I. Đức Phật Là Tấm Gương Sáng
Các tôn giáo bao
thời thế giới,
Giáo chủ hay được nói đến nhiều,
Nhưng về đức độ cao siêu,
4. Ai người đạo hạnh ngang điều Thích Ca.
Còn đời sống sâu xa đức Phật,
Chưa một ai đích thực sánh bằng,
Mỗi điều cử chỉ nói năng,
8. Cho dù giây phút trầm ngâm của Ngài.
Mỗi nhất động đủ đầy ý nghĩa,
Không một ai có thể sánh bằng,
Còn về giáo lý uyên thâm,
12. Muôn phần huyền diệu, muôn phần sâu xa.
Mỗi lời nói thật thà rất mực,
Mỗi lời khuyên Ngài thực hành rồi,
Đời Ngài: bằng chứng sáng ngời,
16. Tỏ tường chân lý đời đời nương theo.
Đó chẳng phải là điều không tưởng,
Để cho ai mong muốn thực hành,
Là điều thể nghiệm tâm linh,
20. Kiên trì tinh tấn thực tình sẽ hay.
Nó chẳng phải lâu dài sâu kín,
Ở đâu ngoài cõi chín tầng mây,
Cho nên học hỏi pháp Ngài,
24. Chớ vì thỏa mãn tính hay hiếu kỳ.
Phải học hiểu những gì thâm thúy,
Phải thấm nhuần nghĩa ý sâu xa,
Phải đời công chính thật thà,
28. Mọi điều giáo lý nào xa thực hành.
Ý nghĩa của sự đản sinh
Chữ nhà Phật đản sinh để chỉ,
Sự ra đời hoan hỉ nhân gian,
Sáng soi trần thế rộng đàng,
32. Dùng lời sanh xuống cõi phàm: giáng sinh.
Dùng từ ngữ tôn vinh: thị hiện,
Bởi Phật vì hạnh nguyện tái sinh,
Vào vòng khổ ải nhân tình,
36. Chỉ là mục đích độ sinh loài người.
Gia thế Đức Phật
Phật giáng
sinh Ca-tỳ-la-vệ,
Nay thuộc vào lãnh thổ Nê-pal,
Tuyết sơn cao ngất mây ngàn,
40. Xuân về trong cảnh giang san tươi hồng.
Khắp cả nước đơm bông kế lá,
Dân chúng hầu như đã thuần lương,
Đức vua Tịnh Phạn đương đường,
44. Trị vì vương quốc thời đương thái bình.
Cả đất nước yên lành rất đỗi,
Vua thuộc vào dòng dõi Thích-ca,
Còn bà hoàng hậu Ma-da,
48. Thuộc hàng quyền quý đã qua bao đời.
Cả hai vị là người thiện nghiệp,
Đã trải qua nhiều kiếp tu hành.
Cả hai đức hạnh xứng danh,
52. Vào hàng cha mẹ thực tình muôn dân.
Nhân vào dịp kinh thành có lễ,
Vua tôi cùng hội để vui ca,
Bấy giờ hoàng hậu Ma-da,
56. Vừa lên dâng lễ hương hoa điện thờ.
Trước ngọ môn xong giờ bố thí,
Hoàng hậu về ngơi nghỉ trong cung,
Bỗng mơ voi trắng trên không,
60. Sáu ngà trắng toát mở hông đi vào.
Bà đem điều chiêm bao vừa đặng,
Kể thánh hoàng Tịnh-Phạn cùng nghe,
Đức vua an ủi vỗ về,
64. Lệnh truyền gọi kẻ tiên tri luận bàn.
Rằng: ‘Hoàng hậu sinh hàng con quý,
Tài sức cao đức trí vẹn toàn,
Đức vua mừng rỡ vô vàn,
68. Vì chưng có kẻ đảm đang ngôi trời.
Ngày rằm giữa tháng tư vừa đến,
Lâm-tỳ-ni thượng uyển xinh tươi,
Trong khi hoàng hậu dạo chơi,
72. Bỗng nghe hoa ngát hương trời vô ưu.
Đưa tay phải nâng niu định ngắt,
Thái tử liền bất giác giáng sinh,
Bấy giờ khắp chốn kinh thành,
76. Bỗng nhiên khí hậu mát lành hẳn ra.
Muôn cây cỏ đơm hoa kết trái,
Nước sông nguồn bỗng thấy cao thêm,
Không trung chim hót vang rền,
80. Hào quang tỏa sáng khắp miền mười phương.
Vua Tịnh Phạn vô cùng vui sướng,
Mời tiên tri xem tướng kỳ tài,
Đoán dùm vận mệnh tương lai,
84. Rằng: ‘Người tướng tốt băm hai đủ đầy
Đoán thái tử đức tài bậc thánh,
Nhưng đức vua chẳng muốn chút nào,
Chỉ vì như vậy mai sau,
88. Ai người蠫ế vị vua trao ngôi trời.
Vua Tịnh Phạn muốn dời định mệnh,
Nên thánh hoàng ý định đặt tên,
Sĩ-đạt-ta, nghĩa nói lên,
92. Là người yên vị ngôi trên vững vàng.
Cái ngôi vị thánh hoàng ám chỉ,
Là ngôi trời cai trị muôn dân,
Đâu ngờ ngôi vị thánh nhân,
96. Lại là ngôi vị xuất trần xưa nay.
Riêng hoàng hậu sau ngày sinh nở,
Bảy ngày còn sống ở trần gian,
Nghĩ mình nhiệm vụ chu toàn,
100. Không còn nghiệp báo buộc ràng trầm luân.
Sau khi trút sắc thân bốn đại,
Bà vãng sanh về lại cõi trời,
Cõi trời Đao-lợi yên vui,
104. Tâm hồn trong sạch sống đời thanh cao.
Tài đức thái tử
Vua Tịnh Phạn liền trao thái tử,
Cho dì Ngài gìn giữ dưỡng nuôi,
Mỗi ngày một lớn khôn rồi,
108. Thân hình diện mạo ra người khôi ngô.
Tài năng cũng cơ hồ bộc lộ,
Sức khỏe cao, đức độ hơn người,
Thông minh trí tuệ tuyệt vời,
112. Nghề văn nghiệp võ qua rồi liền thông.
Thời gian ngắn đã hơn thày dạy,
Nên nhiều thày e ngại cáo lui,
Dù thày giỏi nhất được mời,
116. Chỉ thời gian ngắn là thôi sạch nghề.
Mặc dầu đã cực kỳ quyền quý,
Là đương kim kế vị ngai vàng;
Dù là thái tử cao sang,
120. Không hề ngạo mạn nghi man khinh người.
Luôn vui vẻ tươi cười nhã nhặn,
Với mọi người bình đẳng vô tư;
Mọi điều bác ái nhân từ,
124. Luôn mình cứu giúp hầu như mọi người.
Vì lẽ ấy vua tôi yêu quý,
Thần dân đều nể vị tôn vinh;
Càng yêu càng quý con mình,
128. Vua cha càng thấy sự tình lo âu.
Sợ nông nỗi mai sau thái tử,
Sẽ thành người tu sĩ xuất gia,
Để thành vị thánh như là,
132. Những lời tiên đoán của nhà tiên tri.
Nhất là thấy đương thì khôn lớn,
Thái tử thường ra dáng suy tư;
Ít khi cười nói vô tư,
136. Ít khi vui vẻ giống như thiếu thời.
Vua cha tạo quan hệ ràng buộc
Lòng lo sợ những lời tiên đoán,
Sẽ đến hồi linh ứng tương lai,
Vua cha dùng kế trong ngoài,
140. Truyền xây cung điện lâu đài ba nơi.
Để thái tử vui đời tráng lệ,
Tạo tưng bừng như lễ quanh năm,
Bao nhiêu mỹ nữ cung tần,
144. Chỉ mong thái tử muôn phần thảnh thơi.
Chọn cho con được người nhan sắc,
Con gái vua Thiện-Giác nhân hòa,
Nàng là công chúa tiên sa,
148. Du-da-dà-la hiền hòa đoan trang.
Nàng nổi tiếng ngàn vàng nhân đức,
Vua dọn đường gia thất cho con,
Những mong hạnh phúc hôn nhân,
152. Vợ con phú quý cầm chân được Ngài.
Sống giữa cảnh vui vầy vương giả,
Sự vinh hoa hơn cả trần đời,
Lâu dài cung điện ba nơi,
156. Mỹ nhân múa hát đủ mùi cao sang.
Được vợ đẹp con ngoan quyền quý,
Thái tử thường chẳng ý đắm say,
Vẫn lòng nặng trĩu đêm ngày,
160. Cho rằng hạnh phúc trần ai vô thường.
Cảnh giả dối đưa đường mê muội,
Chỉ cho đời trôi nổi thương đau,
Cần tìm lối thoát mai sau,
164. Cuộc đời chân thật đi vào chân nguyên.
Nhân dịp hôm ‘Hạ Điền’ lễ lớn,
Thái tử theo vua hướng ra đồng,
Mùa xuân quang cảnh tưng bừng.
168. Muôn dân vui vẻ tập trung cấy cày.
Nhận thức bốn tướng khổ ở đời
Nhìn cảnh vật phô bày xanh tốt,
Chúa Xuân về chim hót hoa tươi,
Bầu trời quang đãng rạng ngời,
172. Gió Xuân phơi phới nơi nơi hữu tình.
Giữa khung cảnh thanh bình an lạc,
Với tâm hồn hợt nhân gian,
Cảm quan xét đoán vội vàng,
176. Nhìn sâu muôn vật tiềm tàng thương đau.
Đời chẳng phải đẹp màu tươi sắc,
Như thoảng qua ánh mắt muôn người,
Nông dân lao khổ dưới trời,
180. Trâu bò quần quật thay người gian lao.
Để đổi lấy bó rau bát gạo,
Đời lắm điều trở tráo bi ai,
Nhìn qua cảnh vật phơi bày:
184. Chim muông nuốt sống bao loài trùng sâu.
Ngay khi ấy kẻ vào săn bắn,
Tên nỏ còn đang nhắm vô chim,
Bên rừng dày đặc quanh mình,
188. Thì loài hổ báo đang rình thợ săn…
Nhìn cảnh vật thương tâm giết chóc,
Vẫn tương tàn không lúc nghỉ ngưng,
Miếng ăn, sự sống không ngừng,
192. Đi vào chém giết vô cùng dã man.
Ngài nhận thấy rõ ràng sáng tỏ,
Đời vốn là bể khổ bao la,
Một hôm xin phép vua cha,
196. Ra thành quanh quẩn dạo qua một vòng.
Đến cửa đông thấy người già cả,
Đứng bên đường mệt lả còng lưng,
Mắt lòa tai điếc ngập ngừng,
200. Chống đi từng bước xem chừng muốn xiêu
Đến cửa Nam gặp điều trước mắt,
Thấy một người bệnh tật thương đau,
Nhìn người rên siết lệ trào,
204. Xót lòng thái tử mày chau thương tình.
Ra cửa Tây lại nhìn người chết,
Xác bên đường bê bết tanh hôi,
Ruồi bu kiến đậu nặc mùi,
208. Xác sình gớm giếc giữa người lại qua.
Ba cảnh khổ như già bệnh chết,
Cùng cảnh tình thê thiết tranh nhau,
Mà ngài được thấy không lâu,
212. Vào ngày ‘Xuống Ruộng’ hằn sâu đáy lòng.
Một hôm khác ra vùng cửa Bắc,
Thấy một người dáng dấp trang nghiêm,
Bên đường cất bước lặng yên,
216. Thấy người tu sĩ an nhiên thanh nhàn.
Ngài bước lại nhẹ nhàng thăm hỏi,
Rằng: ‘Tu hành là bởi lẽ chi,
‘Việc này lợi lạc được gì,
220. ‘Xin ngài lượng thứ từ bi đáp lời’.
Rằng mục đích của người tu tập,
Là mong lìa trói buộc nhân gian;
Thoát ngoài phiền não buộc ràng,
224. Khi thành chánh giác lại mang độ đời.’
Mấy câu nói đáp lời thái tử,
Gợi đúng điều ấp ủ lâu nay,
Đúng vào hoài bão đêm ngày,
228. Như vừa mở dạ nên ngài ung dung.
Về hoàng cung tâu cùng thánh thượng.
Xin đức vua ban lượng hải hà,
Cho Ngài được phép xuất gia,
232. Nhưng vua Tịnh Phạn xót xa chối từ.
Ngài đề nghị nếu như bốn việc,
Mà thánh hoàng giải quyết được cho,
Thì Ngài bỏ ý đi tu,
236. Vui lòng ở lại nhân từ trị dân.
Một là sao sắc thân trẻ mãi,
Hai là sao chẳng bệnh không đau,
Ba là sự chết không vào,
240. Bốn là phiền não khổ đau không còn.
Bốn việc ấy vô cùng gian khó,
Bởi xưa nay đã có bao giờ,
Vua cha bối rối thẩn thờ,
244. Không sao giải quyết bên bờ tử sinh.
Xuất gia cầu đạo
Khi biết rõ con mình nghiêm chỉnh,
Nói ra lời ý định xuất gia,
Bấy giời định ý vua là,
248. Giữ cho thái tử đừng ra bên ngoài.
Để trong cung cho Ngài vui thỏa,
Nhưng chẳng gì khuây khỏa cho nguôi,
Thâm tâm nhất quyết đã rồi,
252. Thì sao có thể ai người giữ chân.
Giữa hoàng thành cung tần mỹ nữ,
Quân lính tuần canh giữ ngoài trong,
Sau cơn vui vẻ tiệc tùng,
256. Mọi người mê mệt đã cùng ngủ say.
Thái tử quyết ra ngoài cung cấm,
Thoát khỏi vòng vương vấn vợ con,
Giã từ đời sống vàng son,
260. Cùng người giữ ngựa đi chung ra ngoài.
Đêm mùng tám tháng hai sao kín,
Ngài mới vừa mười chín tuổi xanh,
Giữa khuya phi ngựa ra thành,
264. Vội vàng giục giã băng mình trong đêm.
Đã xa cảnh phồn vinh vương giả,
Thái tử vào núi thẳm rừng sâu,
Dốc lòng cầu đạo nhiệm mầu,
268. Mong tìm giải thoát khổ đau buộc ràng.
Giữa rừng núi thênh thang yên ắng,
Sự an bình soi lắng tâm tư,
Cỏ cây muông thú hoang vu,
272. Khác gì như cảnh tâm tư thanh nhàn.
Sống trong cảnh yên hàn tịch mịch,
Với muôn loài không địch không ta,
Thiên nhiên với vẻ hiền hòa,
276. Thấy lòng nhân ái bao la vô cùng.
Mắt thấy sự sống chung muôn loại,
Lòng thấy càng quảng đại từ bi,
Chẳng còn so đọ suy bì,
280. Không cầu không đắc có gì phải lo.
Nhìn cảnh vật tự do tự tại,
Bỗng an nhiên sảng khoái tinh thần,
Sự đời chẳng chút bận tâm,
284. Mọi điều vướng mắc thế trần tiêu tan.
Thoạt đầu tu theo hàng khổ hạnh,
Sống cuộc đời đói lạnh nhịn ăn,
Dầm sương dãi tuyết hành thân,
288. Mọi điều kham khổ muôn phần quyết tu.
Sau thời gian thấy như vô hiệu,
Ngài khuyên người nên hiểu dừng đi,
Nhưng người khổ hạnh chấp nê,
292. Xót thương cho kẻ u mê lầm đường.
Từ giã họ tìm nương nơi khác,
Tìm đến người chứng đắc cao sâu,
Nhưng dù bât cứ nơi đâu,
296. Vẫn là giải thoát không sao được rồi.
Đạo của họ hẹp hòi kém cỏi,
Không sao làm dứt khỏi sầu đau,
Con đường từ đấy về sau,
300. Tự ngài tìm lấy đi vào quyết tu.
Ngài nghiền ngẫm tâm tư giải thoát,
Chẳng một điều chi khác để tâm,
Đêm ngày bỏ ngủ quên ăn,
304. Một hôm kiệt sức ngã lăn bên rừng.
Người chăn cừu bỗng dưng qua đấy,
Thấy thương tình sữa lấy cho ăn,
Khỏe ra sáng lẽ thêm rằng,
308. Muốn tu phải giữ sắc thân của mình.
Cần dinh dưỡng thân hình khỏe đã,
Bỏ thân này đạo chả thành đâu,
Phục hồi sức lực dồi dào,
312. Phá tan chặng cuối trần lao mê lầm.
Quyết tâm thành đạo
Thấy Ngài lấy thức ăn dùng lại,
Bạn cùng tu thấy vậy bất bình,
Cho rằng lợi dưỡng thường tình,
316. Đã làm Ngài phải thoái mình trở lui.
Kiều-trần-như, năm người bỏ cả,
Trở về vườn Lộc-dã tu riêng,
Một mình không chút muộn phiền,
320. Kiên trì tinh tấn hành thiền không lơi.
Như mặt gương lau chùi bóng loáng,
Mọi vật rồi soi sáng đâu xa,
Rõ ràng chân lý thật thà,
324. Ái tham ô nhiễm rồi ra lắng chìm.
Quyết phá bỏ vô minh vô thủy,
Dưới Bồ-đề thề chỉ trời xanh,
Nếu như đạo cả chưa thành,
328. Xương tan thịt nát mặc tình không đi.
Ngài nhất quyết hành trì nhập định,
Ngộ chân thường thanh tịnh tâm can,
Phá tan ba độc buộc ràng,
332. Nội tâm phiền não tiêu tan sáng dần.
Sau khi thắng nội tâm ngoại cảnh,
Tâm trí ngài đã hẳn khai thông,
Đột nhiên đại ngộ sáng lòng,
336. Bao nhiêu kiếp trước thảy đồng sáng ra.
Thấy rõ cả đời qua bao cõi,
Quá khứ từng trôi nổi bao nơi,
Nửa đêm sáng được mắt trời,
340. Tỏ tường muôn sự bao thời gần xa.
Rõ bản thể thật thà vũ trụ,
Đến canh tư sáng sự ‘dứt rò’,
Cội nguồn khổ não thuở giờ,
344. Cách trừ khổ não hầu như rõ ràng.
Bốn thực tại vững vàng đúng đắn,
Một là đời vốn sẵn khổ đau,
Sinh già bệnh chết xa đâu,
348. Đời là bể khổ vây bao trùng trùng.
Hai là hiểu nguyên nhân gây tạo,
Phát sinh điều phiền não nhân gian,
Ba là diệt khổ, Niệt-bàn,
352. Bốn là cách thoát buộc ràng khỗ đau.
Đường chân chính đi vào tám nhánh,
Để viên thành quả thánh vô sanh,
Vô sanh bất diệt đạo thành,
356. Ra ngoài khổ não tử sanh luân hồi.
Lúc thành đạo Phật ngồi ngẫm nghĩ,
Giáo lý Ngài huyền bí cao thâm,
Ra ngoài lý luận thế trần,
360. Hẳn là lãnh hội khó khăn vô cùng.
Bỗng ma trời trên không thổ lộ,
Giáo lý Ngài chứng ngộ cao siêu,
Loài người tham ái đã nhiều,
364. Như làn mây phủ bao nhiêu điệp trùng.
Giáo pháp ấy ngược dòng tham ái,
Cõi Ta-bà đã mấy người qua,
Làm sao có thể nói ra,
372. Những điều giáo pháp sâu xa diệu huyền.
Liền khi ấy Phạm Thiên lên tiếng,
Cầu phật xin phổ biến pháp lành,
Bằng lời tâm huyết chân thành,
376. Xin Người soi xét thương tình chúng sanh.
Dẫu cho họ đã thành mê muội,
Mắt vướng nhiều cát bụi ngăn che,
Nếu không được pháp chưa nghe,
380. Trầm luân sa đọa trăm bề bi ai.
Dẫu giáo pháp của Ngài cao diệu,
Vẫn có người tin hiểu sâu xa,
Có người ngộ nhập chứng ra,
384. Những điều chân lý thật là thâm uyên.
Lại lên tiếng Phạm Thiên lưu ý,
Ma-kiệt-đà giáo lý xưa ra,
Nhiễu điều trần lụy chưa xa,
388. Khiến người trong cõi Ta-bà u mê.
Xin Thế Tôn từ bi hoan hỉ,
Mở cửa vào bất tử vô sanh,
Xin Ngài chỉ dạy pháp lành,
392. Mà người giác ngộ viên thành chứng qua.
Bậc Toàn Giáo như là trên núi,
Nhìn thấy đời bên dưới trầm luân,
Xin Người cứu giúp thế trần,
396. Thoát vòng sinh tử thương tâm luân hồi.
Dẫu ma-trời lên lời ngăn cản,
Dẫu con người mờ ám ái tham;
Cho dù thù hận chứa chan,
400. Cho dù tham ái buộc ràng đắm say.
Phật đáp lại: ‘Như Lai thầm nghĩ,
Chúng sinh còn đang bị ái tham,
Hận thù ngu muội vây đan,
404. Dù lòng chìm đắm ái tham mê mờ.
Ái tham tựa mây mù che khuất,
Dẫu khó lòng nhận thức dung thông,
Pháp ta thâm diệu vô cùng,
408. Sâu xa tế nhị ngược dòng ái tham.
Truyền giáo pháp rõ ràng rất khó,
Nhưng Như Lai đã có lòng truyền,
Phạm Thiên khẩn khoản một niềm,
412. Ba lần cung thỉnh Phật truyền pháp âm.
Dùng mắt Phật Thế Tôn quán xét,
Nhìn chúng sinh nhận biết rõ rằng:
Có người xấu xí tối tăm,
416. Có người tốt đẹp thập phần thông minh.
Phật giáng sinh để thành đại nguyện,
Để thực hành bao chuyện sâu xa,
Từ bi quảng đại hải hà,
420. Cầu thành đường Phật, rồi ra độ đời..
Bốn ơn nặng trên người phải trả,
Dưới ba đường cứu khổ trầm luân,
Ngộ rồi Phật ở lại trần,
424. Thực hành chuyển hóa khai tâm vì người.
Khó thực hiện độ đời ô nhiễu,
Giáo pháp Ngài huyền diệu cao như,
Vô minh bao thuở mê mờ,
428. Chúng sinh lại sự căn cơ không đều.
Bởi từng trải bao nhiêu kiếp sống,
Vẫn tối mù trong bóng si mê,
Làm sao khỏi lóa mắt vì,
432. Ánh ngời trí tuệ một khi sáng bừng.
Chúng sinh dẫu tối lòng rất mực,
Vẫn có mầm tánh Phật bên trong,
Như sen còn ẩn trong bùn,
436. Có hồi xuất hiện rải vung hương trời.
Phật ra đời hay không cũng vậy,
Chân lý là thực tại khách quan;
Vượt ngoài muôn sự thời gian,
440. Vượt ngoài muôn sự trần gian thường hằng.
II. Sự Hóa Độ Rộng Lớn và Cùng Khắp
của Đức Phật
Về sứ mạng độ
đời của Phật,
Giữa Ta-bà rất mực khó khăn,
Nhờ Ngài trí tuệ uyên thâm,
444. Từ bi quảng đại tinh thần vị tha.
Nhờ bình đẳng, nhân hòa dũng mãnh,
Chẳng thoái lùi hoàn cảnh ra sao,
Hoàn thành trọn vẹn trước sau,
448. Tùy duyên hóa độ đi vào chúng sinh.
Hóa độ theo căn cơ thứ lớp
Hoặc thứ lớp độ sinh trình tự,
Với mỗi người tùy sự căn cơ,
Thoạt tiên độ bạn cùng tu,
452. Kiều-trần-như chứng kể như năm người.
Bốn chân lý rạng ngời công bố,
Năm vị này giác ngộ nhân duyên,
Trở thành đệ tử đầu tiên,
456. Xa gần khắp nẻo Phật truyền pháp âm.
Bà la môn, năm lăm vị ngộ,
Hợp lại cùng năm vị trước tiên,
Đã thành sáu chục thiện hiền,
460. Đúng theo giới luật giữ gìn không sai.
Sáu chục vị được Ngài chỉ giáo,
Đã thành người truyền đạo nơi nơi,
Đi về đến xứ xa xôi,
464. Phục hàng sư tổ, ba người anh em,
Ngài Ca Diếp tổ chuyên thờ lửa,
Đem hơn ngàn đệ tử quy y,
Nhớ lời ước hẹn khi đi,
468. Về thành Vương xá độ trì đức vua.
Sự ước nguyện hôm xưa đã thỏa,
Vua cất liền tịnh xá Trúc Lâm,
Xây rồi thỉnh Phật, chư tăng,
472. Làm nơi thuyết pháp xuất trần độ sanh.
Lúc đức Phật thực hành truyền bá,
Tại ngôi chùa, tịnh xá Trúc Lâm,
Vua cha Tịnh Phạn mừng thầm,
476. Liền sai sứ giả đích thân đi mời.
Ưu-bà-di nhận lời xin hứa,
Người cận thần thân tín ra đi,
Đường xa nhất quyết kiên trì,
480. Đã mời được Phật trở về quê hương.
Từ Vương-xá trên đường về nước,
Phật độ sanh cũng được lắm người,
Bảy ngày ở lại quê thôi,
484. Mà Ngài cảm hóa bao người xuất gia.
Cả dòng họ Thích-ca theo Phật,
Nhiều vị từng chứng đắc Vô sanh,
Sau khi thăm viếng gia đình,
488. Ngài liền tiếp tục hành trình độ sinh.
Thành Xá Vệ: lộ trình đức Phật,
Nơi vua Ba tư Nặc đương thời,
Nhân duyên hội một người,
492. Là ông Tu-đạt đức ngời, trí cao.
Vốn quyền quý lòng giầu bố thí,
Thường giúp người cùng thế cô đơn,
Nên người hay gọi tên ông,
496. Là Cấp cô độc lồng trong ý này.
Vốn có dạ bấy nay trọng Phật,
Chẳng tiếc chi vàng bạc của tiền,
Quyết lòng mua cả khuôn viên,
500. Của ngài thái tử dâng lên cúng dường:
Ông những muốn cất luôn tịnh xá,
Để đến kỳ vào hạ phát tâm,
Đã tìm khắp chốn xa gần,
504. Nhắm vườn cây của hoàng thân Kỳ-đà,
Người danh tiếng vốn là thái tử,
Thấy đất này là chỗ đẹp thay !
Tám mươi khoảnh đất rộng dài,
508. Đối thành Xá-vệ cách ngoài không xa.
Trong vườn lắm cỏ hoa cây trái,
Có cả dòng suối chảy lượn quanh;
Lại còn ao nước trong xanh,
512. Ít loài sâu bọ hôi tanh muỗi ruồi.
Nhận thấy chỗ đất đồi tốt quá,
Có thể làm tịnh xá bên trong,
Bấy giờ cư sĩ dốc lòng,
516. Dọ lời thái tử thuận lòng bán cho.
Thái tử nói nửa đùa nửa thật,
Nếu như ông muốn được đất này;
Vàng ròng hãy lót ra đây,
520. Không còn chỗ hở giá nầy mới xong.
Cấp-cô-độc bằng lòng ưng thuận,
Sai người về đến tận nhà kho,
Đem vàng người vác vật thồ,
524. Bốn mươi khoảnh đất cơ hồ lót xong.
Ngài thái tử vô cùng kinh ngạc,
Tự thâm tâm thán phục đứng nhìn;
Thẩn thờ suy nghĩ lặng thinh,
528. Nghĩ thầm đức Phật thiêng sự gì.
Chắc giáo lý có chi qúy báu,
Khiến người ta trọng đạo khinh tài.
Phát tâm thái tử giải bày:
532. Đủ rồi! ngưng lại! ta đây bằng lòng.
Nay ta muốn cùng ông giao ước,
Cả đất vườn kia thuộc về ông,
Khi nào tịnh xá xây xong,
536. Ta cho cây trái nằm trong vườn này.
Khi thương thảo cả hai ổn thỏa,
Chẳng mấy hồi tịnh xá xây xong;
Cả hai hoan hỉ đồng lòng,
540. Đi mời đức Phật, cùng chung cúng dường.
Phật hoan hỉ tán dương đến ở,
Với ngàn hai trăm rưởi tỳ-kheo;
Lẽ này chốn ấy thường kêu,
544. Vườn Cấp-cô-độc, cây nêu Kỳ-đà.
Nơi ấy để Phật-đà đến ở,
Nơi chúng tăng làm chỗ tu hành,
Là nơi thuyết pháp độ sanh,
548. Là nơi các vị thực hành đại bi.
Nghe vua cha đến kỳ bệnh nặng,
Phật xa từ muôn dặm về thăm,
Bên giường thấy mặt phụ thân,
552. Nét buồn ẩn khuất sắc thần kém xinh.
Phật thuyết giảng thời kinh Bát-nhã,
Lẽ vô thường, vô ngã, khổ đau;
Nghe rồi khổ não sạch làu,
556. Mặt vua bỗng chốc rạng màu tươi lên.
Vua lên tiếng an nhiên niệm Phật,
Rồi băng hà chẳng một vấn vương,
Ngay sau cái chết phụ vương,
560. Mẹ nuôi đức Phật vui đường xuất gia.
Trong dòng họ lắm bà xin Phật,
Quyết theo Ngài nhất mực đi tu,
Tỳ-kheo- ni có kể từ,
564. Những ngày có sự theo tu quý bà.
Phật tiếp tục gần xa truyền đạo,
Nhiều người theo rốt ráo tôn sùng,
Nhiều người phát nguyện cúng dường,
568. Dựng nên tịnh xá nêu gương làm lành.
Đức Phật đã thực hành phổ độ,
Kết nạp người tuần tự căn cơ,
Người thân cùng với kẻ sơ,
572. Theo từng thứ lớp nương nhờ hồng danh.
Hóa độ tùy phương tiện
Trên bước đường độ sanh khất thực,
Nhiều cảnh tình rất mực gay go,
Trên đường thâu nạp môn đồ,
576. Lắm người ganh tỵ bày trò gian manh.
Tùy phương tiện thực hành cảm hóa,
Dẫn dắt người xấu dạ thành ngay,
Tà gian ngoại đạo sắp bày,
580. Cho người độn bụng đến Ngài vu oan.
Khi thì bị anh chàng vô não,
Kẻ tin theo tà đạo giết người,
Giết người lấy đốt tay rồi,
584. Tưởng lầm ngàn đốt xong xuôi đạo thành.
Vô não định cố tình giết Phật,
Ngài dùng lời chân thật độ qua,
Mưu mô thâm độc nhất là,
588. Do người em họ bày ra hại Ngài.
Những mong để voi dày hại Phật,
Lăn đá cao xuống dốc đè Ngài,
Nhưng nhờ uy trọng đức oai,
592. Cùng là trí tuệ nên Ngài vượt qua.
Không hành động xấu xa có thể,
Hòng giảm suy uy thế Phật đà,
Khôn ngoan khéo léo thật thà,
596. Khéo xoay nghịch cảnh lại là thuận duyên.
Khéo cư xử kẻ phiền người ghét,
Trở lại thành kẻ kính người yêu,
Mọi người bình đẳng đồng đều,
600. Người thương kẻ ghét cũng đều độ qua.
Như Đề-bà-đạt-đa đố kỵ,
Cũng được Ngài thọ ký Phật thân,
Anh chàng Vô Não sát nhân,
604. Cũng nhờ Phật độ ân cần quy y.
Bầy voi dại ngu si mê muội,
Cũng nghe lời sám hối theo chân,
Vua A-xà-thế nhẫn tâm,
608. Theo lời chỉ dạy ăn năn lại lành.
Phật vận dụng muôn nghìn phương tiện,
Tùy duyên mà ứng biến độ sanh,
Trên đường truyền đạo làm lành,
612. Căn cơ tâm ý sáng danh đạo đời.
Mỗi phương tiện mỗi người đệ tử,
Cách thức khi cư xử Nan-đà,
Biết rằng tuy đã xuất gia,
616. Vẫn còn quyến luyến sa đà tơ vương.
Ngài thần thông dọn đường phương tiện,
Đưa Nan-đà lên tận trời cao,
Thấy điều vui thú biết bao,
620. Lại nhìn địa ngục khổ đau hãi hùng.
Trước hai cảnh đã cùng trông thấy,
Để tự mình chọn lấy đường đi,
A nan rộng học nhiều nghe,
624. Nhưng vì duyên nghiệp nặng nề còn theo.
Ma đăng già còn gieo họa hại,
Phật soi bày giảng dạy Lăng Nghiêm,
Để ông thấy lẽ diệu huyền,
628. Kiên trì tinh tấn tu thiền sáng tâm.
Phật chỉ dạy chớ lầm phương tiện,
Với đích mình muốn đến tương lai,
Để đừng lầm lẫn ngón tay,
632. Ngỡ là trăng tỏ bị mây khuất mờ
Vầng trăng dụ Chơn như thánh trí,
Ngón tay là giáo lý kinh văn,
Mượn tay để thấy được trăng,
636. Chớ lầm tay chỉ là trăng cần tìm.
Như thày giỏi giúp mình trị bệnh,
Tùy bệnh tình mà định ra toa,
Chứ đâu nhất thiết phải là,
640. Phương nào cố định người ta mãi cần.
Như đối với người thân kẻ ghét,
Chẳng thể nào phương thức như nhau;
Thông minh ngu độn nghèo giàu,
644. Pháp môn hóa độ thấp cao chẳng cùng.
Hóa độ với tinh thần bình đẳng
Sự bình đẳng; điểm son đáng quý,
Mà tinh thần giáo lý Phật ban;
Điều này thể hiện rõ ràng,
648. Bằng lời thuớc ngọc khuôn vàng chưa nguôi.
Khi xin nước của người hạ tiện,
Người ấy e thể diện của Ngài,
Bằng lời khẳng khái thẳng ngay,
652. Tinh thần bình đẳng tỏ bày sáng trong.
‘Rằng: máu đỏ đâu lồng giai cấp,
‘Vị mặn thì nước mắt ai hơn,
‘ Mỗi người tánh Phật sẵn mầm,
656. Khả năng thành Phật ngang bằng khác chi.
Trong giáo hội không hề phân biệt,
Nhận cả người hạ liệt xuất gia,
Ưu-ba-ly trước vốn là,
660. Gánh phân giai cấp nào ra thứ gì.
Nhưng tu tập kiên trì chứng đắc,
Nổi danh về giới đức nghiêm minh,
Điều này gây sự bất bình,
664. Vua Ba-tư-nặc trần tình can ngăn.
Phật thâu nạp cùng bần hạ liệt,
Không ngại đời khinh miệt hay sao?
E rằng ngọc đá lẫn nhau,
668. Chúng tăng thể diện bấy lâu khó cầm.
Phật dạy rằng cùng bần hạ liệt,
Biết phát tâm nhất quyết tu hành,
Lại còn quả thánh viên thành,
672. Quả là hiếm có thật tình quý thay.
Như sen giữa bùn lầy nước bẩn,
Hoa tươi hồng vẫn thoảng hương thơm,
Giữa đời bể khổ tang thương,
676. Sang hèn đâu phải tự phương sinh thành.
Tự sở hành phát sinh duyên nghiệp,
Mới tạo thành hạ liệt, sa môn.
Người mù Phật xỏ kim dùm,
680. Nhận hòn đất sét trẻ con cúng dường.
Ngài đón nhận bát cơm lần cuối,
Của một người rách rưới đốt than,
Thế nên kinh Đại Niết Bàn,
684. Đã từng ca ngợi lời vàng còn nguyên:
Rằng Như Lai không riêng nói pháp,
Cho những người quyền tước như vua,
Còn cho kẻ mến người ưa,
688. Chẳng nề giai cấp cho dù hốt phân.
Không chỉ nhận cung dâng người có,
Cả cúng dường người khó làm ra,
Không riêng nhận sự xuất gia,
692. Cỡ ngài Ca Diếp chẳng là chút tham.
Nhận cả kẻ lòng tham chưa tiệt,
Như Nan-đà trong việc xuất gia,
Không riêng lời pháp nói ra,
696. Cho người an tịnh đã xa việc đời.
Nói pháp cả cho người bận rộn,
Như vua còn bề bộn chinh yên,
Chẳng riêng thuyết pháp thanh niên,
700. Cả người tám chục cũng truyền pháp âm.
Chẳng những nói khai tâm bà chúa,
Còn mở lòng gái tựa lầu xanh,
Cả đời bốn chín năm dành,
704. Hành trình thuyết pháp độ sanh cõi trần.
Năm thời pháp góp phần tu tập,
Căn cơ tùy thứ bậc thấp cao,
Khi vừa thành đạo nhiệm mầu,
708. Phật thường thuyết pháp đi vào Hoa Nghiêm.
Thời thứ nhất: Phật nói Kinh Hoa
Nghiêm
Khắp đây đó ban truyền giáo pháp,
Dẫn dắt hàng Bồ tát đi lên,
Đến nơi giác ngộ diệu huyền,
712. Đến nơi giác ngộ chân nguyên vĩnh hằng.
Pháp rốt rào xuất trần đích thật,
Chỉ Phật cùng với Phật rõ thôi,
Tối lòng như điếc như đui,
716. Huống chi tà đạo ai người hiểu ra.
Phật chỉ dạy để mà tu luyện,
Pháp tâm mình phải nghiệm phải suy,
Pháp môn chân thật diệu kỳ,
720. Tự mình soi đuốc mà đi tự mình.
Thời thứ nhì: Phật nói Kinh A-hàm
Muốn đi xa từ gần trước nhất,
Muôn lên cao tự thấp khởi đầu;
Thích Ca chư Phật khác nào,
724 Tùy duyên thuyết pháp ngõ hầu khai tâm.
Ngài nói kinh A Hàm, giới luật,
Giúp cho người thứ bậc ngộ tâm,
Bao năm đây đó xa gần,
728. Khiến người cao thấp sáng tâm độ mình.
Thời thứ ba: Phật nói Kinh Phương Đẳng
Phật không chỉ dạy mình giác ngộ,
Còn bày phương giác ngộ người đời,
Từ điều tiêu cực hẹp hòi,
732. Tức là giác ngộ nhỏ nhoi riêng mình.
Để thực hành độ sinh đúng mực,
Giác mình xong, tích cực giác người.
Diễn kinh Phương Đẳng để đời,
736. Dùng tâm chuyển hóa tùy người chỉ cho...
Thời thứ tư: Phật nói Kinh Bát-nhã
Khi đã thấy căn cơ khả dĩ,
Vững thế rồi có thể đi xa,
Bấy giờ Phật mới nói ra,
740. Những điều giáo lý sâu xa thượng thừa...
Lý chân không tự xưa không tướng,
Tướng thật nào có vướng tướng không,
Bao năm Phật đã dốc lòng,
744. Nói kinh Bát Nhã qua sông nương đò.
Thuyền Bát Nhã tựa hồ giáo pháp,
Phương tiện dùng để đáp qua sông,
Vượt dòng biển khổ mênh mông,
748. Đến Bờ Bên Ấy mà xong gửi đò.
Thời thứ năm: Phật nói Kinh Pháp Hoa
và Niết-bàn
Sự hóa độ muốn cho trọn vẹn,
Chúng sanh cần nhuần nhuyễn căn cơ,
Khả năng dứt được mê mờ,
752. Như Lai mới nói pháp chưa từng bày.
Phật sinh xuống đời đầy đau khổ,
Nhân duyên vì phổ độ chúng sinh,
Ngộ vào tri kiến Phật mình,
756. Để lời phó chúc đạo thành tương lai.
Ngài thọ ký những ai thành Phật,
Bằng những lời chân thật tâm can,
Kinh văn vận dụng luận bàn,
760. Pháp Hoa cùng với Niết Bản giảng ra.
Tám chục tuổi đã là đến lúc,
Nhiệm vụ tròn phó chúc ra đi,
Hoàn thành đại nguyện từ bi,
764. Xa đời trần lụy đã vì độ sanh.
III. Trước Khi Nhập Niết-bàn
Ban tin lìa đời
Gọi A-nan một hôm Phật giảng,
Đạo ta nay viên mãn cả rồi,
Nguyện xưa nay đã tròn lời,
768. Bốn hàng đệ tử lắm người ‘Vô sanh’.
Họ có thể thực hành giáo hóa,
Để phápháp lành truyền bá nơi nơi,
Vô thường sắp đến nơi rồi,
772. Thân ta cũng sắp đến hồi tiêu tan.
Giống như cỗ xe tàn già cỗi,
Trước mượn dùng rong ruổi đó đây,
Tạm dùng chở pháp bấy nay,
776. Xong rồi còn tiếc thân này mà chi.
Đã đến lúc ra đi thanh thản,
Nay chỉ còn ba tháng nữa thôi,
Đạo ta nay đã có người,
780. Còn gì luyến tiếc chưa rời trần gian.
Tin ấy như làn sét vậy,
Đệ tử ngài ai nấy đều hay,
Vội vàng giục giã đêm ngày,
784. Trở về gặp mặt chia tay tỏ lòng.
Suốt ba tháng vẫn không ngơi nghỉ,
Vẫn giảng bày như thể thường khi,
Một hôm trên bước đướng về,
788. Gặp người nghèo khó chuyên nghề đốt than.
Ông khẩn khoản cúng dàng cháo nấm,
Loại nấm này heo vẫn thường ăn,
Vui lòng đón nhân thiện tâm,
792. Phật cùng tăng chúng quang lâm đến dùng.
Ăn uống xong thảy cùng từ giã,
Phật, chúng tăng tất cả lên đàng,
Mới qua một chặng đường ngang,
796. Phật trao bình bát A nan mà rằng:
Hãy mắc võng trong rừng cho Phật,
Đã đến hồi từ biệt trần gian,
Tin truyền nhập diệt vừa ban,
800. Tỳ kheo dân chúng bàng hoàng thiết tha.
Có ông lão Thuần-Đà tám chục,
Đến xin Ngài cho được xuất gia,
Trước hồi nhập diệt thế mà,
804. Phật còn thọ giới ông già Sa-di.
Phật Nói Kinh Di Giáo và Ban Lời Phó
Chúc
Các đệ tử vội về cho kịp,
Chỉ vắng Ngài Ca Diếp xa thôi,
Mọi người đông đủ cả rồi,
808. Phật liền phó chúc, ban lời ra đi.
Rằng: ‘áo bát trao về Ca Diếp,
Giới luật coi muôn kiếp như thày,
Mỗi kinh nêu lại câu này,
812. "Chính tôi nghe được như vầy" đầu kinh.
Xá lợi Phật chia thành tám khối,
Mỗi phần dành gửi tới một vua,
Gọi là nhớ chút duyên xưa,
816. Gửi về cho tám vị vua tỏ lòng.
Giáo pháp Phật coi dường bó đuốc,
Phải chính mình tự thắp mà đi,
Nương theo chánh pháp hành trì,
820. Tự mình giải thoát xa lìa tử sanh.
Chớ dục vọng hoành hành tâm trí,
Mọi sự đời chẳng quý mảy may,
Sắc thân tan rã có ngày,
824. Chỉ điều chân lý xưa nay trường tồn.
Mọi điều đã chúc ngôn chân thật,
Phật an lòng từ biệt nhân gian,
Hoa rừng muôn sắc huy hoàng,
828. Rải lên trùm kín thân vàng yên hơi.
Chim xao xác lưng trời quên tiếng,
Vạn vật dường lưu luyến Người đi,
Nặng nề thay phút biệt ly,
832. Sắc thân cát bụi một khi vô thường.
Các đệ tử cảm thương quyến luyến.
Quan tài quàng tẩm liệm tôn nghiêm,
Bảy ngày sau được cung nghinh,
836. Về chùa nằm ở trong thành Câu-thi.
Sau nghi lễ trà tỳ: hỏa táng,
Xá lợi Ngài chia tám ngay ra ,
Theo lời di chúc Phật đà,
840. Mọi điều cứ thế rồi ra phụng hành.
Bỗng tám nước đem binh kéo lại,
Quyết tranh giành xá lợi giữ riêng,
Mọi người thấy chuyện không yên,
844. Cử ông Hương Tích đứng lên điều đình.
Ông giảng giải phụng hành phó chúc,
Phật để lời trước lúc ra đi,
Mọi điều Ngài đã tiên tri,
848. Có phần Xá lợi tám vì quốc vương.
Xin chớ vội dùng đường binh lửa,
Xá lợi kia xin hứa chia đều,
Các vua đối Phật kính yêu,
852. Nghe qua ai cũng tin theo phụng hành.
III. Tổng Kết: Sự Hóa Độ Viên Mãn
Bốn chín năm hành
trình thuyết pháp,
Khắp kinh thành làng mạc từng đi,
Gieo mầm hạt giống từ bi,
856. Đã thành lẽ sống tâm tri bao người.
Nhờ trí tuệ rạng ngời soi sáng,
Khiến bao người thoát nạn lầm than,
Thấm nhuần khắp cả nhân gian,
860. Muôn người nương ánh đạo vàng đi lên.
Nhờ giáo pháp trang nghiêm đạo hạnh,
Giúp bao người thanh tịnh thân tâm,
Thực hành tinh tấn chuyên cần,
864. Đi vào thiền định tinh thần sáng soi.
Định thiền giúp con người trí tuệ,
Giữ vững lòng khỏi bị đảo chao,
Màn mây tăm tối vây bao,
868. Hào quang trí tuệ soi vào sáng ra,
Tiếng nói pháp như là sư tử,
Thú muôn loài nghe đã sợ oai,
Như là sóng biển đêm ngày,
892. Vang rền át tiếng bi ai côn trùng.
Phật chỉ rõ con đường phía trước
Phải tự mình thắp đuốc mà đi;
Dạy rành phương thuốc trị gì,
896. Uống hay không uống vị chi tự mình.
Như biển cả mông mênh vô hạn,
Mỗi vị là vị mặn không thôi,
Khác chi vị pháp muôn đời,
900. Mỗi mùi giải thoát xa rời tử sinh.
-oOo-
[Dàn bài và nội dung của thi phẩm này dựa
theo phần Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong Phật học Phổ
Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa]
|