- Đức Phật: con người
của mọi thời đại
- TT. Thích Thiện Bảo
Gần 25 thế kỷ trôi qua, Đức Phật
: một con người có thật trong lịch sử nhân loại - vẫn còn để lại những
dấu ấn đầy tính nhân bản với những lời dạy của Ngài làm cho con người
có nhiều suy tư về vị giáo chủ đã tuyên bố : "Con người và chỉ
có con người mới có thể thực hiện những hoài bão lý tưởng hưóng đến
Phật quả". Chúng ta có thể gọi Đức Phật là một con người tuyệt
vời trong nhân tính và cũng chỉ có Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất
trên hành tinh chúng ta khẳng định vị trí của con người : "Các Người
là nơi nương tựa của chính mình, là hòn đảo chứ không còn nơi nương
tựa nào khác". Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người
để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi
chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật trong hơn 40
năm hoằng pháp lợi sanh.
Hôm nay chúng ta nhìn lại nền giáo
lý của Đức Phật trong hoàn cảnh các dân tộc trên thế giới bước vào
thiên niên kỷ mới, mọi người không phân biệt Âu, Á, màu da, chủng tộc
đều mong muốn có một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ ; con người
không còn khổ đau bệnh tật và đói nghèo. Điều này không phải của
riêng ai mà của cả toàn nhân loại trên hành tinh này đều hướng về con
đường lý tưởng đó. Trong dòng chủ lưu đó con người là chủ nhân ông
quyết định và điều này lại khẳng định một lần nữa vai trò của nền
giáo lý Đức Phật không phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý
đó có những tư tưởng tiến bộ để con người tự xây dựng một xã hội
mà con người đang đi tìm giải pháp.
Đức Bổn Sư Thích Ca tên là
Sidhartha họ Gotama, ra đời cách đây hơn 2.500 năm tại Bắc Ấn Độ vào
TK VI trước Tây lịch. Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn) cai trị vương
quốc của dân tộc Kàkyas (Nepal ngày ngay),mẹ là Hoàng hậu Maya.Theo tục lệ
lúc bấy giờ Ngài kết hôn với Công chúaYasodharà(Da-du-đà-la).Là một
Thái tử đương triều sống trong cung điện đầy đủ tất cả những vật
chất xa hoa, nhưng khi va chạm với đời sống bình thường thực tại, Ngài
nhận thấy khổ đau của kiếp người,Ngài quyết định bỏ lại sau lưng
uy quyền và địa vị để tìm giải pháp cứu mình và cứu người.
Trong 6 năm làm một nhà khổ hạnh,
Đức Phật đã đi khắp thung lũng sông Hằng tìm học những vị thầy nổi
tiếng lúc bấy giờ,nhưng Ngài thất vọng vì họ không chỉ dạy được gì
mà Ngài muốn đến. Đức Phật đã từ bỏ tất cả những phương pháp
mà Ngài đã học,đi theo con đường riêng của Ngài. Và một hôm Ngài phát
đại nguyện dưới cội cây bồ đề trên bờ sông Neranjarà(Ni Liên Thiền)
tại Buddha-Gaya(Bồ Đề Đạo Tràng) xứ Bihar ngày nay: " Dù thân ta có
tan thịt ta có nát, nếu không tìm ra đạo,ta nguyện không rời chổ ngôì
nầy".
Từ nơi đây Ngài thực sự đạt
được đỉnh cao của trí tuệ, thành bậc Giác ngộ, chuyển bánh xe Chánh
pháp đem lại lợi lạc cho con người với những phương pháp mà Ngài đã
tìm ra được ; và cũng từ đó những phương pháp mà Đức Phật đưa ra
như là những phương thuốc trị những căn bệnh mà loài người đang gặp
phải : "Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì ? Bệnh
thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh và thể
xác trong một năm, hai năm...cả đến trong một trăm năm hay hơn nữa.
Nhưng này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng
được sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những
người thoát khỏi sự xấu xa ô uế" (chỉ cho những vị đắc A-la-hán).
Hình ảnh giáo lý và nhân cách của Ngài vẫn là bức thông điệp nhân bản
muôn đời gởi đến cho nhân loại.Những lời dạy của Đức Phật đã
thành những điệp khúc bất tuyệt vượt ra ngoài không gian và thời gian,
những lời dạy đó nhằm vào tinh thần giải thoát cho con người thoát khỏi
khổ đau bởi những trói buộc của phiền não và vạch ra con đường để
cho những ai muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của kiếp nhân sinh. Có người
cho rằng giáo lý của Phật dạy quá cao siêu khó có thể ứng dụng trong
đời sống hàng ngày trong nền phát triển KHKT hôm nay ; vì nếu muốn trở
thành những người Phật tử phải từ bỏ việc này, ngăn ngừa việc khác
trong khi đời sống bình thường của con người ngày nay thực hiện vì
"cơm, áo, gạo ,tiền" để mưu sinh cho gia đình và cho chính bản
thân họ. Đó là một quan niệm sai lầm về giáo lý Đức Phật.Thông thường
phần đông thường đi đến kết luận một cách vội vã, chủ quan ,chỉ
hiểu được một khía cạnh thiên lệch sau khi đọc một quyển kinh hay một
cuốn sách Phật của một tác giả nào đó mà lại không hiểu hết những
giáo lý cốt lõi của Đức Phật. Điều này trong thời điểm này hay trong
những thời điểm khác, ở Việt Nam hay một số quốc gia trên thế giới,
đã từng có những quan niệm sai lầm của một số người khi đặt bút viết
về giáo lý của Phật hay về những vấn đề liên quan đến Phật học,
đó là chưa kể những người cố tình bóp méo hay gán ép cho Đức Phật và
giáo lý của Ngài, với ý đồ nào đó(?) . Ở đây chúng ta không phải biện
minh cho những kiến giải hơn thua phải quấy của những người con Phật,
mà chúng ta xác định tinh thần Phật dạy như là quan niệm sống thực
nghiệm giúp con người trong thời đại của Ngài và ngay trong thời điểm
hôm nay và mai sau. Giáo lý đó là một chân lý vượt ra ngoài phạm trù của
thời gian và cả không gian, và những lời dạy của Đức Phật thực sự
có ích cho con người. Nền giáo lý của Đức Phật không phải chỉ dành
riêng cho người xuất gia hay tại gia tu theo Phật, mà đó là của mọi người
muốn ứng dụng nó vào đời sống tâm linh,mà không có sự phân biệt quy
y hay chưa quy y theo Phật .
Tất cả mọi người không phải ai
cũng bỏ cuộc đời, đi vào chùa hay tu viện xa lánh cuộc đời, ẩn dật
chốn nào đó của núi rừng, am cốc. Đạo Phật dù có thuần khiết cao cả
đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng đối với mọi người vì không
"đại chúng hóa"vì họ không thể áp dụng đựơc trong đời sống
hàng ngày.Trái lại khi mọi người hiểu đúng tinh thần Phật dạy, xem như
là một triết lý sống, đem áp dụng vào cuộc đời mà không phải xa
lánh cuộc đời thì đó mới thực sự là một tôn giáo có lợi ích thiết
thực. Như vậy rõ ràng Đức Phật và giáo lý của Ngài không bao giờ
khuôn biệt trong một mô thức bắt buộc nào mà chỉ khuyên mọi người nên
áp dụng tu tập thực hành Pháp trong điều kiện và hoàn cảnh mà mình
đang sống, không khuyến khích con người chạy đi tìm cầu, điều kiện khác
mà con người chưa có thể thực hiện được. Trong kinh Phật có nhiều
câu hỏi của cư sĩ Vacchagotta được đặt rá: "Bạch Đức Thế Tôn,
có người nam và nữ nào đệ tử của Phật sống đời sống thế tục thực
hành giáo lý của Ngài mà có hiệu quả, mà đạt được những trạng thái
tâm linh cao siêu không ?". Đức Phật đã khẳng định không phải 100
hay 500 mà còn nhiều hơn thế nửa. Qua đó cho chúng ta một quan niệm về
Đức Phật và giáo lý của Ngài.
Ở thời đại ngày nay khi kinh tế
thị trường như là một yếu tính của thời đại và nó được xem như một
nhu cầu phát triển xã hội loài người, vậy giáo lý của Phật dạy có
ảnh hưởng gì không trong sự tu tập? Chúng ta hãy xem một đoạn kinh Đức
Phật có đề cập đến nền kinh tế : "Một hôm Đức Phật bảo ông
Cấp Cô Độc - một thương gia danh tiếng: "Này cư sĩ, sống thường
nhật có 4 thứ hạnh phúc:
1/Sở hữu lạc : sự thọ hưởng
bảo đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính
đáng.
2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng
tài sản đó một cách rộng rãi,cho chính mình ,cho gia đình bà con,bè bạn,
trong những việc công đức.
3/ Vô trái lạc : Không bị nợ
nần đeo bám.
4/ Vô tội lạc : Sống một
đời sống trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh
ngoài xã hội".
Qua những điều nêu trên cho chúng
ta thấy Đức Phật đã có những cái nhìn thấu đáo về nền kinh tế
trong thời kỳ của Ngài khi dạy một cư sĩ sống làm sao để có hạnh
phúc, Ngài không cho rằng chỉ thuần có đời sống tinh thần ; mà phải
làm sao quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần . Một mặt Phật
giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát triển về vật chất,
mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đức và
tâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.
Ngày nay con người sống trong hận
thù,sợ hãi lo âu và khủng hoảng, nghi ngờ đố kỵ nhau một cách căng thẳng.
Nền công nghệ KHKT phát triển một cách chóng cả mặt mày. Đứng trước
sự sợ hãi do chính mình tạo ra, bao nhiêu thiên tai thảm họa đang đè nặng
lên vai con người trong thiên niên kỷ mới phải khắc phục ; thông điệp
của Đức Phật dù cách đây hơn 25 thế kỷ, nhưng khi nhìn vô số lời dạy
còn lưu lại cho đến hôm nay, mọi người con Phật đều có thể xem như là
kim chỉ nam trong việc xây dựng đời sống cộng đồng. Nơi tiềm tàng
trong nền giáo lý và nhân cách của Phật mọi người có thể rút ra một
bài học ứng xử giúp con người tìm về chính mình, làm chủ vận mệnh tương
lai do mình tạo ra. Đó là tình thương, khoan hồng, rộng lượng , thông cảm,
tôn trọng đối với mọi sự sống hãy vứt bỏ đi lòng ích kỷ, hận
thù và bạo động... Nhân loại đang sống trong bản lề của một thiên
niên kỷ mới cũng sống và mong ước thế giới không còn hận thù khổ
đau mà chúng ta hằng mong muốn : "Tâm tịnh quốc độ tịnh".Trước
khi nhập Niết Bàn Đức Phật đã ân cần tuyên bố: "Bất luận Chơn
Lý nào mà Như Lai đã truyền dạy, các người hãy thực hành một cách
khéo léo,trao dồi phát triển đầy đủ, để đời sốngthiêng liêng được
duy trì trường tồn vĩnh cửu,vì tình thương chúng sanh,vì sự tốt đẹp
và hạnh phúc của nhiều người...". Những lời nầy làthông điệp muôn
đời của tình thương yêu nhân loại gởi đến cho toàn thể mọi người
khắp hành tinh đang thực hiện lời dạy của Ngài, hãy vì hạnh phúc của
nhiều người, hãy xây dựng hạnh phúc cho mình cho người.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/p-010-Phat.htm