Nói chung, ta được biết là có
nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộ mà chúng
ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì
đúng là một nơi độc nhất vô nhị. Có những cõi Tịnh Độ ở bốn phương Đông,
Tây, Nam, Bắc, và ở trung tâm. Trong số đó, cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di
Đà là nơi dễ đến nhất và vì thế rất đặc biệt. Nhờ lập một ước nguyện đặc
biệt được tái sinh trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc, ta có thể thành tựu sự
chuyển di tâm thức của ta tới cõi đó. Năng lực của lời cầu nguyện, năng
lực của ước nguyện sùng mộ và nhiệt thành là tất cả những gì cần phải có.
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà
ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ
quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang
nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
Điều tôi đang nói - trong phạm vi của hệ thống vĩ đại - vận hành như sau:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đấng Giác ngộ chính yếu trong một tiểu thiên
thế giới vĩ đại. Điều này có nghĩa là toàn thể hệ thống được gọi là vũ trụ
của ta với những mặt trời và mặt trăng, những vì sao và hành tinh, là một
đơn vị. Nhân nó lên một ngàn lần và sau đó nhân lên một ngàn lần rồi một
ngàn lần nữa. Đó là ba tiểu thiên thế giới. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thống
lĩnh một trong những tiểu thiên thế giới đó. Cõi của Đức Vô Lượng Quang A
Di Đà thậm chí siêu vượt hệ thống vũ trụ đó. Điều tôi đang giảng có xuất
xứ từ một lời cầu nguyện do Karma Chagme sáng tác biểu lộ nguyện ước mãnh
liệt được tái sinh trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Trong bài nguyện, Karma
Chagme nói rằng cõi Tịnh Độ Cực Lạc có phạm vi rộng lớn như thế, vượt xa
thực tại bình thường của chúng ta và mắt trần của chúng ta không bao giờ
có thể nhìn thấy nó. Nó không phải là cái gì có thể được nhìn thấy một
cách vật lý. Nó quá bao la; phạm vi của nó không thể so sánh với bất kỳ
tiêu chuẩn nào. Ta biết rằng nó vượt quá khả năng tri giác của các giác
quan của ta. Nó rất xa và rộng lớn, vì thế hoàn toàn vượt quá khả năng đo
lường của ta. Chúng ta có thể nhìn thấy những vì sao và đi tới mặt trăng,
nhưng các giác quan của ta sẽ không bao giờ nhận thức được thực tại của
Cõi Cực Lạc. Đối với sự suy nghĩ và nhận thức bình thường của ta thì nó
quá xa và quá bao la. Trong ý nghĩa đó, ta không thể tới đó bằng bất kỳ
phương tiện vật chất nào. Tuy nhiên, khi tâm ta đã được tịnh hóa, được
tiệt trừ được những lỗi lầm, khi trở về trạng thái nguyên sơ của chính nó
thì ta có thể trực tiếp kinh nghiệm thực tại của cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Cách
thức để tri giác cõi Tịnh Độ là bằng tâm chứ không bằng những giác quan.
Vì thế, hãy thiết lập cái thấy đó trong tâm bạn và hình dung rằng an trụ ở
trung tâm của Cõi Cực Lạc bao la, gồm chứa tất cả là Chúa tể của cõi Tịnh
Độ: Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang. Thân Ngài có sắc đỏ và
trông giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài có đủ 80 tướng chính và 32
tướng phụ của một hiển lộ Hóa Thân toàn giác. Chẳng hạn như Ngài có nhục
kế mà bạn nhìn thấy ở những pho tượng và thangka của Đức Phật. Trong bàn
tay Ngài có những luân xa và v.v.. như bạn có thể nhìn thấy có nhiều tướng
khác nhau. Hai bàn tay ở trong tư thế quân bình thiền định, Ấn Thiền Định,
và trong bàn tay là một bình bát. Trông Ngài rất giống Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, chỉ khác ở điểm nước da Ngài có mầu đỏ hồng ngọc đậm. Trông Ngài
thật rực rỡ và chói lọi. Ngài an tọa trên một hoa sen và một tòa mặt trăng.
Sau lưng Ngài là Cây Như ý. Bên phải Ngài là Đức Avalokiteshvara (Quán Thế
Âm) có sắc trắng. Bên trái Ngài là Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ), Chúa tể
của Những Phương tiện Mãnh liệt. Đây là ba vị lãnh đạo của Cõi Tịnh Độ Cực
Lạc. Nói một chút về lịch sử sự hình thành cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức
Phật A Di Đà thì đó là một cõi Tịnh Độ không có những khiếm khuyết. Nó
viên mãn trong mọi phương diện. Sự nhận thức về cõi Tịnh Độ đó không xuất
hiện mà không có nguyên nhân. Nguyên nhân của cõi linh thánh toàn hảo này
là gì? Rất nhiều kiếp về trước, trước khi là một vị Phật, Đức Phật A Di Đà
là một tu sĩ có tên là Dharmakara (Pháp Tạng), có nghĩa đen là ‘căn nguyên
của Pháp.’ Khi Ngài tu hành như một Bồ Tát, Ngài đã lập một loạt những lời
cầu nguyện, hay những nguyện ước mãnh liệt, về cách thế của những sự vật
khi Ngài hoàn toàn Giác ngộ. Ngài nói: “Có rất nhiều cõi Tịnh Độ và những
người tới được cõi đó là những chúng sinh đã từ bỏ ác hạnh, những người đã
tích tập vô số công đức, và đã chuyên cần thực hành Pháp. Họ có thể đi tới
những cõi Tịnh Độ đó, nhưng điều đó rất khó khăn. Còn tất cả những người
không từ bỏ ác hạnh, không tích tập rất nhiều công đức, và không thể thực
hành một cách nghiêm nhặt thì sao? Tôi sẽ thiết lập một cõi Tịnh Độ để
những người đó có thể dễ dàng đi tới. Nguyện tôi giải thoát tất cả chúng
sinh không có những phẩm tính siêu nhiên đó của những hành giả đi tới
những cõi Tịnh Độ của tất cả những vị Phật khác.” Có nhiều bản văn cầu
nguyện (hay thệ nguyện) của Đức Phật A Di Đà lập nên khi Ngài là
Dharmakara (Pháp Tạng). Chỉ riêng ở Tây Tạng đã có 500 bản văn cầu nguyện
khác nhau. Ở Trung Hoa có nhiều bản văn về việc lập những Đại Nguyện của
Đức A Di Đà. Nói chung, có thể nói rằng tất cả những nguyện ước mãnh liệt
của Ngài có thể được sắp xếp thành Bốn Mươi Tám Đại Nguyện. Cõi Tịnh Độ
Cực Lạc trở thành hiện thực nhờ một trong Bốn Mươi Tám Đại Nguyện đó. Đây
là nguyên nhân sự hiện hữu của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Cõi Tịnh Độ này không
hiện hữu mà không có nguyên nhân. Nguyên nhân của sự hiện hữu này là hoạt
động của vị Bồ Tát – bậc đã trở thành Đức Phật A Di Đà. Nói chung, tất cả
chư Phật giữ gìn mọi chúng sinh trong tâm khảm của các Ngài với lòng từ ái
và bi mẫn. Bởi lòng đại bi của các Ngài, các Ngài lập những nguyện ước
mãnh liệt. Các ngài lập những đại nguyện, làm việc trải qua nhiều đời;
trong khi tu hành là những Bồ Tát trước khi thành Phật để ảnh hưởng tới
tất cả chúng sinh bằng vô số phương cách. Giống như cọ xát hai cây gậy với
nhau đủ lâu và đủ mạnh bạn có thể tạo ra lửa, nhờ tích tập công đức và trí
tuệ nguyên sơ thì mọi sự đều có thể được thành tựu. Trong trường hợp này
điều được thành tựu là sự thiết lập Cõi Tịnh Độ Cực Lạc ở phương tây của
thế giới chúng ta nhờ sự tích tập vô lượng công đức và trí tuệ nguyên sơ
của Ngài. Một lần nữa, chúng ta hãy khảo sát sự ẩn dụ của hai cây gậy cần
thiết để tạo ra lửa. Lửa không xuất hiện tự nhiên từ một cây gậy. Bạn cần
có hai cây gậy và cần nỗ lực cọ xát chúng với nhau bằng một cách thức đặc
biệt trong một thời gian. Cuối cùng một tia lửa bật ra từ sự kết hợp của
hai cây gậy và lửa bắt đầu cháy. Trong một cách thế tương tự, mọi hiện
tượng, mọi thực tại, mọi pháp, đều hiển lộ nhờ sự kết hợp của tánh Không
và căn nguyên tương thuộc (duyên sinh.) Mọi sự hoàn toàn có sự quan hệ hỗ
tương với nhau. Điều đó được gọi là sự duyên sinh. Đó là một cây gậy. Cây
gậy kia là tánh Không: Chân lý của tánh Không, sự hoàn toàn không có sự
hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng. Hai cây gậy kết hợp với nhau, là bản
tánh thực sự của thực tại. Đây là sự thực của mọi sự, của mọi thực tại.
Hãy để cõi Tịnh Độ sang một bên trong chốc lát và hãy khảo sát cõi giới
chúng ta đang sống. Thế giới chúng ta thì cũng thế. Nó là sản phẩm của sự
hợp nhất bất nhị của sự trong sáng (quang minh) và tánh Không, của hình
tướng và tánh Không. Những sự vật xuất hiện trong một cách thế hoàn toàn
không bị chướng ngại, và tuy thế chúng không có thực chất. Thực chất của
chúng thì trống không. Điều đó có nghĩa là mọi khả năng của kinh nghiệm
bắt nguồn từ sự hợp nhất bất nhị của hình tướng và tánh Không. Chúng ta
hãy khảo sát sự hiển lộ của thế giới chúng ta hay của cõi Tịnh Độ. Mọi sự
không đơn thuần là một sự trống không (tánh Không) bởi chúng xuất hiện, có
phải thế không? Ta có thể nhìn thấy rõ ràng mọi sự. Mọi sự dường như có sự
hiện hữu và mọi sự có vẻ có một căn bản vật chất trong thế giới chúng ta.
Đó là một vế của phương trình biểu thị sự hiển lộ rõ ràng của các hiện
tượng, của những kinh nghiệm. Tuy nhiên, vế đó không thể có nếu không có
tánh Không. Nếu mọi sự có sự hiện hữu vững chắc, vật chất, nội tại thì
không điều gì có thể hiện hữu. Chính nhờ tánh Không mà những sự vật có thể
hiển lộ như những hình tướng. Chỉ vì có tánh Không nên mọi sự vật mới có
thể hiện hữu. Không có tánh Không thì sẽ chỉ là một khối cứng đặc vững
chắc. Như thế thì sẽ chỉ là một vật. Không điều gì có thể hình thành sự
hiện hữu tương đối mà không có sự đặt nền chủ yếu trong tánh Không. Vì thế
chính nhờ tánh Không mà thế giới chúng ta hiện hữu. Nhờ tánh Không, cõi
Tịnh Độ Cực Lạc được thiết lập bởi năng lực của sự nguyện ước, tích tập
công đức, và trí tuệ nguyên sơ của Đấng giác ngộ A Di Đà. Tôi nghĩ rằng
nếu bạn mới đến với Đạo Phật thì điều này thật khó hiểu, nhưng quả thật
chỉ nhờ có tánh Không màcó hình tướng. Bây giờ ta hãy tiếp tục khảo sát
những phẩm tính đặc biệt của cõi Tịnh Độ được hình thành nhờ những nguyện
ước của Đức Phật A Di Đà được gọi là Cõi Cực Lạc (Dewachen). Ta được biết
là có nhiều cõi Phật khác, nhưng để tới được những nơi đó ta phải hoàn
toàn đạt được một địa vị cao quý. Ví dụ như để đi tới cõi Tịnh Độ của Đức
Phật khác thì phải là một Bồ Tát thập địa hoặc đang tới gần những cánh
cổng của sự giác ngộ toàn triệt và viên mãn, và phải tích tập vô lượng
công đức. Những chúng sinh bình thường rất khó ước nguyện tới đó. Vì chúng
ta mà Đức Phật A Di Đà đã lập những nguyện ước mãnh liệt. Mặc dù cõi Tịnh
Độ của Ngài có vẻ rất xa thế giới chúng ta nhưng đối với những chúng sinh
như chúng ta thì việc tới được cõi đó tương đối cũng dễ dàng. Đó là nhờ
năng lực của những lời khẩn cầu và nguyện ước của Ngài. Như có nói ở trên,
hiện có nhiều bản văn những lời nguyện, khẩn cầu và nguyện ước của Đức
Phật A Di Đà. Nếu bao gồm chúng trong một câu duy nhất thì tinh túy của
những lời nguyện, khẩn cầu, và nguyện ước là: “Cầu mong một Cõi Tịnh Độ
được thiết lập để những chúng sinh bình thường với nghiệp bất tịnh, những
chúng sinh có ác nghiệp, những người không từ bỏ ác hạnh, có thể đi tới
được.” Khi bạn tới những cõi Tịnh Độ của những vị Phật khác, bạn sẽ đạt
được giác ngộ nhờ địa vị cao quý bạn đã có trước khi tới đó. Còn ở cõi Cực
Lạc, bạn có thể tới đó nhưng điều đó không có nghĩa là bạn đã giác ngộ.
Điều xảy ra là bạn sẽ không trở lại vòng luân hồi sinh tử mà đúng hơn, bạn
sẽ có mọi điều kiện tích cực và tốt lành để tích tập công đức và trí tuệ
nguyên sơ. Ở cõi đó bạn sẽ có thể từ bỏ mọi ác hạnh và thực hành để điều
phục và tu hành tâm bạn cho tới khi bạn thuần thục để có thể đạt được giác
ngộ. Như thế đó là một sự giới thiệu tổng quát Cõi Cực Lạc.
Bây giờ tôi sẽ giảng về một bài
nguyện ước được tái sinh trong Cõi Dewachen (Cực Lạc) do Karma Chagme Rag-Astrs
Rinpoche biên soạn. Trước hết, tôi sẽ bắt đầu với một mô tả về địa hình
của cõi Tịnh Độ này. Mặt đất không giống với mặt đất trong thế giới chúng
ta. Nó không gồ ghề và phủ đầy đá. Nó hoàn toàn nhẵn và bằng phẳng, và
được cấu tạo bởi bụi châu báu. Trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc, bạn luôn luôn có
một cảm nhận của cái thấy rộng lớn. Nó rất bao la. Không có những sự thay
đổi ánh sáng và bóng mát. Một ánh sáng toàn khắp rộng lớn xuất hiện từ
thân vật lý của Đức Phật Vô Lượng Quang, Đức Phật A Di Đà. Toàn bộ cõi
giới chìm ngập trong sự chói lọi của thân giác ngộ của Đức Phật A Di Đà.
Mặt đất không khô rắn. Nó mềm và nếu bạn ngã trên đó, bạn sẽ nảy người lên.
Bạn sẽ không bị vấp ngón chân. Ở Dewachen mọi sự đều mềm mại. Ở đó có
nhiều cây cối, chúng là những cây châu báu như ý cho bạn bất kỳ những gì
bạn cần. Những cành cây đầy chim chóc đủ loại. Tất cả chúng đều là những
hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Chúng có giọng hót du dương tuyệt vời. Hơn
là những tiếng hót bình thường, chúng hót những Giáo Pháp làm tâm bạn hoan
hỉ và an bình. Mọi người ở đó được nghe âm thanh du dương của Pháp đều trở
nên an lạc, hạnh phúc, và hài lòng. Có nhiều sông, suối và những con lạch
và nước thì không phải là nước bình thường. Nó là nước hoa. Có những cái
hồ mà bạn có thể nghỉ ngơi ở đó và tắm nước hoa. Mặt đất phủ đầy hoa sen
rực rỡ và thơm ngát, nó nở ra và từ nhụy của mỗi hoa sen hóa hiện vô số
tia sáng. Trên đầu mỗi tia sáng là một vị Phật. Tất cả chư Phật đều thuyết
giảng Pháp. Nhờ nghe các Ngài giảng Pháp tâm bạn rũ sạch mọi cảm xúc tiêu
cực. Trong Cõi Cực Lạc không có bệnh tật, không có sự nghèo khó, sự già
nua và sự chết. Không có sự phân biệt giữa người này và người khác. Tất cả
đều tuyệt đẹp. Tất cả đều đầy ắp những phẩm tính tốt lành. Không có những
thiếu sót, những lỗi lầm, những ô nhiễm, không có các loại đau khổ, thậm
chí từ ‘đau khổ’ cũng không được nghe thấy ở cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Cách thức để được sinh ra ở
Dewachen là lập một niềm tin và ước nguyện mạnh mẽ đối với cõi Tịnh Độ, và
khát khao được sinh ra ở đó. Khi bạn sinh ở cõi đó, bạn không sinh bằng
một tiến trình bình thường. Trong thế giới của ta, hết thảy chúng ta đều
tới đó trong sự khổ nhọc và làm việc trong sự buồn phiền. Ở nơi đây sự
sinh ra là một tiến trình đau đớn. Ở Cõi Dewachen, bạn không sanh ra nhờ
một thai tạng, mà đúng hơn bạn được sinh một cách kỳ diệu trong nhụy một
hoa sen nở. Nếu bạn cầu nguyện với sự nhất tâm và niềm tin nhiệt thành
mãnh liệt được sinh ra ở đó thì bạn sẽ được như ý. Nếu bạn nuôi dưỡng bất
kỳ mối nghi ngờ nào thì bạn vẫn được sinh ở đó nhưng sẽ sinh trong một
bông sen chưa nở. Bạn được tắm trong ánh sáng chói ngời của Đức Phật nhưng
bạn không thể nhận ra mọi phẩm tính của cõi Tịnh Độ và không thể tùy ý du
hành đây đó. Bạn ở trong một bông sen khép miệng cho tới khi những vết
tích sau cùng của sự hoài nghi và tiêu cực bị tẩy trừ. Khi ấy bông sen sẽ
nở ra. Nếu bạn không có chút nghi ngờ nào thì bạn được sinh trong một bông
sen nở. Điều này gắn liền với loại nguyện ươc được tái sinh trong Cõi Tịnh
Độ mà bạn đã lập nên vào lúc chết. Hãy lưu giữ trong tâm sự phân biệt hết
sức quan trọng này giữa hai loại sinh ra khác nhau trong cõi Tịnh Độ. Điều
tối quan trọng là phải lập nguyện ước đúng đắn được tái sinh vào lúc chết.
Hãy làm điều này một cách mạnh mẽ không chút nghi ngờ. Nếu bạn cho phép sự
hoài nghi đi vào tâm bạn thì bạn sẽ sinh trong một bông sen khép miệng.
Nếu vào lúc chết bạn lập nguyện ước mạnh mẽ này thì khi ấy, không phải
trải nghiệm bất kỳ điều gì, bạn được sinh trong nhụy một bông sen nở trước
sự hiện diện của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà. Một trong những phẩm
tính kỳ diệu của việc được tái sinh trong Cõi Cực Lạc là nếu bạn từng đọc
những quyển sách mỏng về việc du hành tới những cõi Tịnh Độ khác thì bạn
có thể đi tới đó lập tức ngay khi ước muốn điều đó. Bạn có thể di chuyển
một cách thần diệu tới bất kỳ cõi Tịnh Độ nào khác chỉ bằng cách lập
nguyện tới nơi đó. Từ thế giới này, bạn không thể tức thì đi tới cõi Tịnh
Độ khác, nhưng từ cõi Tịnh Độ Cực Lạc thì bạn có thể. Bạn có passport,
visa, và mọi loại vé cần thiết để đi tới mọi Tịnh Độ của bất kỳ Đức Phật
nào, ở mọi phương và bất cứ khi nào bạn muốn.
Khi bạn sinh trong một hoa sen
nở, bạn vẫn chưa viên mãn. Bạn đã tẩy trừ khỏi dòng tâm thức của bạn mọi
điều tiêu cực, mặc dù bạn chưa là Phật nhưng bạn được sinh trong một hình
thức có nhiều phẩm tính tích cực giống như những phẩm tính của một vị Phật.
Bạn được sinh ra với một thân sắc vàng rực rỡ. Bạn có những năng lực siêu
nhiên và siêu giác. Bạn được thụ hưởng năm loại năng lực siêu giác. Phẩm
tính khác mà bạn có như một hài nhi là mọi vật bạn cần để cúng dường chư
Phật mà hiện nay bạn nhận thức bằng đôi mắt vật lý của bạn thì ở cõi Tịnh
Độ, chúng sẽ tự động hiển lộ trong đôi bàn tay bạn. Bằng cách ấy bạn có
thể dễ dàng tích tập công đức và hoàn thiện nó để tích tập trí tuệ. Hơn
nữa, cuối cùng thì sự tích tập công đức và trí tuệ đưa tới Phật Quả sẽ xảy
ra rất nhanh chóng trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Trái nghịch với những cõi
Tịnh Độ khác, trong cõi Dewachen (Cực Lạc) tiến trình tích tập công đức và
trí tuệ rất nhanh chóng. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói: “Do đó
việc cầu xin được tái sinh ở cõi Dewachen tích tập công đức nhiều như thể
con cúng dường bảy loại ngọc quý và những châu báu khác đầy tràn ba ngàn
thế giới (được đề cập trước đây).” Nói chung, chúng ta có thể nói rằng bất
kỳ chúng sinh nào nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà (phù hợp với những
Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà) lập nguyện tái sinh trong cõi Dewachen và
dấn mình vào thực hành đó đều có thể được tái sinh trong cõi Dewachen.
Những người từng tích tập sự tiêu cực của năm trọng tội thì khó đạt được
điều đó. Mặc dù thế, ngay cả đối với những người tội lỗi nặng nề như thế,
nếu họ thực hành mãnh liệt thì họ vẫn có thể được tái sinh trong cõi
Dewachen. Tóm lại, về những giáo lý của Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ
Cực Lạc thì thực hành này rất phổ biến trong tất cả những quốc gia theo
Phật Giáo Đại thừa. Tại sao thế? Đó là bởi tính chất của những lời nguyện
của Đức Phật A Di Đà. Thực hành Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ thích hợp
với những người bình thường và ai cũng có thể thực hành. Bạn không phải là
một đại nhân cao quý đã từ bỏ mọi ác hạnh. Bạn không phải là một hành giả
tuyệt vời. Tùy thuộc vào năng lực những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà,
bạn có thể dấn mình vào thực hành này. Đây là một thực hành Kinh thừa. Do
đó, nó là Pháp môn mọi người có thể thực hành. Nó rất dân chủ và được dành
cho tất cả mọi người.
Hỏi: Một khi đã được sinh trong
cõi Tịnh Độ, liệu ta có những cơ hội quay trở lại thế
giới này để giúp chúng sinh đạt được Giác ngộ?
Đáp: Mục đích của việc tái sinh
trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc là để đạt được Phật Quả.
Vì thế, ý nghĩa của cõi Tịnh Độ Cực Lạc là bạn đã có được mọi điều kiện
tốt lành để đạt được sự Giác ngộ toàn triệt và viên mãn. Khi bạn hoàn toàn
giác ngộ thì trạng thái đó không phải là sự Giác ngộ phiến diện để an nghỉ
trong Niết Bàn. Nó là sự Giác ngộ Đại thừa được đặt nền trên tánh Không,
chứng ngộ rằng Niết Bàn và sinh tử không phải là điều để bám luyến. Điều
then chốt của mọi thực hành Đại thừa là lòng Đại Bi. Tự thân cõi Tịnh Độ
được thiết lập bằng năng lực Đại Bi của Đức Phật A Di Đà. Nếu bạn chứng
ngộ tánh Không thì khi ấy lòng bi mẫn tự động hiển lộ. Tánh Không đó cùng
với lòng bi mẫn - là những gì tạo nên Phật Quả – cũng tạo thành sự giải
thoát toàn triệt và viên mãn. Khi bạn giải thoát như thế, bạn sẽ không bị
hạn chế đối với cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Bạn có thể mang bất kỳ cách thế hiển
lộ nào bạn muốn. Bạn có thể đi tới bất kỳ cõi Tịnh Độ nào bạn muốn. Bạn
không ngừng hiển lộ trong vô vàn phương cách khác nhau vì hạnh phúc của
tất cả chúng sinh.
Hỏi: Ở một mặt, việc được tái
sinh ở Cõi Cực Lạc nghe có vẻ thật dễ dàng. Ở mặt
khác thì vào lúc đó để có được sự an lạc thực sự ta sẽ phải củng cố bản
thân, thực sự ước muốn thành tựu Bồ Đề tâm. Do đó đường như có một thách
thức to lớn trong việc ước muốn giúp đỡ người khác và không chỉ quan tâm
tới bản thân. Vì thế việc ấy không thật dễ dàng.
Đáp: Việc tái sinh trong Cõi
Dewachen (Cực Lạc) chỉ khó khăn nếu bạn mắc phạm
một trong Năm Trọng tội Không chuộc lỗi được. Nếu bạn không phạm một trong
những tội đó thì rất dễ dàng, bởi tất cả những gì bạn cần làm thì tuỳ
thuộc vào năng lực của việc hình thành những nguyện ước mãnh liệt được tái
sinh trong Cõi Cực Lạc. Điều mà năng lực đó làm là hợp nhất bạn với sự đối
trị với mọi che chướng và sự phi-đạo đức của bạn. Đó là năng lực của đại
nguyện của Đức Phật A Di Đà. Yếu tố khác góp phần khi bạn hình thành
nguyện ước để nối kết sự thực hành này và được tái sinh trong cõi Tịnh Độ.
Lý do khác khiến ta rất dễ dàng được tái sinh là giây phút chết chính là
mỗi khoảnh khắc. Giáo Pháp dạy rằng mọi sự ở trong trạng thái thay đổi
liên tục. Mọi sự đều vô thường và hướng tới cái chết trong mọi lúc, vì thế
trong mỗi khoảnh khắc, cái gì đó chết đi và cái gì đó tái sinh. Kinh
nghiệm của bạn ra sao thì tùy thuộc vào việc tâm bạn được hướng tới thế
nào. Tư tưởng hiện tại của bạn sẽ đưa dẫn tới kinh nghiệm theo sau của bạn.
Nếu bạn thiết lập một nguyện ước liên tục từ khoảnh khắc này tới khoảnh
khắc khác, thấu hiểu rằng bất kỳ khoảnh khắc nào cũng có thể là lúc chết,
trong mỗi khoảnh khắc bạn đều khao khát được tái sinh trong Cõi Dewachen,
thì bạn đã thiết lập sự tương tục của nguyện ước đó. Điều đó sẽ là kinh
nghiệm của bạn. Nguyên nhân trong khoảnh khắc đó sẽ tạo nên kết quả trong
khoảnh khắc kế tiếp. Mọi sự là sự chuyển hóa trong tâm thức.
Hỏi: Rinpoche, ngài có thể
giảng thêm cho chúng con về ánh sáng trong những bông
sen khép lại? Làm thế nào ánh sáng ấy chiếu sáng chúng?
Đáp: Trong Cõi Cực Lạc, mọi sự
được thấm đẫm ánh sáng. Giống như mọi sự khác ở
trong và khắp Cõi Cực Lạc, nó là một hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Nó là
toàn bộ Đức Phật A Di Đà. Mọi sự được tri giác trong Cõi Cực Lạc là một sự
trải rộng của Đức Phật A Di Đà. Ánh sáng là Ánh sáng của lòng Bi mẫn.
Chính Ánh sáng của lòng Bi mẫn làm thuần thục chúng sinh.
Hỏi: (không nghe rõ)
Đáp: Sự hình thành của lời
nguyện tái sinh trong Cõi Cực Lạc là một vấn đề cá nhân.
Bạn không thể phát triển một nguyện ước nhân danh người nào khác. Tuy
nhiên bạn có thể giúp đỡ người khác bằng cách lập lại cho họ nghe danh
hiệu của Đức Phật A Di Đà và cho họ biết sự hiện hữu của Đức Phật A Di Đà
trong cõi Tịnh Độ. Ta được biết rằng ngay cả việc nghe danh hiệu A Di Đà
cũng rất ích lợi. Một điều khác mà bạn có thể làm để giúp đỡ người khác là
vào lúc họ chết bạn có thể làm những thực hành A Di Đà khác nhau. Chẳng
hạn như vào lúc chết bạn có thể thực hiện Ph’owa, và đó là một thực hành
chuyển di tâm thức của người chết ra khỏi thân họ. Những nghi lễ và puja
khác được thực hiện vào lúc đó. Có một nghi thức được gọi là Shitje. Nó là
nghi lễ được thực hiện vào lúc chết. Nhiều điều có thể được thực hiện mặc
dù người ấy đã chết. Yếu tố tâm thức của họ được nhắm tới và được hướng
dẫn bằng những cách khác nhau.
Hỏi: (nghe không rõ)
Đáp: Chúng ta phải nói một chút
về tánh Không. Những giáo lý tánh Không tuyệt
nhiên không khẳng định rằng những gì ta tri giác thì tuyệt đối không hiện
hữu. Chúng ta không nói rằng các sự vật được cấu tạo bằng những nguyên tử
và phân tử và có thực tại vật chất (theo nghĩa đen) không hiện hữu, và
trong ý nghĩa đó, thì huyễn hóa. Chúng ta đang nói rằng chúng không có
tự-tánh. Chúng không có sự hiện hữu nội tại. Chúng không có thực tại vững
chắc, có thật, tương ứng với cách thức xuất hiện của chúng. Chúng có vẻ
hiện hữu một cách nội tại, nhưng không phải như vậy. Đây là giáo lý của
Phái Trung Đạo vĩ đại – Madhyamika. Ở đây có hai trường phái khác nhau ,
Phái Duy Tâm (Cittamatra) nói rằng mọi sự tự chúng là tâm. Điều duy nhất
thực sự hiện hữu là tâm và mọi điều khác chỉ là một sự phóng chiếu của tâm.
Giáo lý Mahamudra (Đại Ấn) nói rằng bản tánh thực sự của thực tại thì siêu
vượt việc chấp nhận hoặc có hoặc không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng
không. Điều này được gọi là ‘Bốn Cực đoan’ (Tứ cú). Quan điểm Mahamudra
siêu vượt chúng. Đứng ở bình diện chân lý tương đối của ta, trong tiếng
Tây Tạng nói là ‘Kun-zop Dempa’ có nghĩa là một câu mê hoặc. ‘Dempa’ có
nghĩa là chân lý. ‘Kun-Zop’ nghĩa là hoàn toàn sai lầm. Vì thế ‘chân lý
hoàn toàn sai lầm’, chân lý tương đối là kết quả của tri giác sai lầm của
ta. Chúng ta tri giác các sự vật có sự hiện hữu nội tại trong khi thực ra
chúng không có. Tâm thức chúng ta bám chấp vào điều ta tri giác là vững
chắc và thực có. Bởi sự bám chấp trong tâm thức này, ta vật chất hóa điều
mà trong thực tế thì trống không. Đó là một sai lầm. Mọi hiện tượng là
kinh nghiệm của ta. Chúng được kinh nghiệm bởi và trong tâm ta. Nếu khác
đi thì không thể có kinh nghiệm. Mọi sự xuất hiện bên ngoài là một phóng
chiếu của tâm trong ý nghĩa rằng nó được kinh nghiệm bởi tâm. Nó không có
sự hiện hữu nội tại vững chắc từ khía cạnh riêng của nó. Đó là một sự sai
lầm trong tri giác.
Hỏi: Có cách nào khiến ta có
thể ở trong cõi Tịnh Độ, ngoại trừ vào lúc chấm dứt sự
sống theo nghĩa đen. Mặt khác, đây có phải là điều có thể đạt tới trong
đời sống hiện tại? Có thể đi tới cõi Tịnh Độ trong đời này?
Đáp: Có, khi hơi thở sau cùng
đã được thở ra, trước khi hơi thở kế tiếp được thở vào.
Vào lúc đó, có một cái chết và một sự tái sinh. Ở đó bạn có thể kinh
nghiệm cõi Tịnh Độ trong khoảng thời gian giữa những hơi thở.
Hỏi: Rinpoche, ngài nói rằng ta
có thể kinh nghiệm cõi Tịnh Độ trong khoảng giữa
đó, vậy trong trường hợp đó, cái gì là cõi Tịnh Độ?
Đáp: Cái gì thực sự là cõi Tịnh
Độ? Cõi Tịnh Độ là giác tánh nguyên sơ không ô
nhiễm của riêng ta. Nếu từ khoảnh khắc này cho tới khoảnh khắc khác, bạn
hồi quang phản chiếu và vẫn duy trì được bản tánh giác ngộ nguyên sơ của
bạn thì đó là cõi Tịnh Độ. Mọi sự đến từ bổn tâm bạn. Hãy thấu hiểu điều
đó, hãy an trụ ở đó: đó là cõi Tịnh Độ.
Hỏi: Nếu sự duyên sinh xuất
hiện trong tánh Không thì làm thế nào nó có thể hiện
hữu nếu không có sự tạo tác trong tánh Không?
Đáp: Tánh Không và sự duyên
sinh thì bất nhị. Chúng là một. Ngay cả khi nói bất nhị
là đã sai lạc rồi, bởi điều đó hàm ý rằng có thể có một sự nhị nguyên được
vượt qua. Từ vô thủy, chúng luôn luôn là một. Không có sự khác biệt giữa
chúng. Nó không giống như có hai phần. Khi bạn nhìn tánh Không vàsự duyên
sinh một cách nhị nguyên thì đó là sự loại suy của samsara, vòng luân hồi
sinh tử. Hãy vượt qua sự nhị nguyên và bạn đồng thời nhìn thấy nhân và quả.
Khi đó mọi sự đồng xuất hiện. Đó là tánh Không và sự duyên sinh viên mãn,
bất nhị. Trong bản văn, nhiều ví dụ đã được sử dụng để minh họa chân lý
này của sự hợp nhất tánh Không và sự duyên sinh. Tuy nhiên chúng ta hãy
lấy ví dụ chiếc tách này. Như một sự hiển lộ hay xuất hiện tương đối được
cơ cấu tri giác của ta kinh nghiệm, chiếc tách là một cái gì phức hợp. Nó
được cấu tạo bởi những phần tử nhỏ bé. Phải vậy không? Nó được tạo bởi
những nguyên tử và phân tử trở thành những chất thể đặc biệt là đất, nước,
gió, và lửa. Tất cả những sự vật này được kết hợp trong một cách thế như
để tạo nên cái ta gọi là chiếc tách. Sau đó nó được trang trí, vẽ lên và
được khắc chạm. Đó là cái gì được tạo nên mà tiếng Tây Tạng chúng tôi nói
là ‘Dutshe’: phức hợp, cái gì đó được tạo nên. Những nhân và duyên được
tập họp lại theo một cách để tạo nên một sự hiển lộ tương đối mà ta có thể
sử dụng và tác động lẫn nhau và nhận thức như điều ta gọi là một chiếc
tách. Tuy nhiên, nếu từ khía cạnh riêng của nó và không phụ thuộc vào
những nhân và duyên thì không có sự vật gì gọi là chiếc ‘tách’. Không có
điều gì xuất hiện như chiếc ‘tách’ tự nó và thuộc về nó mà tách biệt với
toàn thể tiến trình những nhân và duyên cùng tụ hội. Nó không có bản chất.
Bản chất của nó thì trống không. Trong Kinh ‘Prajna Paramita Hydraya’ (Tâm
Kinh): “Sắc tức là Không, Không tức là sắc, sắc không khác Không, Không
không khác sắc.” Mọi hiện tượng có cùng bản tánh chính xác đó. Bất kỳ điều
gì được kinh nghiệm trong luân hồi sinh tử hay sự siêu vượt của nó đều có
đồng một bản tánh chính xác đó. Bản chất của nó trống không và nó được
kinh nghiệm như một kết quả của sự duyên sinh. Tri giác những sự vật như
những thị kiến xen kẽ của tánh Không và sự duyên sinh thì vẫn là một chúng
sinh bình thường. Vượt qua thị kiến nhị nguyên, tri giác các sự vật đồng
thời là tánh Không và sự duyên sinh, thì đó là Phật. Vị Thánh vĩ đại
Nagarjuna (Long Thọ) nói: “Luân hồi sinh tử và sự siêu vượt của nó (sinh
tử và Niết Bàn) không phải là hai. Việc thấu hiểu bản tánh của luân hồi
sinh tử trong bản chất của nó là sự siêu vượt.”
H.H.
Drikung Kyabgon Chetsang Rinpoche
Nguyên tác :
“Amitabha Buddha and the
Pureland of Dewachen
The Oral Commentaries of His
Holiness The Drikung Kyabgon, Chetsang RinpoVie65
Michael Lewis dịch sang Anh ngữ
http://www.purifymind.com/AmitabhaDewachen.htm
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phat_dida_tinhdo.htm