Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

NỬA BÀI KỆ

(Tuyết Sơn Đại Sĩ)

Thích Trung Nghĩa   dịch


 

Người Ấn Độ  có khả năng nhớ rất tốt và truyền khẩu nhanh. Sau khi Đức Thế tôn nhập niết-bàn, nhằm ngăn ngừa hàng ngọai đạo xen vào làm lch lạc giáo lý khiến Phật pháp bị mai một, nên chúng đệ tử cử hành nhiều cuộc kiết tập kinh điển. Kiết tập lần đầu các ngài  dùng phương pháp vấn đáp qua lời dạy của Đức Thế tôn, biến thành thể thi kệ (già-đà) từ kim khẩu, sau đó là thể trường hàng. Văn vần là hình thức truyền bá giáo lý có giá trị hiệu nghiệm phi thường,  ghi lại và tụng, lưu truyền nhanh chóng. Thể lọai văn vần trong kinh văn Phật có hai dạng khác nhau, một loại gọi ‘trùng tụng” (geya) y như trường hàng (văn xuôi) nội dung thuật lại đơn giản rõ ràng, tạo thêm ấn tượng, dễ ghi nhân tức thì. Riêng một lọai gọi  “phúng tụng” hay “cô khởi tụng” (gāthā); chỉ diễn đạt  ý tưởng trong văn trường hàng mà không dùng đến văn xuôi.  Hán  dịch  là kệ hay kệ tụng 偈 頌 . Đời nhà Đường,  thi hào Bạch Cư Dị có bài thơ Quận trai hạ nhật ức Lô Sơn thảo đường:

              Nhàn ngâm bốn câu kệ

             Một lò hương thơm lừng.

Cũng nguyên nhân ấy kệ trở thành thi,  gọi là thi kệ, hình thức tương tự như nhau.

 Thập Đắc đời nhà Đường có bài:

Thi kệ cùng một loại

Lúc đọc cần tư niệm.

Kệ thông thường vốn do vài chữ và âm tiết cấu thức nên. Thể kệ này truyền sang đời sau, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền văn học Trung Quốc, đó là văn học nói hát, khá phong phú, được quần chúng yêu thích. Sự thưởng lãm thơ kệ không ai hơn Thiền tăng; nhằm cái ý này thiền tăng cũng là thi sĩ.

 Thiền sư Tuyết Đậu có bài:

Trời sương, đêm tạnh, trăng thầm

Ai đem trang lạnh ngâm dòng suối thu.

Thiền sư Trường Sa có bài:

Xưa theo sắc cỏ phai

Tìm lại dấu hoa rơi.

đều hàm chứa thiền cơ, phát xuất từ tâm hồn thanh thản mà họa ra thơ.

Từ đời Đường về sau, thi kệ thịnh hành   trong giới văn nhân, đều mang đậm Thiền phong. Tô Đông Pha có bài đầu cơ kệ rất nỗi tiếng:

Suối tuôn tướng lưỡi rộng dài

Lặng thinh cảnh núi lầu đài tịch cô

Nữa đêm ngàn kệ điểm tô

Một mai sao lại hiển phô tựa người.

Từ xưa đến nay thơ thiền khá phong phú, đều thấy phổ biến qua thể thi kệ.

Đời nhà Đường, Lý Đoan có bài Tặng Uẩn Thiền Sư:

Bán kệ truyền đã tận

Quần sanh chưa hồi đầu.

Lương Sĩ Nguyên có bài  Đề Tinh Xá Tự

Trăng treo trên lầu

Vạn pháp rỗng lặng

Tăng đọc bán kệ

Lặng lẽ duyên không.

 

Viên Liểu Phàm đời Minh có bài: 

Thấm nhuần bán kệ

các duyên dứt sạch

các cảnh bên ngoài

trở nên vô sự.

            Đức Thế tôn vào  thời quá khứ có một công hạnh nổi tiếng, vì nửa câu kệ mà hy sinh thân mạng. Khi ấy ngài tu ở Tuyết Sơn, thực hành bồ tát đạo, người đời gọi là Tuyết Sơn Đại Sĩ  hay Tuyết Sơn Đồng Tử. trước lúc nhập niết bàn ngài nhớ lại: Vào thời qúa khứ lúc ánh sáng Phật pháp chưa được lưu truyền rộng khắp. Ngài lặng lẽ tu tập, ăn toàn hoa qủa, chuyên tĩnh tọa thiền quán. Trải qua vô lượng kiếp, Đế Thích thấy Đại sĩ tu khổ hạnh một mình, bèn từ trời xuống, hóa thân làm la-sát, thăm dò độ sâu cạn sức kiên định  của ngài. Quỷ la-sát  đến trước Đại sĩ đọc nửa câu kệ mà chư Phật qúa khứ đã nói:

Chư hành vô thường

Thị sanh diệt pháp.

(Các hành vô thường

là pháp sanh diệt).

Đại sĩ  nghe nửa bài kệ ấy liền sanh lòng vui thích, ngoảnh nhìn 4 phía, chỉ thấy la-sát, bèn nói: Nếu có thể nói thêm hai câu còn lại, ta nguyện suốt đời làm đệ tử ngươi. La-sát nói, ta nay đang  mệt mỏi, thật không thể nói. Đại sĩ hỏi, ngươi ăn uống những gì? Đáp:  Những món ta ăn là thịt người tanh, món uống là máu nóng. Đại sĩ nghe xong kiên quyết nói, nếu nói hết bài kệ, ta sẽ cúng dường thân này cho ngươi.

Ngài liền để lộ toàn thân. Ngồi xuống tĩnh tọa, la-sát thấy thế liền nói tiếp nửa bài kệ sau:

Sanh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc

(sanh diệt, diệt rồi

tịch diệt là vui).

Đại sĩ tư duy kệ nửa bài ấy xong, liền viết lên bức tường đá,  rồi viết trên thân cây. Sau đó  phi thân lên ngọn cây cao, chúi đầu xuống đất. Lúc này la-sát hóa lại làm Đế thích, kính cẩn tiếp đón Đại sĩ, ngồi xuống đất một bên, đảnh lễ sám hối mà đi. Đại sĩ  vì cầu nửa bài kệ mà bỏ thân mạng, siêu 12 kiếp, thành vô thượng đạo trước thời đức Di-lặc . Trong phẩm Kiên Hạnh, kinh Niết-bàn, phẩm Tự, Tâm địa quán luận có nói rõ việc nầy: “Lúc Phật còn ở nhân địa tu hành, vào Tuyết Sơn cầu đạo, tinh tấn kiên định, vì cầu nửa bài kệ mà bỏ thân mạng”.

Trong văn đoạn kết thường dùng nửa bài kệ gồm 8 chữ. Đức Phật nói dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa, có thể một câu bao hàm vô lượng pháp, hay dùng vô lượng pháp trong một câu. Bài kệ trên vốn kệ chỉ có bốn câu nhưng hiển thị toàn bộ giáo lý Phật-đà. Đạo là sự khai mở hết thảy nguồn gốc sanh diệt, vô thường; vạch rõ phương cách thoát ly sanh tử nhằm đạt đến mục tiêu giải thoát, niết-bàn. Hai câu kệ sau rất quan trọng, như trong Niết-bàn kinh sớ quyển 21 có nói:

Sanh diệt đã diệt rồi tức  xa lìa ghềnh thác sanh tử. Tịch diệt là vui tức là thường trú trong vô lượng an lạc. Vì thế,  Tuyết Sơn Đại sĩ dám bỏ thân mạng để được nghe. Đúng như Tứ Pháp Kinh nói: Suốt đời, cho đến gặp cảnh tán mạng, cũng không xa rời bậc thiện tri thức vậy”.

Bài kệ trên kệ là do Đế thích ở Tuyết Sơn vì Đại sĩ mà nói. Nên cũng gọi  là Tuyết Sơn Kệ. Tuyết Sơn  tức núi  Hy-mã-lạp-sơn (Himālaya), nằm ở hướng bắc Ấn Độ,  Trung Hoa và Tây Tạng. Tây vức truyện nói,  Tuyết Sơn nằm phía Bắc Thiên Trúc, tường núi đầy rêu phủ kín.  Đời Đường có Pháp sư Huyền Trang qua Tây Trúc cầu pháp, đã từng băng qua Tuyết Sơn (theo Đại Đường Tây vức ký, quyển 1).

Kinh Niết-bàn, phẩm Kiên Hạnh  có ghi:

“Do tính thanh tịnh-suối nước ngọt ngào

Rừng toàn cây thuốc-lan tràn đầy đất”.

 

Trung Nghĩa dịch từ  Phật môn điển cố”tac gia Ly Minh Quyen”trang160-162

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/nuabaike.htm

 


Vào mạng: 11-11-2005

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang