- Tìm hiểu Ngày Sanh của Đức
Phật Thích Ca
- Nguyễn Phúc Bửu Tập
Trong một cơ hội trước, tác giả
đã có dịp trình bày về năm sanh của đức Phật ("Tìm hiểu Năm sanh
xác thật của Đức Phật Thích-ca", Tạp chí Hoa Sen, California). Như ta
đã thấy, truy tầm năm sanh của đức Phật rất khó, chưa ai tìm ra được
dữ kiện chính xác, khó chối cãi về năm sanh của đức Thích-ca. Về
ngày sanh của đức Phật cũng vậy, chỉ dựa trên truyền thống.
Một điểm khác cần được lưu ý
là đạo Phật Bắc tông Mahayana thiết lễ Đản sanh riêng biệt, khác với
các ngày lễ khác của đức Phật như lễ Thích-ca thành đạo, lễ Thích-ca
nhập niết bàn. Đạo Phật Nam tông Theravada thiết lễ Đản sanh chung với
các lễ Thành đạo và Nhập niết bàn, gọi là đại lễ Visakha, danh từ Hán
Việt là Tam hợp. Việc này liên hệ với quan niệm giáo lý Theravada, ta sẽ
có dịp nói ở sau.
Tài liệu cổ nhất về lễ Đản
sanh
Sau Thế Chiến Hai, Hội The Pali Text
Society ở Luân Đôn là tổ chức sưu khảo về đạo Phật quy mô nhất, tiếp
tục chương trình nghiên cứu và cọng tác với Viện Đại học Colombo ở
Tích-lan để dịch thuật, giảng giải các tài liệu cổ văn Pali trên các
bia đá, lá cót... tại các chùa. Năm 1972, học giả tì-kheo Isabel Horner, chủ
tịch Hội The Pali Text Society công bố một số tài liệu mới tìm được
trong quốc sử Mahavamsa của nước Tích Lan. Một tài liệu nói về lễ cầu
mưa Gangarohana là một tập tục của dân Tích Lan theo đạo Phật ngày nay
còn tồn tại từ vùng quê đến thành thị. Một tài liệu khác quan trọng
hơn nói về lễ Đản sanh của đức Phật. Dưới triều vua Dutthagamani
(101-77 trước Tây lịch), quốc sử ghi chép lễ Đản sanh do nhà vua thiết
lễ cầu nguyện, có cuộc rước kiệu tượng đức Phật do một nghìn
thanh niên cầm cờ kéo liễn đi hộ tống.
Thế nhưng tài liệu này không thể
xem là tài liệu cổ nhất. Ta phải trở lại các trụ đá Asoka (đại đế
A-dục). Đức Phật mất (nhập niết bàn) năm 544 trước Tây lịch. Hai trăm
năm mươi năm sau, nước Ấn Độ có vua Asoka hoằng dương đạo Phật. Vua
cho khắc trên trụ đá và vách đá các bổn ngự chỉ tuyên dương sự tích
và những lời răn dạy của đức Phật. Cho đến bây giờ, các nhà khảo
cổ đã tìm ra được 35 di tích ngự chỉ, đánh số, khám đọc, và giải
thích cặn kẽ. Ngự chỉ số Bốn, tìm được tại núi Kandahar, ngày nay
thuộc đất Afghanistan, ghi lời dạy của nhà vua cho con cháu phải tiếp tục
phụng thờ đức Phật và dặn dò mỗi năm ngày lễ Đản sanh, phải tổ
chức trọng thể, thiết lập cuộc rước kiệu đức Phật. Ngự chỉ số
Sáu ở núi Girnar, miền Tây Ấn Độ ghi rõ hơn cách lập kiệu để rước
tượng và di tích đức Phật, khi tổ chức lễ Đản sanh. Như vậy, lễ Đản
sanh đức Phật đã được thiết hơn hai ngàn ba trăm năm trước, đặc biệt
huy hoàng dưới triều đại vua Asoka là người đã dựng lên 84000 ngôi
tháp thờ Phật.
Lễ Đản sanh tại các quốc gia
Tây Vực
Dưới thời đại đế Asoka, đạo
Phật đi vào các quốc gia ở miền Vịnh Địa trung hải và các quốc gia
ở miền Bắc và Tây Bắc nước Ấn Độ. Từ Ấn Độ sang Trung Hoa, phía
Đông Bắc có dãy núi Hy-mã-lạp-sơn là một bức trường thành bằng thép
ngăn cản lưu thông. Phía Tây Bắc, dọc theo sườn núi Kunlun sát vào hồ lớn
Alma Ata là một số đô thị như Kashgar, Yarland, Chokkuta và Khotan. Cao hơn trên
phía Bắc, dọc theo sườn núi Tienshan (Thiên sơn) là đất Thổ-nhỉ-kỳ
tư-thản (Chinese Turkestan), gồm bốn tiểu quốc cùng chung văn hóa là các nước
Aksu (còn gọi là Baruka), Kucha, Karashar (ngày nay là quận Yen-ki thuộc
Trung-hoa), và Turfan (ngày nay gọi là Kao chang). Các quốc gia này kết thành
một trục gọi là con Đường Tơ Lụa, trục giao thông căn bản giữa
Trung-hoa và các nước Phương Tây ngày đó. Từ đầu thế kỷ Hai-mươi, các
phái bộ khảo cổ Tây phương khai quật các động đá nằm trên trục Đường
Lụa như Huân tước Aurel Stein, Albert Grunwedel, Paul Pelliot (thuộc Trường Viễn
Đông Bác cổ Hà Nội) Các công trình khảo cổ này phát xuất từ hai quan
điểm tranh đua nhiều khi đi gần đến chỗ thù nghịch của hai trường khảo
cổ La tinh và Anglosaxon, lại cũng đã đi tới một số kết luận rất giống
nhau. Những điểm kết luận đó có thể tóm tắt làm ba mục: thứ nhất
là các dân tộc sống trên con Đường Lụa từ hai mươi thế kỷ trước
đã thấm nhuần đạo Phật rất sâu sắc; thứ hai là đạo Phật của các
sắc dân này mang nặng tập tục Đại thừa Mahayana; và thứ ba -- điều
quan trọng đối với người tìm học Phật -- là các tài liệu văn tự của
các bậc cao tăng Trung-hoa "đi Tây vực tìm học đạo, đã quan sát tận
chỗ, viết thành sách" để lại, đã được chứng minh là những tài
liệu rất sát với "sự thật khoa học" ta quan niệm ngày nay.
Bởi lẽ đó mà ta phải lục soát
trong tài liệu văn tự của các nhà sư Trung Hoa đi Tây vực (Ấn Độ) thỉnh
kinh nói về lễ Đản sanh. Các nhà khảo cổ tìm được tài liệu cổ nhất
liên hệ tới lễ Đản sanh trong cuốn sách của Thầy Pháp Hiển (Fa-Hsien).
Thầy là một vị cao tăng người Trung-hoa lần đầu tiên hành hương qua đất
Phật ở Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ Bốn, ở lại 16 năm học đạo
(399-414 TL), để lại cuốn sách Pháp Hiển truyện, còn gọi là Phật quốc
ký, có bổn dịch tiếng Pháp của Abel Remusat (Foe Koue ou Relation des Royaumes
Bouddhiques, Ernest Leroux, Paris, 1836).
Thầy Pháp Hiển theo con Đường Tơ
Lụa, đến đất Khotan mà thầy phiên âm là Cổ sơn, ngày nay là thủ đô
của khu tự trị Tân Cương (Uighur). Khi ghé qua Khotan, thầy được tham dự
buổi lễ Phật đản được tổ chức rất trọng đại. Dân chúng chuẩn bị
lễ Phật đản từ ngày mồng một tháng Tư (thầy dùng âm lịch Trung Hoa),
kéo dài tới ngày 29 tháng Tư. Cuộc rước kiệu rất vĩ đại, xe kiệu cao
mười mét, trần thiết lộng lẫy, ở giữa đặt tượng đức Phật sơ
sinh, có vua và hoàng hậu đất Khotan theo nghênh giá.
Thầy Pháp Hiển tiếp tục hành
trình xuống đất Ấn Độ vào thành Patalipatra (thầy phiên âm là thành
Ba-tra-li phất) ngày nay gọi là thành phố Patna (Hoa thành). Một nghìn năm
trước nơi đây là kinh đô của vương quốc Maghada (Ma-kiệt-đà), láng giềng
của quê hương đức Phật, sáu trăm năm trước, đây là nơi đóng đô của
đại đế Asoka. Thầy Pháp hiển được chứng kiến và tả lại đầy đủ
chi tiết một buổi lễ Phật đản, vào ngày mồng tám tháng Hai âm lịch.
(Đọc Nguyễn phúc Bửu-Tập, "Tìm hiểu Lễ Rước Kiệu Phật và Lễ
Tắm Phật", Hoa sen số 23, California 1994).
Cũng trong kho sách Đại thừa ở
Trung Hoa, một tài liệu có liên hệ đến lễ Đản sanh tìm thấy trong cuốn
Đại Đường Tây Vực ký của thầy Huyền Trang. Thầy tả lễ Đản sanh
thầy được tham dự ở Kucha (tiếng Pháp viết là Koucha, cách phiên âm mới
là KuChe). Kucha ngày xưa là một ốc đảo lớn nhất nằm ngay trên con Đường
Tơ Lụa, là một trục chánh con đường đạo Phật du nhập vào đất Tàu.
Thầy Huyền Trang gọi đất Kucha là Dao Tần; ông có cảm tình với đất này
vì nơi đây là quê hương của Cưu-ma-thập (Kumarajiva), người đã đóng
góp nhiều nhất trong việc phiên dịch 400 bộ kinh từ chữ Sanskrit sang chữ
Hán (thế kỷ thứ Năm T.L.). Lễ Phật đản tại Kucha cử hành vĩ đại, có
cuộc rước kiệu gồm một nghìn chiếc xe hoa dựng tượng Phật. Ngày lễ
Đản sanh tại Kucha lại thiết vào ngày thu phân, tháng Chín, ngày 22.
Tại Tây tạng (Tibet), trước khi bị
Trung-hoa cọng sản cưỡng chiếm, nơi đây là đất Phật. Niên lịch Tây tạng
ghi ngày lễ Đản sanh là ngày 15 tháng Giêng âm lịch, là ngày quốc lễ lớn
nhất trong năm, gọi là lễ Son lan chen po (Lễ Đại nguyện), liên hoan từ
ngày mồng bốn cho đến ngày 21 tháng Giêng. Đêm Đản sanh, tại thủ đô
Lhassa, mỗi cơ sở công hay tư, mỗi gia cư đều treo đèn, kết hoa. Đức
Hoạt Phật (Phật sống, Đạt-lai lạt-ma) ngồi trên kiệu có ban quốc nhạc
và đội binh bảo giá tháp tùng, đi viếng và chấm điểm từng đơn vị
trong thủ đô, nơi nào có trần thiết lễ. Dân chúng từ mọi nơi trong nước,
và cả ở ngoài nước như Mông Cổ, kéo về thủ đô tham dự lễ Đại
nguyện, cầu xin đức Phật ban ơn một năm đầy hạnh phúc.
Lễ Đản sanh tại Trung Hoa
Nước Trung-hoa cổ, có bộ môn sử
ký chép sự việc theo nguyên tắc trung thực và theo thời gian. Theo thứ tự
năm tháng, ta đọc trong Pháp uyển Châu lâm, vào đời Đông Tấn (318-420
TL) có người Thái Kiều đúc năm tượng Phật hài đồng để dùng vào lễ
Rước Kiệu, trong ngày lễ Đản sanh. Một tư liệu cổ khác tìm thấy
trong sách Cao tăng truyện, viết vào thời Ngũ hồ, cũng tại Đông Tấn
(319-351 TL), có người mộ đạo tên là Thích Lộ, mỗi năm vào ngày mồng
tám tháng Tư đến chùa làm "lễ chiêm bái đức Phật ra đời," bằng
cách tắm tượng Phật bằng nước cam lồ. Học giả đạo Phật Trung-hoa
cho là truyền thống đản sanh tại nước Tàu bắt đầu từ các chi tiết
này.
Kế đến, trong sách Ngụy Tấn Nam
Bắc triều luận tập có đoạn ghi vua Thái Võ đế nhà Ngụy (408-452 TL)
nhân ngày Đản sanh, ngự giá ra ngoài thành, thiết lễ rước kiệu Phật.
Vua và hoàng hậu đứng trên đài rải hoa lên tượng Phật sơ sinh lúc đoàn
kiệu đi qua. Một tư liệu cổ khác, theo thứ tự thời gian, đọc được
trong Phật tổ Thống ký, kể chuyện vua Cao tổ Võ đế nhà Tống tên là Lưu
Dũ, năm 462 TL, ngày mồng tám tháng Tư, thiết lễ Đản sanh ngay trong cung
điện nhà vua. Cũng trong Phật tổ Thống ký, ta lại thấy vua Hiếu Võ nhà
Tây Ngụy (467-499 TL) cho lệnh rước tượng Phật trên kiệu từ các ngôi
chùa lớn ở Lạc Dương vào cung đình, dâng hương hoa làm lễ Đản sanh ngày
mồng tám tháng Tư, và ra lệnh mỗi năm từ đó phải thiết lễ Phật đản
như vậy. Lại sách Lạc Dương Già Lam ký, mỗi năm trước một hôm ngày
Phật đản mồng tám tháng Tư, các chùa trong vùng Lạc Dương phải rước
tượng Phật trên kiệu đến Thanh Minh thiền viện, tất cả hơn một nghìn
tượng Phật để cử hành đại lễ ngày hôm sau. Buổi lễ được cử hành
rất tưng bừng náo nhiệt đến nỗi một nhà sư từ Tây Vực đến viếng
Lạc Dương kể lại là "(ngày Phật đản) hoa vàng ngời sáng dưới
ánh dương, lọng hoa lợp kín như mây phủ, cờ phướn giăng lên như rừng
cây, trầm hương xông lên dày đặc như sương phủ, tiếng kinh và tiếng
nhạc rung chuyển đất trời" (Kenneth Chen, "Buddhism in China",
Princeton 1973, trang 279).
Đời nhà Đường ở Trung Hoa là thời
đại hoàng kim của đạo Phật tại châu Á. Ta theo dõi được là dưới đời
nhà Đường (được ghi chép trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao tăng
truyện của thầy Nghĩa Tịnh (I Tsing, 635-713 TL) và đời nhà Tống (được
ghi chép trong Đại Tống chính biên) tức là từ năm 618 đến năm 1279, lễ
Đản sanh được thường xuyên cử hành tưng bừng trong các chùa lớn nhỏ
trong dân gian.
Sách Phật tổ Thống ký thuật là
dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ
Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp
môn về Lạc dương. Vua và hoàng hậu ngự ra cửa An phúc đón võng Phật
vào nhà Thái miếu; dân chúng hân hoan nổi nhạc đốt pháo vui mừng. Dưới
đời Đường, lúc đạo Phật cực thịnh, người ta đem từ Ấn Độ sang
ít nhất năm di tích xá lợi, của đức Phật. Chùa Pháp môn ở phía Bắc
Kinh thành Lạc Dương có một lóng xương tay của đức Phật; bốn chùa
khác trong thành mỗi chùa thờ trên tháp một chiếc răng của đức Phật.
Mỗi năm, vào ngày Phật đản hay ngày rằm tháng Bảy, di vật này được
chưng bày cho dân gian lễ bái chiêm ngưỡng. Riêng di tích xá lợi lóng xương
tay ở chùa Pháp môn thì hằng năm, ngày lễ Phật đản, lại được rước
trên kiệu vào cung đình cho nhà vua hành lễ. Mỗi lần rước kiệu lễ Phật
đản là một cơ hội đình đám quá lớn, dân chúng tham gia quá sức nháo
nhiệt, lắm khi thành hỗn loạn. Vì lý do đó, Hàn Dũ, một nhà Khổng học
quá khích chống đạo Phật, năm 819 viết bài sớ xin nhà vua bãi lệ Phật
đản (Kenneth Chen, đã dẫn, trang 280).
Đầu thế kỷ thứ Mười TL, tại
Huệ Lâm thiền viện phủ Khai Phong, vị trụ trì là đại sư Nguyên Chiếu,
muốn làm giảm mối căng thẳng giữa đạo Nho và đạo Phật nên chấn chỉnh
nghi lễ của đạo Phật, đặt ngày Phật đản, lễ Tắm Phật (còn gọi
là Quán Phật) vào ngày mồng tám tháng Tư. Lễ Rước kiệu cũng chỉ làm
trong khuôn viên chùa. Chi tiết sự việc đều ghi trong sách Đông Kinh Mộng
Hoa lục chú (Đông Kinh là phủ Khai phong).
Dưới đời Nguyên, người Mông Cổ
là những người mộ đạo Phật, nên vẫn giữ tục lệ thiết Phật đản
lớn vào ngày tám tháng Tư. Người khai sáng ra nhà Minh, Chu Nguyên Chương,
lúc thiếu thời đi tu ở chùa, nên khi lập quốc, tôn thờ và chỉnh đốn
đạo Phật. Dưới đời Thanh, người Mãn Châu vào chế ngự Trung Hoa cũng
là những người mộ đạo Phật, nên giữ các tập tục làm lễ Phật đản
đã có từ nghìn năm trước, cho tới khi tiếp xúc với Tây phương.
Nghi lễ của đạo Phật tại Trung
Hoa, từ cuối thế kỷ Mười chín cho đến cuộc Cách mệnh Cộng sản được
một nhà học giả phương Tây Holmes Welch mô tả kỹ càng trong sách The
Practice of Chinese Buddhism 1900-1950 (Harvard University Press, 1973). Trước Đại hội
Kiết tập Sangiti lần Sáu (ta sẽ nói ở sau), người Trung Hoa cử hành lễ
Phật đản vào ngày tám tháng Tư, tại chùa đông đúc thiện nam tín nữ
tham dự, nghi thức được tả rõ trong sách Holmes Welch (sách dẫn, trang 109
và tiếp theo). Nghi lễ tại các chùa lớn tại Trung Hoa ngay cả trong thời
kỳ Dân quốc, đều cử hành theo quy luật ghi trong sách Bách Trượng Thanh
quy có từ đời Tống, và được thay đổi ít nhiều dưới triều Minh, gọi
là sách Chỉnh Huấn Bách Trượng Thanh quy, dùng làm khuôn thước lễ nghi.
Lễ Đản sanh tại Nhật Bổn
Nước Nhật Bổn tiếp nhận đạo
Phật vào thế kỷ thứ Sáu và người Nhật phát huy đạo Phật vững mạnh
cho tới ngày nay. Theo Sử ký Nhật Bổn Nihonshoki, buổi lễ Đản sanh đầu
tiên được thiết vào ngày mồng Tám tháng Tư năm 606 TL (người Nhật dùng
dương lịch, nhưng các lễ Phật nhiều lúc vẫn theo âm lịch Trung Hoa). Nữ
hoàng Suy-Cơ (Sui-Ko, 593-628 TL) và chồng là Thánh Đức thái tử (Shokotu) rất
mộ đạo Phật, ra lệnh cho tất cả các chùa, trong dịp lễ Đản sanh phải
thiết lễ và phát chẩn. Trong các chùa lớn và đền Thần đạo tại Nhật
ngày nay, một số tượng Phật đản sanh (hình tượng đức Phật lúc mới
sanh, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời, miệng đọc câu
"duy ngã độc tôn"), tạc từ thời đại Nại lương (Nara) vẫn còn
giữ được nguyên vẹn, làm bằng chứng là lễ Phật đản đã được cử
hành trong các thế kỷ Bảy, Tám tiếp theo. Từ thế kỷ Tám đến thế kỷ
Mười hai (triều đại Bình An, Hei-an, 749-1185 TL), đạo Phật ảnh hưởng mạnh
vào sinh hoạt xã hội và văn hóa nước Nhật, các buổi lễ Phật càng
được cử hành lớn, dựa vào hoàng gia và quý tộc.
Qua triều đại Kiếm thương
(Kamakura, 1185--1335) Phật giáo Nhật-bổn bắt đầu nhận chân những mối bất
lợi vì lễ bái cúng tế hào nhoáng gây ra và Thiền tông trở nên hưng thịnh.
Thêm vào đó là mối cạnh tranh với Thần đạo bây giờ có nhiều khuynh hướng
thực tiễn ái quốc, nên Phật giáo phải nhẹ việc phô trương thanh thế
bên ngoài, vì vậy càng giúp cho Thiền tông nẩy nở mạnh hơn, và các buổi
lễ Phật phải cử hành đơn giản hơn. Ta nhận thấy sự kiện này trong một
tập ký ức của Koka Shiren: "Trong nhiều năm, ngay tại thủ đô, người
ta thiết lễ Phật đản vào ngày mồng Sáu để tránh một ngày lễ lớn
Thần đạo vào ngày mồng Tám tháng Tư." Trong một bổn Đại tự Nhật
ký của chùa Kenchoji do Đạo lan Đan khê (Doryu Rankei) viết năm 1249, rõ
ràng và hàm ý châm biếm cách thức thiết lễ Đản sanh nhuộm màu Thần
đạo: "(Năm nay) ngày Phật đản, lễ tắm Phật do các vị phu nhân
'shoguna' (vợ của các vị chính quyền tướng quân) phụ trách, gây ra nhiều
điều lạ mắt. Ngày xưa (vào lễ Phật đản) có bao nhiêu chi tiết đẹp
ý đẹp lòng, như lễ cắm hoa. Ngày nay kiểu cách mới được đem vào
chùa, làm lạ tai lạ mắt người theo Phật." Sau đó, có lẽ chính quyền
Võ sĩ đạo muốn tránh quần chúng dị nghị, nên từ thế kỷ Mười ba, tổ
chức buổi lễ Thần đạo vào ngày mồng Chín, dành ngày mồng Tám cho các
chùa và dân chúng làm lễ Đản sanh. Gần đây hơn, ta đọc được trong Nhật
Bổn Niên giám Ký sự 1953 một đoạn viết về lễ Đản sanh: "Mỗi
năm trên toàn quốc, vào ngày mồng tám tháng Tư (lễ Phật đản) dân
chúng đi hái mọi loại hoa rừng, cắm vào cành tre vót nhọn, làm lễ Phật.
Các bó hoa này gọi tên là hoa hướng thiên đường (tentobana), hay là hoa
tôn quý (takahana)". Cũng vì tục lệ đẹp đẽ này mà tại Nhật, ngày
tám tháng Tư còn gọi là ngày Lễ Hoa. Ta cần nhắc thêm là người Nhật mộ
đạo tin là nhân loại sẽ được hoàn toàn cứu rỗi trong tương lai khi đức
Phật Di Lạc ra đời, và nếu mỗi năm thành tâm thiết lễ Phật đản, thì
ngày đức Phật Di Lạc hiện đến sẽ gần hơn. Vì vậy, mà ngày tám
tháng Tư lại có thêm tên là ngày Nguyện cầu (Ryu ye-e), tên của một
tông phái tại Nhật thờ Phật Di-lạc.
Một biến cố Phật đản liên hệ
đến tổ chức Gia đình Phật tử Nhật cần nhắc lại đây. Gia đình Phật
tử Nhật gồm thiếu nhi và thanh niên hoạt động rất mạnh. Trong cuộc
canh tân nước Nhật, cuối thế kỷ Mười chín do đại đế Minh Trị Thiên
hoàng lãnh đạo, đạo Phật vì tôn chỉ chuộng hòa bình, bị nghi ngờ là
chống giới quân phiệt, lực lượng nồng cốt ủng hộ nhà vua. Gia đình
Phật tử Nhật, nhờ hoạt động khéo léo đã làm mối giây liên lạc giữa
đạo và phong trào quốc gia võ sĩ đạo. Năm 1912, ngày Phật đản mồng tám
tháng Tư, Gia đình Phật tử cử hành lễ tại công viên Asakusa Park, hội họp
tất cả đại biểu đoàn viên trong nước, lấy tên buổi họp đoàn là
Hanamatsuri. Từ đó, hanamatsuri được tổ chức mỗi năm, ngày họp bạn của
nhi đồng và thanh niên toàn nước Nhật nhân ngày lễ Phật đản.
Lễ Đản sanh tại các nước thờ
Phật giáo Theravada
Tại các nước thờ Phật giáo
Nguyên thủy, ngày Phật đản gọi là Visakha Puja (chữ Sanskrit viết là
Vaisakha; Tích Lan: Vesak; Cao Mên: Vissakh bochea; Thái Lan: Vaishaka Puja; Lào:
Vixakha bouxa). Lễ này kỷ niệm ba biến cố quan trọng trong đời đức Phật:
đản sanh, thành đạo, và nhập niết bàn vào một ngày... Chữ Nho ta gọi
là lễ Tam Hợp. Người Phật tử phái Nguyên thủy tin là đức Phật đã
chọn sanh ra đời, thành đạo và mất vào cùng một ngày. Nói chung, tại
Đông Nam Á Nguyên thủy, Visakha là ngày quốc lễ nhưng được thiết trong
khuôn viên chùa (vat, wat). Lễ được thiết vào ngày trăng tròn, giữa
tháng Tư và tháng Năm dương lịch. Trong dịp lễ, dân chúng tụ họp tại
chùa, đọc kinh, nghe thuyết giảng về đời sống của Thích Ca. Tại Thái
Lan, chẳng hạn, buổi thuyết giảng pathama-sambodhi, bắt đầu từ trưa, kéo
dài suốt đêm. Bài giảng kể lại lễ thành hôn của vua Tịnh phạn và
hoàng hậu Maya (vương phụ và vương mẫu của đức Phật), đời sống lúc
trẻ của đức Phật, quyết định đi tu cho tới khi thành đạo, hoằng Pháp
và nhập diệt. Bài giảng kết luận nêu lên các nguyên do đạo Phật bị
tru diệt tại Ấn Độ, để cho tín đồ suy nghĩ đừng phạm vào lỗi lầm
cũ mà mất đạo.
Tại Ai Lao, lễ Tam hợp còn gọi
là ngày Buon Bang Fay, có nghĩa là Hội Pháo. Trong năm, Hội Pháo là ngày lễ
vui nhộn nhất. Các chùa thi nhau làm pháo, cùng một loạt ban đêm đốt lên,
xem chùa nào đẹp nhất lãnh thưởng, làm trò vui cho dân chúng.
Tại Nepal (người Tàu phiên âm là
Nê-bạc-nhỉ) đạo Phật pha trộn gắn bó với Ấn Độ giáo, nhưng Phật
đản vẫn là một ngày quốc lễ, gọi là Bahiravajatra, thiết vào ngày trăng
tròn tháng Năm dương lịch. Vào ngày lễ, dân chúng mổ trâu bò làm tiệc,
và nhảy múa suốt đêm ngoài lộ.
Tại Sri-Lanka (Tích Lan), lễ Phật
đản gọi là Vesak, là ngày quốc lễ trọng đại nhất trong năm, vào ngày
trăng tròn tháng Năm. Như trên đã nói, sử Tích Lan Mahavamsa chép là "lễ
Đản sanh được thiết từ ngày đạo Phật được hoàng tử Mahinda, con
trai của đại đế Asoka vâng lệnh vua cha đem đạo của đức Thích Ca vào
nước Sri-Lanka. Bắt đầu từ thế kỷ thứ Bốn, lễ được chính thức cử
hành mỗi năm, có cuộc phát chẩn lớn cho dân nghèo và cuộc dâng y bát
cho người tu sĩ. Người Anh đến thôn tính nước Sri-Lanka năm 1815, chịu
áp lực của các giáo hội truyền giáo Tây phương, ra lệnh bỏ tục lệ
Vesak, làm cho dân bị trị mất tục lệ cúng Phật.
Cuối thế kỷ Mười-chín, nhóm
lên phong trào kháng Anh do Phật giáo đề xướng, lấy chủ đề là Chấn hưng
Phật giáo. Buổi lễ Vesak lần đầu tiên được tái lập sau bảy mươi
năm bị chính quyền Anh cấm đoán, cử hành vào ngày 17 tháng Tư năm 1885.
Một người Hoa Kỳ thờ Phật giáo, Đại tá Henry Steele Olcott, trong cuốn
ký ức Old Diary Leaves thuật lại là phong trào có sáng kiến lập một lá cờ
Phật giáo gồm sáu màu sắc thoát ra từ hào quang chiếc áo đức Phật, dùng
để tượng trưng ý niệm hợp đoàn của người theo đạo Phật. Lá cờ
này từ đó được Phật giáo thế giới nhìn nhận là lá cờ của đạo
Phật, dùng trong mọi quốc gia, đặc biệt vào ngày Phật đản.
Tại Nam Việt Nam, tám mươi năm
sau, có lẽ vì không để ý tới cái lý do tượng trưng thiêng liêng này của
lá cờ Phật giáo đã gây ra sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Phật đản tại Sri-Lanka gồm ba lễ lớn: atasil là lễ cầu nguyện;
dan-sai, lễ cúng thực phẩm cho tăng ni và phát chẩn cho đại chúng; và thứ
ba là đại lễ liên hoan: treo cờ, kết hoa, vui chơi suốt mấy ngày đêm
trong nhà, ngoài phố. Ở Sri-Lanka còn có một tục lệ rất đẹp là mỗi năm
vào ngày Phật đản Vesak, mỗi người gởi thiệp chúc mừng thăm viếng
nhau, tương tự như tục trao đổi thiệp mừng của người theo đạo Cơ-đốc,
nhân ngày đức Chúa Christ giáng sanh.
Kết luận
Ta đã duyệt qua các truyền thống
lựa chọn ngày lễ Phật đản của hai phái Đại thừa và Nguyên thủy. Mối
thắc mắc ngày mồng tám tháng Tư có đúng là ngày sanh của đức Phật
hay không cũng được giải tỏa. Nước Ấn Độ không dựa vào hệ thống
biên niên để viết sử nên ta không tin tưởng vào ý niệm ngày tháng của
Ấn Độ. Người Trung Hoa vốn chuộng thực tiễn, lại chú trọng sử ký
nhiều hơn, cũng đã chấp nhận truyền thống Ấn Độ hoàn toàn vì đức
tin. Ta có thể dẫn chứng cớ trong Ngọc Phật cung tự kinh của thầy Nghĩa
Tịnh (I tsing, đã dẫn ở trên):
"Lý do (người xưa) đã lựa mồng
tám tháng Tư làm ngày Phật đản, vì qua mùa xuân cho đến mùa hạ, mọi
tai ương đều chấm dứt, tạo vật thức tỉnh sống lại, không còn chướng
vật nào ngăn chận nẩy nở; và khí trời cũng vậy, không lạnh quá không
nóng quá. Cho nên ngày đó là ngày thích hợp nhất để làm lễ Đản
sanh."
Như vậy, đọc lại lịch sử và
nhận định qua các truyền thống, ta có thể kết luận không sợ sai lạc
nhiều là ngày Đản sanh đã được lựa chọn để thiết lễ, và chưa ai
chứng minh được ngày nào đích là ngày sinh nhật đích xác của đức Phật.
Thật ra, không chỉ riêng với đạo Phật mà đối với một tôn giáo trẻ
hơn đạo Phật như đạo Cơ đốc, ngày sanh của đức Chúa Christ cũng đã
được chứng minh từ lâu không phải chính xác là ngày người Tây phương
làm lễ Giáng sanh). Thiết tưởng vấn đề trọng đại là cử hành lễ,
chi tiết ngày tháng người xưa không cố chấp xem là quan trọng.
Một điểm cuối để kết luận bài
khảo sát nhỏ này về mặt triết lý, siêu hình và hướng linh là việc giải
thích vì sao ngày trăng tròn tháng Vassa của lịch Ấn Độ (từ giữa tháng
Tư sang giữa tháng Năm dương lịch) được chọn làm lễ Đản sanh. Trước
tiên là vì truyền thống này đã có từ lâu trong trường Nguyên thủy
Theravada. Như trên đã nói, người theo Phật giáo Nam tông tin là đức Phật
đã chọn ngày ra đời, thành đạo, và nhập niết bàn cùng vào một ngày.
Lại còn nhiều lý do để giải thích việc lựa chọn. Lý do thiết thực hơn
cả là vì niên lịch Phật giáo thiên về âm lịch và ngày xưa, Visakha là
ngày đẹp nhất trong năm. Mùa mưa bắt đầu, tu sĩ phải tập họp vào một
nơi để tu học, và ngày visakha là ngày khởi đầu giai đoạn hợp đoàn.
Lại nữa, mưa bắt đầu, cỏ cây sống lại, sinh vật cũng bắt đầu nẩy
nở, người tu sĩ phải tránh di chuyển để tránh sát sinh. Visakha khởi đầu
cuộc chuẩn bị vào hạ, người tu sĩ Theravada sẽ an cư kiết hạ sau
Visakha, tránh các cuộc sinh hoạt náo nhiệt.
Sau Thế Chiến Hai, biến cố trọng
đại nhất trong lịch sử thế giới là việc hình thành các quốc gia đã
thoát ra được ách thực dân của người phương Tây. Một trong những ước
vọng tiềm tàng của các dân tộc mới thâu hồi được tự do là tái lập
vị thế tôn giáo cổ truyền của họ, đã bị chính quyền người Tây phương
hiếp đáp quá nhiều trong hơn một trăm năm trước. Mọi tôn giáo muốn tồn
tại trong sinh hoạt dân gian, phải được tổ chức, và tín đồ phải biết
khép cánh hỗ trợ. Vì lẽ đó mà trong thập niên năm mươi, tín đồ Phật
giáo đã tổ chức Đại hội kiết tập (sangiti) lần Sáu tại Miến Điện.
Sangiti là đại hội quy tụ các nhà lãnh đạo Phật giáo để san định
kinh sách và quyết định cương lĩnh cấp thời của đạo. Đại hội chọn
lá cờ Phật giáo và quyết định lấy ngày trăng tròn từ giữa tháng Tư
sang giữa tháng Năm dương lịch làm ngày khánh lễ Đản sanh đức Phật Thích
Ca. Tất cả quốc gia tham dự Đại hội Sangiti lần Sáu đều thỏa nhận
quyết định thiết lễ Visakha vào ngày trên. Tục lệ tại Việt-nam cũng
đã dần dần hướng tới dùng ngày Visakha làm ngày lễ Đản sanh của đức
Phật, do quyết định của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/p-004-ngaysanh.htm