1. Ba phước
Nói đến việc tu học của một
người, Phật giáo chia thành năm giai đoạn. Mỗi một giai đoạn trong kinh
luận nói rất phong phú. Nhắc đến quá trình tu học của một người, Phật dạy
rất rõ. Nên bắt đầu từ đâu? Từ ba phước. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có
nói điều đó. Đây là một đạo lý rất quan trọng, cùng với hệ tư tưởng của
Nho gia không bàn mà hợp. Phật nói phước báo thứ nhất là thuộc phạm vi
trời người, nói một cách khác chúng ta muốn làm Phật, Bồ tát trước tiên
chúng ta phải nhận thức rõ về vị trí đó. Làm Phật, làm Bồ tát là trở thành
một con người có hiểu biết. Vì chư Phật và chư vị Bồ tát đối với vũ trụ
nhân sinh này có sự nhận thức rõ ràng. Vì vậy làm Phật, Bồ tát không phải
là đi làm thần tiên, làm thần tiên là đã trở thành tôn giáo. Nếu một người
hiểu rõ về chân tướng của vũ trụ nhân sinh thì người này được gọi là Phật,
là Bồ tát. Phật là một người có hiểu biết giác ngộ viên mãn, Bồ tát tuy
giác ngộ nhưng chưa đạt đến cứu cánh viên mãn. Trí tuệ chúng ta cùng với
trí tuệ Phật tuy bình đẵng, song Phật, Bồ tát là người giác ngộ, chúng ta
thì mê, phải có nhận thức chân chính như vậy mới không có sự ngộ nhận sai
lầm về giáo nghĩa của Phật giáo. Do đó, chúng ta nên cầu làm Phật, làm Bồ
tát, hy vọng trở thành một con người hiểu biết, không muốn làm người hồ
đồ. Phàm phu là một người hồ đồ, Phật, Bồ tát là những người hiểu biết.
Nói như thế mọi người có thể hiểu một cách dễ dàng. Như vậy, Phật dạy
chúng ta nên thực hành từ đâu? Từ hiếu thuận, việc này tương tự như nhà
Nho. Vì thế, phước báo thứ nhất là thuộc phạm vi trời và người, chúng ta
phải làm tròn, làm tốt những điều kiện này mới có khả năng thành Phật.
Trong phạm vi này , Phật nói có bốn điều, một là hiếu dưỡng với cha mẹ ,
hai là phụng sự sư trưởng, ba là từ bi không sát sinh, bốn là tu mười
thiện nghiệp. Bốn điều này chính là căn bản, là cội gốc của người học
Phật. Yù nghĩa của chữ hiếu có phạm vi rất lớn và sâu mầu, đặc biệt trong
văn tự của Trung Quốc, vì ý nghĩa văn tự của Trung Quốc rất đặc thù mà bất
kỳ một dân tộc, một quốc gia nào trên thế giới đều không có. Điều đó có
thể cho chúng ta tự hào về tổ tiên cha ông của chúng ta. Có thể nói, họ
rất có sự chiếu cố, quan tâm cho hậu thế. Trí tuệ và kinh nghiệm của họ
muốn truyền đạt cho con cháu bằng công cụ gì? Chính là văn tự, qua văn tự
chúng ta có thể cảm nhận được điều đó. Đây là một dụng cụ truyền đạt rất
viên mãn mà tổ tiên chúng ta để lại cho chúng ta, mà bất kỳ một quốc gia
nào trên thế giới này đều không thể tìm thấy. Trong việc chế tác ra văn tự
Trung Quốc, có sáu nguyên tắc được hình thành, còn được gọi là Lục thư.
Trong sáu nguyên tắc đó có một nguyên tắc gọi là hội ý, như chữ hiếu chẳng
hạn. Chúng ta xem chữ hiếu có ý nghĩa gì? Chữ hiếu bao gồm có hai bộ hợp
lại mà thành. Trên là bộ lão , bên dưới là bộ tử, nghĩa là thế hệ trước và
thế hệ sau là một thể, tinh thần của chữ hiếu được kiến tạo trên cơ sở
này. Hiện tại , người ngoại quốc gọi là đại câu, đại câu nghĩa là không
hiếu thuận, thế hệ trước và thế hệ sau không ăn khớp mà tách rời nhau.
Thế hệ trước vẫn là thế hệ trước, thế hệ sau vẫn là thế hệ sau, quá khứ vô
thủy, vị lai vô chung. Vì không hiểu được đạo lý và không có khái niệm nên
họ không có truyền thống hiếu đạo. Nho gia và Phật giáo đều kiến tạo trên
nền tảng hiếu thuận. Nói một cách khác, muốn làm Phật, trước tiên chúng ta
phải thực hành viên mãn việc hiếu thuận thì mới có thể thành Phật. Nền
tảng dạy học của Phật giáo không ngoài việc dạy con người ta phải biết
hiếu thuận mà thôi.
Công đức dạy dỗ nên người là
nhờ ơn thầy, việc phụng sự thầy phải được xây dựng trên nền tảng hiếu
thuận, cho nên hiếu thuận là cội gốc. Một người muốn trở thành người tốt
thì người đó phải có sự cống hiến đối với xã hội. Người đó nhất định phải
trải qua sự đào tạo trong một nền giáo dục tốt. Một nền giáo dục tốt phải
là nền giáo dục có sự gắn bó, phối hợp mật thiết giữa gia đình và trường
học, mới có thể cho ra đời những người con đạo đức. Làm cha mẹ chúng ta
không thể nói với con cái rằng, con là con của cha mẹ, vì thế con phải
hiếu thuận với cha mẹ. Giả như đứa con hỏi ngược lại, vì sao con phải hiếu
thuận với cha mẹ, thì chúng ta làm sao trả lời! Cho nên, dạy hiếu thuận là
trách nhiệm của người thầy, thầy giáo có trách nhiệm đem đạo lý dạy cho
học sinh hiểu vì sao cần phải hiếu thuận với cha mẹ? Đồng thời cha mẹ cũng
có trách nhiệm dạy cho con mình vì sao cần phải biết tôn sư trọng đạo? Làm
thầy giáo, chúng ta cũng không thể nói với học sinh tôi là thầy của các
em, các em cần phải tôn sư trọng đạo. Vì vậy, giữa gia đình và nhà trường
phải có sự phối hợp qua lại, mới có thể xây dựng nên con người có tài đức
cho quê hương đất nước. Thế nên, tu phước là bước khời đầu. Hiếu thuận cha
mẹ và phụng sự sư trưởng là nền tảng giáo dục chân chính để tu phước. Từ
đó tiến lên một cấp bậc nữa là bạn phải có tâm từ bi, phải có sự quan tâm
đối với xã hội, quan tâm với đại chúng, chăm sóc cho cộng đồng xã hội, đó
là thể hiện tâm từ bi. Để nuôi dưỡng lòng từ, quan trọng là không được sát
sinh hại vật, như vậy chúng ta mới không làm tổn thương bất kỳ một người
nào, hay không làm hại bất kỳ một động vật nào. Để nuôi dưỡng tâm từ bi,
chúng ta cần phải tu mười thiện nghiệp, mười thiện nghiệp là nền tảng cơ
bản để làm người. Thân chúng ta không sát sinh, trộm cắp, tà dâm; miệng
không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không nói
lời ác độc; ý không tham, không giận và si mê. Đó là tu ba phước.
2. Lục hòa
Lục hòa hay còn gọi là lục hòa
kính, là sáu nguyên tắc, thái độ, cung cách cư xử trong một cộng đồng tập
thể, gọi chung là lục hòa.
Một là kiến hòa đồng giải. Nói
theo ngôn ngữ hiện đại là cùng xây dựng hiểu biết chung, đây là một việc
quan trọng. Tục ngữ có câu: “Gia hoà vạn sự hưng”. Sống trong một gia
đình, nếu các thành viên có cùng chung phương hướng và nỗ lực, gia đình đó
nhất định sẽ được hưng vượng; một quốc gia có sự hòa hợp như vậy thì quốc
gia đó sẽ phát triển. Vì vậy, kiến tạo sự nhận thức chung là một hình thức
được ưa chuộng và phổ biến trong các tập thể hiện nay.
Nguyên tắc thứ hai là giới hòa
đồng tu, có nghĩa là tôn trọng và thuân theo pháp luật. Giới là pháp luật,
quy củ. Như vậy, mọi người ai cũng tôn trọng và tuân theo pháp luật, quốc
gia có quốc pháp, nhà có gia quy, công ty xí nghiệp thì có nội quy chương
trình. Nếu người người đều tuân giữ, chăm lo hết lòng, tận lực có tinh
thần với trách nhiệm được giao thì sự nghiệp mới có thể thịnh vượng.
Nguyên tắc thứ ba là thân hòa
đồng trụ, thứ tư là khẩu hòa vô tranh, và ý hòa đồng duyệt là nguyên tắc
thứ năm. Nói theo góc độ hiện đại, ba nguyên tắc trên là chỉ cách xử sự ăn
ở hòa thuận với nhau. Nguyên tắc sau cùng rất quan trọng, là lợi hòa đồng
quân, chỉ về phương diện vật chất trong đời sống làm sao đạt đến trình độ
quân bình mà không có sự sai khác. Đây là nguyên tắc tối quan trọng mà xã
hội ngày nay cần phải áp dụng. Nói đến nguyên tắc này thì cách đây ba
nghìn năm, Đức Phật đã có nói đến lợi hòa đồng quân. Cho nên Phật pháp
chân chính rất tự do dân chủ, đó cũng là lý tưởng cao độ của nhân loài
ngày nay.
3. Tam học: Giới, Định, Tuệ
Tam học là trung tâm giáo dục
của Phật giáo, cũng là khóa trình của Phật giáo. Giáo khoa thư, kinh điển
tuy rất nhiều nhưng trung tâm không đi ngược lại với giới, định và tuệ.
Nghĩa là bất kỳ một bộ kinh điển, không luận đại thừa hay tiểu thừa, một
khi được triển khai không ngoài ba môn tam học. Song sự triển khai hoàn
toàn không giống nhau, có kinh chú trọng ở phần giới, có kinh chú trọng ở
phần định, có nhiều kinh lại chú trọng ở phần tuệ. Nhưng tất cả lại có
trình tự theo thứ lớp, trước tiên là giữ giới, do giới sinh định, công
năng của định sẽ phát sinh trí tuệ. Do đó chúng ta cần phải tuân thủ theo
thứ tự, không tuân thủ thì khó đạt được kết quả như ý. Trì giới nói theo
ngôn ngữ hiện đại chính là chúng ta phải tuân giữ khái niệm, giữ gìn tinh
thần, chỉ có làm như vậy định mới phát sinh. Định nghĩa là khi đối duyên
xúc cảnh không bị ngoại cảnh nhiễu động, dù ai nói ngã nói nghiêng, tâm
chúng ta vẫn chủ động và có thể làm chủ được mình, đó chính là định. Từ
chỗ có định, trí tuệ sẽ sinh. Nếu muốn làm chủ được mình thì đối với thực
tướng, chúng ta cần phải nhận thức cho thấu đáo, viên mãn. Vì thế giới,
định và tuệ là ba môn học mà Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, đây là cương
yếu tổng quát của Phật pháp, ba món này có quan hệ mật thiết với nhau,
không thể tách rời.
4. Lục độ
Lục độ là sáu nguyên tắc đối
nhân xử thế trong cuộc sống mà Phật đã dạy cho chúng ta. Nói là nguyên
tắc chỉ nhằm giúp cho mọi người dễ hiểu. Sáu nguyên tắc này, chúng ta cần
phải tuân theo, bất luận chúng ta thuộc địa vị nào, đời sống sinh hoạt ra
sao, xuất gia hay tại gia, chúng ta cũng phải nên theo đó mà thực hành,
cho nên gọi là Bồ tát. Chúng ta muốn làm Bồ tát nhất định phải tuân giữ
sáu nguyên tắc này. Thứ nhất là bố thí. Bố thí có nghĩa là xả bỏ, phóng
hạ, không phải bỏ bê công ăn việc làm, mà buông xả tâm keo kiệt, bỏn xẻn,
lo âu, phiền não, đó mới là chân chính bố thí. Vì thế, hiện tại mọi người
phát sinh rất nhiều nhận thức sai lầm, cho rằng đi đến chùa hay một tự
viện nào đó cúng dường tiền tài, hay làm một việc gì thì gọi là bố thí. Đó
là một nhận thức sai, tất nhiên, làm như vậy cũng gọi là bố thí, song
không đúng với ý nghĩa chân chính của bố thí. Bố thí là chúng ta phải mang
những lo âu, phiền não, chấp trước, vọng tưởng mà phóng hạ đi. Đây là
phương pháp tự độ. Đối với phương pháp độ tha, Phật giáo dạy bố thì có ba
loại: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Bố thí tài là chúng ta đem của cải
của mình tạo ra để giúp người, nó tương đối dư thừa. Nói theo nghệ thuật
cao độ là đời sống thực tại của chúng ta có tự tại, không bị vướng mắc.
Không nhất định chúng ta phải rất giàu, hào hoa mới có thể làm được việc
bố thí. Sống trên đời này chẳng có gì có thể làm cho chúng ta thỏa mãn về
sự tham muốn, chỉ cần chúng ta biết đủ về sự ăn mặc là chúng ta sẽ có sự
tự tại. Của cải của chúng ta không cần phải dư thừa, ăn làm sao cho đủ no,
mặc làm sao cho đủ ấm, ở trong một căn nhà làm sao che mưa che nắng là đủ,
sống như vậy chúng ta sẽ cảm thấy thân tâm mình an ổn. Tóm lại, đem vật
chất cho người đó gọi là tài thí . Bố thí mà chấp vào tướng, nghĩa là còn
để lại trong lòng, dù bố thí nhiều bao nhiêu cũng chỉ được phước báo phổ
thông, không thể phát sinh trí tuệ. Chúng ta phải bố thí thế nào mà tâm
của chúng ta thanh tịnh, không có mảy may nhiễm trước, không chấp trước,
được vậy mới có công đức chân chính. Công đức là giới, là định, là tuệ. Có
định tuệ, có giúp đỡ cho người thì mới gọi là công đức, có định tuệ mà
không giúp đỡ cho người thì không được gọi là công đức.
Pháp bố thí là chúng ta có trí
tuệ, có kỹ năng, đem trí tuệ và kỹ năng mà truyền đạt lại cho người, gọi
là pháp thí. Thí như chúng là người học Phật pháp, hiểu biết về Phật pháp,
trong công tác hàng ngày tiếp xúc với mọi người, chúng ta đem đạo lý giảng
giải cho họ nghe, giúp cho họ giác ngộ đó gọi là bố thí pháp. Bố thí pháp
chắc chắn không đòi hỏi thù lao. Cho nên có nhiều người đồng tu, khi có
băng và đĩa CD, chúng tôi đều phát hành ấn tống đến tất cả cho họ nghe, đó
cũng là bố thí pháp. Sách băng không có bản quyền, ai ấn tống và phát hành
được thì tốt, vì nó đem lại lợi ích cho xã hội, cho mọi người. Nếu kinh
sách có sở hữu bản quyền thì không còn là bố thí pháp nữa, mà là buôn bán
kinh doanh. Vì thế, chúng ta phải trợ giúp cho xã hội, nhiệt tâm mà làm,
làm được rồi thì giữ gìn tâm cho thanh tịnh, tự tại, không nên chấp vào
việc đó.
Vô úy thí là giải quyết khó
khăn, sợ hãi cho chúng sinh. Chúng sinh có lo lắng sợ hãi và tâm bất an,
chúng ta giúp họ thân tâm được an ổn, đó gọi là bố thí vô úy. Phật dạy
người thực hành vô úy thí được quả báo tráng kiện, trường thọ; bố thí
pháp được quả báo thông minh trí tuệ; tài thí được giàu sang. Người thế
gian ai ai cũng muốn được giàu sang, trí tuệ, thông minh, mạnh khỏe và
sống lâu, nhưng nếu không biết tu nhân, thì những ham muốn ấy chỉ là vọng
tưởng, còn cầu Phật, cầu Bồ tát gia hộ nhất định sẽ không được. Vì thế
chúng ta đừng quên, mỗi chúng ta ai cũng có thể làm việc bố thí, bố thí
không nhất định phải có nhiều tiền, nhiều tài năng mới có thể làm việc bố
thí, mà trong chúng ta, ai ai cũng có khả năng làm được việc đó cả.
Nguyên tắc thứ hai là trì giới.
Trì giới chính là tuân thủ, bất luận chúng ta làm công tác gì đều cần phải
giữ gìn quy củ, nội quy và pháp luật.
Nguyên tắc thứ ba là nhẫn nhục.
Nhẫn nhục chính là tâm kiên nhẫn, làm bất kỳ một công việc gì, nếu không
có tâm nhẫn nại, công việc chúng ta nhất định sẽ không thành tựu. Việc
càng cao, càng đòi hỏi tâm nhẫn nại càng lớn, khi ấy mới có khả năng thành
tựu.
Nguyên tắc thứ tư là tinh tấn.
Tinh tấn nói theo ngôn ngữ hiện đại đó là sự cầu tiến bộ. Nhất định không
được có tâm bảo thủ, không thể lấy ít mà cho đủ. Thời đại khoa học kỹ
thuật hiện tại con người càng đổi mới, nếu chúng ta không chịu tiến bộ sẽ
bị xã hội đào thải. Vì thế, Phật pháp chẳng những nói tiến bộ trên mặt trí
tuệ, đức hạnh, kỹ thuật, mà còn tiến bộ về cả trong đời sống sinh hoạt,
phải không ngừng phát triển và thăng hoa. Như thế, đủ biết Phật pháp là
không lạc hậu, không bảo thủ mà luôn luôn phải tiến lên.
Nguyên tắc thứ năm là thiền
định. Ý nghĩa của thiền định là nói đến sức mạnh làm chủ của bản thân,
không dễ dàng bị ngoại cảnh dao động. Làm thế nào có thể đạt được định
lực?
Thiền định là một danh từ
thường được sử dụng trong thiền tông. Trong Lục Tổ Bảo Đàn kinh, Lục Tổ
Huệ Năng có nói rất rõ ràng và minh bạch. Tổ dạy chúng ta, Thiền nghĩa là
không chấp trước vào các tướng, nói theo ngôn ngữ hiện đại cho dễ hiểu đó
là không bị ngoại cảnh mê hoặc, cám dỗ; Định là tâm không dao động, luôn ở
trạng thái thanh tịnh, không khởi phân biệt, phiền não, chấp trước. Lục Tổ
nhờ nghe Kinh Kim Cang mà ngộ đạo, vì thế Tổ giải thích ý nghĩa thiền định
cũng y chiếu theo Kinh Kim Cang. Trong Kinh Kim Cang, Phật có nói hai câu:
“Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Bất thủ ư tướng là thiền, như như bất
động là định. Như vậy đủ biết thiền định không phải là ngày ngày ngồi quay
mặt vào tường. Quay mặt vào tường chỉ là một mặt, mà trong các cử chỉ như
đi, đứng, nằm, ngồi và trong các hành động sinh hoạt khác, chỉ cần chúng
ta bên ngoài không nắm giữ, chấp thủ các tướng, bên trong tâm không điên
đảo, xao động, đó chính là thiền định. Vì thế, trong Kinh Hoa Nghiêm
chúng ta thấy các vị Bồ tát, họ tu hành ở đâu? Ở chợ. Trong kinh nói là ở
chợ. Nói theo thời nay tức là những nơi náo nhiệt, các vị ấy đến những nơi
đó để tu hành. Điều này chúng ta cần phải nhận thức cho sâu. Tuy các vị ấy
đến nơi đó để tu thế nhưng tâm của các vị ấy vẫn hằng thanh tịnh và không
bị nhiễm trước. Tuy sở hữu tất cả các thứ nhưng không bị mê hoặc và quyến
rũ. Vì thế chúng ta cần phải đạt được như các vị ấy mới có được sự chân
thật hưởng thụ. Trí tuệ là sự hưởng thụ tối cao của con người.
Nguyên tắc cuối cùng là trí
tuệ. Chúng ta không có trí tuệ thì khi làm bất cứ việc gì khó mà thành tựu
viên mãn. Vì vậy, chúng ta cần phải tuân thủ sáu nguyên tắc này, đặc biệt
là chúng ta muốn thực hành Bồ tát hạnh. Trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày, chúng ta gặp bất kỳ một sự việc gì không vừa ý, có phương pháp gì có
thể giúp chúng ta không nổi nóng và tức giận không? Thật ra, chúng ta rất
khó giải quyết. Chúng ta thử nghĩ xem, lúc sự việc không vừa ý đã phát
sinh, chúng ta liền phát cáu không giải quyết được vấn đề, mà còn tổn hao
tâm can, chỉ có uổng phí. Chi bằng chúng ta giữ tâm bình tĩnh, tâm có bình
tĩnh thì trí tuệ mới có. Chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết tốt đẹp được
vấn đề. Vì vậy, các trạng thái tâm lý như buồn vui, giận hờn, thương yêu,
ganh ghét, hơn thua, … chỉ là những tình cảm thường tình của thế gian, vì
vậy thiền và trí tuệ rất quan trọng. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta
phải cố gắng giữ tâm bình tĩnh, thanh tịnh, chỉ có bình tĩnh mới có thể xử
lý được vấn đề, chỉ có bình tĩnh mới sinh được trí tuệ. Bình tĩnh là yếu
tố quan trọng hơn hết.
5. Mười nguyện
Mười nguyện là mười phương pháp
tu học thuộc loại cao đẳng, không phải là những phương pháp tu học thông
thường. Người bình thường có thể thực hành được lục độ, khi thực hành viên
mãn lục độ có thể tiến lên một bước tu tập nữa là mười hạnh nguyện Phổ
Hiền. Điểm đặc sắc của mười nguyện này là tâm bình đẳng và tâm thanh tịnh.
Nếu chúng ta không có tâm bình đẳng và tâm thanh tịnh thì không thể tu
được mười hạnh nguyện Phỏ Hiền. Ví dụ trong mười hạnh nguyện, nguyện thứ
nhất là lễ kính chư Phật. Chư Phật là ai ? tất cả chúng sinh đều là Phật,
mà Phật không phải chỉ cho Phật đã thành. Vì Phật có ba hạng: Phật quá
khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai. Phật vị lai là tất cả chúng sinh.
Ngoài loài hữu tình, chúng sinh bao quát cả loài thực vật và khoáng vật,
đó là cảnh giới được nói đến trong kinh Hoa Nghiêm: “Hữu tình vô tình,
đồng viên chủng trí”. Chẳng những con người có khả năng thành Phật mà ngay
cả động vật, thậm chí cả khoáng vật và thực vật cũng có khả năng đó. Vì
thế, tu hạnh lễ kính là thực tập bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Nếu
tâm chúng ta còn khởi phân biệt và chấp trước, còn cao thấp là lục độ,
chưa phải là mười hạnh nguyện. Đây chính là điểm khác biệt giữa mười hạnh
nguyện và lục độ.
-
TU HỌC THẾ NÀO MỚI CÓ THỂ PHÓNG HẠ ĐƯỢC PHIỀN NÃO?
Đây là việc mà người sơ cơ học
Phật rất khó làm. Vì sao chúng ta không thể phóng hạ và buông xả được
phiền não? Vì không có nhận thức chính xác, không hiểu rõ về chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Nếu chúng ta liễu giải triệt để được thì tự
nhiên chúng ta sẽ phóng hạ được, cho nên Phật Thích Ca cả cuộc đời chỉ
giảng kinh và thuyết pháp. Vì sao Phật nói thời kinh Bát Nhã đến hai mươi
năm? Nói đến Bát Nhã là nói đến trí tuệ, là thuyết minh chân tướng của vũ
trụ và nhân sinh. Hai mươi năm nói pháp mà chỉ quy nạp tổng kết lại chỉ
trong 260 chữ. Nói một cách tường tận hơn, người Trung Quốc thích thú đọc
kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Đây là một bộ kinh ngắn đại biểu cho sự
tinh hoa trong hai mươi năm thuyết kinh Bát Nhã của Đức Thích Ca. Trong
đó, điều quan trọng nhất Phật dạy chúng ta là ba tâm không thể nắm giữ.
Tâm quá khứ không thể nắm giữ, tâm hiện tại không thể nắm giữ, và tâm vị
lai cũng không thể nắm giữ. Tâm hàng ngày mà chúng ta nghĩ có thể nắm giữ
được, đó chỉ là khái niệm và vọng tâm, không có thật. Những gì chúng ta
nắm giữ hàng ngày không kể là vật chất hay tinh thần, Phật dạy chỉ là do
nhân duyên biến hiện, là duyên sinh. Bất kể vật gì đều do nhiều yếu tố hợp
lại mà thành, nó không có tự thể. Vì thế mới nói bản thể vốn không nên
không thể nắm giữ. Vì thế, trong Kinh Kim Cang, Phật dạy: “Phàm những vật
có hình tướng đều hư vọng”. Sau đó, Phật đưa ra kết luận: “Tất cả các pháp
hữu vi như mộng huyễn, bào ảnh”. Như mộng huyễn bào ảnh là chỉ cho tất cả
vạn vật trong vũ trụ đều không chân thật. Khoa học hiện đại cũng đã khám
phá ra điều đó. Họ đã dùng phương pháp phân tích vật chất, phân thành phân
tử, nguyên tử, cuối cùng là điện tử. Mỗi lần nghiên cứu như vậy họ mới
khám phá được sự thật của chân tướng của vạn vật là tất cả đều không có
thật, tất cả đều do nhiều yếu tố phân tử , nguyên tử và điện tử kết hợp
lại mà thành. Như vậy, cách đây ba nghìn năm trước, Đức Phật đã nói một
cách rõ ràng về những hiện tượng vật chất trong vũ trụ, đủ cho chúng ta
thấy đạo Phật là đạo khoa học. Khoa học ngày nay phát triển chẳng qua chỉ
chứng minh rõ ràng những lời Phật dạy mà thôi. Phật dạy chúng ta tất cả
các sự vật đều tạm bợ, huyễn tưởng, nó tồn tại rất ngắn, không thật, không
tồn tại mãi mãi, cho nên tất cả chỉ như sương hay như điện chớp. Chúng ta
thử nghĩ xem, hạt sương ban mai đọng trên đầu ngọn cỏ, dưới ánh nắng mặt
trời có thể tồn tại lâu dài hay không? Trong khi thời gian liên tục đổi
thay, vạn vật biến chuyển sinh diệt trong từng sát na. Sát na là chỉ cho
khoảng thời gian rất ngắn, chúng ta phàm phu không thể nhìn thấy được, chỉ
có Phật mới đủ trí tuệ thấy được một cách rõ ràng. Sinh diệt tức là không
sinh diệt, vì thời gian rất ngắn, cho nên trong sinh có diệt và trong diệt
có sinh. Vì vậy trong sự biến chuyển đó chúng ta không có gì có thể nắm
giữ được, không có gì là ta hay của ta. Chúng ta phải có nhận thức chính
kiến như thế mới có thể phóng hạ và buông xả được phiền não. Tất cả đều
tùy duyên, tùy duyên thì được tự tại, không phiền não, có phiền não chỉ
tự mang đau khổ đến cho bản thân. Tất cả phải tùy duyên, có như thế trong
cuộc sống chúng ta mới đạt được mỹ mãn hạnh phúc và tự tại an vui.
-
PHẬT GIÁO CÓ ĐỀ XƯỚNG ĂN CHAY HAY KHÔNG?
Người học Phật có nhất định ăn
chay hay không?
Người học Phật không nhất định
là phải ăn chay. Người ăn chay trong đời sống sẽ có nhiều lợi ích. Lúc bắt
đầu học Phật, không ai bắt buộc tôi ăn chay, song sáu tháng sau tôi mới
bắt đầu ăn. Vì tôi đọc được lời khai thị về lợi ích của việc ăn chay. Lúc
nhỏ tôi có đọc một quyển sách của một người bạn thân, anh này là một tín
đồ của Hồi giáo. Trong đó họ cho rằng, ăn chay là giữ vệ sinh. Người bình
thường cũng nói như vậy. Aên chay là giữ vệ sinh về sinh lý, ngoài giữ vệ
sinh về sinh lý ra, ăn chay còn giúp con người giữ vệ sinh về tánh tình.
Tánh tình thì có thiện có ác. Họ cho rằng ăn uống có quan hệ và ảnh hưởng
đến tánh tình của một người. Người không lương thiện thì sẽ không ăn chay,
đây là một điểm mà tôi biết được từ đạo Hồi.
Đối với đạo Phật, ăn chay có ba
lợi ích. Một là nuôi dưỡng tâm từ bi. Chúng ta nghĩ xem, có ai sống trên
đời này lại không ham sống sợ chết. Dù là một con vật, nó cũng có cha, có
mẹ như chúng ta, vậy sao chúng ta nỡ lòng nào cướp lấy sự sống của nó mà
nuôi dưỡng sự sống cho mình! Hai là tránh quả báo. Đời nay chúng ta giết
nó, đời sau nó giết lại chúng ta, oán oán chồng chất biết đời nào có thể
giải trừ. Nguyên nhân chiến tranh ngày nay trên thế giới cũnglà do nghiệp
sát mà chiêu cảm lấy. Vì thế cổ nhân có nói: “Hàng ngày trong bát cơm ăn,
oán sâu bể thẳm hận bằng non cao, muốn hay binh lửa thế nào, hãy nghe hàng
thịt tiếng gào đêm khuya”. Nguyên nhân thứ ba Phật dạy ăn chay là để giữ
tâm bình đẳng. Chúng ta ham sống sợ chết, không muốn bị người ta giết hại,
làm tổn thương đến những người thân yêu của mình, vậy chúng ta phải lấy
mình để suy ra người, chớ giết và đừng sai người khác giết dù là những con
vật. Phàm làm bất cứ việc gì, nhân quả đều đi theo như bóng theo hình. Vì
vậy, ăn chay là giữ vệ sinh cả về thân thể và tánh tình.
Sau khi nghe được lời khai thị
như vậy, tôi bắt đầu ăn chay vào lúc hai mươi sáu tuổi, đến nay đã hơn bốn
mươi mấy năm, mà thân thể tôi ngày càng tráng kiện, một người bình thường
bằng tuổi tôi không thể có được. Năm trước, bác sĩ khám và đo huyết áp cho
tôi. Họ nói độ thuần khiết máu và nhan sắc của tôi giống như người ba mươi
tuổi. Từ đó họ đi đến kết luận ăn chay rất tốt. Cho nên, ăn chay đối với
thân thể tuyệt đối được tráng kiện, hơn nữa tâm được thanh tịnh, không bị
nhiễm trước.
-
NGHIỆP CHƯỚNG LÀ GÌ? NÓ ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO TRONG ĐỜI
SỐNG?
Nghiệp là sự nghiệp. Thời gian
tạo tác gọi là sự, sự tình sau khi làm hoàn tất đưa đến kết quả gọi là
nghiệp. Thí như chúng ta là học sinh đến trường để học, thời gian học tập
đó chính là tạo nghiệp. Sau ba năm học hoàn tất gọi là mãn khóa hay ra
trường. Cho nên nghiệp là kết quả của những hành động tạo tác thành thói
quen. Người bình thường chúng ta mỗi khi khởi tâm động niệm đều là tạo
nghiệp, vì vậy từ vô lượng kiếp đến nay chúng ta đã tạo ra rất nhiều
nghiệp. Phật dạy yếu tố chính tạo nghiệp không ngoài ba cửa: thân, khẩu và
ý. Tâm chúng ta khởi những tư tưởng động niệm gọi là ý nghiệp, miệng chúng
ta phát ra ngôn ngữ là khẩu nghiệp, thân chúng ta tạo tác các việc gọi là
thân nghiệp. Vì thế, mỗi một hành động tạo tác của thân, miệng, ý tất cả
đều tạo nghiệp. Đã tạo nghiệp, đã hành động tất nhiên sẽ đưa đến hậu quả.
Hậu quả đó được gọi là nghiệp. Nghiệp phát sinh ra chướng ngại, chướng
ngại là gì? Là định, tuệ như trên đã nói. Vì sao chúng ta không có định?
Vì tâm chúng ta luôn hướng ngoại, bị ngoại cảnh dẫn dắt, đã bị dẫn dắt tức
phải tạo tác, một khi đã tạo tác và bị dẫn dắt là chúng ta không có định
và tuệ, do đó nó biến thành nghiệp chướng. Chúng ta làm việc thiện cũng có
thể là chướng ngại. Vì sao? Vì khi chúng ta làm việc thiện tâm chúng ta
khởi làn sóng hoan hỷ, thì gió phiền não cũng từ đó phát sinh. Vì thế, tất
cả đều là nghiệp chướng. Thiện nghiệp có ba đường: Trời, người, A tu la;
ác nghiệp cũng có ba đường: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nói một cách
khác, dù thiện hay ác nghiệp tất cả đều còn nằm trong sáu đường luân hồi.
Chúng ta có nghiệp chướng là chúng ta không có định, tuệ. Chỉ có định và
tuệ mới vượt thoát khỏi lục đạo luân hồi, mới có thể giải quyết được vấn
đề sinh tử. Do đó, Phật giáo dạy chúng ta tu tịnh nghiệp, tức là chúng ta
không làm việc xấu mà làm việc tốt. Chúng ta làm thiện nghiệp nhưng nếu
không chấp vào việc mình làm, chúng ta sẽ không gặp chướng ngại. Đây là
điều chúng ta cần phải ghi nhớ. Trong đời sống sinh hoạt, lúc cử động, đi,
đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, xã giao, từ sớm đến tối, hành động và
việc làm chúng ta cần phải tương ưng với giới, định và tuệ. Giới, định,
tuệ, ba chữ này nếu chúng ta hiểu được sẽ rất tuyệt vời, nhưng chúng ta là
người sơ cơ khó mà hiểu được. Có thể nói nó tương tự như tâm bình đẳng,
tâm thanh tịnh. Bình đẳng là không phân biệt, thanh tịnh thì không chấp
trước. Đối với tất cả mọi việc không có phân biệt và chấp trước, thường
nhận biết rõ ràng là trí tuệ; không phân biệt, không chấp là định. Hành
động nếu tương ưng với định và tuệ thì trong đời sống sinh hoạt hàng ngày,
chúng ta sẽ có tự tại và mỹ mãn. Sự nghiệp của chúng ta nhất định thuận
buồm xuôi gió, nhất định chúng ta sẽ làm tốt hơn người khác, vì chúng ta
có định và tuệ.
-
QUAN HỆ CỦA NHÂN QUẢ
Thế gian hay xuất thế gian, tất
cả đều không lìa nhân quả. Phật pháp cũng được xây dựng từ nền cơ sở đạo
lý nhân quả. Chúng ta không gieo nhân, làm sao có thể gặt hái được quả.
Giả như việc học hành, quá khứ chúng ta có chăm chỉ học hành là nhân, học
vị trong tương lai là quả. Chúng ta cần cù lao động là nhân, được đền bù
là quả, vì thế gian hay xuất thế gian không nằm ngoài nhân quả. Nhân quả
luôn vĩnh viễn, liên tục và tuần hoàn, đây là một đạo lý chúng ta cần phải
biết. Biết được nhân quả là liên tục và tiếp nối tuần hoàn thì trong mọi
cảnh, chúng ta tự nhiên sẽ hướng đến đoạn trừ các việc ác và tu tập các
việc thiện. Vì chính mình tạo nhân thì tự gặt lấy quả, và tất nhiên, kết
quả ai cũng muốn tốt đẹp như ước muốn. Do đó, chúng ta gieo nhân thiện
nhất định sẽ được quả thiện, gieo nhân ác tất nhiên sẽ bị quả ác. Không
thể nói gieo nhân thiện mà lại gặt quả ác hay gieo nhân ác mà được quả báo
thiện, đây là đạo lý không thể có. Nhân quả là định luật tất yếu. Đời này
gieo nhân thiện, đời nay không hưởng thì đời sau hưởng, việc ác cũng như
vậy. Nếu người đời nay làm thiện mà được quả báo xấu, hay ngược lại đời
nay tạo việc xấu lại được may mắn hạnh phúc. Khi xét đến thời gian nhân
quả, chúng ta cần phải đề cập đến ba khoảng thời gian:
Thứ nhất là hiện báo: Nghĩa là người tạo nhân thiện hay ác trong
đời này, do nhân duyên thuần thục đưa đến lãnh thọ quả báo ngay trong hiện
đời. Ví như trồng các loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một
mùa hay một năm đã thu thập được kết quả. Cho nên cổ đức có nói: “Đời xưa
quả báo thì chầy. Đời nay trả báo một giây nhãn tiền” là vậy.
Thứ hai là sinh báo: nghĩa
là chúng ta gây nhân đời này, đời sau sẽ chịu quả báo.
Quả báo này có tánh cách hơi lâu. Như chúng ta trồng cây chuối con, trồng
năm nay qua sang năm chúng ta mới thu hoạch được quả. Vì thế trong kinh có
câu: “Muốn biết nhân đời trước, hãy xem quả đời nay. Muốn biết quả đời
sau, hãy xem nhân đời này”. Hai câu này có thể chỉ cho sinh báo.
Thứ ba là hậu báo: nghĩa là
chúng ta tạo nhân trong đời nay, đến ba bốn năm, trăm
năm, ngàn năm hay vô lượng
kiếp sau chúng ta mới thọ quả báo. Ví như chúng ta trồng những loại cây
lâu năm, đến năm năm, mười năm hay vài mươi năm sau mới kết quả. Cho nên
trong kinh có kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp trôi qua, những nghiệp chúng ta
đã tạo sẽ không mất. Khi nhân duyên hội đủ, tự mình phải nhận chịu quả
báo”. Vì thế, đường đi của nhân quả rất phức tạp vi tế. Ví như đời ông cha
làm thiện, đời con cháu sẽ được quả thiện, hoặc đời ông cha làm ác, đời
sau con cháu phải chịu quả ác. Quả báo tự ai làm thì người đó chịu, con
cháu chỉ ảnh hưởng một cách gián tiếp, không phải trực tiếp. Như vậy có
thể biết, mặc dù đời này hay đời trước làm việc xấu, chúng ta cần phải nỗ
lực chuyển đổi những hành động đó. Chúng ta không sửa đổi là do chúng ta
không trí tuệ, chưa tin và chưa hiểu sâu sắc về đạo lý nhân quả. Nếu chúng
ta có thể giữ gìn nguyên lý, nguyên tắc bình thường, có thể trì giới, tâm
thanh tịnh thì trí tuệ sẽ phát sinh, khi đó, chúng ta sẽ có đủ năng lực
chuyển đổi tất cả. Dù ác nghiệp có nặng đến đâu, chúng ta cũng có thể
chuyển đổi được, tất cả đều tùy ở năng lực quyết tâm và trí tuệ của mỗi
người.
-
HỌC PHẬT CÓ LỢI ÍCH GÌ?
Thông
thường, người ta cho rằng, ở đời chỉ làm việc tốt là được. Đây là sự ngộ
nhận rất đáng tiếc. Chúng ta nên biết học Phật là học làm người giác ngộ
và tỉnh thức. Nhưng có một số người cho rằng, tôi làm một người tốt là đủ
rồi, cần gì phải làm người giác ngộ, hiểu biết! Tôi đâu cần phải hiểu biết
chân tướng vũ trụ nhân sinh để làm gì! Xin thưa, khi nào chúng ta trở nên
một người hiểu biết và giác ngộ thì chúng ta mới có khả năng làm người
tốt viên mãn. Người tốt theo quan niệm thế gian chỉ là nằm trong phạm vi
nhỏ bé chưa thật viên mãn, còn quá nhiều khiếm khuyết. Chỉ khi nào chúng
ta có định và tuệ, làm người hiểu biết thì lúc đó chúng ta mới có khả năng
làm người tốt viên mãn. Đây là một vấn đề rất có ý nghĩa.
-
NGƯỜI HỌC PHẬT CÓ CẦN PHẢI XUẤT GIA HAY KHÔNG?
Người tại gia học Phật có
thể thành tựu không?
Người học Phật không nhất định
cần phải xuất gia. Nếu nói học Phật cần phải xuất gia là một quan niệm sai
lầm. Xuất gia như một nghề nghiệp ở thế gian. Phải thích thú công việc nào
chúng ta mới có thể làm và chọn lấy nó. Học Phật không luận là chúng ta
làm nghề nghiệp gì đều có thể học, đều có thể thành Bồ tát và Phật. Không
nhất định phải xuất gia, xuất gia là một nghề nghiệp trong số các ngành
nghề. Tôi chọn nghề này vì tôi thích làm công tác giáo dục. Xuất gia là
chí nguyện của một người, không dễ gì chúng ta có thể làm được. Vì thế,
chúng ta cần phải hiểu được trí tuệ viên mãn của Phật pháp. Dù sinh hoạt
ra sao, làm công tác gì, trong hoàn cảnh thế nào, chúng ta đều có đầy đủ
khả năng học Phật và thành tựu được lợi ích trong Phật pháp. Không nhất
định phải xuất gia, nếu xuất gia mà không làm công tác giáo dục cũng là
một sai lầm lớn. Giống như chúng ta học ngành sư phạm, khi tốt nghiệp,
được phân phối đi về địa phương dạy học mà chúng ta không đi dạy, không
đứng lớp thì học để làm gì? Cho nên, tùy theo nghề nghiệp chúng ta chọn mà
làm cho tốt, lại phải cố gắng làm gương cho bạn đồng nghiệp, đó gọi là
Phật , Bồ tát. Phật và Bồ tát luôn là tấm gương ngời sáng để cho tất cả
chúng sinh noi theo.
-
LÀM THẾ NÀO MỚI CÓ THỂ XA RỜI KHỔ ĐAU VÀ ĐẠT ĐƯỢC AN LẠC?
Trong kinh Phật dạy, khổ đau và phiền não đều do từ mê muội mà tự chiêu
cảm lấy. Nguyên nhân mê lầm là do hoàn cảnh sinh hoạt mà có, vì chúng ta
không hiểu rõ ràng về chân tướng sự vật. Ngày ngày chúng ta chỉ có vọng
tưởng, đã vọng tưởng thì suy nghĩ, xem nghe, thấy biết tất cả đều hoàn
toàn sai lầm. Từ chỗ thấy biết sai lầm, việc làm tạo tác mê lầm cũng theo
sau. Chúng ta nên biết tư tưởng, suy nghĩ chỉ đạo hành vi. Tư tưởng sai
lầm nhất định hành động sẽ sai lầm, hành động sai lầm đương nhiên sẽ mang
lại kết quả khổ đau. Phật dạy nếu muốn giải quyết hết tất cả khổ đau cho
chúng sinh, nhất định phải giúp họ giác ngộ, chân chính hiểu biết về cuộc
sống. Quan điểm hiện đại ngày nay không như người xưa. Người xưa có quan
niệm an tâm với phận nghèo để giữ đạo, vì thế họ sống rất hạnh phúc. Con
người ngày nay hoàn toàn ngược lại, lòng ham muốn không bao giờ biết dừng,
nếu thế làm sao không tránh được khổ đau! Có thể bình tĩnh suy nghĩ, mỗi
ngày chúng ta vất vả làm việc, cuộc sống chúng ta tìm được những gì? Hãy
xét lại chính mình, chúng ta sẽ thấy được sai lầm rất lớn. Lúc trẻ tôi
học Phật, có lão Hòa thượng kể cho tôi một câu chuyện có thật. Tại Giang
Tô, Tần Châu, có một người xin ăn rất đáng thương. Ông có một người con
buôn bán rất giàu có. Người con này bị bạn bè trách mắng là giàu sang phát
tài chỉ biết lo hưởng thụ, trong khi để cho cha mình đi xin ăn mà không
biết. Anh này rất khó xử nên cho người đi tìm và đưa cha về nhà, sau đó
tiếp đãi rất nồng hậu. Sống với con được một tháng, ông lại lén lút trốn
nhà tiếp tục đi xin ăn. Có người hỏi: “Tại sao ông không ở nhà hưởng thụ
cho sung sướng, lại đi xin ăn chi cho cực khổ”. Ông đáp: “Tôi ở nhà có bao
nhiêu người trọng đãi với tôi ắt tôi mang tội, trong khi tôi lại không
muốn ăn những gì mà người khác phải hy sinh cho mình ăn, càng không muốn
mặc những gì mà người khác hy sinh cho mình mặc. Sống cuộc đời ăn xin, rày
đây mai đó, có thể dạo núi ngắm sông. Đói thì xin một bát cơm ăn, chiều về
tùy theo địa phương kiếm một chỗ nào đó mà ngủ. Tôi rất vui thích với đời
sống như vậy, rất tự tại, rất an lạc”. Đó là một người có quan niệm sống
hoàn toàn khác so với đời sống thế tục ngày nay của chúng ta. Người này
không học Phật, nếu ông ta học Phật chắc cũng sẽ thành Phật. Trên thực tế,
ông này là một Bồ tát thị hiện làm kẻ ăn xin. Người ăn xin giác ngộ không
tranh chấp với đời, không mong cầu nên sống vô cùng tự tại. Một người có
được sự nhận thức như vậy, quay đầu nhìn lại sự giàu sang của con cái thật
không thẹn. Đó là một nghệ thuật sống giúp chúng ta tránh khổ đau mà đạt
được sự an lạc.
-
KHI GẶP HOÀN CẢNH KHÔNG VUI NÊN XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?
Trong Kinh Kim Cang, Phật có
dạy: “Phàm những vật có hình tướng đều là hư vọng”. Muôn người và muôn vật
chỉ tồn tại trong nhất thời, như mây khói bay qua, hà tất gì cần phải
phóng tâm theo nó, tự mình cũng có thể vượt qua. Đó là sự ngu si của chúng
ta. Thường nghĩ mọi người đều tốt, không nghĩ đến việc xấu của người thì
chúng ta sẽ có an lạc. Ngược lại, ngày ngày chỉ biết nhìn lỗi người, không
muốn mọi người tốt như mình, đó là tự chiêu cảm lấy khổ đau. Mọi người có
liên can đến mình hay không? Khổ đau không phải do người khác đem đến cho
mình, chỉ tự mình đi tìm lấy nó. Người như vậy thật là ngu si. Trong kinh
gọi là điên đảo mê lầm. Hãy suy nghĩ kỹ lời Phật dạy. Chúng ta muốn được
nhiều phước báo, phải luôn luôn nhớ nghĩ đến việc tốt của người, không nên
nhìn lỗi của người. Dù người có lỗi lầm, dù người có làm việc xấu, chúng
ta cũng như luôn nhớ nghĩ đến những việc tốt của họ đã làm. Dùng thái độ
lương thiện đối xử với người như vậy, chẳng những tự mình được phước mà
còn có thể giúp người ác chuyển thành người lương thiện, đó là vô lượng
công đức. Không làm ác cho người mà đối xử tốt với người, chúng ta mới có
thể chân chính đạt được hạnh phúc an vui.
-
LÀM THẾ NÀO CÓ THỂ KHỐNG CHẾ ĐƯỢC VỌNG TƯỞNG ĐỂ KHAI MỞ
TINH THẦN?
Đây là một hiện tượng rất phổ
biến. Sống trên đời này ai cũng có. Theo Phật dạy thì nguyên nhân chính là
do tập khí chúng ta quá sâu, phiền não quá nặng. Đôi khi có nhiều người đã
hiểu được Phật pháp, nhưng hiện tại vẫn không khắc phục được, vẫn như cũ
không thay đổi. Phật dạy có rất nhiều phương pháp để khắc phục. Trong lúc
tụng kinh, nếu phiền não khởi lên, tâm không được định thì chúng ta nên
tiến hành đọc qua kinh một lần chắc chắn tinh thần sẽ trở nên ổn định. Vì
vậy, chúng ta có thể dùng phương pháp đọc kinh, trì chú hay niệm Phật.
Thậm chí không dùng các phương pháp trên mà có thể dùng các phương pháp
thế gian như nghe nhạc. Lúc nghe nên chú tâm vào âm thanh bài nhạc, tâm
chúng ta cũng có thể an tĩnh trở lại. Cho nên, phương pháp khắc phục không
nhất định, miễn sao chúng ta cảm thấy phương pháp đó có hiệu quả với mình
thì nên vận dụng. Tóm lại, làm lắng đọng vọng tưởng của chính mình là một
việc rất quan trọng. Đó cũng là điều trọng yếu mà người tu hành chúng ta
cần phải nhận thức.
-
NGƯỜI TẠI GIA NÊN TỰ TU NHƯ THẾ NÀO?
Người bắt đầu học Phật nhất
định phải học theo từng bước cho vững bền. Những năm gần đây, trong nước
cũng như ở hải ngoại, chúng tôi có đề xướng và vận động bốn việc tốt, đó
là tâm tốt, làm việc tốt, nói lời hay và làm người tốt. Đó là bốn tiêu
chuẩn làm người tốt. Nhất là làm việc lợi ích cho xã hội và đại chúng,
không phải là lợi ích cho bản thân. Nếu một người chỉ biết làm lợi ích cho
bản thân mà dẫm đạp lên lợi ích của tập thể, lợi ích đại chúng, làm sao có
thể tốt được. Niệm niệm vì lợi ích cho xã hội, niệm niệm vì lợi ích cho
đại chúng, vì chúng ta cũng là một thành viên của đại chúng. Nếu mọi người
tốt tất nhiên chúng ta sẽ tốt. Nếu chúng ta tốt mà mọi người không tốt
chúng ta vẫn gặp tai nạn, không có phương pháp gì tránh được tai nạn. Cho
nên, tiêu chuẩn để làm một người tốt, phải vì lợi ích xã hội và đại chúng,
đó là nền tảng cơ bản đầu tiên. Người sơ học nên bắt đầu học từ đâu? Quá
khứ của Ấn Quang đại sư, cả đời Ngài cật lực đề xướng dạy người Liễu Phàm
Tứ Huấn, đây là một cuốn sách học phổ biến tại Đài Loan. Trước đó cũng đã
từng giảng giải rất tỉ mỉ, có thâu băng và cũng đã in thành sách để phát
hành, chúng ta có thể xem qua để học tập. Người sơ học tại gia trước tiên
phải lấy đó làm cơ sở tu học mới có hiệu quả, sau đó mới tiến hành nghiên
cứu sang kinh sách. Quá trình nghiên cứu kinh sách rất khó khăn, tốt nhất
chúng ta nên đọc kinh Vô Lượng Thọ. Bộ kinh không dài, rất thích hợp cho
người tu học trong thời đại ngày nay. Phương pháp lý luận và cảnh giới của
kinh tương đối viên mãn. Có thể nói đây là một bộ kinh hay về mọi mặt.
-
LÚC ĐỌC KINH PHẢI CÓ QUY CỦ VÀ CẤM KỴ GÌ?
Phật giáo là nền giáo dục dạy
học, không phải là một tôn giáo. Nói như thế không phải Phật giáo không có
quy củ, không có gì hay, không có đạo lý. Phật là một con người bình
thường, vẫn còn khởi tâm động niệm, nói như thế không có nghĩa là phàm
phu. Nói không có quy củ và cấm kỵ nghĩa là chúng ta phải tùy duyên, tùy
cảnh, tùy nơi chốn mà đọc. Quan trọng là trong khi đọc, tâm chúng ta buông
dứt muôn duyên chú tâm vào mà đọc là tốt. Trong lúc tu cùng đại chúng, tất
nhiên chúng ta phải tuân thủ nội quy. Nếu không tuân thủ nội quy đạo tràng
đó sẽ loạn. Chúng ta đọc tụng như thế nào phải cùng với nhịp mõ đều đặn,
người nghe cảm thấy thích thú và chú tâm nghe, không thể tự ý mình thích
làm gì thì làm.
-
TRONG ĐỜI SỐNG KHI GẶP CẢNH KHÔNG HÒA THUẬN NÊN XỬ LÝ THẾ
NÀO?
Trước tiên cần phải tìm nhân
tốt gầy dựng rồi sau mới có thể giải quyết được vấn đề. Nguyên nhân chính
vẫn ở chỗ giáo dục. Vì sao nền giáo dục trong quá khứ lại an định trong
một thời gian dài như vậy? Vì nền giáo dục thời đó rất đắc lực. Trước đây,
nền giáo dục chỉ chú trọng dạy người ta phương pháp làm người. Muốn biết
nền giáo dục cổ đại, chúng ta có thể xem qua tam lễ, nền giáo dục Phật
giáo cũng có đề cập đến. Kinh luận dạy chúng ta nghệ thuật sống, dạy mối
quan hệ giữa người và người, giữa vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua
tôi,… nói theo góc độ ngày nay là người lãnh đạo và người chịu lãnh đạo,
nền giáo dục Phật giáo đều có dạy những điều đó. Theo Trung Quốc gọi là
ngũ luân bát đức, đó là nền giáo dục trung tâm, cho nên Khổng Tử dạy đức
hạnh là hàng đầu, là căn bản để làm người. Sau đó mới bàn đến chuyện học
hành, mưu sinh, dạy văn học, nghệ thuật, đề cao tinh thần sống. Nguyên
nhân căn bản của vấn đề trên là nền giáo dục ngày nay đã đi lạc hướng.
Chúng ta chỉ chú trọng nhiều về phương diện khoa học và kỹ thuật mà không
chú trọng ở nhân nghĩa và văn hóa, không hiểu được mối quan hệ giữa người
và người. Tuy đời sống sinh hoạt giàu có sung túc, nhưng trên phương diện
nhân sự lãnh đạo, nếu không có đầy đủ đức hạnh và tài năng vĩnh viễn sẽ
không giải quyết được gì. Muốn cứu vãn tình hình này, chúng ta cần bổ
khuyết và chú trọng vào nền giáo dục. Phương pháp hữu hiệu nhất là chú
trọng giảng dạy nhân quả báo ứng cho con người. Nếu tất cả mọi người đều
có thể nhận thức gieo nhân thiện nhất định gặt hái quả thiện, ngược lại
làm việc ác chắc chắn phải chịu quả báo ác, như thế thì khi hành động,
khởi tâm động niệm hay tạo tác bất cứ việc gì, người ta đều biết cân nhắc
nhân quả của nó, và khi đó, xã hội mới có thể trở nên thuận hòa được. Cho
nên, đại sư Ấn Quang, tuy là vị đệ tử xuất gia của Phật, Ngài lại không
giảng kinh điển, không hoằng dương Phật pháp, chỉ chú trọng phương pháp
hoằng dương Liễu Phàm Tứ Huấn hoặc Cảm Ứng Thiên. Vì những tập sách này
đều khuyên răn người ta làm thiện, nói đến đạo lý nhân duyên quả báo rất
có đạo lý. Điều đó đủ chứng tỏ Hòa thượng có trí tuệ thật viên mãn và từ
bi muốn cứu vãn xã hội. Chúng ta hiểu được lý luận và phương pháp rồi,
phải cố gắng tích cực dốc hết toàn tâm lực mà làm cho tốt.
-
SỢ HÃI ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ SINH TỬ
Đây là một vấn đề phát sinh đối
với người chưa hiểu rõ về chân tướng vũ trụ và nhân sinh. Nếu một khi đã
liễu giải thì tâm sợ hãi của chúng ta hoàn toàn không có. Phật dạy mạng
sống là vĩnh hằng, không mất. Nói cách khác, căn bản là không có chết,
chết chỉ là một vọng tưởng. Thân thể này không phải là ta, vì mọi người
chấp nó là của ta nên sinh ra sợ hãi. Nếu hiểu thân thể này không phải là
ta thì làm sao có sợ hãi được. Ví như y phục chúng ta đang mặc, không
phải là của ta thì khi nó cũ chúng ta thay đổi y phục mới. Thân xác này
cũng như vậy, nếu nó không phải là ta, là của ta, lúc nó hư hoại tan rã,
chúng ta cũng đổi lấy một thân thể mới, hiểu như vậy, chúng ta có tự tại
hay không? Đó là một sự thật. Vì thế Phật dạy thân này không phải là ta,
là sở hữu của ta, tương tự như y phục vậy. Nếu chúng ta có được thái độ
nhìn nhận sinh tử như thế thì chúng ta rất phi thường tự tại. Như vậy ta
là cái gì? Theo Phật giảng cái ta là chân tâm. Người ngoại quốc gọi là
“tôi nghĩ tôi làm”, đó là nói theo các nhà triết học. Nó thuộc thế giới vô
hình, nên chúng ta gọi là tinh thần hay tâm linh. Nhưng nó chưa thật sự là
của ta, mà cái chân tâm của ta cao hơn cái này một bậc. Các triết gia cho
rằng cái suy nghĩ là của ta, song kinh Phật nói đó là thức. Vậy thức là
gì? Thức là phần tác dụng của tâm, nó có đầy đủ khả năng quan sát tác dụng
của tâm. Nó có thể gọi là bản thể hay chân tâm, trong kinh điển còn nhiều
tên gọi khác nữa. Như Kinh Viên Giác gọi là viên giác tánh, Kinh Pháp Hoa
gọi là Phật tri kiến, v.v… cái này mới chân chính là cái của ta. Thân thể
này không phải của ta, vì mất thân này lại thọ thân khác tiếp nối. Vì vậy,
đối với thân thể này, chúng ta không cần phải quá chăm sóc, nhưng cũng
đừng có ý vất bỏ nó đi. Chăm sóc cũng sai lầm, chán ghét nó cũng sai lầm,
tất cả đều tùy duyên tự nhiên, thuận theo tự nhiên thì đời sống sẽ tốt
đẹp. Chúng tôi giảng là thích ứng theo tự nhiên, vì có thích ứng theo tự
nhiên cơ thể mới tráng kiện được.
-
NGƯỜI SAU KHI VÃNG SINH SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Nói theo phương diện khoa học
hiện đại, là chúng ta thay đổi không gian. Nói theo nhà Phật gọi là mười
pháp giới, sáu đường và hai mươi tám từng trời. Thế giới của Phật không
gian sinh hoạt không giống chúng ta. Ngày nay, không gian sinh hoạt của
chúng ta có ba hoặc bốn chiều, thế giới của Phật đến năm sáu chiều, không
gian của Phật cao độ viên mãn. Hiện tại nói là thay đổi không gian, chắc
chúng ta không hiểu. Chúng ta có thể liên tưởng giống như việc thay đổi
đài và tần số trên ti vi, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được. Tuy thay đổi tần
số nhưng cùng trên một màn hình, cho nên trong nhà Phật nói: “Sinh thì
quyết định sinh, đi thì thật không có”. Vì sao không có? Vì tuy chúng ta
đi nhưng vẫn còn trên một màn hình. Vì sao sinh thì quyết định sinh? Vì sự
thay đổi về tần số mà thật sự các tần số không giống nhau, cho nên dùng
phương pháp khoa học hiện đại có thể giải thích được, nhưng trên thực tế
là như vậy.
-
SIÊU ĐỘ BIỂU HIỆN CHO Ý NGHĨA GÌ?
Siêu độ có nghĩa là
một phương pháp tưởng niệm. Chúng ta với tâm chân thành
muốn giúp đỡ những người đã khuất, phần lớn việc siêu độ là người mất hiện
tiền tạo tác nhiều nghiệp chướng, đã có nghiệp chướng thì không tránh
khỏi thác sinh vào các đường khổ. Cho nên chúng ta siêu độ là giúp cho họ
giảm bớt đau khổ, đạo lý này trong kinh Địa Tạng đã nói rất rõ. Vì vậy,
siêu độ chẳng phải là chúng ta đọc mấy quyển kinh thì người mất có công
đức, đây là việc không hề có. Trong kinh nói rất rõ, chúng ta cần phải thể
hội ý nghĩa của nó. Siêu độ là gì? Đó là chúng ta tự mình tu hành cho
tốt, chúng ta tu hành có thành tựu rồi thì người mất mới có phước báo. Ví
như chúng ta muốn làm cho cha mẹ tổ tông rạng rỡ, chúng ta phải cố gắng
học tập và làm việc, trong tương lai mới trở thành nhân tài cho xã hội,
khi đó, cha mẹ của chúng ta mới vinh dự, đi đến đâu cũng được người ta
trọng nể, cung kính, đặc biệt quan tâm, vì có một người con là nhân tài,
điều đó mới đúng ý nghĩa siêu độ. Nếu chúng ta không thành tựu, dù có đọc
kinh gì cũng không có tác dụng. Cho nên, đúng ý nghĩa của siêu độ là chúng
ta phải sống làm sao cho mọi người trọng nể, sống làm lợi ích cho xã hội,
đó là phương pháp siêu độ cha mẹ hữu hiệu nhất.
-
KINH ĐỊA TẠNG LÀ PHƯƠNG PHÁP TU HỌC NHẬP MÔN
Quá trình tu học Phật pháp, tại
nước chúng ta có đề cập rất rõ. Người tu học được chia thành bốn giai
đoạn. Trong các giai đoạn đó, giai đoạn thứ nhất là học kinh Địa Tạng, địa
là chỉ cho đất tâm, tạng là bảo tạng. Trong tâm địa của mỗi chúng ta có vô
lượng trí tuệ, vô lượng tài nghệ, vô lượng công đức. Theo như kinh nói thì
tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ của Như Lai. Cho nên,
trí tuệ của chúng ta bình đẳng với chư Phật, không hai không khác. Song
hiện tại, vì sao hiển hiện lại có cao có thấp, không bình đẳng. Như trên
đã nói, nguyên nhân đều do từ mê mà có. Người nghiệp chướng nặng trí tuệ
sẽ hiển xuất ít, nghiệp chướng nhẹ thì trí tuệ hiển xuất nhiều, nên trí
tuệ không bình đẳng là do ở chỗ trí tuệ sâu hay cạn. Nếu nghiệp chướng
nặng trí tuệ sẽ hiển xuất ít, nghiệp chướng tiêu trừ thì trí tuệ nhất định
sẽ bình đẳng như nhau, vì thế mới nói tâm là bảo tạng. Nhưng làm thế nào
để trí tuệ khai phát? Phải dùng hiếu kính, cho nên Kinh Địa Tạng còn gọi
là hiếu kinh. Nhất định phải bắt đầu từ Kinh Địa Tạng mà thực hành, lấy
kinh Địa Tạng làm nền móng, sau đó mới tiến lên một bậc nữa là học hạnh
Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát là đại biểu cho hạnh đại từ, đại
bi, có đại từ bi sẽ có phát sinh tâm từ hiếu kính. Tôi hiếu thuận với cha
mẹ, kính trọng những người thân, sau đó hiếu kính, tôn kính, quan tâm đến
tất cả chúng sinh, nhưng chúng ta phải dùng lý tánh chứ không được dùng
cảm tình. Ngài Văn Thù Bồ Tát đại biểu cho trí tuệ. Sau cùng chúng ta học
hạnh của ngài Bồ tát Phổ Hiền. Bồ tát Phổ Hiền là đại biểu cho hạnh bình
đẳng. Chúng ta dùng trí tuệ, từ bi, hiếu kính đối với tất cả chúng sinh
một cách bình đẳng không sai biệt, vì vậy, chỉ có học hạnh của Bồ tát Phổ
Hiền mới có thể viên mãn.
-
HIỆU DỤNG CỦA VIỆC NIỆM PHẬT
Phương pháp tu tập trong Phật
pháp có rất nhiều, có đến tám mươi tư nghìn pháp môn, vô lượng pháp môn.
Niệm Phật là một pháp trong vô lượng pháp môn đó. Pháp môn này có nhiều
lợi ích rất đơn giản, dễ dàng, người người đều có thể thực hành được, sự
lý rất thâm diệu. Tông Tịnh Độ đề xướng niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu
sinh thế giới Cực lạc. Tất nhiên để nói hết về nó một cách rõ ràng trong
mấy câu nói sẽ không thể đủ. Tuy số lượng kinh điển nói về pháp môn này
không nhiều, song nghĩa lý lại vô cùng phong phú, thâm sâu. Ví như Kinh A
Di Đà, bản kinh mà mọi người ai cũng biết, rất đơn giản, nhưng nội dung
lại rất phong phú. Những năm trước tôi có giảng qua kinh này 2 lần, nhưng
băng giảng ghi lại đến ba trăm ba mươi lăm cuốn. Do đó có thể thấy, nội
dung của kinh này không đơn giản chút nào, thế nên tôi phải mất một năm
mới giảng hết. Song trong quá trình giảng, tôi không giảng giải một cách
chi tiết mà chỉ giảng giải yếu lược, điều đó đủ chứng tỏ nghĩa lý của tông
tịnh độ thâm sâu không thể nghĩ bàn. Phương pháp niệm Phật tuy đơn giản,
bất kỳ một người nào nghe qua cũng có thể hiểu, nhưng hiếm có người tin.
Trên lý luận đã không tin, chỉ cần chúng ta tin sâu, nguyện thiết mà chí
thành niệm Phật thì cũng có khả năng thành tựu. Việc thành tựu vô cùng thù
thắng, có thể nói là không có sự thù thắng nào bằng. Chẳng những chúng ta
có thể vượt sáu nẻo luân hồi mà còn giải thoát ra mười pháp giới. Cho nên,
công đức thù thắng của pháp môn này không có một pháp môn nào có thể so
sánh kịp. Do đó, pháp môn này được mười phương chư Phật tán thán. Tất cả
các bậc tổ sư, ngoài các tổ của Tịnh độ, những tổ sư của các tông phái
khác cũng cật lực hoằng dương tịnh độ, điều đó đủ cho chúng ta thấy pháp
môn này xác thật là thù thắng và vi diệu vô cùng.
-
TU HỌC PHẬT PHÁP TỐT NHẤT LÀ THÂM NHẬP MỘT PHÁP MÔN
Không luận là Thiền tông, Mật
tông hay Tịnh độ tông. Trên thực tế, trong khoảng thời gian ngắn ngủi của
kiếp người, nếu chúng ta muốn tu tập cho được thành tựu giải thoát, nhất
định phải thâm nhập một pháp môn, vì dễ dàng thực hành. Chúng ta học hai
hoặc ba pháp môn thì nhất định sự tu học của chúng ta sẽ không bằng với
một người chuyên nhất một pháp môn. Giống như việc đánh giặc, nếu chúng ta
tập trung lực lượng tại một chỗ để đánh sẽ rất dễ dàng đột phá. Chúng ta
phân tán lực lượng thành hai ba điểm để đánh, sức mạnh của ta sẽ trở nên
yếu, chưa chắc gì đánh thắng. Đạo lý này cũng tương tự như vậy. Vì vậy,
chúng ta nghe người khác đề xướng cộng tu hai hoặc ba pháp môn, nghe rồi
sẽ cảm thấy rất khó khăn vì chúng ta không biết chọn pháp môn nào. Ví như
nói thiền tịnh song tu, phương pháp này chỉ áp dụng cho người tham thiền,
nếu họ tham thiền không thành tựu thì có thể nương vào nguyện lực mà vãng
sinh, vì thế mới nói thiền tịnh song tu là tốt, cũng như nói một nửa này
không thành công thì còn hy vọng vào một nửa còn lại. Ý nghĩa thiền tịnh
song tu là vậy. Quan niệm cộng tu hai ba pháp thiền, tịnh hay mật, ý nghĩa
cũng ở đó. Bình thường nghe người ta nói chúng ta không hiểu, rồi sinh
hiểu lầm, cho nên tâm mới khổ, vì vậy, thâm nhập một pháp môn, ví dụ như
tịnh độ, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng thành tựu.
-
THỜ CÚNG TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ TÁT
Tại tự viện hoặc ở gia đình,
nên dụng tâm thế nào để lễ lạy? Lạy Phật, Bồ tát và thần linh có giống
nhau không?
Đây là vấn đề tương đối nghiêm
túc. Vì nó có thể ảnh hưởng mê tín dị đoan đến xã hội. Thờ cúng thần tiên
và trời là tập tục có từ mấy nghìn năm nay ở Trung Quốc. Nó có tác dụng
trên mối quan hệ xã giao, nhất định không phải là mê tín. Điều này chúng
ta cần phải phân tích cho rõ. Phật pháp là đạo sư, không phải là thần, cho
nên Phật giáo là một nền giáo dục, không phải là một tôn giáo. Cách đây
mấy nghìn năm về trước, Phật giáo đã được người ta hiểu như là một nền
nghệ thuật hóa giáo học, vì vậy, ở các tự viện, niệm Phật đường hay tịnh
xá thường thấy có thờ hình ảnh, tượng của Phật và Bồ tát. Màu sắc và hình
tượng lại rất nhiều, điều này chúng ta tham khảo trong kinh điển như Kinh
Vạn Phật chẳng hạn. Tại Đài Loan, trong những năm qua, có không ít đạo
tràng lạy kinh Vạn Phật. Trong bộ kinh này, Phật nói có hơn một nghìn hai
trăm vị Phật mà không có Bồ tát. Phật dạy có rất nhiều chư Phật, mà mỗi
một chúng ta có đầy đủ tự tánh năng đức. Lấy một ví dụ cho mọi người dễ
hiểu, danh hiệu Thích Ca Mâu Ni là tiếng Phạn. Thích Ca dịch là từ bi,
năng nhẫn; Mâu Ni dịch là tịch diệt hay thanh tịnh. Do đó có biết, từ bi
và thanh tịnh trong tự tánh của mỗi chúng ta đều có đủ. Chúng ta nghe một
danh hiệu Phật, nhất định trong ta phải tiếp nhận, và phải lấy tâm từ bi,
tâm thanh tịnh mà đối đãi với người. Đó là ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni.
Cho nên, hễ nghe danh hiệu hoặc thấy hình tượng của Phật Thích Ca Mâu Ni,
chúng ta phải phát khởi niệm tưởng như vậy, để nhắc nhở chính mình trong
từng giây từng phút, không hướng ngòai những ý nghĩ đó. Danh hiệu của Bồ
tát là tu đức, chúng ta có đầy đủ năng đức của Phật và Bồ tát, chỉ vì hiện
tại chúng ta si mê nên tánh đức trong tự tánh chúng ta không hiện tiền.
Như chúng ta vốn là từ bi, là đại từ đại bi, song hiện tại chúng ta đối xử
với người, đối xử với vật không có một chút từ bi. Tự tánh của chúng ta
vốn thanh tịnh, song mỗi ngày từ sáng đến chiều chúng ta đều vọng tưởng,
vọng niệm, phiền não, những điều đó đều do chúng ta si mê. Như vậy, làm
thế nào để khôi phục lại những đức tánh đó? Nhất định phải nhờ tu hành.
Hình tượng, danh hiệu Phật và Bồ tát làm khơi dậy đức hạnh tu hành trong
mỗi chúng ta, mục đích là như vậy. Là đệ tử Phật, chúng ta cúng dường Phật
và Bồ tát cũng không ngoài những mục đích trên. Thứ nhất có ý nghĩa tưởng
niệm, vì Đức Phật là bậc thầy cao cả của chúng ta, chúng ta mang ơn giáo
dục của Ngài, đạt được nhiều lợi ích và công đức thù thắng, vì thế chúng
ta niệm niệm không quên công ơn đó. Thứ hai là noi theo gương của các Ngài
mà học tập, cho nên mới nói: “Thấy người hiền, nghĩ mình làm sao cho bằng
họ”. Chúng ta thấy hình tượng Phật và Bồ tát, chúng ta học tập theo gương
hạnh các vị ấy, nghe danh hiệu các vị ấy chúng ta cũng muốn học theo đức
hạnh. Đó là phương pháp chúng ta dụng tâm thờ cúng Phật và Bồ tát, là ý
nghĩa chân chính mà chúng ta cần phải hiểu, vì vậy việc thờ cúng mới không
mê tín.
Chư Phật, Bồ tát có rất nhiều.
Ví dụ chúng ta thờ cúng Bồ tát Địa Tạng. Bồ tát là đại biểu cho hiếu kính,
hiếu thuận tôn sư. Địa là tâm địa, Tạng là bảo tạng. Mỗi một chúng sinh
chúng ta tâm địa đều có đầy đủ vô lượng trí, đó là ý nghĩa của Địa Tạng.
Cho nên việc thờ cúng hình tượng Phật và Bồ tát có công dụng nhằm làm khai
phát tâm địa bảo tạng của chúng ta. Dùng phương pháp gì để khai phát? Dùng
giáo dục, giáo học, mà giáo học là căn bản là hiếu thuận tôn sư. Vì vậy,
kinh Địa Tạng là kinh hiếu nhập môn. Học Phật là từ nơi kinh này bắt đầu
vào. Thờ cúng Địa Tạng chẳng phải hàng ngày chúng ta lạy Ngài,hàng ngày
cúng dường Ngài, cầu Ngài phù hộ cho chúng ta, nghĩ vậy chúng ta đã mê tín
mất, tánh đức của chúng ta vĩnh viễn sẽ không hiển hiện được. Nên có thái
độ thờ cúng như thế nào? Đó là học tập theo hạnh Ngài, điều này trong kinh
Địa Tạng lý luận giảng nói rất rõ ràng triệt để. Cần y theo phương pháp
thiết thực đó mà làm thì Bồ tát tất sẽ gia hộ cho chúng ta. Nếu không
hiểu điều này, không y theo đó mà phụng hành, chẳng những chúng ta không
đạt được chút lợi ích nào mà còn vướng phải sai lầm nữa. Sai lầm ở đâu? Ở
chỗ đem Phật, Bồ tát xem như thần linh, rồi đút lót, nịnh hót các vị ấy,
đặt điều kiện để các vị ấy bảo hộ cho mình. Đem Phật, Bồ tát để làm việc
tham quan ô trược, thái độ đó là một trọng tội, nên từ chỗ không hiểu mới
đi đến sai lầm. Vì thế có câu “sai một ly đi một dặm” là vậy. Cho đến
những việc như lạy thiên thần, phải làm sao? Thiên địa, quỷ thần trong cổ
lễ Trung Quốc đều có. Làm thế nào có thể phát huy được đức tánh của chúng
ta khi mà chúng ta chỉ cung kính thiên địa, quỷ thần! Chúng ta dùng tâm
cung kính của mình đối với tất cả mọi người, tất cả việc, tất cả vật, đó
là ý nghĩa cấm kỵ của thời xưa, vì nó thuộc vào giáo học. Tuyệt đối không
được cầu quỷ thần, nếu cầu vào quỷ thần là quan niệm sai lầm, đó là điều
mà chúng ta nhất định nhận thức cho rõ.
-
DỤNG Ý VẬT PHẨM CÚNG DƯỜNG PHẬT, BỒ TÁT
Như trái cây, nước trong,
nhang đèn, … Phật và Bồ tát không đòi hỏi chúng ta điều đó. Vậy ý nghĩa
chân chính ở chỗ nào? Vẫn ở chỗ giáo học. Dùng ngôn ngữ hiện đại mà nói,
những vật phẩm cúng dường đó chính là công cụ giáo dục học. Khi tiếp xúc
với những vật đó, chúng ta sẽ có cảm xúc. Thí như chúng ta đứng trước
tượng Phật để cúng Phật, Phật là biểu tượng cho đức tính của tự tánh, Bồ
tát là biểu tượng cho tu đức. Thông thường, chúng ta thờ cúng chỉ có một
vị Phật hay một vị Bồ tát, nên nhân đó mà đức tánh cũng chỉ có một. Tu đức
thì có nhiều mặt. Song, nói tóm lại không ngoài hai loại: Một là tri, hai
là hành. Trong Phật giáo gọi là giải hạnh, một là giải môn, hai là hành
môn, cho nên lấy hai đại Bồ tát làm đại biểu. Tiên sinh Vương Dương Minh
giảng “tri hành hợp nhất”, đều lấy từ nơi Phật pháp mà khai thị, đạt đến
chỗ linh cảm. Tri hành hai từ này trong nhà Phật giảng là giải hạnh và
giải môn. Như bình thường chúng ta cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
cúng dường ngài Văn Thù, Phổ Hiền Bồ tát, chúng ta hiểu Đức Phật là tượng
trưng cho tánh đức, ngài Văn Thù, Phổ Hiền là đại biểu cho tu đức. Văn Thù
là đại biểu cho giải môn, cho trí tuệ; Phổ Hiền là đại biểu cho hành môn,
đại biểu cho thực hành, thực tiễn. Cho nên, hai vị Bồ tát này là đại diện
cho toàn bộ các vị Bồ tát. Phần lớn các vị đồng tu tu theo Tịnh độ thường
cúng dường Tam thánh. A Di Đà Phật có nghĩa là “Vô lượng giác”. Chữ “A”
nghĩa là “Vô”, chữ “Di Đà” nghĩa là “lượng”, Phật nghĩa là Vô lượng giác
ngộ. Đối với tất cả người, tất cả việc, tất cả vật cho đến tận hư không
pháp giới, không có một điểm nào là không giác ngộ. Đó là tánh đức cứu
cánh viên mãn mà Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí là hai vị đại biểu. Bồ
Tát Quan Thế Âm là đại biểu cho sự thực hành, Bồ tát Đại Thế Chí là đại
biểu cho giải môn, cho trí tuệ, song tịnh tông lại lấy hành trước, sau đó
mới đến giải, đó cũng là cách cúng dường Phật có sai khác. Riêng chúng ta
luôn chú trọng ở thực hành, cho nên đem hành môn thực hiện trước. Phải
hiểu được ý nghĩa này, nếu không chúng ta sẽ dễ sinh quan niệm sai lầm.
Chúng ta cúng dường hoa lên
Phật. Hoa là đại biểu cho nhân, ở định luật nhân quả, thế gian và xuất thế
gian đều không lìa nó. Rải rác trong các kinh, Phật thường nói: “Vạn pháp
đều không, nhân quả bất không”. Vì sao? Vì tất cả các pháp vốn chuyển
biến, nhân sẽ biến thành quả, quả sẽ biến thành nhân. Nhân quả tương quan
mật thiết,hằng biến chuyển không gián đoạn, cho nên nói nhân quả bất
không. Trước ra hoa sau mới kết quả, vì hoa là nhân, sau đó là quả. Cho
nên cúng hoa là đại biểu cho việc tu nhân, nếu cúng hoa đẹp chúng sẽ hái
được quả ngon. Vì thế mỗi khi thấy hoa, chúng ta phải nhớ đến việc tu nhân
thiện, tương lai sẽ được quả báo thiện. Ở đây, hoa có ý nghĩa là như vậy.
Cúng quả là đại biểu cho quả
báo, là điều mà chúng ta mong cầu. Muốn có quả tốt chúng ta phải biết tu
trồng hoa tốt. Trong Phật pháp Đại thừa, hoa được hiểu là đại biểu cho lục
độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tất cả
những điều đó gọi là hoa lục độ, sau đó mới có thể đạt đến quả báo viên
mãn. Cúng hoa có ý nghĩa là như thế. Cho nên, khi chúng ta cúng hoa cho
Phật, hay lúc nhìn thấy các loài hoa, từng phút từng giây chúng ta đều
luôn cân nhắc mình phải tu nhân thiện, tu nhân thiện sẽ được quả lành, đó
là ý nghĩa cúng hoa quả lên Phật, Bồ tát.
Đến việc cúng dường thực phẩm,
không có ý nghĩa quan trọng lắm. Thực phẩm là đại biểu cho tâm thành kính.
Chúng ta muốn mình dùng những thức ăn ngon thì phải lấy những thứ mình ưa
thích đó cúng dường đến Phật và Bồ tát. Đến việc thắp hương cũng vậy.
Hương là đại biểu cho tín hiệu. Thời xưa tín hiệu được dùng rất rộng. Nếu
ai có đi du lịch đến Vạn Lý Trường Thành sẽ thấy, cứ mỗi khoảng cách lại
có một đài đốt lửa, đài này dùng để truyền tin tức, nó giống như một lư
hương. Hồi đó, việc truyền tin không hiện đại như ngày nay, người ta dùng
những đài này để làm việc truyền tin, nguyên liệu dùng để đốt các đài này
là phân của con sói, nên độ khói lửa rất mạnh, không như lửa khói bình
thường, gió không dễ thổi tắt được. Vì thế, khói có thể lan tỏa lâu dài,
những nơi xa mỗi khi nhìn thấy khói sẽ biết được nơi đó có chuyện xảy ra.
Hương hay nhang cũng là một biểu hiện của Phật pháp. Đốt nhang là phương
pháp nhắc nhở chúng ta học tập, nghĩ đến việc tu giới, tu định, tu tuệ.
Giới hương, Định hương, Tuệ hương là ba loại hương chân thật. Ba loại
hương này thuộc năm phần pháp thân cùng hai loại nữa là giải thoát và giải
thoát tri kiến hương. Cho nên dùng phương pháp cúng dường là để tự nhắc
nhở mình tu học giới, định và tuệ.
Đến như việc cúng đèn cũng
tương tự như thế. Đèn là ý tượng trưng cho ngọn đèn trí tuệ. Thời xưa
thường dùng đèn dầu, đèn cầy, ý nghĩa của nó vô cùng thâm sâu. Nhất là đèn
dầu, ngọn đèn ấy là ngọn đèn của chính mình, chiếu sáng cho tha nhân. Đó
là phương pháp dạy chúng ta cầu trí tuệ, xả mình vì người, lấy trí tuệ,
năng lực của chính mình mà phục vụ cho xã hội. Trợ giúp cho tất cả chúng
sinh mà không cầu đền đáp, đó là phương pháp Phật dạy chúng ta. Cho nên
hương đèn có ý nghĩa như vậy. Nếu chân chính theo đó mà làm, tự nhiên
chúng ta sẽ được tráng kiện, sống lâu, cho đến như chuyện thăng quan, phát
tài,… chúng ta muốn đều có thể được, vì đó cũng là một phần của quy luật
nhân quả. Chư Phật và Bồ tát có năng lực rất lớn, trí tuệ cao sâu vậy mà
cũng không thể thay đổi được luật nhân quả, Phật và Bồ tát không thể giúp
chúng ta thăng quan phát tài, chỉ có thể dạy chúng ta phương pháp tu học.
Chúng ta nếu hiểu được rồi nương theo đó mà tu học, tự nhiên chẳng bao lâu
sẽ đạt được. Cũng như muốn ăn dưa, chúng ta phải biết chọn giống dưa tốt
để trồng, hàng ngày phải biết chăm sóc đúng kỹ thuật thì nhất định chúng
ta sẽ có dưa ngon để ăn, không ai tự nhiên mang đến cho chúng ta. Chúng ta
nghĩ Phật sẽ mang sự thăng quan phát tài đến cho ta, nghĩ vậy chúng ta mê
tín mất. Nhất định chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa cho thấu đáo. Đến như
việc cầu an, cầu tráng kiện hay trường thọ, Phật dạy chúng ta nếu muốn
được, chúng ta nhất định phải thuận theo lẽ tự nhiên, cho nên Phật dạy
luôn biết tự tại tùy duyên, chúng ta mới có thể đạt được hy vọng. Hai chữ
“tùy duyên” có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ví như người hiện đại thường
nói là do hoàn cảnh môi trường sinh thái chi phối. Mọi người đã biết hoàn
cảnh sinh thái trên trái đất này, không luận là thực vật hay động vật đều
có mối tương quan hỗ trợ mật thiết với nhau. Nếu một mặt bị phá hoại, mặt
còn lại nhất định sẽ bị ảnh hưởng. Đó là đạo lý mà ai cũng biết, vì hiện
tại môi trường sinhh thái của chúng ta bị phá hoại đến mức báo động, cho
nên có nhiều loài thực vật và động vật không còn môi trường sinh tồn, thậm
chí bị tuyệt chủng, nguyên nhân phát sinh đều do môi trường sinh thái
không cân bằng. Tinh thần, thể xác chúng ta, những yếu tố sinh lý bên
trong và tinh thần nếu thuận theo đại tự nhiên tất nhiên sẽ được tráng
kiện và trường thọ, đời sống chúng ta sẽ được an lạc tươi vui. Ngược lại
chúng ta không thuận với tự nhiên, phá hoại môi trường sinh thái, nhất
định chúng ta sẽ bị nhiều bệnh tật, những tai nạn thiên tai cũng không
tránh khỏi. Phật dạy tâm chúng ta vốn thanh tịnh, bình đẳng, như Lục Tổ
nói là “bản lai không một vật”. Song hiện tại, chúng ta do vô minh nên có
vọng tưởng, chấp trước và phân biệt. Chính nguyên nhân này mà hàng ngày
chúng ta có thương, yêu, giận, ghét,… tâm đã động thì bệnh tật làm sao
tránh khỏi. Một nguyên nhân nữa là do chúng ta lười lao động, không hoạt
động, đây cũng là lý do dễ sinh ra bệnh tật. Nhà Phật có phương pháp lạy
Phật, đây cũng là phương pháp luyện thân. Trừ lạy Phật ra, lao động cũng
là phương pháp dưỡng thân. Như vậy, tâm không có phân biệt, vọng tưởng và
chấp trước, thương ghét, giận hờn thì thân tự nhiên tráng kiện, trường
thọ. Vì vậy, Phật pháp dạy cho chúng ta phương pháp nuôi dưỡng thân tâm.
Đến như phước báo cũng vậy, người giàu sang có thể đạt được hạnh phúc mỹ
mãn, người nghèo hèn cũng có thể đạt được hạnh phúc tương đồng, và người
người cũng đều có thể đạt được hạnh phúc như vậy. Điều đó có nghĩa, giàu
hay nghèo không quan trọng. Giàu nghèo không liên quan gì đến hạnh phúc.
Phú quý hay bần tiện là do có tu phước tu đức hay không. Ví như người giàu
có là do đâu? Do từ bố thí tài mà có. Bố thí là nhân, được giàu sang là
quả. Gieo nhân nhất định phải thọ quả. Chúng ta gieo nhân gì nhất định sẽ
thọ quả ấy, đạo lý này tuyệt đối không sai. Nếu đời quá khứ và trong hiện
tại, chúng ta không chịu tu nhân, lại muốn phát tài thì tài đâu mà có!
Điều này nếu xem “Liễu Phàm Tứ Huấn” chúng ta sẽ hiểu rõ hơn. Thật vậy,
“mỗi một miếng ăn miếng uống, chẳng phải do tiền định, tất cả đều có nhân
duyên”. Phật, Bồ tát, thiên thần cũng không thể giúp được, dù chúng ta đã
gieo nhân bố thí, khi nhân duyên đến giai đoạn chín mùi, tự nhiên chúng ta
có thể phát tài mà chẳng phải do Phật, Bồ tát hay thiên thần linh hiển.
Nếu quả thật những vị ấy linh hiển, thì trăm người cầu ắt trăm người phát
tài, hoặc một trăm người cầu mà hết chín mươi chín người phát tài, nếu
còn lại một người chưa phát tài cũng chưa thật sự gọi là linh. Chúng ta
cần phải tỉnh táo, không bị người khác lừa, phải có lý trí phân biệt mới
thật đạt được lợi ích. Cho nên phẩm vật cúng dường Phật và Bồ tát chỉ là
một pháp tượng trưng, không phải là nhu cầu. Chúng ta dùng những vật phẩm
cúng dường là từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta, ngày ngày tiếp xúc
ngoại cảnh lục trần phải luôn luôn niệm niệm tỉnh giác, không bị mê hoặc,
chính mà không tà, tịnh mà không nhiễm. Do đó có thể biết, vật phẩm cúng
dường là tất yếu phải có. Nếu gia đình nào không có khả năng cúng dường
các vật phẩm khác, tốt hơn hết là nên cúng dường một ly nước trong. Chúng
ta có thể đứng trước Phật mà thành tâm cúng dường một ly nước. Đây là vật
phẩm cúng dường quan trọng nhất, vì nước là biểu hiện cho tâm linh. Nước
trong là tượng trưng cho tâm thanh tịnh, bình đẳng. Cho nên, mỗi khi nhìn
ly nước, chúng ta sẽ nhớ đến tâm thanh tịnh, bình đẳng, vì vậy mới nói
nước là vật phẩm cúng dường quan trọng. Chúng ta có thể thiếu những vật
cúng như nhang, đèn, hoa quả, … nhưng tuyệt đối không thể thiếu được nước.
Nhìn thấy nước là luôn nhớ đến chính mình, luôn nhớ đến việc phải tu tâm
thanh tịnh và bình đẳng. Tâm đó là tâm Phật, là chân tâm.
-
NGHI THỨC KHAI QUANG TƯỢNG PHẬT, BỒ TÁT
Khai quang có ý nghĩa gì? Có
hay không có việc khai quang? Ai đủ tư cách để khai quang?
Đây là vấn đề mà trong khi giảng kinh, chúng ta vẫn thường đề
cập. Hiện tại, việc khai quang gần như đã trở thành xu hướng mê tín. Ý
nghĩa đích thực của việc khai quang hoàn toàn đã bị đánh mất. Khai quang
là một việc phi thường trọng yếu. Ý nghĩa chân chính của nó nói lên việc
cúng dường tượng Phật, Bồ tát. Việc này giống như chúng ta xây đúc hình
tượng của một bậc vĩ nhân ở thế tục, khi việc xây đúc thành rồi, sau đó
chúng ta mới cử hành lễ khai mạc. Trong buổi lễ khai mạc đó, nhất định
chúng ta phải nói cho mọi người hiểu rõ ràng, ca ngợi về sự nghiệp cống
hiến lớn lao của họ đối với đồng bào, với dân tộc và đất nước, khi ấy, mọi
người nhìn hình tượng của bậc vĩ nhân liền nhớ đến công lao của vị ấy.
Việc khai quang trong Phật giáo cũng có ý nghĩa tương tự như vậy. Ví như
chúng ta cúng dường Bồ tát Quan Thế Âm, sau khi đắp tượng trang nghiêm
rồi, chúng ta mới khai mở việc cúng dường. Lúc khai mở việc cúng, chúng ta
nhất định phải nói cho đại chúng hiểu rõ,vì sao chúng ta cúng dường Bồ
tát. Trong lúc cúng dường, dựa vào tôn tượng trang nghiêm của Bồ tát mà
chúng ta có thể khai phát quang minh tự tánh của chúng ta. Vì thế, không
phải người khác thay thế Phật, Bồ tát để khai quang, mà chính tượng Phật,
Bồ tát vì chúng ta khai quang. Đó là ý nghĩa chân chính vậy. Nếu đã thờ
Phật, Bồ tát rồi lại đi mời một vị pháp sư tới làm lễ khai quang cho Phật,
Bồ tát và cho đó là linh, không khai quang lại cho không linh, điều này
thật sự sai lầm. Có rất nhiều người đến tìm tôi nhờ khai quang cho Phật,
Bồ tát. Tôi chân thật bảo với họ không cần thiết phải cúng dường Phật và
Bồ tát. Họ hỏi “Vì sao?” tôi đáp: “Vì tôi bảo các vị ấy linh thì các vị ấy
sẽ linh, bảo không linh sẽ không linh, như vậy tôi linh hơn họ nhiều, và
bạn có thể cúng tôi là tốt rồi, cần gì phải cúng dường các vị ấy”. Chúng
ta nghĩ có đúng không? Đó có gọi là mê tín không? Vì tôi giả bộ làm vẻ này
vẻ nọ, lấy tay ra hiệu làm như linh, làm sao họ lại không cho tôi linh hơn
được, đó là chỗ nghĩ không thông. Chỉ có người ngu mới tin sâu như thế.
Một người có trí óc linh mẫn thông minh, một khi nhìn liền nhận ra sự thật
chân tướng. Tôi nói thay thế Phật, Bồ tát khai quang tức là lừa dối họ, vì
họ chưa được sáng suốt, còn hồ đồ. Cho nên, việc khai quang là việc đại
biểu cho Phật và Bồ tát. Ví dụ như chúng ta cúng dường Quan Âm Bồ Tát, mà
Quan Âm Bồ tát là đại biểu cho tâm từ bi, đem việc Bồ tát đại từ, đại bi
mà cứu độ hết tất cả chúng sinh đó là những điều cần phải học; phát khởi
chí nguyện, nghe được danh hiệu, thấy được hình tượng Bồ tát là nhớ phát
khởi lòng đại từ, đại bi làm lợi ích cho hết thảy mọi người. Chúng ta đối
nhân, đối vật, đối việc phải lấy tâm đại từ, đại bi mà thương yêu và gia
hộ cho tất cả, không phân biệt một ai, đây là một đạo lý chúng ta không
thể không biết. Đối với những người có đủ tư cách và khả năng giúp Phật và
Bồ tát khai quang, người này đối với kinh, luật, luận phải thông suốt ý
nghĩa, vì mọi người diễn nói cho rõ ràng. Cho nên tuyệt đối không được dựa
vào hình thức, mỗi một hình thức đều có ý nghĩa giáo dục riêng, rất thâm
sâu. Đó là điều mà chúng ta phải hiểu mới không bị lệch theo xu hướng mê
tín. Cầu Phật, cầu Bồ tát, cầu thiên thần giúp mình phát tài, được phúc,
đó là quan niệm sai lầm, không phải là tư tưởng chân chính.
-
PHÁP QUÁN ĐẢNH CỦA MẬT TÔNG CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Hiện tại mật tông rất thịnh
hành, tiếp thọ pháp quán đảnh của mật tông có đúng nghiệp chướng được tiêu
trừ không? Làm thế nào có thể nhanh chóng tiêu trừ nghiệp chướng?
Pháp quán đảnh tuy là hình thức, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng
trong đó, chúng ta không thể không biết. Vẫy mấy giọt nước lên đầu chúng
ta, liệu nghiệp chướng của chúng ta có tiêu trừ hết không? Chúng ta có thể
tin tưởng điều này được không? Trước tiên, chúng ta phải hiểu rõ nghiệp
chướng là gì? Nghiệp có nghĩa là gì? Nghiệp là một hành động tạo tác, nói
một cách đơn giản, là cái làm chướng ngại cho tự tánh giác ngộ của chúng
ta. Đối với vũ trụ nhân sinh, chúng ta luôn khởi nhận thức sai lầm, hành
động tạo tác đều sai lầm, đó gọi là nghiệp. Nghiệp chướng khi được phá vỡ
rồi thì tâm chúng ta sẽ hoàn toàn thanh tịnh. Như vậy, làm sao chỉ vẫy có
vài giọt nước trên đầu chúng ta là nghiệp chướng của chúng ta tiêu trừ
được! Nếu nghiệp chướng thật sự được tiêu trừ, tất nhiên tâm chúng ta sẽ
được thanh tịnh. Ngược lại, tâm chúng ta vẫn còn khởi niệm vọng tưởng,
phân biệt và chấp trước, điều đó chứng tỏ nghiệp chướng chúng ta không có
tiêu trừ. Đối với vũ trụ nhân sinh, quá khứ và vị lai, chúng ta không có
việc gì không hay, không có việc gì không biết, đó mới gọi là nghiệp
chướng của chúng ta chân chính được trừ diệt, chúng ta sẽ đạt được kết quả
tốt. Trong khi làm phép quán đảnh, tâm chúng ta vẫn còn phân biệt chấp
trước, không giảm thiểu mà lại tăng thêm, như vậy không có hiệu quả. Lão
tổ cư sĩ Hoàng Niệm trong sách chú giải Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ. Vì
Ngài là vị thầy của mật tông, lời của Ngài là sự thật, không lừa dối.
“Quán” nghĩa là gia trì từ bi, cũng là sự quan tâm chăm sóc chân chính, ái
hộ giúp đỡ. Đó là ý của chữ quán. “Đảnh” là đại pháp không có gì cao
bằng, nói một cách khác, là đem đại pháp không gì cao hơn để trao truyền
cho chúng ta, đây gọi là quán đảnh. Điều đó có nghĩa, không phải chỉ vẫy
vài giọt nước trên đầu chúng ta mà gọi là quán đảnh, như vậy là mê tín.
Quán đảnh là một biểu pháp, lấy nước cam lồ để quán đảnh. Cam lồ biểu
trưng cho Phật pháp, là pháp cao tột cùng. Nếu hiểu được đạo lý này rồi,
chúng ta mới hiểu được kinh Vô Lượng Thọ là đại pháp, không có kinh điển
nào hơn. Chúng ta đem Kinh Vô Lượng Thọ đọc từ đầu đến cuối một lần, chẳng
những Phật A Di Đà trao truyền quán đảnh cho chúng ta một lần, mà mười
phương tất cả chư Phật đều làm phép quán đảnh cho chúng ta mà chúng ta
không hay không biết. Mười phương tất cả chư Phật đều hoằng dương pháp môn
này, giảng giải kinh này. Đó là ý nghĩa chân chính của pháp quán đảnh,
không lừa dối. Ngược lại chúng ta không hiểu đạo lý, lại đi cầu thầy mật
tông làm phép quán đảnh, vẫy vài giọt nước cho chúng ta để nghiệp chướng
được tiêu trừ. Thật ra, nghiệp chướng chẳng những không tiêu trừ mà còn
tăng trưởng nữa, vì chúng ta sa ngã vào con đường mê cảm , đã mê cảm tất
nhiên sẽ tạo tác những hành động sai quấy, đã hành động sai quấy nghiệp
chướng sẽ tăng thêm, như thế không đạt được lợi ích của công đức. Vậy làm
sao có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Đây là vấn đề các bạn đồng tu cần nên
hiểu rõ.
-
CỨU CÁNH CỦA VIỆC THÀNH PHẬT LÀ ĐI VỀ ĐÂU?
Hiện tại, mật tông và thiền
tông rất thịnh hành. Mật tông cho rằng cứu cánh là “ tức thân thị Phật”,
thiền tông là “kiến tánh minh tâm” hay “kiến tánh thành Phật”.
Đây là vấn đề chúng ta không
thể không nhận thức cho rõ, càng không thể hàm hồ. Trong kinh điển, Phật
bảo của chúng ta Phật, là Phạn văn Ấn Độ, Trung Hoa chuyển ngữ là Phật.
Thật ra, chữ này không thể phiên dịch, vì sao? Vì trong quá khứ có đưa ra
năm loại danh từ không thể phiên dịch. Trong đó có danh từ thuộc loại tôn
kính không dịch. Danh từ Phật đối với chúng ta rất tôn trọng, cho nên để
nguyên âm Phạn, nghĩa là trí tuệ, là giác ngộ. Trí tuệ và giác ngộ, hai
danh từ này lý giải rất dễ dàng. Song Phật là một danh từ mà chúng ta lý
giải là siêu việt, vì trí tuệ của Ngài là trí tuệ viên mãn của các trí
tuệ, giác ngộ viên mãn trong các giác ngộ. Nói một cách khác, đối với vũ
trụ và nhân sinh, đời quá khứ hay vị lai, không điều gì mà Ngài không
hiểu, không biết. Người nào đạt đến cảnh giới đó cũng đều gọi là Phật. Nếu
hiểu được nghĩa rốt ráo của chữ Phật rồi, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa
“tức thân thị Phật” của mật tông. Vậy chúng ta có thể thành tựu được hay
không? Đó là nói hiện tại trong một đời, hoặc giả tu hành trong một thời
gian ngắn. Nhưng đối với vũ trụ nhân sinh, liệu chúng ta có thể thấu suốt
chân tướng được hay không? Nếu vẫn như cũ, nói một cách khác là vẫn chưa
thành Phật, thì cũng không được gì. Mật tông giảng nói “tức thân thành
Phật”, nhưng thiền tông có một điểm tiến bộ hơn. Vì sao? Vì thiền tông có
điều kiện, đó là minh tâm kiến tánh, kiến tánh mới thành Phật. Ai có đủ
khả năng đạt đến trình độ minh tâm? “Minh” là một động từ, do đó có thể
biết, hiện tại tâm của chúng ta vẫn chưa minh, vì còn mê cảm. Sở cầu tu
học theo thiền tông là phá trừ mê cảm, khôi phục lại tự tánh. Khi chúng ta
còn mê trong Phật pháp gọi là tâm, đến khi giác ngộ gọi là tánh. Chúng ta
cần phải biết “tâm” với “tánh” là một. Cho nên tâm một khi đã minh rồi gọi
là bổn tánh. Nhà Phật còn gọi là chân như. Lúc nào kiến tánh, minh tâm
rồi, lúc đó chúng ta mới được gọi là Phật, không còn là phàm phu. Nói cách
khác, phàm phu và Phật chỉ khác nhau ở điểm đó. Phàm phu chúng ta mặc áo
ăn cơm, Phật và Bồ tát vẫn mặc áo ăn cơm. Phàm phu chúng ta có công việc
của mình, Phật và Bồ tát mỗi người cũng có công việc của các vị ấy. Nói
trên mặt sự tướng thì có hai, chỉ khác nhau ở chỗ cảnh giới không đồng.
Phật và Bồ tát có trí tuệ chân thật, chân chính là vô sở bất tri, vô sở
bất năng. Nếu chúng ta hiểu rõ đạo lý và sự thật đó rồi thì hai câu nói
trên cũng có thể hiểu được. Điều này trong kinh luận, các bậc cổ đức không
có chú giải, mà trên sự thật không có một người bình thường nào có thể làm
được. Nói đến “tức thân thị Phật” của mật tông , trong Văn Sao của đại sư
Ấn Quang nói rất rõ: Tôi không cần phải nói nhiều. Cách đây không lâu, tôi
có gặp lão tổ cư sĩ Hoàng Niệm. Oâng là một người truyền mật tông, bản
thân ông là một Kim Cang Thượng Sư. Oâng không dối gạt người, ông thành
thật nói với tôi. Thời đại ngày nay, người có đủ căn cơ để học mật tông
không có. Nói một cách khác, muốn học mật tông thành tựu trong một đời
thật không dễ tìm ra một người. Thiền tông cũng khó khăn như vậy. Cho nên,
Phật dạy trong kinh Đại Tập, thời mạt pháp chỉ có nương vào đới nghiệp
vãng sinh của pháp môn tịnh độ mới dễ dàng thành tựu, vả lại chắc chắn sẽ
thành tựu lớn nữa. Do đó, chúng ta phải tuân theo lời giáo huấn của Phật
Thích Ca, mới xứng đáng là đệ tử của Ngài. Nỗ lực niệm Phật, y chiếu theo
ba kinh một luận của tịnh độ mà tu học, tương lai lâm chung, nhất định
chúng ta sẽ đạt được kết quả thù thắng. Hiện tại cũng như quá khứ, có rất
nhiều người vãng sinh thể hiện nhiều thoại tướng bất khả tư nghì. Nghe
thấy đó để làm gương cho chúng ta noi theo. Mật tông tức thân thành Phật,
chúng ta không có thấy qua, cũng không có nghe nói. Hòang Niệm lão tổ cũng
không dám nói Ngài tức thân thành Phật. Lão pháp sư Đàm Hư có nói, đến năm
90 tuổi hơn mới vãng sinh. Lúc sinh tiền có nói với mọi người, Ngài xem
qua nhiều thiện hữu tri thức của thiền tông, song không thấy được một
người nào khai ngộ, cũng như minh tâm kiến tánh, Ngài đều không thấy qua.
Chẳng những không thấy mà Ngài còn không nghe. Như vậy đủ biết, tu mật và
thiền thì khó, người bình thường không thể thành tựu được. Lục tổ Huệ Năng
trong thiền tông nói rất rõ. Tổ chỉ tiếp dẫn những người thượng thượng
căn, chúng ta tự xét lại mình có phải thuộc thượng thượng căn hay không?
Như thế nào gọi là thượng căn? Phiền não nhẹ tức trí tuệ thâm sâu, nói một
cách khác vọng tưởng phân biệt và chấp trước rất ít. Lục căn lanh lợi, mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng, thân tiếp xúc thông đạt rõ ràng, vả lại không bị
mê lầm. Người có đủ những điều kiện đó mới được coi là bậc thượng thượng
căn, mới có duyên, có tư cách để tu học pháp môn này. Nhưng điều kiện tu
tập của mật tông lại rất cao. Học mật tông nhất định sẽ có thể thành Phật,
điều đó cho thấy mật tông rất quan trọng. Mật không phải là bí mật, trong
Phật pháp không có bí mật. Phàm việc gì bí mật chứng tỏ là việc đó không
tốt. Phật pháp nói mật là thâm mật, lý lẽ rất sâu, không thể dùng trí tuệ
cạn cợt để có thể lĩnh hội được, cho nên mới nói là mật. Khi nào chúng ta
chính thức bắt đầu học được mật? Trong kinh đại thừa giảng, phải đến địa
vị thứ tám của thập địa mới học được. Thử hỏi chính mình đã đạt được địa
vị này chưa, đạt đến địa thứ tám của thập địa Bồ tát chưa? Thông thường,
chúng ta nói tu hành muốn thành Phật, cần phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp.
Đó là số mà người hiện tại gọi là thiên văn số. Thời gian đó được tính là
bao nhiêu? Thật ra mà nói, khoảng thời gian đó hiện tại trong đời này
không thể tính hết, trong đời quá khứ cũng không tính được, đời đời kiếp
kiếp tính cũng không thể tính cụ thể được. Nếu tính cứ trong một ngày
chúng ta phải đoạn trừ một phẩm vô minh, chứng được một phần chân tánh thì
thời gian là bao lâu? Như vậy có thể thấy, chúng ta cần phải đoạn trừ
phiền não kiến tư hoặc, vượt qua lục đạo luân hồi, chứng đến quả vị La
hán, sau đó lại tiếp tục một bước nữa là phải phá trừ trần sa hoặc và vô
minh hoặc, siêu vượt thập pháp giới, vẫn chưa được vào đâu. Chúng ta lại
tiếp tục đoạn trừ một phẩm vô minh chứng được một phần pháp thân, thì lúc
đó chúng ta mới bắt đầu tính được. Thực tế, trong kinh Hoa Nghiêm có nói,
muốn thành Phật , chúng ta phải trải qua bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ,
ba A tăng kỳ kiếp , đó là nói với Bồ tát, không phải nói với hạng phàm
phu, vì hạng phàm phu chúng ta không đủ tư cách. Tu xong A tăng kỳ kiếp
thứ nhất, lần lượt tu viên mãn ba mươi địa vị, là thập trụ, thập hạnh và
thập hồi hướng, đó là viên giáo. Chúng ta nên biết, qua A tăng kỳ kiếp thứ
hai, phải tu viên mãn ba địa vị, là từ sơ địa cho đến thất địa. A tăng kỳ
kiếp thứ ba lại tu tập viên mãn ba địa vị nữa là bát địa, cửu địa và thập
địa. Do đó có thể thấy, càng tu lại càng khó, chúng ta nghĩ xem, người nào
đạt đến địa vị thứ tám của Bồ tát, cũng mới chỉ bước vào thời kỳ đầu tiên
của A tăng kỳ kiếp thứ ba. Nói một cách khác phải đến thời kỳ thứ ba trong
ba A tăng kỳ kiếp mới được chính thức học mật. Như vậy,chúng ta làm sao có
khả năng. Không thể cho rằng, truyền cho chúng ta mấy câu thần chú, ngày
ngày trì chú, học mấy cách bắt ấn, gọi học mật, đó chẳng qua là hình thức
chú không phải là học mật chân thật. Đây là điều mà người học Phật chúng
ta cần phải nhận thức rõ ràng, có vậy mới không mắc vào những quan niệm
sai lầm đáng tiếc.
-
NHẬN THỨC VỀ VIỆC PHẬT, BỒ TÁT TÁI THẾ
Có nhiều vị pháp sư, đại đức
nói họ là Phật, Bồ tát tái thế. Điều đó thật hay giả?
Thật ra, bạn hỏi như vậy là đã
sai lầm rồi. Làm sao tôi có thể biết được. Nếu thật sự tôi nói tôi biết
thì tôi lại sai, vì tôi không phải là Phật, tôi chưa thành Phật nên làm
sao biết được họ là Phật hay không phải Phật? Tôi không phải là Bồ tát tái
thế, sao tôi biết được họ là Bồ tát tái thế? Do đây mà làm mê cảm nhiều vị
đồng tu trong giới học Phật . Đặc biệt là những người sơ cơ học đạo, thật
ra mà nói, chẳng những người sơ cơ mà ngay cả những người học Phật lâu năm
cũng dễ bị mê cảm nữa. Song, chúng ta không thể biết được họ là Phật, Bồ
tát thật hay giả. Nhưng trong kinh Phật có nói rất rõ, chư Phật và Bồ tát
ứng hóa ở tại thế gian này rất nhiều. Nhất là khi chúng sinh gặp hoàn
cảnh tột cùng khổ nạn, chư Phật, chư Bồ tát liền ứng hóa tại thế gian, hòa
mình cùng với tất cả đại chúng, không luận là phân thân gì để đại từ đại
bi cứu khổ cho chúng sinh. Như trong phẩm Phổ Môn, Bồ tát Quán Thế Âm ứng
hiện 32 thân, nam nữ, già trẻ, các hành các nghiệp đều có. Phật, Bồ tát
hiện thân chỉ một nguyên thân, vì không muốn để lộ thân phận của mình, nếu
bị lộ tức khắc các vị ấy sẽ đi mất và không trụ ở thế gian nữa. Trong lịch
sử có nói tới điều đó, hễ thân phận một khi bị lộ, các vị ấy đều biến mất,
đây là Phật và Bồ tát chân thật. Nếu thân phận bị lộ mà không đi, kỳ thật
không tương ưng với kinh điển, nên đại khái họ không phải là Phật, Bồ tát
thật, chỉ là mạo nhận .Vì sao họ dám mạo nhận? Vì không ngoài việc lừa dối
người để thu hoạch lợi dưỡng và tham cầu danh tiếng, đó là tạo tội. Nếu họ
hiểu được như vậy chắc chắn họ sẽ không dám lừa dối nữa. Như chúng ta
biết, đại sư Ấn Quang chính là Đại Thế Chí Bồ tát hóa thân tái thế, vậy mà
hành nghi của Ngài cả đời cùng với người thế tục chẳng một mảy may sai
khác. Song, sự tu hành và nguyên tắc, nguyên lý giáo hóa chúng sinh của
Ngài xác thật tương ưng với đạo lý trong chương Đại Thế Chí Bồ tát Niệm
Phật Viên Thông. Trong cuốn “Thủy tư tập”, có một vị cư sĩ đã nói điều đó,
nếu có xem chúng ta sẽ biết. Trước bốn năm đại sư vãng sinh, có một người
nữ đang ở bậc sơ trung, người này chẳng tiếp xúc với Phật giáo, lại không
tin tưởng Phật pháp. Cô ta nằm mộng thấy Quan Thế Âm Bồ tát. Bồ Tát bảo
với cô ta hiện tại Đại Thế Chí Bồ tát đang giảng kinh thuyết pháp tại
Thượng Hải, Bồ tát bảo cô ta nên đi nghe. Cô ta hỏi lại Bồ tát Thế Chí là
ai? Bồ tát bảo đó là Ấn Quang đại sư. Sau đó cô đi tìm gặp đại sư và kể về
sự tình cho đại sư nghe, nghe xong đại sư mắng cho cô một trận, mỉm cười
nói đừng làm động chúng, sau đó cấm cô không được tìm đại sư nữa, cô này
trở về không dám nói với ai. Bốn năm sau, lúc đại sư vãng sinh rồi, cô này
mới đem sự việc đó công bố cho mọi người biết. Cho nên đại sư đích thực
chính là Bồ tát Đại Thế Chí ứng thân, nhất định không phải là mạo nhận.
Thân phận bị lộ mà không đi là có vấn đề. Còn mọi người cho Ngài là Bồ tát
ứng thân thì Ngài phủ nhận, không thừa nhận sự thật. Nếu người tự xưng
mình là Phật, Bồ tát tái lai nhất định là có vấn đề, chúng ta cần phải cẩn
thận.
-
TẬP QUÁN LỄ LẠY CỦA XÃ HỘI
Người ta bình thường vào ngày
15 hay đi chùa, đi đình lễ lạy để cầu phúc, cầu tài, mạnh khỏe, trường
thọ, thăng quan tiến chức.
Việc lễ lạy trong quá trình
giảng kinh đã có đề cập rất nhiều. Như vậy việc lễ lạy Phật cầu nguyện có
hiệu quả hay không? Chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng định luật nhân
quả. Tai nạn có nhân duyên của tai nạn, phúc đức có nhân duyên của phúc
đức. Phải hiểu rõ đạo lý nhân quả, sau đó chúng ta mới gieo trồng những
nhân thiện, tương lai nhất định sẽ gặt được quả thiện. Lìa tất cả các nhân
ác, chúng ta sẽ không gặp những tai nạn. Nhân duyên quả báo là một chân
lý. Chúng ta cần phải tin tưởng tuyệt đối. Trong thời kỳ hiện đại, đặc
biệt là ở giai đoạn phát triển ngày nay, khi mà đời sống của người dân đã
được nâng cao, vật chất trở nên phong phú thì tham, sân, si của con người
theo đó trở nên tăng trưởng, lại phát sinh việc cầu sống lâu, cầu không
già… Thời xưa, có Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế cầu trường sinh không già.
Hiện tại, trong dân gian, người ta cũng có cầu như vậy. Nhưng những điều
cầu nguyện đó có thành tựu được hay không? Tần Thủy Hoàng cũng chết, Hán
Võ Đế cũng không còn. Chúng ta phải tin, có sinh ắt phải có tử. Không ai
có thể tránh được định luật tự nhiên đó. Nhưng rồi xã hội phát sinh các tệ
nạn mê tín dị đoan, như xem số mạng, xem phong thủy, những điều này lại
rất thịnh hành. Phong thủy chính xác là có hay không? Thật sự là có. Tướng
mạng là số, phong thủy là hoàn cảnh cư trú. Người nào mà tâm hồn luôn bất
định, trí tuệ, tâm can sẽ theo cảnh mà chuyển theo, cho nên hoàn cảnh cư
ngụ có ảnh hưởng đến tinh thần và tâm thái của người đó. Vì vậy, hoàn cảnh
sống không thể không xem trọng và lựa chọn, đó gọi là phong thủy. Song
phong thủy lại biến đổi nhanh chóng không nhất định, do đó có thể thấy,
hoàn cảnh nhân duyên thay đổi không gì là trường tồn bất diệt. Tục ngữ có
câu: “Người có phước ở trên đất phước, chỗ nào có phước là nơi người có
phước ở”, đây là câu nói rất có đạo lý. Nếu chúng ta chân thật có phước
báo, chúng ta dù có ở nơi nào mà phong thủy không tốt, tự nhiên nơi đó sẽ
biến thành tốt. Cảnh luôn tùy tâm người mà biến chuyển, đây là lời Phật
dạy. Cảnh là gì? Là phong thủy, là hoàn cảnh cư ngụ, tùy theo tâm mà
chuyển xoay. Dựa trên nguyên lý ấy để xét đến hoàn cảnh địa cầu của chúng
ta ngày nay. Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh lớn. Hiện tại, tâm lý
của con người đều chứa đầy tham, sân, si,mạn, nghi,… tốc độ đó lại ngày
một tăng trưởng. Các tệ nạn xã hội, hiện tượng nhân mãn, khủng bố ngày
càng gia tăng, hoàn cảnh môi trường sinh thái thiên nhiên lại bị ô nhiễm
trầm trọng, tất cả những điều đó đã làm trái đất chúng ta càng ngày càng
nóng. Vậy có phải cảnh tùy theo tâm mà chuyển đổi không? Trong thời quá
khứ, có ngài Kim Sơn Hoạt Phật. Kim Sơn Hoạt Phật là tên tục, Ngài sống
tại chùa Kim Sơn, Trấn Giang, năm Dân Quốc thứ nhất, là pháp sư Diệu
Thiện. Người đương thời nhìn Ngài có nét tương tự như trưởng lão Tế Công,
cũng có biểu hiện như ngây như dại. Trên thực tế, những lời nói và việc
làm của Ngài thì chân chính là của Phật. Có một giai đoạn Ngài có nói đến
toán mệnh rất rõ. Ngài nói rằng số mạng của những người coi toán mệnh, tự
họ không biết được họ, làm sao lại có thể biết số mạng của người khác. Chỉ
vì bọn họ muốn kiếm tiền nên mới hành nghề vậy thôi. Thật ra, nếu những
ông thầy bói mà biết được số mạng của họ, biết được phong thủy tốt thì đâu
dễ gì họ coi cho chúng ta giàu có, nếu thực sự họ biết thì họ đã giàu có
lâu rồi. Vì vậy, ca dao có câu: “Tiền của thì giữ bo bo, đem cho thầy bói
mang lo vào mình” là vậy. Đức Phật Thích Ca có thể xem là một nhà toán số
vĩ đại, vậy mà cuối cùng Ngài lại kết luận và khuyên mọi người không nên
tin tưởng vào những điều đó, phải tin vào nghiệp, vì số mạng con người ta
đều do nghiệp tạo ra. Hơn nữa, Ngài lại khuyên mọi người không nên làm ác,
làm nhiều việc thiện thì mạng sẽ tốt. Ngược lại, chúng ta không đoạn ác mà
lại còn tạo ác, làm tổn giảm đến lợi ích của người, lại hy vọng số mạng
của mình được tốt, đạo lý này nhất định không có. Nếu chúng ta chỉ nói sẽ
làm tổn hại người, dù không làm, song nhất định chúng ta sẽ không có lợi.
Chỉ cần chúng ta quán sát kỹ trong quá khứ cũng như trong xã hội hiện tại
sẽ thấy. Phàm những người muốn lợi mình mà làm việc tổn hại đến người, kết
quả sau cùng đều là tan nhà nát cửa. Điều này trong Phật pháp gọi là hiện
báo, đời sau nhất định sẽ đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc
sinh, bị hành hạ đau khổ vô cùng. Cho nên, việc chân chính lợi ích là phải
lợi mình lợi người. Chúng ta càng làm lợi ích cho mọi người bao nhiêu thì
chúng ta lại được lợi ích lớn bấy nhiêu. Người có thông minh trí tuệ sẽ
luôn làm lợi ích cho mọi người. Phương pháp tự lợi là toàn tâm toàn lực
làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, lợi ích cho xã hội. Đó là chân lý mà
thánh hiền thế gian hay xuất thế gian thường dạy cho chúng ta, chúng ta
cần phải tư duy cho kỹ, sau mới tiếp thọ và y theo đó mà thực hành. Thế
nên, pháp sư Diệu Thiện giảng, chúng ta cần phải tin vào nghiệp, không nên
tin vào thầy bói, xem phong thủy. Hoàn cảnh sinh sống mà thấy tốt là phong
thủy đã tốt. Chỗ ở của chúng ta mà sắp xếp giường, tủ sao cho chúng ta cảm
thấy thoải mái, thích hợp tự tại, đó là phong thủy đã tốt. Nếu chúng ta đi
xem thầy bói, ông ta dạy chúng ta sắp xếp chỗ này chỗ nọ,v.v… mà vận mạng
của chúng ta lại cảm thấy khác, thấy như bị khống chế, thì thật đáng
thương cho chúng ta, vì quá ngu si. Tuy chúng ta là người giàu sang, có
địa vị nhưng lại khờ dại để vận mạng của mình cho người khác sắp xếp thì
thật đáng thương, đáng tiếc. Phật giáo dạy con người là địa vị tối tôn, là
chủ tể của chính hành động của mình, không nên nghe theo sự bày đặt của
người khác, vì đó chỉ là hiện tượng cổ hủ, mê tín. Chúng ta phải hiểu chân
lý, phải liễu giải chân tướng của vũ trụ, đọc nhiều sách thánh hiền, sẽ có
lợi ích rất lớn cho chúng ta.
-
SỰ NGỘ NHẬN SAI LẦM CỦA QUẦN CHÚNG VỀ VIỆC NIỆM PHẬT CẦU
SINH THẾ GIỚI CỰC LẠC
Người niệm Phật đối với lời
Phật dạy, nhất định không được hoài nghi. Phật giáo dạy người không nói
dối. Nói dối là giới trọng của nhà Phật. Vậy Phật sao có thể nói dối
chúng ta! Điều này tuyệt không thể có. Phật nói thế giới Cực lạc ở phương
Tây nhất định là chân thật. Nhất là trong thời đại khoa học phát triển
ngày nay, con người đã phát hiện trong hư không có vô số tinh cầu, hiện
tại chúng ta cũng thường nghe nói về người ngoài hành tinh xuất hiện, điều
đó chứng tỏ lời Phật dạy là siêu việt. Chúng ta là người sống ở địa cầu,
làm sao có thể biết được các tinh cầu khác có người sống hay không?
Thế giới Cực lạc cũng không nằm
ngoài những tinh cầu đó, đó là chúng ta dùng khoa học hiện đại để suy cứu.
Nếu suy nghiệm một bước cao hơn cho dễ hiểu thì ngày nay khoa học đã công
nhận trong không gian có nhiều từng lớp, nhiều chiều. Chúng ta cũng công
nhận rằng, trong không gian, không những có ba chiều mà còn có không gian
bốn chiều. Hiện tại, chúng ta đang sống trong không gian ba chiều, còn
những người sống trong không gian bốn chiều giống như thần tiên. Khoa học
đã chứng minh có ít nhất là một từng không gian rất lý thú, rất phù hợp
với lời Phật dạy. Trong kinh Phật nói có mười pháp giới, do đó có thể
biết, nhà Phật nói mười pháp giới so với danh từ không gian chỉ có khác
nhau về tên gọi. Tầng không gian càng cao thì đời sống lại càng thù thắng.
Phật dạy không gian có tận hư không và biến khắp pháp giới. Khoa học tuy
đã phát hiện ra điều này, song không thể biết nguồn gốc hình thành và bước
đột phá cao hơn nữa. Kinh Phật dạy rất thấu triệt, mười pháp giới được
hình thành từ đâu? Đều từ nơi vọng tưởng, phân biệt và chấp trước mà
thành. Làm sao có thể đột phá được? Phải dùng công phu thiền định, chỉ có
phương pháp này mới nhập thẳng vào được không gian vô hạn để đột phá, sau
đó mới có thể thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sinh, còn gọi là nhất
chân pháp giới. Điều này, tương ưng với những khám phá của khoa học.
Khi nói đến việc vãng sinh của
người tu theo pháp môn tịnh độ, có người hỏi tôi: Cổ đức có nói “sinh thì
quyết định sinh , đi thì không thật có”, như vậy cứu cánh là có vãng sinh
hay không? Sinh thì quyết định sinh, mà đi thì không thật có. Vì sao không
thật có? Vì chúng ta chẳng lìa pháp giới. Vì sao nói sinh thì quyết định
sinh? Vì chỉ có không gian chuyển đổi. Chúng ta có thể dùng ví dụ về ti vi
để cho dễ hiểu. Màn hình ti vi có thể hiện lên cảnh ở Đài Loan, ở Mỹ,…
Nhìn trên ti vi, chúng ta thấy có một người bước lên máy bay và bay sang
Mỹ. Máy bay cất cánh bay đi, cảnh vật ở Mỹ hiện ra, như vậy người đó có
đến Mỹ hay không? Nhất định là có đến, và người đó có ly khai hay không ly
khai màn hình? Nói cách khác, việc ấy chỉ có thay đổi về tần số. Chúng ta
hiện tại đang ở tần số của thế giới ta bà, tức thuộc phạm vi của địa cầu.
Một khi tần số chuyển đổi thì chúng ta vãng sinh về thế giới Cực lạc song
vẫn ở tại pháp giới. Cho nên, từ góc độ nhất chân pháp giới mà nói thì
không có đi, nhưng từ ở góc độ vãng sinh mà nói thì chỉ là thay đổi tần
số, đây là một sự thật. Trong mười pháp giới có mười tần số không giống
nhau. Tuy không giống nhau về tần số, nhưng vẫn cùng trong một pháp giới,
cũng như chỉ ở trên một màn hình nhưng vẫn không ly khai nó. Vậy, đối với
sự thật chân tướng, chúng ta đã thể hội được bao nhiêu? Từ đây mới có thể
biết, chúng ta có nên cầu sinh tịnh độ hay không? Nhất định chúng ta phải
cầu sinh tịnh độ! Chỉ có sinh đến thế giới đó, chúng ta mới có thể đột phá
tầng lớp vô hạn của không gian, điều này, khoa học ngày nay tuy hiện đại
bao nhiêu, nhưng cũng không có phương pháp để đột phá. Nếu con người có
thể đi vào không gian ba chiều, bốn chiều hay năm chiều đi nữa, hoặc có
thể trở về quá khứ, vị lai đi nữa, song thực tế, các cõi trời dục giới,
sắc giới hay vô sắc giới cùng với cõi Ta bà của chúng ta lại không giống
nhau. Tại cảnh giới của họ, họ có thể biết được quá khứ, biết được vị lai
và do vậy, họ có thể tùy ý tiến lui một cách thong dong tự tại. Cũng như,
nếu muốn, họ có thể hóa thân ở đời quá khứ và ứng thân vào đời vị lai. Cho
nên, kinh Phật nói là có vô lượng vô biên thế giới là vậy. Chính điều này,
ngày nay khoa học đang công nhận đó là sự thật sau một quá trình dài chứng
minh, khảo cứu. Tuy vậy, họ lại không biết dùng phương pháp gì để đột phá,
để tiến nhập vào những thế giới đó. Phật pháp ngược lại, cao minh hơn khoa
học rất nhiều, Phật pháp có thể tìm ra và biết được phương pháp để đột
phá. Cho nên, chúng ta phải khẳng định thế giới là một thế giới hiện thực,
và việc cầu vãng sinh là tích cực chứ không phải tiêu cực như nhận định
của người thế gian. Nếu chúng ta cho việc cầu vãng sinh là tiêu cực, là
lánh xa với hiện thực thì thật ra, chúng ta đã sai lầm, đã nhìn vấn đề một
cách cạn cợt. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật đặc biệt nói kinh chẳng phải
là tiểu thừa, mà là kinh đại thừa. Chẳng những kinh đại thừa mà còn là đại
thừa trong các kinh đại thừa, nhất thừa trong các kinh nhất thừa nữa, là
bổn kinh liễu nghĩa cứu cánh. Vì vậy, mười phương chư Phật đều tán thán,
tất cả chư Phật đều hoằng dương, đó là sự thật không phải tránh xa hiện
thực. Đến thế giới Cực lạc chứ không phải đi thọ lạc, nếu chúng ta vẫn còn
tâm niệm thọ lạc thì đó chỉ là vọng tưởng xa xôi. Điều kiện cần yếu để đến
đó được là tâm chúng ta phải có thanh tịnh. Muốn tâm thanh tịnh, chúng ta
có thể dùng phương pháp niệm Phật. Tâm có thanh tịnh rồi, chúng ta mới đủ
tư cách để vãng sinh tịnh độ. Nếu tâm chưa thanh tịnh, vẫn còn vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước tồn tại thì dù một ngày chúng ta có niệm đến mười
vạn câu Phật hiệu đi chăng nữa, cũng chẳng có lợi ích thiết thực gì. Cho
nên, cổ nhân mới nói:
Xem ra niệm Phật dễ mà không
Khẩu ý buông lung giữ chẳng
đồng,
Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn,
Dù cho khan cổ vẫn hoài công.
Giống như học bài, chúng ta cần
phải học đi học lại nhiều lần, học cho đến khi nào thành thục, nhuần
nhuyễn thì kỳ thi mới có kết quả tốt. Cũng vậy, khi niệm Phật, chúng ta
phải niệm đến nhất tâm bất loạn, đó là tiêu chuẩn căn bản mà Kinh A Di Đà
đã nêu. Muốn đạt được nhất tâm bất loạn, chúng ta phải dùng phương pháp
trì danh niệm Phật. Phương pháp này, trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di
Đà đều có đề xướng. Tây phương cực lạc là trường học, tất cả chúng ta là
học sinh, trì danh là môn học, được vãng sinh thành Phật là sự nghiệp sau
cùng. Thành Phật là gì? Là thành tựu trí tuệ viên mãn cứu cánh, là trí tuệ
vô sở bất tri, vô sở bất năng. Thành tựu được rồi, sau đó chúng ta mới có
đủ khả năng ở trong tận hư không pháp giới để trợ giúp tất cả chúng sinh,
giúp họ phá trừ mê hoặc, đạt được giác ngộ, hiểu về chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh. Đó là 1 việc vô cùng ý nghĩa, lẽ nào lại tiêu cực sao?
Vì vậy, chúng ta nhất định phải
niệm Phật cầu sinh Tây phương cực lạc. Lời của Phật nói không hề dối gạt
chúng sinh. Chẳng những Phật Thích Ca không nói dối mà mười phương tất cả
chư Phật đều tán thán, hoằng dương. Vậy, chân thành khẩn thiết khuyên bảo
và mong mỏi tất cả chúng ta phải nên tu tập, hành trì pháp môn tịnh độ.
Đối với chúng ta, Phật có đòi hỏi điều kiện gì không? Phật tuyệt đối không
cần chúng ta phải cung kính hay cúng dường Ngài. Lời Phật dạy không thể
dối gạt người, nếu cho rằng Phật dối, tất nhiên chúng ta bị tâm bất thiện
phát sinh.
35. Mấy lời tâm huyết
Thuyết
pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho
mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, được như thế hạnh phúc không gì bằng,
đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm
những việc ấy, chúng ta thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà
cho mượn đọc, sau đó lần lượt cho nhà khác mượn, hoặc đọc cho kẻ khác
nghe, nhất là cho người không biết chữ. Việc làm này quý giá vô biên, đây
cũng gọi là pháp thí.
Chính đức Phật đã dạy: “ Trong
các sự bố thí, pháp thí có công đức lớn nhất, không công đức nào có thể
sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh,
chúng ta đừng nên lo nghĩ, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh
đạo. Đó là mục đích chính, thiêng liêng và cao cả nhất của chúng ta. Nền
móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta .Vậy mỗi người
nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, một tảng đá hay một viên gạch,
v.v… ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm về
công đức, hãy nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong
vòng tội lỗi không lối thoát xung quanh chúng ta. Hãy mau cứu vớt họ, cảnh
tỉnh họ để cùng quay về chân lý, giúp họ tìm ra nhiều lẽ sống, niềm vui.
Được thế, chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta
hãy “Tất cả vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo
tâm in kinh sách cho mọi người xem!
Được vậy, niềm phúc lạc vô bờ
chắc chắn sẽ đến với chúng ta! Tha thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền
nhỏ, lòng mình không vui, nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn nữa. Chỉ
có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh
cao, thì dù một quyển sách giá chỉ vài ngàn, nhưng vẫn quý hơn tiền trăm
bạc triệu.
Trở lên đầu ^
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phatgiao_lagi.htm