Có hai vị giữ địa
vị quan trọng trong Thiền tông là tổ Bồ Đề Đạt Ma (?-532) và Lục tổ Huệ
Năng (638-713). Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã có công đặt nền móng cho ngôi nhà Thiền
tông, và tổ Huệ Năng được coi như người đã xây cất nên ngôi nhà kỳ diệu đó
để còn lưu truyền đến ngày nay . Cuốn Pháp Bảo Đàn kinh ghi về cuộc đời
của tổ Huệ Năng cùng những bài pháp của tổ rất đầy đủ. Pháp tu của tổ Huệ
Năng được ghi rõ là:
"Vô niệm làm
tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc."
Trước khi tìm
hiểu về pháp môn Vô niệm xin đọc phần trích dẫn lời giảng của Lục tổ và
các thiền sư:
Pháp Bảo Đàn
kinh :
"vô
niệm là đối với niệm mà không niệm",
"đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường
lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm. Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ,
niệm phải trừ hết, một niệm dứt tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác, ấy là
lầm to",
"Này Thiện tri thức, thế nào lập vô niệm làm tông? Chỉ vì miệng nói thấy
tánh, người mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm lại khởi tà kiến, tất cả
trần lao vọng tưởng từ đây mà sanh",
"Này Thiện tri thức, vô là vô việc gì? niệm là niệm vật nào? Vô đó là
không có hai tướng, không có các tâm trần lao; niệm là niệm Chân như Bản
tánh. Chân như tức là thể của niệm, niệm tức là dụng của Chân như, Chân
như Tự tánh khởi niệm, không phải mắt tai mũi lưỡi hay khởi niệm, Chân như
có tánh cho nên khởi niệm, Chân như nếu không có tánh thì mắt tai sắc
thanh chính khi ấy liền hoại."
"Này Thiện tri thức, Chân như Tự tánh khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe
hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh, mà Chân tánh thường tự tại, nên kinh
nói “hay khéo phân biệt các pháp tướng mà đối với nghĩa đệ nhất không có
động”.
"Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là
vô niệm, dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ
thanh tịnh nơi bản tâm khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không
nhiễm không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là Bát-nhã
tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh."
"ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể
tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh,
ghét tử, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả".
"Này Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông,
người ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ
được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật."
-------------
Thần Hội Pháp Ngữ:
"Chẳng chấp hình tướng, tức gọi là Như Như. Sao gọi là Như Như? Tức là Vô
Niệm. Vô niệm là gì? Tức là chẳng niệm nhớ việc có hay không. Chẳng niệm
nhớ việc lành hay xấu. Chẳng niệm nhớ có biên tế hay không biên tế. Chẳng
niệm nhớ có hạn lượng hay không hạn lượng. Chẳng niệm nhớ Bồ Ðề. Chẳng
dùng Bồ Ðề làm tâm. Chẳng lấy Niết Bàn làm niệm. Ðó là vô niệm, cũng là
Bát Nhã Ba La Mật."
"Vô niệm tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả. Nếu còn một cảnh
giới, tức chẳng tương ưng với vô niệm."
"Người khéo thấy vô niệm, thì sáu căn chẳng ô nhiễm. Thấy vô niệm, tức
hướng đến Phật trí. Thấy vô niệm, gọi là thật tướng. Thấy vô niệm, tức là
nghĩa trung đạo đệ nhất. Thấy vô niệm thì trong một lúc đầy đủ hằng sa
công đức. Thấy vô niệm, hay sanh tất cả Phật pháp. Thấy vô niệm, tức nhiếp
hết thảy pháp."
"Lại nữa, kinh Duy Ma Cật thuyết rằng 'Ðiều phục tâm kia, tức là pháp
Thanh Văn. Chẳng điều phục tâm kia, tức là pháp người ngu'. Các nhân giả
dụng tâm, tức là dùng pháp điều phục. Nếu dùng pháp điều phục, sao gọi là
giải thoát?"
-----------
"Đốn ngộ nhập đạo yếu môn" của Huệ Hải (Đại Châu):
Thiền sư Huệ Hải là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời thứ ba của Lục Tổ
Huệ Năng.
" Vô niệm là ở tất cả chỗ mà không tâm, không tất cả cảnh, không có những
nghĩ cầu, đối các cảnh sắc hằng không khởi động. Được vô niệm gọi là chân
niệm. Nếu dùng niệm khởi nghĩ làm niệm là tà niệm, chẳng phải chánh niệm."
"Người được vô niệm, sáu căn không nhiễm, tự nhiên được vào tri kiến chư
Phật."
"- Đã nói vô niệm làm Tông, chưa biết vô niệm là vô niệm nào ?
- Vô niệm là không tà niệm, chớ chẳng phải không chánh niệm.
- Thế nào là tà niệm ? Thế nào là chánh niệm ?
- Niệm có, niệm không, là niệm tà, chẳng niệm có không là niệm chánh; niệm
thiện, niệm ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến niệm
khổ vui, sanh diệt, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà, chẳng
niệm khổ vui… là niệm chánh.
- Thế nào là chánh niệm ?
- Chánh niệm là chỉ niệm Bồ-đề .
- Bồ-đề có thể được chăng ?
- Bồ-đề không thể được.
- Đã không thể được làm sao chỉ niệm Bồ-đề ?
- Bồ-đề chỉ là danh tự giả lập, thật không thể được. Cũng không có trước
sau được. Vì không thể được nên không có niệm. Chỉ cái không niệm ấy gọi
là chân niệm. Bồ-đề không có chỗ niệm. Không có chỗ niệm tức là tất cả chỗ
không tâm, ấy là không có chỗ niệm."
- Tâm trụ chỗ nào là trụ ?
- Tâm trụ chỗ không trụ là trụ.
- Thế nào là chỗ không trụ ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là trụ chỗ không trụ.
- Thế nào là chẳng trụ tất cả chỗ ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ là : Chẳng trụ nơi lành dữ, có không, trong ngoài,
chặng giữa, chẳng trụ không, cũng chẳng trụ chẳng không, chẳng trụ định,
cũng chẳng trụ chẳng định, tức là chẳng trụ tất cả chỗ. Chỉ cái chẳng trụ
tất cả chỗ, ấy là chỗ trụ. Người được như thế, gọi là tâm không trụ. Tâm
không trụ là tâm Phật."
"Nếu tự biết rõ ràng tâm chẳng trụ tất cả chỗ, gọi là rõ ràng thấy được
bản tâm, cũng gọi là rõ ràng thấy tánh vậy. Chỉ cái tâm chẳng trụ tất cả
chỗ ấy, tức là tâm Phật, cũng gọi là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, tâm vô
sanh, sắc tánh không. Kinh nói : “chứng vô sanh pháp nhẫn” đó vậy."
-------------
Một thiền sư Nhật bản đương thời là thiền sư Kōshō Uchiyama, thuộc dòng
Tào Động (Nh. Soto), có viết cuốn sách "Opening the Hand of Thought,
Approach to Zen" trong đó sư có trình bày về pháp tu Vô niệm như sau:
" Khi chúng ta tọa thiền (zazen) có nghĩa là mọi ý nghĩ phải ngưng bặt và
đầu óc trống rỗng phải không? Không, dĩ nhiên là không phải thế. Khi mà
chúng ta còn sống thì các ý nghĩ khởi lên là điều tự nhiên, ngày cả khi
tọa thiền cũng vậy. Điều quan trọng là để chúng tự đến và đi mà ta không
theo đuổi chúng hoặc dẹp trừ chúng."
"Nếu niệm khởi thì chúng ta có phải gắng để dẹp nó không? Nếu làm như vậy
tức là chúng ta lập ra ý nghĩ là phải dẹp niệm đó"
`Lấy một thí dụ trong cuộc sống là lái xe hơi. Khi chúng ta lái xe mà
trong đầu suy nghĩ đủ thứ chuyện thì sẽ bị rối loạn, căng thẳng và nguy
hiểm cho việc lái xe. Muốn giữ cho an toàn thì cần phải thư dãn và tỉnh
giác."
"Tọa thiền là để cho bản thể biểu hiện một cách tự nhiên và thanh tịnh".
"Niệm khởi là điều tự nhiên. Nhưng khi chúng ta bám vào niệm đó, chạy theo
chúng thì là chúng ta đang suy nghĩ."
"Thế nào là buông xả các niệm? Khi chúng ta suy nghĩ là suy nghĩ về một
cái gì đó. Nghĩ về cái gì là dùng ý nghĩ để bám vào cái đó. Không bám vào
cái đó tức là buông xả."
Thí dụ niệm "A" (bông hoa) khởi lên khi ta nhìn thấy bông hoa. Nếu có niệm
"A1" (bông hoa này đẹp) tiếp theo sau thì đó là suy nghĩ, dính mắc. Sau
niệm A1 sẽ lại tiếp tục A2, A3 … Tức là dù có niệm A nhưng nếu không có
suy nghĩ nào tiếp theo thì niệm A sẽ tự biến đi nếu ta không dính mắc vào
nó. Như vậy là ta buông xả suy nghĩ.
Sư so sánh những trạng thái biến đổi trong tâm ta như là quang cảnh thiên
nhiên: có những lúc trời xanh quang đãng, có lúc mây mù, có lúc mưa bão …
những cảnh đó đến rồi tự nó đi, không có gì ta phải bận tâm dính mắc.
*
Việc tìm hiểu
được rõ ràng về pháp "Vô niệm" không phải là dễ dàng, nhưng ít nhất cũng
có thể thấy được một số sai lầm.
Tổ Huệ Năng đã chỉ rõ: "Đối trên các cảnh, tâm không nhiễm gọi là vô
niệm","Ðối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh
tâm". Tổ không có nói là phải diệt trừ hết niệm, tổ nói thêm:
"một niệm dứt
tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác" tức là tổ biết rằng suy nghĩ là cái
chức năng tự động của bộ óc con người, chỉ khi chết thì mới hết suy nghĩ.
Có một số người
đã dản dị cho rằng Vô là không, Niệm là ý nghĩ, cho nên họ cố gắng để khi
ngồi thiền thì ghìm không cho một ý nghĩ nào nổi dậy, để tâm trống rỗng và
cho như vậy là Định hoặc là chứng đắc. Ngăn cản bộ óc không cho nó nghĩ
ngợi thì không khác nào nín thở vậy, dù cho có nín thở được một lúc thì
rồi cơ thể cũng lại phải tiếp tục thở. Dù cho có ngăn chặn bộ óc không cho
nó nghĩ ngợi thì rồi sau một thời gian nó vẫn tự động khởi nghĩ. Đó chỉ
như là lấy đá đè cỏ vậy. Kinh này còn ghi thêm: "Nếu trăm vật chẳng
nghĩ, chính khi đó khiến cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên
kiến.", "chớ có trăm vật chẳng nghĩ, mà
đối với đạo tánh sanh chướng ngại". "Này Thiện tri thức,
lại có người dạy ngồi khán tâm quán tịnh, không động không khởi, từ đây mà
lập công khóa, người mê không hiểu liền chấp thành ra điên cuồng; những
người như thế này thật là đông, dạy nhau như thế, nên biết đó là lầm lớn."
Như vậy điều cần ghi rõ là đối với niệm cần giữ cho tâm không
nhiễm, chứ không phải trừ bỏ hết mọi niệm. Tâm không nhiễm là khi đối cảnh
không để cho tâm vọng động.
Kinh có ghi:
"vô niệm là đối với niệm mà không niệm", "trong mỗi niệm không nghĩ cảnh
trước, nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm tương tục
không dứt gọi là hệ phược (trói buộc)". Thiền sư Huệ Hải cũng giúp soi
rõ thêm về việc phân biệt các niệm:
"- Niệm có, niệm không, là niệm tà, chẳng niệm có, không là niệm chánh;
niệm thiện, niệm ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến
niệm khổ vui, sanh diệt, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà,
chẳng niệm khổ vui… là niệm chánh."
Cũng nên nhắc lại cùng với ý trên là việc thượng tọa Huệ Minh đuổi theo tổ
Huệ Năng với ý định là dành lại y bát mà tổ đã được tổ Hoằng Nhẫn trao
cho. Tổ Huệ Năng bảo Huệ Minh:
"Không nghĩ
thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng
tọa Minh?"
Đó chính là Vô niệm, tổ chỉ nói tới thiện và ác, nhưng đó là nói cho gọn,
ý nghĩa xa hơn là nói về tất cả những ý kiến đối đãi nhau. "Vô" là không
khởi những niệm đối đãi như thiện/ác, có/không, yêu/ghét, sanh/diệt,
oán/thân, khổ/vui … chứ không phải dẹp trừ tất cả các niệm. Nhưng nếu dùng
trí huệ để dẹp những niệm đối đãi đó thì cũng không đúng, tổ giảng:
"Phiền não tức là Bồ-đề, không hai, không khác, nếu dùng trí huệ chiếu phá
phiền não, đây là kiến giải của hàng Nhị thừa".
Người Vô niệm
không phải là ngây ngây ngô ngô, không biết gì hết. Tổ nói: "sáu
căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh".
Gọi là Vô niệm nhưng sáu căn vẫn có "thấy nghe hiểu biết" (kiến văn
giác tri) chứ đâu phải là không "thấy nghe hiểu biết" như gỗ đá,
chỉ có khác là "không nhiễm". Cư sĩ Thiền tông Bàng Uẩn cũng có nói:
"không cùng muôn pháp làm bạn" là cùng ý đó. Được như vậy mới có thể nói:
"đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Ðối trên niệm thường
lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm".
Thiền sư Thần Hội là một đệ tử xuất sắc của tổ, đã có công trong việc
truyền bá pháp môn của tổ, và cũng có nghi vấn là Thần Hội có dự phần nào
trong việc sửa đổi cuốn Pháp Bảo Đàn kinh. Sư đã giảng về Vô niệm một cách
sâu sắc như nói rõ Vô niệm là Bát Nhã Ba La Mật, là Phật trí. Tu Vô niệm
là chẳng niệm Bồ đề, Bồ đề tâm, Niết bàn. Như vậy sư đã thấy rằng có Vô
niệm thì đạt được trí Bát Nhã, lúc đó không còn có niệm nào khác, ngay cả
Bồ đề tâm, Niết bàn nữa.
Trong kinh "Văn Thù sư lợi sớ thuyết Ma ha Bát Nhã Ba La Mật" ngài Văn Thù
có nói: "Không thấy Bồ tát pháp, cũng không thấy tu hạnh bồ đề và người
chứng quả bồ đề."
Nên lưu ý là có ý kiến cho rằng pháp "kiến tánh" của Thiền tông tức là
"phát bồ đề tâm", nói như vậy là chưa hiểu rõ về Thiền tông. Tuy rằng
"phát bồ đề tâm" là pháp tu quan trọng, nhưng cũng cần biết là mỗi tông
phái đạo Phật có đường lối tu khác nhau dù rằng cứu cánh là một.
Nhưng cũng sẽ có
câu hỏi được nêu ra là, nếu không dứt niệm chẳng lẽ để cho niệm khởi triền
miên mà không lo diệt trừ hay sao. Tổ chỉ rõ là
"Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức
loạn", vì vậy nên cần hiểu
rõ pháp "Vô tướng" của tổ. Thiền sư Thần Hội cũng nói: "Các
nhân giả dụng tâm, tức là dùng pháp điều phục. Nếu dùng pháp điều phục,
sao gọi là giải thoát?"
Những vọng niệm chỉ là do tâm mình tạo ra, rồi lại lo diệt chúng, như vậy
chỉ là cái vòng luẩn quẩn. Tổ chỉ rõ là vọng niệm là do tự tánh, Phật tánh
khởi nên chứ đâu phải là cái gì riêng biệt ngoài tự tánh "tất cả muôn
pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng".
Ngay
nơi sóng mà thấy nước, không cần phải bỏ hay diệt trừ sóng mới thấy nước.
Tự tánh là cái thể của muôn pháp, những vọng niệm là tướng của tự tánh
biến hiện. Nếu chỉ chấp vào tướng thì vọng niệm vẫn khởi, vì vậy phải thấy
rõ tự tánh, đạt tới Vô tướng, Vô trụ thì mới không có vọng niệm, chứ không
phải là chỉ lo diệt trừ vọng niệm.
Thiền sư Uchiyama, với tên cuốn sách là "Opening the Hand of Thought" dùng
một hình ảnh tượng trưng là, ta thường nắm chặt lấy những suy tính, tư
duy, vậy muốn hành Thiền thì phải mở nắm tay ra để buông xả những thứ đó.
Sư cho rằng tâm mỗi người, với đủ thứ khái niệm, ưa thích riêng biệt, khả
năng rất hạn chế. Có buông bỏ được thì tự tánh, tức bản thể, chân tánh,
Phật tánh, của mình mới có dịp biểu lộ một cách vô ngại. Sư thấy rằng khi
ngồi thiền thì niệm có khởi ta chỉ coi chúng như những đám mây trên trời,
chúng đến rồi tự động đi. "Bộ óc của ta nó không ngưng hoạt động, cũng như
dạ dầy không ngưng tiêu hóa. Niệm có khởi thì chỉ cần không chạy theo
chúng, không dính mắc, không nắm chặt lấy chúng, chứ cũng không cần phải
lo diệt trừ chúng. Chỉ biết ngồi thiền mà không quan tâm đến những sự hoạt
động đó của bộ óc."
Để nói rõ thêm về pháp tu Vô niệm, tổ Huệ Năng chỉ rõ thêm hai pháp là Vô
tướng và Vô Trụ để làm sáng tỏ thêm.
Tổ nói: "Đối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược
(không bị trói buộc), đây là lấy vô trụ làm gốc". Không trụ vào
các Niệm nên không còn bị dính mắc, bị chi phối. Còn làm sao không trụ? Tổ
chỉ thêm:
"chấp tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật"
"ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp
thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể" . Đó cũng là theo
ý kinh Kim Cang:
"Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. (nghĩa: Phàm những gì có tướng đều là
hư vọng") (Kinh Kim Cang, đoạn 5)"
Nếu không thấy các pháp là hư vọng, vẫn chấp chặt vào các tướng của muôn
pháp và trụ vào đó thì chẳng bao giờ đạt được Vô niệm, dù tìm mọi cách để
bặt đường suy nghĩ.
Có ý kiến lại nói
Vô tướng là thấy người mà không cần biết đó là đàn ông hay đàn bà, không
cần biết tên người đó là gì … Những ý kiến kỳ lạ như vậy không phải là
không có, chỉ những người không chịu tìm hiểu mới làm như vậy.
Thiền sư Huệ Hải
còn nói rõ về Vô trụ: "Tâm không trụ là
tâm Phật."
"Người đời do mê bên ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không.
Nếu hay nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không thì trong ngoài
chẳng mê"
"Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu
ghét, cũng không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v... an
nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam-muội."
Nói tóm lại tổ Huệ Năng, qua cuốn Pháp Bảo Đàn kinh đã chỉ cho chúng ta
pháp môn Vô niệm, Vô tướng, Vô trụ và đưa Thiền tông lên một bước tiến
quan trọng. Vô niệm không có nghĩa đơn giản là kềm giữ để không có niệm
nào. Niệm vẫn luôn tự khởi do hoạt động của bộ óc con người, trong đời
sống hàng ngày vẫn cần có những sự suy tính, phân biệt, như là đói thì
nghĩ đến ăn, mệt thì nghĩ đến ngủ. Nhưng nếu coi kỹ lại thì thấy trong đầu
chúng ta, ngày cũng như đêm, lúc nào cũng ồn ào đủ mọi thứ chuyện, không
lúc nào ngừng. Vô niệm là không có những tà niệm, như thiền sư Huệ Hải đã
nói. "Vô niệm tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả." Đứng về
phương diện kinh điển mà nói thì đó là pháp môn "bất nhị", là trí bát nhã.
**
Tài liệu trích dẫn:
- Pháp Bảo Đàn kinh, do HT Thích Thanh Từ dịch. (Những chữ in nghiêng
trong bài là trích ra từ cuốn này.)
- Đốn ngộ nhập đạo yếu môn, do HT Thích Thanh Từ dịch.
- Thần Hội pháp ngữ, do tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch.
- Kinh Kim Cang, do HT Thích Thanh Từ dịch.
- Kinh Văn Thù sư lợi sớ thuyết Ma ha Bát Nhã Ba La Mật, do HT Thích Minh
Lễ dịch.
- Opening the Hand of Thought, Approach to Zen, của thiền sư Kōshō
Uchiyama.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phapmon_vo_niem.htm