-
GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRONG
-
THẾ GIỚI TÂN TIẾN HIỆN ÐẠI
- Nguyên tác:
Ðại Ðức Kodo Matsunami
Trong thời đại tân tiến ngày nay, hình như chúng ta có thể
thụ hưởng tất cả mọi điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc
và có tiền. Tiền bạc chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi
văn minh, có thể giúp chúng ta thâu ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều
thú vui trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên đồng thời, chúng ta thấy rằng
những tiện nghi tân tiến đó không giải quyết được những vấn đề thiết yếu
cho đời sống chúng ta. Một số đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật
chất cũng như tinh thần đã làm lay chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời
sống chúng ta còn luôn bị đe dọa không dứt bởi những làn sóng bất an và sợ
hãi. Người hôm qua chúng ta gặp có thể bị tai nạn và chết hôm nay. Và
ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu lại chẳng xảy ra để tận diệt
toàn thể chúng ta.
Sự có một chiếc xe hơi hay một gian nhà không bù đắp được niềm lo âu và sợ
hãi ở nội tâm chúng ta. Khi chúng ta nhận thức được rằng nhu cầu vật chất
là thiết yếu, nhưng không phải là phương tiện tuyệt hảo có thể làm cho
cuộc sống chúng ta phong phú, dĩ nhiên lúc ấy chúng ta sẽ phải tìm đến tôn
giáo là nơi hy vọng có thể đem lại cho chúng ta sự an bình trong tâm và ý
nghĩa của cuộc sống. Xung quanh chúng ta có nhiều màu sắc tôn giáo đang
mời gọi tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng chỉ ảnh hưởng đến chúng ta một
cách gián tiếp. Nhiều người quá chú trọng đến công tác xã hội gần như quên
hẳn những vấn đề khác của đời sống tôn giáo. Có những kẻ lại chỉ lo nghĩ
đến việc cầu xin mê tín dị đoan và chấp nhận mù quáng mọi giáo điều của
giới lãnh đạo tinh thần trong tôn giáo.
Mọi lý thuyết Thần Học về những quyền lực siêu nhân của họ tìm thấy qua sự
chữa lành bệnh nhân và các phép lạ không dể dàng chứng thực trong đời sống
hằng ngày của chúng ta. Do đó, chúng trở nên càng khó hiểu và thực hành.
Nhiều người đã không thỏa mãn nên khao khát đi tìm một vài giải đáp chân
chính cho những vấn đề thắc mắc trong cuộc, có thể thỏa mãn cả hai mặt
tinh thần và tình cảm của họ; nhưng họ đã không tìm thấy điều đó trong các
tôn giáo cổ truyền và đành bỏ chúng để hy vọng tìm câu giải đáp trong
những thế giới ăn chơi dục vọng. Tuy nhiên, họ đã thất bại không tìm ra ý
nghĩa cuộc sống qua những cảnh giới hoan lạc nói trên và tinh thần họ trở
nên những kẻ cuồng loạn không còn có thể đương đầu với mọi vấn đề sự sống
khách quan của họ nữa.
Chúng ta nên nhận thức rằng chúng ta phải làm chủ nhân ông, chứ không là
những kẻ nô lệ cho mọi nếp sống dục vọng thường tình mà chúng vốn lâu đời
ngự trị ở chúng ta. Trong vấn đề này, Phật Giáo đã nỗi bật hơn các tôn
giáo khác. Phật Giáo là một tôn giáo- thế giới và là một phương pháp sống
do Ðức Phật Thích Ca chỉ bày khoảng 2.500 năm về trước. Ðiều mà Ngài đã
chứng ngộ là một giáo lý độc nhất chưa có vị Hiền Thánh nào trên thế giới
này tìm ra. Chính Ngài đã có một kinh nghiệm khổ đau về mọi vấn đề cuộc
sống và nhờ ở sự tu tập tranh đấu bản thân, Ngài đã giác ngộ được con
đường tận diệt chúng. Con đường đó là sự nhận thức về “Bản Thể Ðồng Nhất
Của Sự Sống” mà không một tôn giáo Tây Phương nào có thể tìm ra.
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng tất cả chúng sanh hữu tình đều có chung ý
muốn ham sống và sự thể hiện nó trong những hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ chỉ có thể sống còn nhờ nương
vào sự sống của những kẻ khác. Cho nên cuối cùng, đức Phật tin tưởng rằng
con đường duy nhất chúng ta có thể áp dụng mà không làm hại lẫn nhau là
thực hiện sự đồng nhất căn bản của mọi cuộc sống. Thế giới chúng ta không
gì khác hơn ngoài sự thể hiện tánh đồng nhất của cuộc sống trong đó mọi
chúng sanh, hữu tình cũng như vô tình đều mật thiết tương quan sinh tồn.
Trên căn bản này sự cuộc sống, con người phải xóa bỏ mọi sự phân biệt và
chấm dứt cái ý tưởng gọi là “Của Ta” hoặc “Không Phải Của Ta”. Sự phân
biệt này phát sinh bởi lòng dục vọng vô minh, nguồn gốc sâu xa từ vô thỉ
đã buộc ràng con người. Theo Phật Giáo, lòng tham mù quáng đã khiến chúng
sanh phân biệt cuộc sống cá nhân với vô lượng thế giới sự sống của những
kẻ khác, và từ đó phát sinh ở tâm niệm con người mọi ý tưởng tranh chấp,
ngộ nhận và xung đột. Cũng bởi lòng tham mù quáng này đã dẫn đến sự chấp
ngã “cái Ta” của con người và do đó sinh ra tính xấu vị kỷ. Vì dục vọng vô
minh con người đã chống lại bản thể đồng nhất của sự sống để tạo nên một
thế giới giả dối với muôn ngàn cuộc sống sai biệt, một thế giới không thật
có, mà chỉ do những vọng tưởng điên đảo của con người tạo ra.
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta
có thể chia xẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc
của họ, và bởi tất cả chúng ta là Một nên khi chúng ta làm
hại kẻ khác tức có nghĩa là chúng ta đã làm hại chính mình.
Cho nên, bản ngã đồng nhất này là một chân lý cao siêu nhất và đức Phật
được tôn xưng là bậc Toàn Giác, đấng đã giác ngộ thấu suốt tận cùng bản
thể của sự sống muôn
loài.
Khi một vị đệ tử của đức Phật hỏi: “Ngài có phải là Thượng Ðế không?”. Ðức
Phật trả lời: “Không”. “Là một bậc Thánh?”. “Không”. “Vậy Như Lai là người
thế nào?”. Ðức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”. Câu trả lời của đức
Phật đã trở thành danh hiệu của Ngài, bởi đây là điều đức Phật đã thuyết
bày.
Ðức Phật không phải là đấng Tạo Hóa dựng nên vũ trụ như một số người lầm
tưởng hay một vị Thần cao cả có nhiều quyền phép thiêng liêng. Ngài không
là một quan tòa có quyền thưởng phạt chúng ta, cũng không phải đấng Thượng
đế phân biệt được hành động Thiện, Ác của con người. Ngài chỉ là một ánh
sáng chỉ đường tuyệt vời trong vũ trụ. Trí tuệ vô biên và lòng từ bi bao
la của Ngài đã khai ngộ cho chúng ta nhận thức được sự vô thường mong manh
của kiếp sống con người và khích lệ chúng ta có được lòng thương tất cả
mọi chúng sanh vốn chung cùng với chúng ta một bản thể đồng nhất.
Cho nên chúng ta là những vị Phật sẽ thành, và đức Phật với chúng sanh đều
có tương quan liên hệ, nghĩa là trong Phật có chúng sanh và trong chúng
sanh có Phật. Ðây không phải là một cảnh giới huyền bí hay ảo tưởng riêng
dành cho những kẻ siêu phàm mới có thể đạt được, mà là một cuộc sống thông
thường chúng ta có thể thực hiện trong đời sống hằng ngày. Giáo lý đức
Phật không phải tìm thấy bởi sự suy luận hay tranh biện mà do ở kinh
nghiệm trực tiếp được xây dựng trên chân lý của những luật nhân qủa. Ðức
Phật dạy: “Giáo lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy cuộc sống là
khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ”. Lời dạy của Ðức Phật do đó
rất thực dụng và khoa học cùng luôn luôn liên hệ đến những vấn đề sự sống
và năng lực phát triển tinh thần của chúng ta.
Khi đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã truyền dạy cho đức A Nan một trong
những đại đệ tử của Ngài như sau: “Này A Nan! Ngươi hãy tự làm ngọn
đuốc cho chính ngươi. Ngươi hãy quay về nương tựa nơi chính ngươi. Ðừng
tìm nơi nương tượng nào khác ở ngoài. Hãy nắm vững chân lý làm ngọn đèn
soi sáng cho ngươi. Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho ngươi. Hãy
tinh tấn để tự giải thoát” (O Ananda, be ye lamps unto yourself. Be ye
a refuge to yourself. Betake yourself to not external refuge. Hold fast to
the Truth as a lamp. Hold fast as a refuge to the Truth ……Work out your
own salvation with diligence…….). Trải qua hơn 2.500 năm. Phật giáo dù đã
được phát triển thành nhiều hệ thống tư tưởng và học thuyết nhưng không
ngoài cứu cánh là khai thị cho chúng sanh nhận thức được “Bản Thể Ðồng
Nhất Của Sự Sống” qua đức tính bình đẳng Từ Bi và Trí Tuệ của đức Phật.
Trích tạp chí Tiếng Nói Phật Giáo” (Voice of Buddhism) số tháng 7
năm 1964 phát hành tại Kuala Lumpur (Mã Lai Á)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phatgiao_hiendai.htm