ngôn ngữ. Nhưng đặc biệt là sự
xuất hiện con đường dẫn đến chân lý, đời sống
an lạc giải thoát sau ngững cố gắng mà dòng chữ bất lực trong diễn đạt thực tại. Đó là điểm trân
quý nhất của Pháp triết lý.
Triết lý ấy không phải là thuần triết lý suông vì được
Như Lai, bậc thông rõ tánh tướng của vạn pháp khéo giảng nói. Sự sao,
lý vậy. Lý sao, sự vậy. Sự là giải thơát hoàn toàn. Lý là con đường dẫn đến giác ngộ toàn triệt thông qua sự.
Như Thế Tôn đã tuyên bố:
"Cho đến khi nà
o, này
các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ,
khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho
đến khi ấy, này các Tỳ kheo...Ta mới tuyên
bố Ta đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và này các Tỳ kheo, cho đến khi nào, Ta chưa có tri
kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho đến khi ấy, này
các Tỳ kheo...Ta mới tuyên bố Ta đã chứng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ’’
(Tương Ưng Bộ Kinh V)
Triết lý ấy không phải là duy triết lý nên mới
nói ‘’ Vượt thời gian, đến để mà thấy,
thiết thực hiện tại ’’.
Thời gian là khuôn định, không duy là vượt thời không,
là hiện tại, khoảnh khắc huy hoàng của sự sáng tạo. Duy là chấp.
Không duy là trực nhận: Sự kiến chiếu thông hạn, "Lý sự vô ngại
pháp giới’’. Trạng thái Không Duy ấy được biểu hiện cụ thể qua lời
dạy ở kinh Kim Cương:
‘’ Tri ngã thuyền pháp như phiệt dụ giả, chánh pháp
ưng xả hà huống phi pháp ’’.
Thếï nên, tin pháp Triết lý âu là quá trình lần lối bằng
tự đôi chân gầy guộc cất bước về chốn cố
hương; nơi ta chưa hề sinh ra cũng chưa từng mất đi mà ta vẫn sống, ăn
uống, tươi cười giọng non trẻ.
Nếu điểm lại những lời dạy của Đức Phật trong
các Kinh e chắc sẽ làm bật diện được cách tin
pháp triết lý như con đường, mà qua đó ïcuộc lang thang của chính Đức
Thế Tôn đã nói lên; chưa bao giờ ló dạng một sự cứu độ theo
nghĩa cứu vớt ngoài sự thật duyên khởi tính, con đường duyên khởi
tính.
Như trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín giải,
sự kiện Đức Phật thọ ký sẽ thành Phật cho Tôn giả Xá Lợi Phất đã
làm dấy động tâm lý Thánh chúng đếïn
kinh ngạc trong hoan hỷ và sung phấn’’. Chúng ta cũng có thể đạt được Phật trí như Tôn giả Xá Lợi Phất.
Chẳng khác lạ gì, mặc dù trước đây các vị đã từng dự kiến. Nhưng bởi như kẻ
cùng tử, chấp nhận sống đời nhan nhản quanh gốc cây mà căn nguyên của
nó là sự rơi vào các ngã tưởng tế nhị : xem Phật quả như là kết quả
của một quá trình nổ lực nào đó bị ràng buộc bởi thời không, tuổi
tác. Lần này, trước con người già lụn cũng được thọ ký mang theo những
nhân tố như là phản lực với tâm lý Thánh chúng.
Già lụn cũng thành Phật .
Sẽ thành Phật tại đây và bây giờ.
Và hậu quả đem lại từ phản lực ấy là sự rơi rụng
tức khắc (tiệm ngộ ) các lọn tơ nhân tố ngăn
che Phật tính. Sự rụng đổ ấy bộc bạch quá trình quy hồi phản tỉnh
đã được hun đúc bấy lâu (đốn ngộ ). Có nghĩa, rơi : từ từ, hay đổ
: tức khắc đều là cách nói của thời gian nói lên sự chín mọng
hay ươm vàng của con đường ‘’ Quy hồi phản tỉnh’’, hay "Kiến
tính thành Phật ‘’.
Vậy là đến đây, từ trong sâu thẳm
của con đường ‘’Quy hồi phản tỉnh’’ nói lên rằng: "Chư vị
có thể đắc được Phật quả tại đây và bây giờ ’’. Lòng
xác tín chắc thật có mặt khi có vương chủ trí tuệ thông rõ Phật quả
không gì khác chính là thể nhập pháp giơí tính - vô ngã tính. Thời gian
cũng vô ngã, không gian cũng vô ngã. Một trí tuệ biết rõ như vậy, lòng
sinh hoan hỷ chưa từng có mà tín thọ.
Như thế rõ ràng ‘’TÍN" ở đây một mặt xuất hiện
như là nguyên lực làm trung tâm chuyển tiếp giữa
hai mặt từ Ngộ đến Nhập, từ Nhập trở lại Ngộ. Mặt khác nó biểu
thị cho sự thể ngộ thực tính vạn hữu, là điểm mà trong ‘’Đại Thừa
Khởi Tín Luận’’ của Mã Minh, gọi là Khởi Tín là sự thức tỉnh
một ý thức mới- ý thức nhận ra bản giác, để từ dó trở về với
chính mình, bản thể của chính mình, và điều này chẳng dính líu gì với
điều mà ta gọi là sự hiện hữu khách quan của Chúa.
Cụ thể và minh xác hơn là lời dạy của Đức Phật trong
kinh Kim Cương:
’’ Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng ’’.
Hướng ngoại để tin, để tìm
cầu chân lý là sỡ hữu tướng.Vô minh tương nghĩa với chấp ’’Tôi
là, của Tôi, và tự ngã của Tôi’’. Bởi vì cơ sở căn bản để hướng ngoại không gì khác hơn là
cái ’’Bạn đang có và đang la ì’’, cái bị giới hạn trong thời
không. Cho nên, tri giác và tri thức về thực tại luôn không phải là thực
tại chính no,ï mà chỉ là chủ nhân của mọi sự lừa bịp trong sự phát
hiện Phật tính. Nên nói: ‘’Không nên thấy Như Lai qua 32 tướng quý’’,
thì càng không nên tin Như Lai qua 32 tướng quý ấy.
Từ lời dạy này dẫn khởi đường
hướng tu tập hướng nội. Và duy chỉ trong nội soi ta mới có đủ cơ hội
dọn dẹp mọi ô uế tập nhiễm (bát tưởng) của tâm thức.
Chủ trương thiết lập Nhân gian Tịnh độ cũng sản sinh từ
đây. Có nghĩa tự trong tâm thức mỗi chúng sanh vốn đầy đủ tính chất
của cõi Tịnh độ và vấn đề còn lại là thức tỉnh, trở về nhận lại
cái khả năng thiêng liêng ấy.
Bước ngoặc thức tỉnh là dấu ấn của Ngộ, nhận lại
là Thêí nhập và trở về chính là Tín - sự tương tác giữa hai mặt Ngộ
Nhập. Tùy thuộc năng lực trung gian này mà vấn đề
cơ cảm được biểu hiện khác nhau, toàn diện hay đơn điệu.
Thế nên, không ngộ mà tin là quáng. Ngộ mà tin là tín giải.
Và tin để nhập rồi trở lại làm cho ngộ gọi là nan tín- điều mà chư
Phật trong mười phương tán dương Đức Thích Tôn
đã làm công việc hy hữu nhất trong đời
ác ngũ trược này.
Nhưng dù nói thế nào, khác với chúng hội đó, nghe pháp
mà đều sinh tâm hoan hỷ tín thọ. Sự lệch lối
của chúng ta đêïn với Phật pháp qua cảm tính xuất phát từ sự
rung động bởi con tim. Aïi, hậu quả cho sự hiện hữu của chúng ta- mầm
mống của mọi khổ não. Có lẽ vì lẽ đo ïmà Kinh Di Đà trưng dẫn cụ
thể và chi tiết cảnh trí của cõi Tịnh Độ thật hoa lệ và mỹ mãn để từ đó vạch ra một thể cách tu tập giản dị nhưng
sung tích, hợp với tâm lý của đại đôìng.
Sơ khởi, bình giản chỉ là ‘’Chấp trì danh hiệu A Di Đà" (nghĩa của giữ Giới), tư ì‘’Nhược
nhất nhật... nhược thất nhật ’’, mà ‘’Nhất tâm bất loạn" (Định ), và điều kiện sau cùng ’’Thị nhơn
chung thời tâm bất điên đảo’’ ( là Tuệ ),
khi đó mới ’’Tức đắc vãng
sanh ..Cực lạc’’.
Ơí đây tất thảy không có sự cứu rổi. Theo nghĩa biểu
tượng, A Di Đà là: Vô Lượng Quang, biểu tượng cho trí tuệ giải
thoát. Vô Lượng Thọ : đại định, và vô lượng
công đức : biểu tượng cho Thánh Giới uẩn giải thoát.Với quan điểm đó,
một khi phát khởi công phu ’’Chấp trì danh hiệu A Di Đa ì’’
là đánh dấu một sự thể ngộ ‘’Ta là Phật sẽ thành’’ (Tín giải
). Nhờ sự tín giải vào khả năng thiêng liêng ấy, công phu thực hành
được kiên cố, chuyên nhất, và từ công phu ấy nói lên rằng: Tịnh độ
thế giới không gì khác hơn là vô lượng nghĩa, vô tướng và vô tác.
Nói chung là thế giới của những tâm thức toàn nhập vô ngã, không kia,
không đây nhưng hiển hiện ra vô lượng xứ và diệu dụng.
Quay sang Nikàya, cũng một thế, Đức
Phật luôn luôn xác định trước chư Tỳ kheo cũng như tất cả mọi
giới qúa trình thăng bậc, sự toàn diệt khổ đau, phải là ngõ lộ thực
hành của Giới, Định và Tuệ (Kinh Pháp môn Căn bản,
TB I ). Đó là ba bước đi căn bản của Phật giáo, không đi ba bước đi này
là ngoại đạo.Và người con Phật là người tin, hiểu con đường chánh đạo ấy, để từ đó thực hành sống đúng
với chánh pháp. Sự thực hành ấy nói lên lập trường kiên cố của
hành giả vì nó được knh qua (tự tri) và cảm nghiệm (tự giác) trong cuộc
giao thoa giữa hai mặt chân tục, lóe lên môt tia sáng (tự tín) chói lọi
nhất bước hành giả băng qua những chông gai thử
thách của đời thường. Bước đi như là những tiếng rống của sư
tử dẹp tan muôn thú, âm hưởng mãi vang vọng khắc sâu vào lòng chiến sĩ:’’
Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự làm hải đảo... Ta là kẻ chiến thắng,
chiến thắng trong tự nội, không ai khác là người có thể cho ta chiến thắng...’’.
Chỉ có những gì được kinh qua và cảm nghiệm, ấy là tiếng
lòng. Từ đó chúng ta mới đủ sức để đối diện
với những dục vọng, sợ hãi...để đánh đổi một lần, một lần thôi
cho dứt khoát. Và rõ ràng hơn, cuộc đánh đổi
của Thái tử Si đat Tha và chư vị đệ tử Ngài là một minh xác
hùng hồn rằng:
’’ Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta. Ngoài
Ta, ngoài pháp chân chính mà ta đã chứng ngộ, ta hãy cung kính, đảnh lể
và sống y chỉ pháp ấy"
(Tương Ưng Bộ Kinh III)
" Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta’’,
là tín tâm, tin ở khả năng giải thoát giác ngộ , có thể thành Phật .
Và, đó là sự trở về sống với cung cách của bậc Thánh:
’’ Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã
qua rồi,
Tương lai thì chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,...’’
( Kinh Nhất dạ Hiền giả ).
‘’ Không ai khác có thể là chỗ nượng tựa cho Ta, ngoài
pháp mà Ta đã chứng ngộ...’’, là Tín giải- cấp bậc chuyển thái của
sự thể nhập thực tại vô ngã’’.
‘’ Ta hãy sống cung kính , đảnh lể và sống y chỉ
pháp ấy,...’’ đó là tín nguyện và tín hạnh, như tinh thần Bồ Táït
của Đại thừa- y cứ chân không mà hóa hiện ra muôn ngàn sai biệt vi diệu
( Diệu hữu), làm lợi ích cho quần sinh:
‘’ Nhược hữu chúng sanh, đa
ư dâm dục, thường niệm cung kính, Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục..."
( Kinh Phổ Môn).
Cho nên nói: ‘’Thâm tín chư Phật tất giai sung mãn’’
là thế. Phật chính là thực tại vô ngã, là Như Lai Tạng.
" Thâm tín chư Phật" là tin ở thực tại vô ngã
này, và đã là vô ngã thì làm gì có kia- đây, ...mà là ‘’Nhất niệm
thông tam giới’’, chỉ trong một niệm cũng dung thông cả tam giới. Hết
thảy thời gian, không gian đều quy về một mối, nhập cuộc vào cái khoảnh
khắc đang là uyên nguyên tròn đầy mà tiết ra những tinh anh cho đời mãi tươi sáng,
’’Nguyện vi nhất trích dương
chi thủy, sái tác nhân gian tịnh đế liê
n’’
Nhất niệm tương nghĩa với
‘’Nhất tâm’’ trong Khởi Tín luận. Chúng sanh dữ Phật đồng. Sở
dĩ có sự sai biệt đôi bê
n; giác- bất giác là do có sự phân biệt,
vọng chấp pháp ngã. Tuy nhiên, tự tánh (bản lai diện mục) chẳng sinh ,chẳng
diệt, chẳng phải khởi, chẳng phải không khởi. Và ‘’ Khởi tín ‘’
chính là khơi nguồn tuệ giác ở đích điểm thâm
sâu cùng cốc ‘’Nhất niệm tâm tánh đang la ì’’ này. Trong Tứ
Niệm Xứ, nó được diễn đạt sang một ngôn ngữ
khác là Vô ngã niệm.
Pháp hành truyền thống của Đức Phật rằng :’’Ngồi
kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, chánh niệm tỉnh giác, theo
dõi hơi thở...", pháp hành ấy nói lên đời sống có ý nghĩa thực thụ
phải là con đường khai mở tự tâm (nhất tâm), vì thế giới không gì
khác hơn là biểu hiện của tâm (Kinh Lăng Già ). Và khởi tín hay chánh
tín chính là chánh niệm tỉnh giác,
’’Tác hữu trần sa hữu.
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt.
Vật trước hữu không không ‘’.
Thế nên tin Pháp triết lý lại cũng là một cách nói gắng
gượng và duy chỉ được đón nhận bởi những hạng
mà căn tánh đang còn chậm lụn, vì rằng, ngoài những biểu hiện của
tướng, chiều hướng triết lý ra thì hàng phu tử khó bề đón nhận được những gì mà thực tại vô ngôn thyết, trong khi thực tại sống động
diệu hữu lại diễn thuyết một cách phi logic, để từ đó thầm nhủ cho
những ai chuyên đường hý luận, hợp lẽ, đó là nạn, gọi là thế
trí biện thông.
TIN TĂNG
Âúy là đời sống thực nghiệm tâm linh và sự thoát xác
ra khỏi những triền phược.Vì dó là thể tính của Tăng.
Trong cái sai biệt muôn trùng giữa màn đời vớ vẫn âu cũng xuất từ cái không sai biệt, hệt
như khí tiết của trời đất bốn mùa xoay chuyển mà bản chất của
nó cũng không ra ngoài đặc tính âm dương. Con người
ta cũng thế, hay nói rộng hơn, tất cả chúng sanh đều hiện hữu từ cái
bất dị ấy. Nhìn trên biểu tướng nó luôn thiên chuyển và phủ nhận
chính nó như sự phủ nhận cái ấu trĩ của tầng lớp già nua. Nhưng sự
phủ nhận ấy không có nghĩa là khước từ thực tính mà là xác định lại tính chất đặc thù của tất cả hiện
hữu trước cái thiên chuyển không đồng. Cái đặc
tính ấy, Phật giáo gọi là Tăng, có nghĩa là hòa hiệp.
Và thế, Tăng không còn là điểm nhìn quy ngưỡng nơi những
cá thể, đoàn thể được gọi là Tăng già.
Vật gì làm căn bản để từ đó
vô số bánh được tạo nên ? Bột.
Có vô lượng cách ăn, kiểu ăn, sở
thích về món ăn, nhưng ta cũng cù
ng chung nhau một hành động, đó là hành động
ăn.
Mỗi chúng ta đều khoác những chiếc áo khác lạ ra chào
đời nhưng ta vẫn có thể hà
n huyên ở chổ ngồi chật hẹp nhất
trên trần thế, ấy là nhờ đặc tính của Tăng.
Đặc tính ấy có thể gọi là Tăng tính, Hòa hợp tính, Vô ngã tính
hay Phật tính cũng được vậy.Chính nhờ đặc tính
ấy mà ta có cơ may để nhận ra bộ mặt thật của mình bấy lâu
ham dong ruỗi, la cà khắp xó chợ. Nhờ đặc tính ấy mà ta có thể thoát
khỏi những hệ lụy, đau khổ trần ai bằng cách
sống chung thủy với nó bất luận ở đâu và lúc nào...
Đây là
ý nghĩa của lời dạy
‘’Y pháp bất y nhơn’’.
Như vậy tin Tăng là tin ở khả năng của chính mì
nh
có thể tự giải thoát bản thân ra khỏi những khổ não, đồng thời cùng
giúp cho tha nhân hướng về đời sống an lành, Thánh thiện...
QUY KẾT
Chúng ta mạn phép cắt xén thực tại ra từng mảnh nhỏ,
phân tích và tìm hiểu. Bởi vì thấu thị của chúng ta không đủ sức để nhìn thực tại như chính nó, nhưng qua
phương cách độc nhất ấy cũng sơ phát được một cái nhìn tạm
ổn.
Và thế là, ta có thể nói: Phật tính, Pháp tính, Tăng tính
là Vô Ngã Tính cũng không sao vậy.
Đó là điểm xuyên suốt của giáo
lý Phật Đà, đó là
một ‘’Pháp nhĩ như thị’’.
Nhưng dù sao, với chúng ta, niềm tin vẫn là căn bản, là
tiên quyết, đây cũng là một "Pháp nhĩ như thị" nữa.
Nên, với những ai sống có ý nghĩa, hãy tạo cho mình một
niềm tin : Tin Tam Bảo, tin Ông Bà hay tin bất luận ở lãnh vực nào, điều
quan yếu là niềm tin không hại mình, không hại người, không hại cả hai
mà lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Ấy là một diễm phúc lớn vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/niemtin.htm