Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT HỌC NHẬP MÔN
Giác Hạnh Tâm dịch

 tiếp theo
 

MỤC LỤC

 23.  Giải thích giản lược về tứ thánh đế

24.  Biểu đổ giản luợc ba mươi bảy phẩm đạo

25.  Tứ niệm xứ giải thích sơ lược

26.  Bát chánh đạo thực tiễn

27.  Nói thiển thuyết

28.  Duyên giác thừa và mười hai nhân duyên

29.  Bồ Tát thừa và lục độ

30.  Tứ vô lượng tâm

31.  Tứ nhiếp pháp và tứ hoằng thệ nguyện

32.  Giáo lý phật giáo cơ bản

33.  Bốn lần kiết tập kinh Phật

34.  Ba thời kỳ của phật pháp Ấn Độ

35.  Phật pháp truyền vào Trung Quốc

36.  Lý do phân tông của Phật môn

37.  Loại hình của Phật giáo đồ

38.  Quy tắc sinh hoạt của giáo đoàn

39.  Nhân sinh quan phục vụ Phật giáo

40.  Nhiệm vụ và mục đích của việc học Phật

41.  Phật giáo là sự giáo dục chí thiện và viên mãn của Phật Đà

42.  Danh từ Pháp tướng và Phật giáo thường thức

 

         Sau khi Phật Đà thành đạo, ban đầu Ngài chuyển pháp luân ở vườn Lộc Uyển ( Sarnath), nước Ba La Nại, Ấn Độ xưa, thuyết pháp môn Tứ Thánh đế cho năm người A Nhã, Kiều Trần Như v.v…. Chữ  “Thánh” của Tứ Thánh đế, ý nghĩa được giải thích là “Chánh”. Đế là chân lý, tức là bày tỏ rõ ràng pháp Tứ đế của khổ, tập, diệt, đạo, là chân lý chính xác của bốn loại cho nhân sinh  mà chỉ có Thánh trí mới đích thân tự chứng nghiệm được:

1.      Khổ đế _  nói rõ chân lý mà nhân sanh phần nhiều khổ. Đời người có sanh, lão, bệnh, tử, là cái đau khổ mà ai ai cũng tránh không khỏi. Còn có ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, đều là quả báo của khổ.

2.      Tập đế _ là nói rõ cái “ Nhân” do thói quen của đời người mà khởi lên nhiều phiền não như tham, sân, si… để tạo nghiệp bất thiện chồng chất, rồi mới biết là phải nhận lấy quả khổ chồng chất. Cho nên Khổ” là vì “Tập” thành nhân duyên.

3.      Diệt đế _ Là chỉ cho Thánh quả do tu đạo mà chứng. Tức là phiền não được diệt trừ, hoạch được chân lý vô sanh (giải thoát sanh tử).

4.      Đạo đế _ đạo chính là chánh đạo. Đạo có nhiều loại. Loại chủ yếu là chỉ ra việc tu tập bát chánh đạo, chính là sẽ được trí tuệ tối thắng (bát nhã). Tu thiện đoạn ác, giải thoát nỗi đau khổ của sanh tử.

            “Tập” là nguồn gốc của “Khổ”. Hai đế này là nhân quả lưu chuyển ở thế gian. Biết khổ nên đoạn Tập. Đoạn Tập được nên cho là thoát ly khổ, là việc hành quán sát của Thanh văn thừa, là chán ghét và xa lìa thế gian.

“Diệt” là thu hoạch được của “Đạo”. Hai đế này tức là nhân quả vượt ra thế gian. Vì cầu chứng Diệt mà tu đạo. Do tu đạo là để chứng Diệt, là hành quả mà Thanh văn thừa tu chứng Niết bàn.

            Thanh văn thừa chứng đắc quả Niết bàn , tức là đoạn trừ hai hoặc của phiền não: kiến hoặc và tư hoặc mà do thói quen của Tập đế khởi lên. Hai hoặc: kiến hoặc và tư hoặc này có chứa đủ cả Thập sử: 1) Tham 2) Sân 3) Si 4) Mạn 5) Nghi 6) Thân kiến 7)Biên kiến 8) Tà kiến 9) Kiến thủ kiến 10) Giới cấm thủ kiến.

            Đoạn trừ Thập sử này chính là tu Tam học: Giới; Định; Huệ. Vì phá được ngã chấp nên chứng được chân như của ngã không mà giải thoát sanh tử.

            Lúc đó, Đức Phật ba lần chuyển pháp luân Tứ thánh đế để khai thị cho năm người Kiều Trần  Như  v.v….  khiến họ ngộ đạo.

Biểu đồ lúc Đức Phật ba lần chuyển pháp luân Tứ thánh đế được kê ra sau đây:


 |Chú giải]

1.      Ngũ ấm xí thạnh khổ _ thân tâm mong cầu như lửa hừng hực, cho nên khổ.

2.      Chuyển pháp luân _ Phật thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân. Ý nghĩa của luân:

a. Như bánh xe lăn đến, có khả năng lăn tróc vỏ trấu. Dụ cho Phật pháp có khả năng  phá năm cột trụ phiền não.

b.Như bánh xe của xe, thuyền có thể thông hành đến nơi mục đích. Dụ cho Phật pháp có khả năng thông đạt Niết bàn Tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là Niết bàn Tứ đức ). Ý nghĩa của chuyển là nói việc mà các chúng sanh có thể chuyển đổi. Tức là chuyển mê thành ngộ, chuyển nhiễm thành tịnh, chuyển phàm thành Thánh. Cho nên theo cách giải lần đầu của pháp luân là khiến cho chúng sanh vay mượn Phật pháp để phá năm cột trụ phiền não. Theo cách giải lần thứ hai là khiến chúng sanh vì nghe Phật pháp, dụ như thuyền xe có khả năng được vận tải đến bờ Niết bàn Tứ đức.

3.      Năm cột trụ phiền não:

1/ Kiến hoặc của tam giới.

2/ Tư hoặc của dục giới.

3/ Tư hoặc của sắc giới.

4/ Tư hoặc của vô sắc giới.

5/ Hoặc của vô minh.

4.      Nhị đế khổ và tập trong pháp Tứ đế là nhân quả mê vọng của thế gian. Nhị đế diệt và đạo là nhân quả chứng ngộ của xuất thế gian. Khổ đế là quả khổ mê hoặc. Động lực chủ yếu của tập đế là các mê hoặc tham, sân, si, là nhân khổ. Diệt đế là tiêu diệt phiền não, chứng quả Niết bàn. Đạo đế là nhân chánh đáng cho việc tu đạo.

5.      Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu nói Tứ thánh đế. Ba lần chuyển mười hai pháp luân. Trên lịch sử gọi thuyết pháp lần này là kinh chuyển pháp luân.

6.      Phật Đà chuyển pháp luân lần đầu ở vườn Lộc Uyển độ năm Tỳ kheo. Phật giáo chính là có sự bắt đầu của Tăng già, cũng là có sự bắt đầu đầy đủ của Tam bảo (Tam bảo sớm nhất có đủ: Phật bảo là Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp bảo là pháp Tứ đế, Tăng bảo là năm Tỳ kheo).

7.      Căn cứ văn từ Pali mà đối chiếu với văn Tàu dịch thì tên của năm Tỳ kheo được dịch như sau:

1)      KONDANNA (âm dịch là Không Đạt Nhược). Tàu dịch là Kiều Trần Như.

2)      VAPPA (âm dịch là Ngõa Bá). Tàu dịch là Sa Bà Ba, có người dịch là Phạt Bát.

3)      BHADDIYA (âm dịch là Kháp Lý Nhã).Tàu dịch là Bạt Đề, có người dịch là Bà Đề và Bạt Đà La Xà.

4)      MAHANAMA (âm dịch là Mã Kháp Na Ma). Tàu dịch là Ma Ha Nam, có người dịch là Ma Ha Na Ma.

5)      ASSAJI (âm dịch là A Sa Cứ). Tàu dịch là A Thuyết Thị, có người dịch là A Thấp Ba Thị và A Xá Ba Xà; còn dịch là Tỳ kheo Ma Đằng.

 

XXIV   BIỂU ĐỒ GIẢN LƯỢC BA MƯƠI BẢY PHẨM ĐẠO:

            Từ trong Đạo đế của Tứ đế, Phật Đà khai thị ra loại pháp môn tu tậpThánh đạo cơ bản, gọi là 37 phẩm đạo, cũng gọi là pháp của 37 phần Bồ đề.

          [ Chú giải]:

1.      Pháp quán bốn loại của Tứ niệm xứ: bốn loại này đều dùng lực lượng huệ quán để giữ gìn tâm niệm thường trụ trong đạo pháp, khiến cho tâm được chánh niệm, không tà.

2.      Tứ chánh cần : tức là tinh tấn cần lao, là tu tập bốn loại đạo pháp, rất là thù thắng, dùng để đốc thúc thân, khẩu, ý đoạn ác sanh thiện. Cũng gọi là Tứ chánh thắng. Sức trí tuệ lúc này đã tăng nhiều nhưng sức thiền định rất bạt nhược.

3.      Tứ thần túc : tức là dùng bốn loại định lực để nhiếp tâm, khiến cho định, huệ được tương đồng, thần lực được dồi dào, sở nguyện đều được đủ. Dục thần túc là mong cầu dục lạc. Cần thần túc là tinh tấn không ngừng. Tâm thần túc là nhất tâm chánh niệm. Quán thần túc là tâm bất phân tán.

4.      Ngũ căn ngũ lực : là tên được đặt theo trình độ sâu cạn. Như sự tăng trưởng về tín căn, phá được các lòng tin tà vạy thì gọi là tín lực. Cho nên ngũ căn là căn bản để sanh ra thánh đạo. Ngũ lực là chủ lực để tăng trưởng thánh đạo. Kinh Phật nói: “Có năng lực sanh thiện pháp, cho nên gọi là căn. Có năng lực phá ác pháp, cho nên gọi là lực.

  1. Ngũ căn

1)      Tín căn : Tin tưởng đạo lý và kềm chế được sự ham muốn khoái lạc đối với các tà pháp.

2)   Tấn căn: Tin tưởng cách lý giải về các pháp thiện nên càng tinh tấn gấp bội.

3)   Niệm căn: là nhớ lại chánh đạo, không quên chánh pháp.

4)   Định căn: là nhiếp tâm chánh đạo, tương tục không phân tán.

5)   Tuệ căn: là chọn lọc rõ ràng, suy nghĩ chân lý.

  1. Ngũ lực :

1)      Tín lực: tin tưởng căn tăng thượng, cho nên có thể phá chướng ngại về nghi hoặc.

2)      Tấn lực: đi vào căn tăng thượng, cho nên có thể phá giãi đãi.

3)      Niệm lực: niệm căn tăng thượng, cho nên có thể phá hôn ám.

4)      Định lực: định căn tăng thượng, cho nên có thể phá tán loạn.

5)      Tuệ lực: tuệ căn tăng thượng, cho nên có thể phá ngu muội.

            Lại vì ngũ căn; ngũ lực dùng trí tuệ làm chủ để hiển thị tín tâm. Cho nên chữ tín để đầu, chữ huệ để sau.

  1. Thất bồ đề phần : được nói rõ như sau :

1)      Trạch pháp bồ đề phần _ dùng trí tuệ để chọn pháp thực hay giả.

2)      Tinh tấn bồ đề phần _ dùng tâm dõng mãnh để nổ lực hành chánh pháp.

3)      Hỷ bồ đề phần _ tâm đắc thiện pháp mà sanh hoan hỷ.

4)      Khinh an bồ đề phần _ trừ bỏ thân tâm phiền não nặng nhọc để được khinh an.

5)      Niệm bồ đề phần ­_ nhớ rõ định huệ, khiến định huệ được tương đồng.

6)      Định bồ đề phần _ tâm suy nghĩ về một cảnh mà không tán loạn.

7)      Hành bồ đề phần _ xả bỏ các vọng ngữ  xằng bậy, càng làm thêm việc ích lợi.

            8) Thất bồ đề phần _ còn gọi là Thất giác chi. Ở trong 37 phẩm đạo được gọi là Độc giác. Nguyên nhân chính là chúng ta chưa được giác ngộ từ  khi chưa tu Tứ niệm xứ cho đến khi tu ngũ căn. Nhưng đến sau khi tu Bát chánh đạo thì đã được giác ngộ. Theo cách tư  duy thì trong khi tu Thất giác phần do mê mà ngộ, do chưa giác mà giác, cho nên được gọi là Độc giác.

9) Bát chánh đạo _ là dùng chánh kiến làm đầu. Tức là cho rằng chánh kiến rất trọng yếu. Vì đã có chánh kiến mới có thể có nhận thức chính xác về sự và lý. Đúng là có khả năng phá được cái biết tầm thường và cái thấy tầm thường của sự chênh lệch vọng ngữ xằng bậy mà ngộ nhập chánh đạo.

                  10) Hữu lậu _ có phiền não, cũng gọi là hữu vi.

                  11) Vô lậu _ thanh tịnh không phiền não, cũng gọi là vô vi.

XXV    GIẢI THÍCH GIẢN LƯỢC VỀ TỨ NIỆM XỨ :

            Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, Ngài nói với A Nan Đà và chúng Đệ tử rằng: “Sau khi ta nhập diệt, Tỳ kheo các con nên nương vào Tứ niệm xứ mà an trụ”. Trong Phật pháp rộng lớn, Đức Phật vì sao chỉ nói an trụ ở Tứ niệm xứ? Đó là vì chúng sanh có bốn loại vọng kiến điên đảo :

1.   Duyên thân thì chấp tịnh.

            2.   Duyên thọ thì chấp lạc.

3.   Duyên tâm thì hằng còn.

4.   Duyên pháp thì chấp ngã.

            Nếu như không tiêu trừ bốn vọng kiến điên đảo theo sự lưu chuyển của phàm tục này thì phiền não chồng chất. Do đó, Phẩm trọng yếu nhất trong 37 phẩm đạo là Tứ niệm xứ, là phẩm đối trị bốn vọng kiến điên đảo này. Vì sao gọi là Tứ niệm xứ? Tứ niệm xứ được thuật đơn giản như sau :

1)   Thân niệm xứ _ Quán thân bất tịnh: là dùng huệ lực tu quán bất tịnh để đối trị vọng kiến điên đảo của “ Duyên thân chấp tịnh”. Thử nghĩ thân thể chúng ta thì không phải rất thanh tịnh sao ? Bất cứ là bạn trang sức xem đẹp như thế nào, nhưng lúc mồ hôi của bạn đầy khắp thân, bạn liền có cảm giác mùi hôi khó chịu. Huống gì các loại tiểu tiện, nước mủi, nước bọt… đều là bất tịnh. Người ta sau khi chết, mọi người lại sợ thấy người chết. Thi thể sau khi chết hẳn thì mụt nát, khắp thân sinh vòi, xương răng, xương tủy bị gậm, cuối cùng trở thành một đống xương trắng, thì việc sinh tồn của thân thể này thật ra là bất tịnh. Cho nên có thể quán thân bất tịnh, thì các loại phiền não của sắc tướng diễm lệ, luyến mộ, nhớ nhung, tham ái của người từ đó có thể tiêu diệt, thì tâm niệm mới có khả năng an trú trong đạo pháp.

1)      Thọ niệm xứ _ Quán thọ là khổ: là dùng huệ lực quán khổ để đối trị vọng kiến điên đảo của“Duyên thọ chấp lạc”. Thọ chính là lãnh nạp vì nghĩa nhân, cũng tức là ấn tượng cảm thọ bên ngoài. Khi chúng ta tiếp xúc với cảnh giới, bất luận cảm giác khổ, vui hay buông xả mà chúng ta lãnh nạp được thấy trong pháp lý vô thường thì khổ thọ cố nhiên là khổ. Còn từ lạc thọ cho đến chỗ vui rốt ráo rồi cũng sanh đau thương, vẫn là trốn không hết cái khổ. Xả là xả thọ, tức là cảm giác không khổ, không vui. Vì bên ngoài của chúng sanh có bốn tướng chuyển đổi là sanh, trụ, dị, diệt. Bên trong có những ý niệm suy nghĩ không gián đoạn thì đến tận cùng cũng là khổ ( tức là hành khổ). Cho nên đời người là khổ, thế giới này là cái khổ tràn trề. Khổ đã là do “Ái” mà có. Thế thì biết khổ mà không tham dục lạc, chính là không có cách nhìn sai lầm rằng “Duyên thọ chấp lạc”của vọng kiến do cảnh giới chuyển đổi. Đúng là vọng kiến điên đảo không thể tồn tại được.

3)   Tâm niệm xứ _ quán tâm vô thường: là dùng huệ lực quán tâm vô thường để đối trị vọng kiến điên đảo của “Duyên tâm chấp thường”. “ Tâm” là bản chất của sinh mệnh, đồng thời là chỗ then chốt của chúng sanh, nhưng tâm không phải là vật cố định duy nhất để tồn tại mà chính là nhân duyên hòa hợp mà có. Thế giới tâm và vật chất của nhân duyên hòa hợp, tức là thế giới ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Còn thế giới thân tâm ngũ uẩn chính là vô thường, là sẽ hoại diệt. Cho nên tâm của chúng ta là không có thực thể, chẳng qua là sự phát triển quan hệ nhân duyên của tâm lý hoặc là tư duy mà thôi. Tuyệt nhiên là không có thực thể nào có thể nắm bắt được. Vả lại, hiện tượng của tâm là niệm niệm sinh diệt, một sát na cũng không dừng nghỉ thì làm sao có thể chấp nó là thường? Do đó, huệ lực quán tâm vô thường có thể khiến tâm niệm xa lìa nỗi lo lắng lỗi lầm của vọng kiến chấp thường.

4)   Pháp niệm xứ _ quán pháp vô ngã: dùng huệ lực quán pháp vô ngã để đối trị vọng kiến điên đảo của “Duyên pháp chấp ngã”. Vũ trụ vạn pháp đều là nhân duyên nương nhau tồn tại. Thân thể chúng ta là hình thể của ngũ uẩn và tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành. Một khi tứ đại không điều phục, ngũ uẩn phân ly, sinh mệnh liền chết mất. Phật thuyết về ngã của ngũ uẩn là “Cái ta giả”, không thể chấp là “Cái ta thật”. Nhưng chúng sanh không biết, ở trong pháp vô ngã mà vọng chấp có ngã. Loại vọng chấp này gọi là “Ngã kiến”. Đã có ngã kiến thì có phiền não chồng chất  và cố chấp một mặt, chính là không thể tiếp nhận chánh pháp. Cho nên phải khiến cho tâm niệm an trú trong đạo pháp rồi phải dùng huệ lực “Quán pháp vô ngã” để tiêu trừ sai lầm của “Duyên pháp chấp ngã”.

            Lúc quán tu Tứ niệm xứ, các phần đã thuật ở trên nên mở ra để quán xét, thì gọi là Biệt tướng niệm xứ. Mỗi một niệm xứ nên tu tạo một quán giống như lúc quán tu Tứ niệm xứ, ba quán còn lại cũng tu tạo như vậy thì gọi là Tổng tướng niệm xứ. Ví như lúc quán pháp vô ngã, nên phải quán thân này bất tịnh: là khổ, là vô thường. Hoặc nên quán thân, quán thọ, quán tâm đều là vô ngã. Lúc quán thân bất tịnh, nên quán thân này là khổ, là vô thường, vô ngã. Hoặc nên quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng đều bất tịnh, ngoài ra chúng ta còn phải suy luận.

            Tứ niệm xứ còn gọi là Tứ niệm trụ. Quan trọng của việc tu Tứ niệm xứ này là ở trí huệ. Dùng huệ làm thể, lực của huệ có thể khiến cho bốn loại quán tưởng của thân, thọ, tâm, pháp thường trụ trong đạo pháp chánh niệm. Cho nên trong giai đoạn tu Tứ niệm xứ này, trí tuệ đã được hướng về nơi chân thật. Sau đó do nhân duyên mà càng thêm tinh tấn, nên lực trí tuệ của chúng ta lúc này càng thêm tăng trưởng. Tiếp theo nữa là tu phẩm đạo khác, phải cố gắng hơn mới có thể từng bước đi vào Bát chánh đạo!

[Chú giải]:                                                                                                                        

            Ba mươi bảy phẩm đạo của Đạo đế được hiểu rõ sanh tử là khổ, đó là Tứ niệm xứ. Mà trong Tứ niệm xứ, chúng ta lìa bỏ được tham ái do trì giới mà sanh định, đó là Tứ chánh cần, Tứ như ý túc. Do định mà khai phát huệ thật vô lậu, đó là Ngũ căn Ngũ lưcï, Thất giác chi. Từ huệ vô lậu đủ để tu pháp giới, định, tuệ viên mãn, đó là Bát chánh đạo.

XXVI    BÁT CHÁNH ĐẠO THỰC TIỄN:

            Từ xưa đến nay mọi người đều nói rằng: việc quan trọng của đại thừa là Bát nhã, việc quan trọng của tiểu thừa là chánh kiến. Vì đại thừa có khả năng hành theo Bát nhã, có thể được giải thoát, tiểu thừa có thể hành theo chánh kiến cũng có thể được giải thoát. Do đó người của tiểu thừa phải tu phẩm đạo sau cùng của ba mươi bảy phẩm đạo _ Bát chánh đạo. Bát chánh đạo đầu tiên là chánh kiến. Chánh kiến tức là con mắt hành chánh đạo. Có hiểu rõ chánh kiến thì không thể tu mù, hành mù phí công vô ích.

            Nói đến Bát chánh đạo thì không phải chỉ giới hạn ở chỗ người tiểu thừa tu. Vì Bát chánh đạo có hai phương diện thế gian và xuất thế gian. Nương theo Bát chánh đạo thế gian để làm thực tiễn thì sẽ có thể thành thiện nhân quân tử. Nương theo Bát chánh đạo xuất thế gian để làm thực tiễn thì sẽ có thể hoạch được giải thoát sinh mệnh. Cũng tức là quả vị cao nhất của tiểu thừa, gọi là A La Hán.

            Điều thứ nhất của Bát chánh đạo là “Chánh kiến”, tức là tri kiến chính xác. Do nghe lý Tứ đế mà nhận thức được chân tướng của vũ trụ nhân sinh, là khổ, không, vô thường, là không có một pháp nào có thể tồn tại riêng lẻ, cũng không có một pháp nào là mãi mãi không biến đổi. Do đó, chúng ta hiểu rõ được đời người có sự tiếp xúc ngắn ngủi này thì phải bảo trì sự khéo tốt trong sạch, không buông thả cái ngã và không thay đổi bản chất, hãy mau cải chánh lần lần tư tưởng chấp một mặt để bước vào chánh kiến. Phật học Khái luận của pháp sư Ấn Thuận có nói: “Chánh kiến, trước nhất là nghe huệ. Tức là từ chỗ nghe các loại chánh pháp về nhân quả, sự lý, Tứ đế, Tam pháp ấn…. mà được tin hiểu thâm thiết, lý giải chính xác được Phật pháp, là dùng Phật pháp để làm kiến địa của mình”. Biết được chánh kiến thì Phật pháp phải đa văn, phải căn cứ vào chân lý Phật pháp mà phân biệt chánh tà, phải tin pháp lý thiện ác nhân quả và nghiệp báo ba đời v.v… Đệ tử Phật giáo bất luận là ai cũng đều phải dựa vào sự nổ lực của chính mình để tu huệ, đoạn tà, bồi dưỡng chính xác tri kiến. Đây là căn bản để tiến đức, tu thiện.

            Điều thứ hai của Bát chánh đạo là Chánh tư duy, còn được dịch thành các danh từ là Chánh dục, Chánh chí… Chánh tư duy là Chánh kiến biến hoá thành lý tưởng của mình. Do lý tưởng mà hành động được thực hiện, là phải suy xét thâm mật, nghĩa là ba lần suy nghĩ rồi sau mới hành động. Vì sao lại gọi là Chánh dục? Vì dục có thiện và bất thiện. Bất thiện dục là có lòng tư lợi, có phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Thiện dục là chí công vô tư (xa rời sáu căn bản của phiền não), tức là Chánh dục. Câu này, ý nói lên rằng: Chánh dục là lý tưởng dục vọng chánh đáng. Phàm là người nên có lý tưởng Chánh dục này và nương theo mục tiêu để làm. Muốn cho lý tưởng có khả năng thực tiễn và trở nên thành công thì phần tư duy trước tiên phải suy nghĩ chính xác, kế hoạch phải tinh mật, ý hướng phải xác định. Còn như Chánh tư duy lại gọi là Chánh chí thì như  trong kinh có câu rằng: “Chánh chí là phân biệt, là tự quyết, là hiểu ý, là tính đếm, là lập ý”. Ý nghĩa này nói rõ về Chánh chí, cũng tức là Chánh tư duy, Chánh dục, Chánh chí, nó là tư tưởng khác tên nhưng đồng một nghĩa của chánh đơn thuần. Phàm khả năng thực tiễn của Chánh tư duy không gây tạo ba ác nghiệp thân, khẩu, ý thì Chánh tư duy sẽ tránh được khổ phược do phiền não bao vây.

            Điều thứ ba của Bát chánh đạo là Chánh ngữ, tức là ngôn ngữ phải đoan chánh. Ngôn ngữ là tiếng nói của lòng, do nạp vào tâm mà biểu hiện bên ngoài. Vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ của nội tâm bất chánh thật là như  dao gươm đâm vào khiến cho tâm người ta hung ác, khó chịu và gây ra tai hoạ. Chánh ngữ phải thực tiễn thì mới đề phòng được bốn ác nghiệp của miệng là phải nói lời chân thành, trong sạch có lễ nghĩa, nói từ tốn hợp với sự và lý.

            Điều thứ tư của Bát chánh đạo là Chánh nghiệp. Tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh và xa lìa tất cả tà vọng như sát sanh, tà dâm, trộm cướp… để phạm hạnh được thanh tịnh.

            Điều thứ năm của Bát chánh đạo là chánh mệnh. Tức là bảo trì trong sạch sinh mệnh của Thánh, phải dùng sự nghiệp, công việc chánh đáng để nuôi sống sinh mệnh này. Nếu lợi ích công việc hay cách hoạch được không như ý thì không thể kinh doanh khác với tính đạo đức, mà duy trì sinh hoạt khiến cho sinh mệnh bị nhiễm ô bất tịnh. Đây cũng là nói sinh hoạt kinh tế phải có hợp lý.

            Điều thứ sáu của Bát chánh đạo là Chánh tinh tấn. Tức là bỏ ác hướng thiện, nổ lực tinh tấn dõng mãnh, gọi là Chánh tinh tấn. Bất luận là tu một chánh đạo nào cũng đều phải tinh tấn. Nếu không tinh tấn thì như thuyền đi nước ngược, không tiến mà lùi. Cho nên phải có đủ nghị lực đại tinh tấn, dũng cảm đi thẳng về phía trước, ngăn ngừa các hành vi ác và tiến tu tất cả việc thiện.

            Điều thứ bảy của Bát chánh đạo là Chánh niệm. Tức là không sanh tà niệm mà nhớ nghĩ chánh đạo. Kinh Di Giáo nói: “Tỷ như mặc áo giáp sắt vào trận, thì không có sợ gì”. Chính là nói chánh niệm phải kiên cố mới có thể đề kháng được dụ hoặc của vật dục ngoại cảnh và trong hoàn cảnh ô nhiễm của ngũ dục vẫn thảng nhiên không bị nó làm ô nhiễm. Chánh niệm là phải tu trì tinh tấn mới không khiến trong tư tưởng có ý nghĩ bất chánh.

            Điều thứ tám của Bát chánh đạo là Chánh định. Tức là nhất tâm chuyên chú, không phân tán ra ngoài, tâm được nhập định vô lậu, liền có thể giải thoát tự tại. Cho nên người của tiểu thừa lấy nhiếp tâm làm giới. Do giới sanh định, từ định phát huệ. Để đạt đến quả vị chứng ngộ vô sanh thì phải siêng năng trong chánh định sau cùng của Bát chánh đạo.

            Bát chánh đạo thực tiễn mà Phật Đà khai thị, đã có đủ sự tăng tiến thứ lớp của Tam học Giới, Định, Huệ.

                        1.      Giới học như là: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh.

                        2.      Định học như là: Chánh niệm, chánh định.

                        3.      Huệ học như là:  Chánh kiến, chánh tư duy.

                                    Chánh tinh tấn nói lên sự hoàn thành trong việc khuyến khích Tam học giới, định, tuệ. Bát chánh đạo là quỹ đạo chánh, mà bậc Thánh giải thoát, phải tuân theo và thi hành theo lực thực tiễn của Bát chánh đạo. Cho đến đệ tử của Phật tại gia, nếu như có khả năng thực tiễn về Bát chánh đạo thì cũng có thể tịnh hóa chính mình và đẩy mạnh lên tịnh hoá xã hội khiến cho đại chúng hành chánh đạo thì nhân sanh trong  xã hội sẽ trở nên hạnh phúc , an lạc và tốt đẹp.

XXVII    NÓI SƠ VỀ NGŨ UẨN:

                                    Duyên giác thừa là lý pháp nương theo mười hai nhân duyên mà tu tạo. Lý của Duyên  giác thừa là tánh không. Cho nên trước khi giới thiệu Duyên giác thừa, trước tiên nên nhận thức pháp ngũ uẩn không phải là thực, cũng chính trong kinh thường nói là Tứ đại vốn không, lục trần không phải chân tướng thực sự mà có.

1.      Ngũ uẩn _ Tức là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức , gọi là ngũ uẩn.

            “Uẩn” là nghĩa “Tích tụ”, còn gọi là “Ấm”. “Ngũ ấm” là nghĩa chướng che, có thể che lấp pháp tánh chân như mà khởi ra các phiền não. Hãy xem thuyết minh ý nghĩa của ngũ uẩn như sau:

1/  Sắc _ tức vật chất, có nghĩa là làm trở ngại, là vật tạo nên bốn loại lớn đất, nước, gió,lửa.

2/   Thọ _ có nghĩa là lãnh nạp, bao gồm ba thọ là khổ thọ, lạc thọ và xả thọ.

3/   Hành _ nghĩa là khởi tạo ra các việc làm, di chuyển không ngừng nghỉ trong ý niệm, do hành động mà tạo nghiệp ác, thiện.

4/   Tưởng _ nghĩa là dùng hình ảnh tạo nên sự suy nghĩ. Dùng tướng chồng chất của các loại trong cảnh giới thiện, ác, yêu ghét mà tạo nên suy nghĩ chồng chất.

                        5/ Thức_  nghĩa là hiểu biết, do cảnh giới của tâm thức mà hiểu rõ sở duyên, sở đối.

            2.  Pháp sắc và pháp tánh có bốn tác dụng lớn _ trong bốn đại thì chất rắn là của tánh đất, chất ẩm thấp của tánh nước, chất ấm áp của tánh lửa, chất chuyển động của tánh gió.

            Sự cấu thành của căn thân và khí giới trong sắc pháp đều có đủ tánh tác dụng hòa hợp của Tứ đại này. Như  khớp xương, móng tay, và răng của thân thể chúng ta thì thuộc về đại địa. Mồ hôi, nước mủi, nước bọt, máu, mủ, tiểu tiện, đại tiện thuộc về thủy đại. Sự ấm áp của nhiệt độ thuộc về hỏa đại. Hơi thở, hô hấp thuộc về phong đại. Sơn hà đại địa cho đến tất cả vật phẩm, dụng cụ cũng đều có tánh tác dụng của Tứ  đại này.

3.   Tứ đại và căn thân :

            Tứ đại là đất, nước, gió lửa. Căn thân là thân thể chúng ta. Phật thuyết Tứ đại là nguyên tố cấu thành căn thân. Tức thân thể chúng ta do giả tướng của Tứ đại hòa hợp mà có. Nếu như một người vì Tứ đại không điều hòa sanh ra bệnh nặng mà chết, thì căn thân đã hoại, nhân duyên Tứ đại hòa hợp bèn tiêu tán. Cho nên kinh Phật nói: “ Tứ đại vốn không”.

            4.    Ngũ uẩn và căn thân :

            Ngũ uẩn và căn thân là sự hòa hợp chung. Căn thân được hòa với ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức là nhờ sự kết hợp quan hệ hỗ tương của ngũ uẩn này, nó mới có khả năng tụ thành cho chúng ta có đủ giả tướng thân thể của tác dụng tinh thần. Khi trợ duyên của những quan hệ này đã đến lúc phân diệt thì thân thể cũng hoại thôi. Cho nên kinh Phật cũng nói: “ Ngũ uẩn không phải có”.

  Kinh Phật nói: “Tứ đại vốn không, ngũ uẩn không phải có, duyên tụ thì hợp, duyên tán thì phân ly”. Đây chính là nói “Ngũ uẩn và căn thân” là duyên sanh ra tánh không nên chúng ta không thể khởi lên các chấp trước đối với “Ngũ uẩn và thân căn này”. Ngũ uẩn và thân căn là nơi tạo nghiệp. Nếu chúng ta tự trói buộc phiền não thì sẽ có nghiệp báo.

            [ Chú giải]:

1.      Sắc uẩn trong ngũ uẩn thuộc về vật chất, được gọi là sắc pháp. Bốn uẩn : thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tinh thần, được gọi là tâm pháp.

2.      Khí giới là cách gọi chung của tất cả vật phẩm đồ dùng và phòng ốc trong sơn hà đại địa.

XXVIII     DUYÊN GIÁC THỪA VÀ MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN:

            Hai tiểu thừa: Thanh văn và Duyên Giác thường được gọi là nhị thừa. Thanh văn thừa nương theo lý của Tứ thánh đế khởi lên tu hành. Còn Duyên giác thừa theo lý của mười hai nhân duyên khởi lên tu hành. Đây là chỗ khác nhau của nhị thừa.

 

            Thập nhị nhân duyên còn gọi là thập nhị duyên khởi, là nói rõ quá trình của đời người. Câu này được giải thích rõ ràng về việc lưu chuyển sanh tử của chúng hữu tình. Tất cả giới chúng sanh cho đến giới tự nhiên đều là duyên khởi nương nhau tồn tại. Kinh A Hàm nói: “Vì cái này có cái kia có, vì cái này sanh cái kia sanh, vì cái này không có cái kia cũng không có, vì cái này diệt cái kia diệt”. Cho nên con người và xã hội, tinh thần và vật chất đều là trạng thái nương nhau để hình thành.

   Thập nhị duyên khởi là con số được dựng lên của mười hai điều mục hỗ duyên nhau để nói rõ về sự thành lập của hiện thực nhân sinh.

1.      Vô minh _ là gọi chung của phiền não trong quá khứ, là ý nghĩa của vô tri, hoặc ngu si, hoặc mê ám.Do đó, vọng động của vô minh và luân chuyển của chúng sanh là căn bản của sanh tử.

2.      Hành _ là ý nghĩa của “Hành vi” hoặc “Tạo tác”, tức là nương theo phiền não vô minh trong quá khứ mà phát động ra ba nghiệp thân, khẩu, ý: có lúc tạo và hành nghiệp thiện, có lúc tạo và hành nghiệp ác, có lúc tạo việc bất thiện bất ác. Hành này và vô minh ở bên trên tức là hoặc và nghiệp trong quá khứ đã làm, cũng chính là nội dung Tập đế trong Tứ đế đã nói.

3.      Thức _ tâm thức nhập thai. Do động lực của hoặc và nghiệp trong quá khứ mà khiến cho A Lại Da Thức chịu quả báo là gặp duyên thì thác thai, hoàn thành thân thể sinh mệnh trong hiện tại.

4.      Danh sắc _  danh là tâm thức, thuộc về tinh thần. Sắc là tinh huyết của cha mẹ, thuộc về vật chất. Cho nên gọi là sắc, là thành lập yếu tố thân thể sinh mệnh hữu tình, cũng tức là sự hình thành ban đầu của thai tướng lúc chưa đủ sáu căn.

5.      Lục nhập _ là vị trí hoàn toàn đầy đủ của sáu căn. Nghĩa là danh sắc sáu căn: mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, ý ở trong thai, dần dần tăng lớn lên, cũng lần lần đầy đủ. Nhưng bào thai thời gian này trong bụng mẹ chỉ được mấy tháng, tuy thành mô hình của sáu căn nhưng chỉ có rất ít những cảm nhập của cảm giác về ngoại giới và tác dụng cảm nhập không được đầy đủ, cho nên gọi là “ Lục nhập”, chính là thời kỳ phôi thai của nhân sinh.

6.      Xúc _ tức là sau khi xuất thai, vì tiếp xúc cảnh giới mà sinh ra cảm giác, cũng tức là sự bắt đầu nhận thức về cảnh giới. Như thời kỳ anh nhi từ sơ sinh đến nội trong một tuổi và đi vào thời kỳ ấu nhi hai tuổi thì ngoại cảnh tiếp xúc của nó chỉ khởi lên tri giác đơn giản, không thể phân biệt được cái gì đúng cái gì sai, cái gì khổ cái gì vui, cũng không có phân biệt yêu ghét. Tất cả cử động rất ngây thơ, lúc này có thể nói là thời kỳ hỗn độn của xúc. Đến ba tuổi, năm tuổi là ấu đồng thì sức tri giác tiếp xúc với ngoại cảnh cũng dần dần tăng trưởng.

7.      Thọ _ tức là cảm thọ tiếp xúc với ngoại cảnh, ý chỉ cho ba thọ là khổ, lạc và xả. Như đời người từ thời kỳ ấu nhi bốn, năm tuổi đến thời kỳ nhi đồng (sáu tuổi đến mười hai tuổi) cho đến trong thời kỳ thanh niên (mười ba tuổi đến hai mươi ba tuổi) thì tâm thức dần dần phát triển, phạm vi hoàn cảnh lãnh thọ dần dần rộng lớn mà sinh ra cái ăn, mặc, ở, đọc sách, đi chơi và sự mong cầu khác cũng tăng tiến theo năm tháng. Nếu gặp thuận cảnh thì họ cảm thọ vui, gặp nghịch cảnh thì cảm thọ đau khổ, đặc biệt là thời kỳ thanh niên rất hiện rõ đối với cảm thọ yêu ghét. Đây gọi là “Giai đoạn của thọ”.

8.      Ái _ nghĩa là sự nhiễm trước của tham ái. Ái do thọ mà đến, bôn ba tìm cầu về cảnh giới của thọ. Như thời kỳ thanh niên,  do dục vọng về tham luyến sắc dục nam nữ và tài vật mà đã gây ra sự chấp trước mãnh liệt chồng chất ở tâm, theo đuổi không thôi, không chịu buông bỏ, có người vượt khỏi phép tắc, có thai trước khi kết hôn. Cho nên “Giai đoạn ái” ở đây, đặc biệt là thanh niên nam nữ  nên cẩn thận và điều phục tình dục xung động của mình.

9.      Thủ _ nghĩa là chấp thủ, tức là đối với cảnh giới của Ái mà chấp thủ, tìm cầu. Cũng tức là khởi lên tham luyến nên chấp thủ mãnh liệt đối với cảnh giới vật dục, cứ cho rằng có ngã nên dục vọng càng làm cho mình thỏa mãn. Thế thì ba nghiệp bất tịnh tạo ra ác nghiệp. Vì nghiệp ràng buộc thân nên nghiệp huân tập thành nhân khổ của thân tâm đời sau. Đó đều là do “Ái” và “Thủ” mà ra.

10.  Hữu _ tức là ý nghĩa của sự tồn tại nghiệp lực hiện hữu. Nghĩa là do tham ái, chấp trước lôi kéo nắm bắt nghiệp lực không thôi. Đời hiện tại còn tạo nhiều ác nghiệp nên nghiệp lực cấu thành quả báo ngấm ngầm chiêu cảm ở hiện hữu đời sau.

11.  Sanh _ tức là thọ sanh đời sau. Do vì nghiệp lực tự ẩn chứa ở thân mình, lại đi đầu thai mà thọ sanh, hoàn thành sinh mệnh của đời sau.

12.  Lão tử _  đây nói rõ là đời sau đã như thế, còn phải đầu thai. Tất nhiên lại phải già, chết thì đạo lý lưu chuyển của nhân quả tuần hoàn đời đời không thôi. Vì đời sau lại có già chết thì các loại khổ như ưu, bi, khổ, não… là cái khổ của sanh, già, bệnh, chết nó đều đến với nhau. “Sanh” và “Già chết”lại là hai loại nhân quả của đời sau thì chính là nội dung khổ đế được thêm vào để phân biệt cho tỉ mỉ.

Trong việc sanh tử tuần hoàn thông nhau ba đời : quá khứ, hiện tại, vị lai của đời người được mười hai nhân duyên nói rõ. Do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, lão, tử  và không ngừng lưu chuyển thì gọi là cửa lưu chuyển. Nhân và quả của cửa lưu chuyển này từ  hai nhánh nhân là “Vô minh” và “Hành” của quá khư, nó duyên khởi ra năm nhánh quả của “Thức”, “Danh sắc”, “Lục nhập”, “Xúc” và “Thọ”. Lại từ  ba nhánh nhân “Ái”, “Thủ” và “Hữu” của đời hiện tại, nó duyên khởi ra hai nhánh quả Sanh và Già chết của đời vị lai.

Ý nghĩa của đời người chính là sinh tử, tử sinh tuần hoàn không thôi, gọi là luân hồi. Vì đời người tạo thành quả khổ của sanh tử  căn bản không ngoài “Hoặc” và “Nghiệp”. Phật Thích Ca Mâu Ni ngộ đạo chính là quán đạo lý nhân sinh mà giác ngộ Thập nhị duyên khởi này. Đức Phật đã suy cứu duyên khởi của Thập nhị nhân duyên, cho rằng “Vô minh” là căn bổn lưu chuyển của sanh tử: nếu như chúng ta tu đạo thì đoạn được vô minh, trừ được ái, thủ chính là có thể giải thoát sanh tử. Cho nên nói theo “Cửa quay về tịch diệt” của Thập nhị nhân duyên là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt… cho đến sanh và già, chết của đời sau cũng diệt.

            Thập nhị nhân duyên là pháp môn mà Duyên giác tu. Bậc Thánh nhân của Duyên giác thừa thì lợi căn hơn Thanh văn thừa. Thanh văn thừa nghe Phật nói pháp Tứ đế thì ngộ nhập từ trong Khổ đế, còn Duyên giác ngộ nhập từ trong Tập đế. Cho nên Duyên giác ngộ nhập sâu sắc hơn Thanh văn thừa. Duyên giác do vô minh của Tập đế mà quán duyên khởi của Thập nhị nhân duyên, nên không tu thính pháp, tức là nương vào tự lực mà được giác ngộ, còn gọi là Độc giác, tức là Bích Chi Phật. Vì đó mà Duyên giác thừa cũng được gọi là Độc giác thừa, hoặc Bích Chi Phật thừa, lại vì cao thâm hơn Thanh văn thừa nên gọi là Trung thừa, đứng sau Phật thừa và Bồ tát thừa.

            [ Chú giải ]:

1.      Đời người được phân kỳ theo tâm lý học giáo dục như sau:

                        1/   Thời kỳ anh nhi _ thời gian sau khi sanh đầy một năm.

2/   Thời kỳ ấu nhi _ thời gian 1 tuổi đến 5 tuổi.

3/   Thời kỳ nhi đồng _ thời gian 6 tuổi đến 12 tuổi.

4/   Thời kỳ thanh niên _ thời gian 13 tuổi đến 23 tuổi.

5/   Thời kỳ tráng niên _ thời gian 24 tuổi đến 47 tuổi.

6/   Thời kỳ lão niên _ từ 47 tuổi trở về sau là lão niên.

2.      A Lại Da Thức _ tức là chủ thể của tâm. Người ta sau khi chết, A Lại Da Thức thoát ly thân thể, gọi là thân Trung ấm. Thân này đợi có duyên của cha mẹ thích hợp thì tâm thức lại đi đầu thai, chính là A Lại Da Thức.

3.      Mười hai nhân duyên và pháp Tứ đế _ nhị đế Khổ và Tập trong pháp Tứ đế là cửa lưu chuyển mười hai nhân duyên. Nhị đế: Đạo và Diệt là cửa quay về tịch diệt của mười hai nhân duyên.

4.      Thập nhị nhân duyên còn gọi là Hữu của Thập nhị hữu chi, tức là chỉ cho tất cả sở hữu của khí thế gian của năm nẻo trong tam giới. Chi tức là chi phân, nghĩa là tất cả sở hữu của lưu chuyển sanh tử  đều vì Thập nhị chi phân này mà tuần hoàn không ngừng, cũng tức là nhân duyên của lưu chuyển sanh tử.

 

XXIX    BỒ TÁT THỪA VÀ LỤC ĐỘ:

“Bồ tát” nguyên câu của Ấn Độ gọi là Bồ đề tát đỏa (BODHISATA). Bồ đề nghĩa là giác, Tát đỏa là hữu tình, tức là chúng sanh, dịch gọn là giác hữu tình, tức là chúng sanh hữu tình giác ngộ. Bồ tát không chỉ mong cầu giác ngộ chân lý và giải thoát đau khổ cho mình mà còn phải khiến cho tất cả chúng sanh đều phải cùng nhau giác ngộ chân lý và giải thoát đau khổ. Đồng thời chính mình phải là mục tiêu cầu giác ngộ cao nhất và lập chí thành Phật. (Nói theo cách tóm tắt thì Bồ đề là chúng sanh hữu tình giác ngộ, tự giác, giác tha, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.)

            Pháp môn Bồ tát tu là Lục ba la mật, còn gọi là Lục độ, tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Biểu đồ giản lược được kê lại như sau:

   

            Trong vạn hạnh để tu Bồ tát đại thừa thì trong đó, Lục độ là pháp môn tu tập chủ yếu. Tên nguyên vẹn của Lục độ là “Lục ba la mật”. Ba la mật là tiếng Phạn, Tàu dịch là “Đáo bỉ ngạn”. Vì người tu hành bước lên thuyền đại hạnh, họ có thể từ bờ này của sanh tử khổ não mà vượt đến bờ kia của Niết bàn an lạc. Do đó Lục ba la mật còn gọi là “ø Lục độ”.

Lục ba la mật:

                        1/  Đàn na ba la mật, Tàu dịch là “Bố thí độ”, độ người tham lam keo kiệt.

                        2/ Thi ba la mật,Tàu dịch là “Trì giới độ”, độ người hủy phạm.

                        3/ Sạn đề ba la mật, Tàu dịch là “Nhẫn nhục độ”, độ người sân hận.

                        4/ Tỳ ly da ba la mật, Tàu dịch là “Tinh tấn độ”, độ người giãi đãi.

                        5/ Thiền na ba la mật, Tàu dịch là “Tư duy tu độ”, độ người tán loạn.

                        6/ Bát nhã ba la mật, Tàu dịch là “Trí huệ độ”, độ người ngu si.

            Lục độ này được phân ra có: “Sự lục độ” và “Lý lục độ”. Cũng tức là hai loại “Sự tu” và “Lý tu”. Sự tu và lý tu là nói về tướng chấp và tướng bất chấp. Sự tu, tức là thiện pháp mà sở tác, sở vi của nó đều là niệm niệm tại tâm, lại vì tướng chấp mà tu. Như thế gọi là “Sự tu”, là thiện pháp mà người thế gian tu, có thể được quả báo thiện ở thế gian, nhưng ở xuất thế gian thì không được. Lý tu là chỉ cho thiện pháp mà sở tác, sở  vi được dùng ở “ Thể không của Tam luân” để quan sát mà không chấp trước về “ Nhân, ngã, và Pháp tướng”, thì gọi là “Lý tu”. Đây là quả báo thiện ở xuất thế gian. Vì chúng ta không có thiện pháp tu tướng nên chúng ta mới có đủ khả năng hiểu rõ sanh tử  và chứng Niết bàn.

             “Lý tu” này cũng có thể nói là “Chân tu”. Vì người hành Bồ tát tu lục độ này có khả năng nhờ công phu mà quán chiếu, nên tất cả năng lực “Thể không của Tam luân” được điều khiển mà đạt đến cảnh giới cứu cánh Ba la mật, cho nên hành giả không phải chỉ có đủ năng lực gọi là tu các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ mà thôi, nên không thể gọi là Độ, tương lai bất quá chỉ được phước báo hữu lậu của nhân thiên thì không thể đến được bờ kia Niết bàn.

            Tam luân thể không là chỉ nói về bố thí. Từ người có năng lực bố thí và người nhận bố thí cho đến vật bố thí gọi là “Tam luân”. Sau khi hành bố thí thì tướng của Tam luân này không tồn ở tâm thì gọi là Tam luân thể không. Tam luân thể không này cũng là nhờ công phu “Quán chiếu”, quán được tính chất của “Bổn tánh” của ba loại “Nhân, ngã và pháp tướng” là đều không có sở đắc, cho nên sẽ đạt đến cảnh giới vô tướng của “Tam luân thể không” thì được công đức vô hạn.

            Lục độ này đều có “Tam luân” nhưng hành giả tu lục độ phải nên biết: “Tam luân” vốn là không. Không chấp ở pháp tướng chính là hợp với “Niết bàn”. Vì đó, hành giả tu lục độ không chấp trước “Nhân, ngã và pháp tướng”, mới có thể coi là Ba la mật, mới có thể đến được bờ kia. Đây đúng là “Lý lúc độ”. Nếu như  hành giả chấp trước “Nhân, ngã và pháp tướng” mà tu, thì tương lai chỉ được phước báo nhân thiên, cuối cùng không thể vượt khỏi tam giới. Cho nên Vĩnh Gia đại sư có một bài ca về chứng đạo thật hay: “ Bố thí trì giới sanh phước Trời, giống như đón tên bắn trong hư không, thế lực hết thì tên rớt, đời sau chiêu cảm không như ý”. Đây chính là nói về việc tu hành của tướng chấp trước  “Tam luân” là vẫn còn phải luân hồi sanh tử.

[ Chú giải ]:

            Những danh từ bao gồm pháp lục độ được giải thích tóm tắt như sau:

  1. Tài thí: dùng của cải, tiền tài trợ giúp sự nghiệp từ thiện hoặc chúng sanh nghèo khổ, tật bệnh.

  2. Pháp thí: dùng chân lý Phật Đà khuyên người tu thiện đoạn ác, lìa khổ được vui.

  3. Vô úy thí: Hy sinh tất cả chính mình để giúp đỡ tất cả chúng sanh xa lìa sợ hải và thống khổ.

  4. Chữ “Trì” của trì giới nghĩa là nắm giữ. “ Giới” chính là các loại giới cấm: sát sinh, trộm cướp, dâm dục, nói các điều ác và cấm uống rượu, cờ bạc, hút nha phiến và vật có chất độc ma túy…

  5. Giới luật nghi: là lúc hành, trụ, tọa, ngọa ở mỗi việc quy luật mà Đức Phật chế lập ra đều phải giữ gìn, không phạm mọi ác pháp về thân, khẩu và thất chi.

  6.  Giới nhiếp thiện pháp: Bồ tát tu thiện mà quên mình. Hết thảy vì thiện pháp mà làm lợi ích cho nhân quần, nhiếp thọ chúng sanh.

  7.  Giới lợi ích chúng sanh: Rộng tu các việc thiện, làm lợi ích cho chúng sanh.

  8.  Sanh nhẫn: tức là nhẫn thọ việc oán hận bị người khác phỉ báng, ác mắng, gia hại mà không sanh tâm sân hận, vả lại có thể dùng lòng từ bi để cảm hóa người khác.

  9.  Pháp nhẫn: là các việc gió thổi, mưa rơi, đói kém, lạnh rét, nóng nực đều có thể an nhiên nhẫn thọ.

  10. Vô sanh pháp nhẫn: đối với chân lý Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã của Thánh giáo mà nói thì có khả năng kiên tâm tín ngưỡng và không chấp tướng.

  11. Tinh tấn: tức là ý chí kiên cường không thoái lui, nổ lực và hướng thượng.

  12.  Đoạn tinh tấn: là chỉ cho việc đoạn tất cả ác.

  13. Tu tinh tấn: là chỉ cho việc tu tất cả thiện.

  14. Cầu hóa tinh tấn: là nổ lực, trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sanh.

  15. Thiền định: tiếng Phạn là Thiền na, nghĩa là yên lặng, tư duy. Vì yên lặng có thể sanh “Định” , suy nghĩ có thể sanh  “Huệ”.

  16. Thân định: quán xét lại bản thân, khiến cho không phạm lỗi.

  17.  Khẩu định: an nhiên; yên lặng, không nói chuyện thị phi.

  18.  Ý định: nhiếp tâm chánh niệm, thanh tịnh không nhiễm.

  19.  Bát nhã: là tiếng Phạn, nghĩa là trí tuệ. Do vì có trí tuệ giác chiếu nội tâm phát ra chánh niệm mà tu thân, hành thiện, đoạn ác.

  20.  Sanh không trí: quán sát thể tánh của tất cả chúng sanh đều không có thực tại.

  21.  Pháp không trí: quán tất cả pháp đều từ nhân duyên mà sanh.

  22. Tất cả trí trí: tức là chánh trí của tất cả sự lý “Thế gian” và “Xuất thế gian”, Đức Phật đều có khả năng hiểu khắp.

  23.  Lục độ: là phước huệ song tu viên mãn như  bố thí, trì giới, nhẫn nhục là tu phước. Thiền định, bát nhã là tu huệ. Tinh tấn là lục độ khuyến khích.

XXX    TỨ VÔ LƯỢNG TÂM:

Nội tâm của Bồ tát nên có đủ Tứ vô lượng tâm, chính là bốn loại tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả. Thế nào gọi là vô lượng? Vô lượng là không biên tế, cũng không có lĩnh vực nhân ngã. Bồ tát trong lúc tu tập Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả đối với mỗi chúng sanh, thậm chí toàn thể quốc gia, trọn cả thế giới, không kể là chúng sanh hữu tình trong loài người hay trong loài khác, họ đều hy vọng cho tất cả chúng sanh có đủ năng lực xa lìa khổ hải và đạt được an vui, đồng thời được phước báo vô lượng, cho nên gọi là vô lượng. Vô lượng lại được phân giải như sau:

1.   Từ vô lượng tâm: ý nghĩa của Từ  là mong cho người ta được vui. Người đời phần nhiều chỉ biết tự tìm khoái lạc, quên đi nỗi đau khổ của người khác. Nhưng người tu tập Từ vô lượng tâm thì khác, họ không những chỉ mong cho người thân của mình được vui vẻ, mà cho đến tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều phải được vui vẻ. Người tu tập Từ vô lượng tâm này còn phải bước chân vào mãnh đất thực tế để giúp đỡ chúng sanh được an vui thì tức là “Từ” của vô lượng, là có khả năng làm cho vô lượng chúng sanh được vui.

2.   Bi vô lượng tâm: bi là một loại tâm đồng tình thương xót người khác chịu khổ. Bình thường người ta chỉ biết tự tìm cách giải trừ  đau Khổ cho mình mà không nhìn lại nỗi đau khổ của người khác. Nhưng Bi vô lượng tâm này thì ngược lại: chỉ biết cứu bạt nỗi đau khổ của người khác lại quên nỗi đau khổ của mình, nghĩa là “ Tôi không vào địa ngục thì ai vào địa ngục”. Đây là lời nguyện rộng lớn của bi tâm tựa như biển, là cứu bạt nỗi khổ của người, tức là cái “Bi” vô lượng có thể cứu bạt nỗi khổ của vô lượng chúng sanh.

3.      Hỷ vô lượng tâm: hỷ là hoan hỷ, mắt thấy người khác đủ năng lực lìa khổ được vui thì chợt sanh một loại tâm tình vui vẻ vô hạn. Người đời chỉ được vui vì sự tình của mình hoặc thân mình được thăng quan phát tài mà sanh tâm hoan hỷ, còn việc vui của người khác, thì rất ít khi thấy họ sinh tâm hoan hỷ. Vả lại, có một bộ phận người, trong lòng họ vẫn hạnh phúc trước thiên tai, yên vui trước tai họa: thấy người vui, trong lòng họ buồn phiền không vui. Thấy người mắc nạn thì trong lòng họ ngấm ngầm vui. Nhưng loại hỷ vô lượng tâm này thì khác, không những thấy người vui họ lại sanh hoan hỷ, mà chính việc có oan gia kẻ thù với họ, họ vẫn có được sự vui vẻ, cũng giống như bày tỏ vô lượng hoan hỷ.

4.      Xả vô lượng tâm: xả là xả bỏ một loại niệm quán xét có phân biệt chấp trước. Làm việc thiện tuy vui được, nhưng e rằng có sự so đo về kẻ oán người thân của mình, cho nên phải xả bỏ việc so đo tính toán. Hơn nữa, bất kể làm việc thiện như thế nào cũng phải xả bỏ vui sướng tự đắc của việc làm thiện, thì tâm vô lượng mới rộng lớn để từ bi tế độ vô lượng chúng sanh. Tâm không còn chấp trước, thật tựa như gương sáng của ao nước mùa thu, có bóng trăng xuyên qua không tỳ vết, cho nên gọi là xả vô lượng tâm.

            Ngày xưa, lúc Đức Phật còn ở đời, Ngài đã tầng trao cho Đề Bà Đạt Đa nước muối, vì Đề Bà Đạt Đa thích thực vật có chất béo nên đầu và bụng đau khắp, bị khổ não lớn, chịu đựng không nỗi mà rên rỉ xưng niệm: “Nam mô Phật, nam mô Phật!” Lúc đó Đức Phật trong thiền định ở trụ xứ đó nghe được âm thanh này liền sanh lòng từ , Ngài dùng sức thần thông đến trụ sở của ông, tay sờ vào đầu và bụng của Đề Bà Đạt Đa và trao nước muối, khiến ông uống vào bụng hết đau. Mà Đề Bà Đạt Đa là người phản Phật hại Phật, Phật không nhớ oan trái mà còn cứu ông, Phật dùng lòng từ  khiến ông được vui, dùng lòng bi cứu ông thoát khổ. Đức Phật vui vì ông hết bệnh. Đức Phật không phân biệt họ hàng oan gia mà bình đẳng cứu chữa, tức là Tứ vô lượng tâm của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tứ vô lượng tâm mà Đức Phật thành tựu không chỉ với người tam thừa mà còn có khả năng đại tư,ø nghĩa là niềm vui của chúng sanh là niềm vui của Phật, có khả năng đại bi, nghĩa là cái khổ của chúng sanh là cái khổ của Phật, có khả năng đại hỷ, nghĩa là chúng sanh lìa khổ được vui thì Đức Phật vui mà Ngài còn có khả năng đại xả với tâm vô trụ và vận tâm bình đẳng để phổ lợi chúng sanh.

XXXI     TỨ NHIẾP PHÁP VÀ TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN:

            Bồ tát là tiếng Phạn, Tàu dịch là “Giác hữu tình”, tức là chúng sanh hữu tình giác ngộ, là vì chúng sanh có thể phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh: trên cầu Phật đạo là tự lợi, dưới hóa độ chúng sanh thuộc về lợi tha. Pháp môn Bồ tát phải tu tập là Tứ nhiếp và đủ cả Tứ hoằng thệ nguyện. Đồng thời, nội tâm Bồ tát phải dùng Tứ vô lượng tâm làm căn bản thì trong sự bày tỏ mới có thể hợp nhất. Tứ vô lượng tâm đã thuật ở trên, bây giờ pháp môn Tứ nhiếp và Tứ hoằng thệ nguyện cũng lược thuật theo sau:

1. Bố thí nhiếp: gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tức là giúp đỡ người khác  trên kinh tế, trên học thức và trên tinh thần thì gọi là bố thí. Bạn muốn nhiếp hóa người khác thì phải nên tự mình có phương pháp: Bạn đem tài lực, học lực, thể lực giúp đỡ người khác, đối phương nhận ân huệ của bạn thì tự nhiên sanh ra cảm tình tốt đối với bạn mà tín ngưỡng lời bạn nói, nghe theo sự chỉ huy của bạn, ngay cả lời nói tình lý không hợp lắm mà người khác cũng đều có thể nhân nhượng, huống gì lời bạn nói là chánh pháp hợp tình, hợp lý. Người là động vật có cảm tình, cho nên người được sự giúp đỡ của chúng ta thì họ rất có thể là người có liên lạc cảm tình. Có cảm tình rồi thì làm việc thuận lợi, từ việc cử hành nghĩa vụ giáo dục cho đến sự nghiệp từ thiện, phước lợi xã hội, đều là thuộc về pháp bố thí nhiếp hóa chúng sanh. Cho nên, người phát bồ đề tâm học Phật không thể không chú ý đề cập vấn đề này.

2. Ái ngữ nhiếp: chính là dùng lời lẽ rất hòa kính nói chuyện với người, là lời lẽ mà khiến cho người nghe mê thích, đưa họ vào chỗ vui vẻ hòa kính. Ái ngữ nhiếp có thể bao gồm ba loại:

a.   Úy dụ ngữ: Nếu có người bị bệnh hoặc bị tai nạn, sợ hãi đến nỗi không có chút may mắn để thoát nạn thì bạn nên dùng vẻ mặt và lời nói từ  ái vui vẻ để khuyên họ, khiến họ được sự an ủi về tinh thần. Tuy lực lượng giúp đỡ họ không có bao nhiêu nhưng thái độ đồng tình của lời nói dịu hiền này, cũng có thể khiến họ cảm kích được bạn và phát sinh ra cảm tình tốt với bạn.

b.   Lời chúc mừng: mỗi người đều có ưu điểm của mỗi người, chính là người hư cũng có chỗ tốt. Phàm họ có chỗ tốt, chúng ta đều nên khen ngợi họ, cổ động và kích thích họ, khiến họ vui vẻ, tức là trợ giúp khiến họ phát triển chỗ tốt, thì người hư cũng có thể do đây mà đi vào con đường tốt.

c.   Lời ích lợi: là khiến cho người nghe được lời nói của bạn, họ có thể triển chuyển tăng ích, tăng lợi. Bạn có thể khuyến khích ho,ï khiến cho nơi đó họ bước thêm một bước được tốt đẹp. Bạn có thể thực tế dẫn dắt họ cách bố thí rồi cách trì giới, khai dẫn ho học tiểu thừa rồi học đại thừa. Những lời nói của bạn đều thuộc về mục đích lợi ích. Có lúc bạn không những dùng lời dịu dàng khuyên bảo mà cũng có thể dùng lời cứng rắn để quở trách, khiến họ cảm ngộ mà hăng hái lo toan trị nước an dân. Chỉ cần bạn có thái độ thành khẩn thì đều có thể nhiếp hóa họ, khiến họ có khả năng tiếp nhận sự giáo dục và lời chỉ đạo có ý tốt của bạn.

3.   Lợi hành nhiếp: là việc mình làm khiến cho người khác được lợi ích thì mới là việc có lợi về hành. Cha mẹ dạy dỗ con cái, chú ý lợi ích thân tâm của con cái, thì cha mẹ tự có khả năng hoạch được sự hiếu thuận của con cái. Nếu như ở đâu cũng đều có sự lo lắng lợi ích cho học sinh thì cũng ắt có thể được sự tín ngưỡng của học sinh. Quan lớn có thể chú ý đến lợi ích cuả bộ hạ thì cũng được sự suy tôn của bộ hạ. Bồ tát có khả năng tùy thuận chúng sanh, làm các việc thiện có lợi ích cho chúng sanh thì tự nhiên Bồ tát cũng sẽ được chất sen cảm tình của chúng sanh, để dẫn đến việc hóa đạo họ dễ dàng. Trước kia, ở Âu Châu có người sở trường đặc biệt về nuôi dưỡng dã thú, trọn ngày làm bạn với Sư tử, dã thú cũng không hại ông ta. Có người hỏi ông ta duyên cớ vì sao không bị Hổ, Sư tử làm hại? Ông nói: “ Việc này có gì kỳ lạ, ông hãy giam nhốt nó xong, không có nghĩa là làm tổn hại nó thì nó tự nhiên cũng sẽ nghe theo sự chỉ đạo của ông, không thể làm hại ông được”. Bầy thú dã man cũng có thể được cảm hóa phục tùng, huống chăng là nhân loại? Cho nên Bồ tát muốn nhiếp hóa chúng sanh thì không thể không chú ý công tác lợi hành.

4.   Đồng sự nhiếp: là con người hòa hợp mọi tầng lớp để cùng chung làm việc, cùng chung đảm trách công tác, cùng chung sinh hoạt, cùng chung cam khổ. Tỷ như nói: đời sống của bạn không bằng đời sống người thương gia. Lời bạn nói người thương gia chưa ắt hiểu hết, chưa ắt tiếp nhận. Đời sống của bạn không bằng đời sống người nông phu. Lời bạn nói người nông phu cũng chưa ắt hiểu hết, chưa ắt tin theo. Cho nên Bồ tát vì hiểu rõ phương tiện độ người mà thị hiện nhân vật với mọi tầng lớp để cùng chung sinh hoạt mà ngấm ngầm đổi thay nên được thành công. Ba mươi hai ứng thân của Bồ tát đại sĩ, ngàn trăm ức hóa thân của Địa Tạng đại sĩ và Di Lặc đại sĩ đều là mẫu hình mà Bồ tát thị hiện đồng sự với chúng sanh.

          Bốn pháp tử này (bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp) thật là phương pháp tốt nhất, căn bản nhất của việc nhiếp thọ người, lãnh đạo người, chính là nhân sự của thế gian. Nhân sự cũng không đi ngược lại loại nguyên tắc này. Chúng ta có thể dùng nguyên tắc này để hoằng dương Phật pháp, nhiếp hóa chúng sanh thì nhất định rất dễ thấy có hiệu quả. Mình tuy tu hành Phật pháp hoặc là giáo hóa người, nhưng lời mình nói ra không thể cảm động người khác, không thể càng khiến cho nhiều người tin theo thì nguyên nhân là tại đâu? Nhất định là mình không có học được bốn loại phương pháp này, hoặc tuy học mà không làm tốt được. Điều đó coi như là mình có thể được thử thách.

          Lại lúc Bồ tát mới phát tâm, ắt nên duyên vào Tứ thánh đế, phát Tứ hoằng thệ nguyện, dùng tâm rộng lượng để hướng họ về nẻo sáng:

Thứ nhất, duyên Khổ đế: là lời phát nguyện Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ của Bồ tát đối với hữu tình trong lục đạo mà thọ vô lượng khổ.

Thứ hai, duyên Tập đế: là lời phát nguyện Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn của Bồ tát đối với phiền não tích tập từ vô thủy đến nay.

Thứ ba, duyên Đạo đế: là lời phát nguyện Pháp môn vô lượng thệ nguyện học của Bồ tát đốivới chồng chất pháp môn trong chặng đường tu học.

Thứ tư, duyên Diệt đế: là lời phát nguyện Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành của Bồ tát đối với quả vị rất Niết bàn thanh tịnh và tịch diệt.

Phàm là người tu Bồ tát đạo đều phải nương theo Tứ hoằng thệ nguyện này để làm con đường dẫn tới tự lợi và lợi tha.

XXXII     GIÁO LÝ PHẬT GIÁO CƠ BẢN:

  1. Tam pháp ấn:

Giáo lý trọng tâm của Phật giáo tức là Tam pháp ấn và nhất thực tướng ấn. Tam pháp ấn và nhất thực tướng ấn chính là sự khác nhau về nhân duyên và căn cơ mà Đức Phật ban giáo pháp thích nghi cho chúng sanh, cho nên thuyết pháp có sự rộng, ngắn, sâu,  cạn.

“Ấn” nghĩa là “ấn định”. Chân lý Phật pháp có thể dựa vào việc so sánh “Tam pháp ấn” hoặc “Nhất thực tướng ấn” để ấn chứng tất cả Phật pháp. Phàm là pháp mà hợp với loại pháp ấn này tức là có thể phán đoán đó là Phật pháp. Nay đem Tam pháp ấn củaTiểu thừa để giải thích ngắn gọn như sau:

   1) Các hành vô thường: “Hành” trong pháp ấn này là nghĩa của tạo tác biến hoại. Tức là pháp nhất thiết hữu vi của thế gian đều là bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt, vì nó diễn biến tương tục cho nên là vô thường - không được vĩnh hằng thường trụ. Đạo lý này hiện có thể được thuyết minh theo hai loại:

a. Ba đời lưu chuyển không trụ cho nên vô thường.

b. Vì nhân duyên sanh các pháp cho nên vô thường.

Vì sao gọi là ba đời lưu chuyển? Tức là ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Lưu chuyển là chỉ về thời gian, tên gọi ngắn nhất là “Sát na”, hoặc “Nhất niệm”. Do tất cả pháp theo thời gian mà một sát na cũng không trụ nên niệm niệm sanh diệt. Thời hiện tại là sanh, là diệt. Thời quá khứ đã diệt. Thời vị lai chưa sanh. Cho nên gọi là ba đời lưu chuyển, là biến diệt tương tục, là vô thường. Như đời người do nghiệp thức của quá khứ đến đầu thai, khi tiếng khóc oa oa ra đời, tức là từ  ấu nhi mà trưởng thành cho đến già yếu mà tử vong, rồi lại đi đào thai thành ra người đời sau. Về sau nữa thì tử tử sanh sanh, sanh sanh tử tử. Ba đời như thế lưu chuyển không ngừng. Sanh mệnh đúng là vô thường. Sanh tử  của chúng sanh lại gọi là Phân đoạn sanh tử. Sanh tử trên quả vị Bồ tát thì gọi là Biến dị sanh tử, là chưa thành Phật quả. Vì có hai loại sinh tử  này cho nên tướng khả đắc của sinh tử có từng đợt từng đợt, mà sinh mệnh của từng đợt từng đợt này tức là theo sự biến dị của “Sát na bất trụ” và “Niệm niệm sanh diệt” mà tử vong. Kinh A Hàm nói: “Tích tụ rồi phân tán, lên cao ắt rơi xuống, hội họp cuối cùng đành biệt ly, có sanh thì không có gì mà không chết”. Điều này đã nói rõ đạo lý vô thường của đời người mà phải cảm thọ đau khổ của sanh tử. Cứ nói theo khí vật thì một sát na của tất cả khí vật từ  khi thành lập đều là mới và mới, nó bất trụ không ngừng biến dị, cho đến lúc hoại diệt, nó đều là hiện tượng vô thường.

Vì sao gọi nhân duyên sinh các pháp là vô thường? Vì tất cả pháp đều là nhân duyên hòa hợp mà có, nhân duyên ly tán thì các pháp tiêu diệt. Cho nên pháp nhân duyên là pháp sinh diệt. Vì có sanh tức có biến, có biến tức có diệt. Việc thay đổi của việc sau khi sanh và trước khi diệt thì có thể biết được pháp mà nhân duyên sanh là vô thường, nhưng không phải đoạn diệt, mà là có nhân quả và định luật của nó.

Xét ra, tất cả pháp hữu vi là tánh tất nhiên của lưu chuyển diễn biến trong sự lưu chuyển từ  ba đời và sự quán sát trong pháp nhân duyên của Phật Đà. Cho nên kiến lập ấn “Các hành vô thường” là nghiêng về lý thâm sâu của nghĩa không, khiến người học Phật không tham luyến ngũ dục, phiền não được tiêu trừ mà hướng thiện, hành thiện.

   2) Các pháp vô ngã:  Về sự tương quan đây đó, từ vạn vật ở không gian mà Phật Đà quan sát chung, thì tất cả pháp hữu vi đều là sự hòa hợp của nhân duyên, nếu xa rời nhân duyên thì các pháp dễ tiêu diệt. Mà thân người là tứ đại và ngũ uẩn tích tụ, sinh mệnh thì vô thường, giả tướng chẳng qua là hàn thử biểu vài mươi độ tạm có rồi trở lại dập tắt, nên Phật Đà thuyết các pháp vô ngã.

Ý chỉ mà Phật Đà thuyết các pháp vô ngã là vì tất cả hữu tình (chúng sanh) chấp trước vọng kiến, cho rằng ngã là tự chủ thể mà có, cũng tức là ngã có tự tánh, ngã được dùng để thống trị. Dó đó vọng chấp này có “Ngã” thì gọi là “Ngã kiến”. Ngã kiến có hai:

a.      Khởi chấp trong hữu tình thì gọi là “Nhân ngã kiến”.

b.      Khởi chấp trên pháp thì gọi là “Pháp ngã kiến”, cũng gọi là “Ngã chấp” và “Pháp chấp”.

            Vì có hai vọng chấp này, chúng ta khởi ra các phiền não tham, sân, si tạo ác tổn cho người, không kiêng nể gì, khiến xã  hội bất an, sa vào hiện tượng tranh đấu, làm mất đi hạnh Phúc của việc đối đãi nhau một cách hòa kính trong xã hội nhân sinh.

   Phật Đà thuyết các pháp vô ngã cho người của nhị thừa chính là muốn phá nhị kiến. Tức là nói rõ sắc pháp vô thường và sắc pháp thường còn, bất hoại của thế gian là từ lý pháp duyên khởi. Mà sanh tử lưu chuyển của đời người đã là duyên khởi, thì thân này của hiện đời lại là sự hòa hợp của Tứ đại và ngũ uẩn. Lìa bỏ ngũ uẩn tức là thân thể trở về với cái không. Cho nên ngã của căn thân ngũ uẩn là “Giả ngã”, là tự tánh trống không thì ở đâu mà có ngã của tự chủ thể? Nếu như nói có ngã của tự chủ thể thì ngã nên có nghĩa bao hàm của bốn thứ: cái ngã vô thường, ngã của một, ngã của cố định bất biến, ngã của tự do tự tại. Nhưng thân thể của chúng ta là sự thực, là sự hòa hợp của ngũ uẩn mà thành. Đã là thân vô thường, thân không phải một, thân có khả năng biến hoại, vả lại thân là sự tích tụ của khổ thì ở đâu có tự do tự tại? Do đây chính là kiến lập pháp ấn của các pháp vô ngã. Người tiểu thừa nghe và hiểu rõ đạo lý của ấn chứng các pháp vô ngã thì phá được nhân ngã kiến, chứng chân như của ngã không.

3) Niết bàn tịch diệt: Niết bàn tức là Diệt đế trong Tứ đế. Có hai nghĩa rộng hẹp: Niết bàn đại thừa theo nghĩa rộng là tịch diệt viên mãn (đức không đức nào không viên mãn, chướng không chướng nào không tịch diệt), cũng gọi tắt là viên tịch. Còn  Niết bàn nhị thừa theo nghĩa hẹp là nghĩa của trạch diệt. Tức là dùng sự chọn lựa của Thánh trí mà đoạn diệt nghiệp phiền não phát sinh. Trạch diệt tức là giải thoát sự lưu chuyển của sanh tử mà thường trụ tịch tĩnh, cho nên gọi là Niết bàn tịch tĩnh. Người nhị thừa chứng chân như ngã không, vẫn còn có sở tri chướng (pháp chấp) chưa đoạn, cho nên có sở chấp thì chỉ có thể chứng Niết bàn tiểu thừa. Chỉ có Đức Phật đoạn hai chấp: ngã chấp và pháp chấp mới chứng đại Niết bàn vô trụ. Vì phước trí của Phật viên mãn nên cánh chim Bát nhã và Đại bi hai bên thường hỗ trợ nhau. Vì dùng Bát nhã nên không trụ thế gian, vì dùng đại bi nên cũng không trụ xuất thế gian thì gọi là Vô trụ tĩnh, thường gọi là Niết bàn tịch tĩnh.

            Phần trên, thuật pháp ấn “Vô thường”, “Vô ngã” trong Tam pháp ấn: “Các hành vô thường”, “Các pháp vô ngã” và “Niết bàn tịch tĩnh” nó ấn định pháp hữu vi của thế gian là pháp sinh diệt. Ấn chứng Niết bàn tịch tĩnh, nó ấn định pháp vô vi của xuất thế gian là pháp tịch diệt. Trước tiên, hãy nói theo thứ tự về vô thường: vì vô thường cho nên khổ. Khổ cho nên không được tự tại, không được tự tại cho nên tức là nói vô ngã. Vô ngã tức là do pháp sinh diệt của nhân duyên mà hiện ra lý tánh không. Biết nó chính là vô thường, vô ngã thì có khả năng hướng về giải thoát và đến được cảnh vực của Niết bàn tịch tĩnh. Vì ấn chứng các pháp vô ngã là quán thông về vô thường của pháp hữu vi và Niết bàn của pháp vô vi (bất sanh diệt) nên nó có thể thống nhất Tam pháp ấn thành lý tánh đồng nhất. Thế mà vì sao lại phải phân ra thành Tam pháp ấn? Đó là do căn tánh lĩnh ngộ của con người bất đồng nhất trong thực tiễn mà ra. Như có số người ngộ nhập từ môn vô thường, họ trở nên “rỗng không giải thoát”, ngộ nhập từ môn vô ngã trở nên “Vô nguyện giải thoát”, ngộ nhập từ Niết bàn tịch diệt trở nên “Vô tưởng giải thoát”. Cảnh giới Tam giải thoát được ngộ nhập như thế này là có thể do lý tánh Niết bàn đồng nhất mà phân thành Tam pháp ấn. Nói chung Tam pháp ấn là ấn định đời người trong vũ trụ: “Vô thường”,“Khổ”, “Không”, “Vô ngã”. Tam pháp ấn dạy con người rời khỏi ngũ dục một cách tích cực, tu thiện, hành thiện, hướng vào đại đạo an lạc của giải thoát.

2. Nhất thật tướng ấn: Được rút ra từ Đại trí Độ luận của Bồ tát Long Thọ. Luận này cho rằng pháp nhị thừa là pháp mà Tam pháp ấn, ấn định các hành vô thường v.v… Pháp đại thừa là pháp mà “Nhất thật tướng ấn” ấn định. Thật tướng là chỉ cho tướng chân thật của các pháp. Các pháp là tất cả pháp của các loại ngũ uẩn, thập bát giới v.v… Chính là tướng chân thật của các pháp vốn có như thế náo? Hiểu rõ nó như thế nào? Và nói rõ nó như thế nào? Đó chính là sở tri cảnh của đại giác và bình đẳng của Đức Phật. Ngoài pháp đó ra thì hữu tình không có khả năng viên mãn được là vì sở tri cảnh và tâm lượng hữu hạn của họ. Bồ tát mới phát tâm tuy chưa có khả năng chứng tri thực tướng của các pháp, mà tri giác có khả năng quan sát y như Phật thì cũng có thể thông đạt thực tướng của các pháp. Thật ra, Tam pháp ấn tức là Nhất thật tướng ấn. Vì hai loại này đều chứng minh nhân duyên sanh của các pháp là không tự  tánh. Phân biệt giải thích theo ba phương diện của Nhất thật tướng ấn thì nguồn gốc mà Tam pháp ấn được suy xét, nó thông suốt thành Nhất thật tướng ấn. Điều mà Nhất thật tướng ấn khác với Tam pháp ấn là:

1/ Biến tất cả pháp cuối cùng là không.

2/ Biến tất cả pháp thành ba tự tánh của ngũ pháp.

3/ Biến tất cả pháp thành cái ngã nhị vô của tám thức.

4/ Biến tất cả pháp thành pháp giới vô chướng ngại.

Bốn điều này bây giờ được thuật vắn tắt như sau:

1/ * Các pháp cuối cùng rỗng không _ Đầu tiên Nhất thật tướng ấn được chứng minh các pháp cuối cùng là nghĩa trống không. Pháp mà nhân duyên sanh tức là pháp hữu vi, tuy có ảo dụng và giả tướng, nhưng thực thể của nó được truy ra đều không có tự tánh thì sắc pháp của thế gian cuối cùng là rỗng không và tâm pháp cũng lại như thế, cho nên pháp hữu vi cuối cùng là không. Pháp hữu vi cũng có dụng ảo ảnh và giả tướng tương tục của các duyên. Còn pháp vô vi cũng rất ảo dụng giả tướng nhưng các duyên không tương tục thì pháp vô vi cuối cùng cũng là rỗng không. Cho nên biết, pháp hữu vi vì nhân duyên sanh, chỉ có ảo dụng giả tướng mà cuối cùng là không. Nhưng pháp vô vi là danh nghĩa giả thiết trên trí quán, nên cuối cùng cũng là rỗng không. Do đó tất cả chấp trước đều không có chỗ yên ổn thì hiện tiền vô phân biệt trí và thực tướng của các pháp là như như tương ưng.

2/ * Ba tự  tánh của Ngũ pháp _ Ngũ pháp tức là:1) danh 2) tướng 3) phân biệt 4) chánh trí 5) chân như, được nói gọn như sau:

1] Danh _ lời nói ra theo đó mà đặt tên. Do danh mà sinh ra câu, do câu mà sinh ra thuyết. Một pháp trong pháp giới thường được nói thì có danh của một pháp, pháp vô lượng thì danh cũng vô lượng.

2] Tướng _ là tâm, là cảnh giới được phân đều ra, gọi là tướng. Như nói đây là hoa hồng, kia là hoa trắng, hoặc nói cái này có ý nghĩa, cái kia không có ý nghĩa. Sắc hồng, sắc trắng này hoặc có ý nghĩa, hoặc không có ý nghĩa, tức là tướng và ý thức nương theo đây mà có tên chồng chất, lại dùng lời của tên gọi kia mà nói ra tướng của loại đó. Phàm hiện tượng của sắc pháp và tâm pháp đều gọi là tướng, vì chúng đều có thể nương theo hiện tượng để được đặt tên. Cho nên “Danh tướng” được liên tục nhau, do tướng đặt tên,  do tên biểu lộ được tướng.

3] Phân biệt _ bất luận là pháp gì mà cách xử trí của chúng ta cho chỗ có địa vị là danh tướng, và chỗ đó đang được tâm thức có khả năng hiểu rõ tức là phân biệt. Cho nên cái có khả năng phân biệt là tâm thức, là chủ quan. Danh tướng bị phân biệt là khách quan. Sự phân biệt này là sự hiểu rõ về tạp nhiễm.

4] Chánh trí _ chánh là ý nghĩa xác định rõ ràng, chánh đáng vừa đúng. Trí là trí huệ thanh tịnh. Cho nên chắc chắn hiểu rõ, thanh tịnh hiểu rõ tức là chánh trí. Chánh trí đúng là vô phân biệt trí.

5] Chân như _ là sở tri thanh tịnh, chính xác và hiểu rõ, tức là chân như, cũng tức là dùng chánh trí vô phân biệt. Do chân tướng của sở tri mà như như không khác thì gọi là chân như. Điều này không giống với danh tướng mà sở tri phân biệt tạp nhiễm, vì bị phân biệt nên không tương ưng với chân tướng, là do nương vào tâm thức mà có thể biết, nên giả tướng được Sở biến khởi phân biệt, cho nên không phải chân tướng. “Chân như” tức là chủ quan có khả năng hiểu rõ, là sự liễu tri tương đương và rất bằng thẳng. Nếu lực chủ quan không được sử dụng thì chân như  ít có biến dị. Chân như hoàn toàn được dựa vào chân tướng khách quan ban đầu như thế để hiểu rõ nó là như thế, cho nên nó là chân như. Chân như là tánh tướng  của pháp giới, là bổn lai diện mục chân thật như thế, là hằng thường như thế, là bất biến, bất dị, bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh, tức là pháp vô vi.

Ngũ pháp này nhiếp tất cả pháp, cho nên ngũ pháp còn gọi là Ngũ pháp tạng.

Ba tự tánh tức là:

1.  Tự tánh y tha khởi.

2.   Tự tánh biến kế sở chấp.

3.  Viên thành thật tánh.

Các pháp không có tự tánh, tức là các pháp cuối cùng rỗng không, cho nên Tam tự tánh tức là Tam vô tánh. Tam tánh, vốn không có thể dựng lên, nhưng vì ngộ tha mà Tam tự  tánh này được đặt ra để điều này được nói rõ:

1. Y tha khởi tánh _  tức là nhân duyên sinh ra không có tự tính vì pháp mà các duyên sinh ra pháp đều không có sự cố định. Ngoài pháp được sinh, pháp còn có thể sinh ra pháp thì việc sanh ra pháp chắc chắn cũng không có khả năng khác hơn là sanh pháp.

Vì pháp không có khả năng của việc sanh pháp thì pháp không thể thành lập nên là vô sanh, cho nên pháp sanh vô tánh. Nhân duyên pháp sanh vô tánh là vì sở tập của  các duyên hiện ra, có giả danh của một pháp đó là “Sanh”, cho nên là y tha khởi tánh. Theo các duyên mà khởi lên, theo các thức mà hiện ra thì gọi là y tha khởi. Như con người theo nghiệp phiền não mà tập hợp các pháp của ngũ uẩn tạo thành y tha khởi. Cho nên chứng minh y tha khởi tánh tức là chứng minh sanh vô tự tánh.

2.   Biến kế sở chấp tánh _ Tức là tướng không có tự tánh, vì tướng không được hiểu rõ y tha khởi tánh của sanh vô tự tánh, nên là chấp có thực ngã, thực pháp của Biến kế sở chấp. Loại chấp trước này có hai tướng:

-     Nội chấp thực ngã tướng.

-     Ngoại chấp thực vật tướng.

Ảo ảnh và giả tướng hiện ra vì tướng không hiểu rõ các thức đều là các duyên nên chấp là thực có, chấp là tướng có thực ngã mà tướng và vật đều là vô tự tánh. Đó chính là vọng chấp. Cho nên chứng minh  Biến  kế sở chấp tánh tức là chứng minh tướng vô tự tánh.

3. Viên thành thật tánh _ tức là thắng nghĩa vô tự tánh. Đây là chứng minh tánh không của duyên khởi, cũng tức là các pháp cuối cùng rỗng không. Vọng chấp đã được loại trừ  thì tánh được chánh tri thanh tịnh mà chân tướng của các pháp như như tương ưng thì chính là viên thành thật tánh. Cho nên viên thành chính là tướng chân thật vốn có đầy đủ. Vì thắng nghĩa vốn không, nên không có tự tánh.

Dựa vào Tam tự tánh của ngũ pháp trên đây mà chúng ta thấy được danh, tướng, và phân biệt đều là y tha khởi tánh. Do y tha khởi tánh đều là nhân duyên sanh pháp, cũng đều là Biến kế sở chấp tánh nên Biến kế sở chấp tánh do nhân duyên sanh pháp làm mê hoặc cho pháp là thực có. Nhưng ngay cả chân như của chánh trí, tức là viên thành thật tánh thì thanh tịnh vô lậu, lìa tất cả sự phân biệt của lời nói, nên các pháp cuối cùng cũng là nghĩa không.

3/ * Tám thức nhị vô ngã ­_ Tám thức tức là năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) và đệ lục ý thức, đệ thất mạt na thức, đệ bát A lại da thức. Tức là sự nhất trí của tám thức có tác dụng liễu biệt. Tác dụng liễu biệt này là tạp nhiễm tri kiến và phải chuyển tám thức thành Tứ thanh tịnh trí, mới là chánh trí thanh tịnh. Tức là chuyển ngũ thức trước trở thành sở tác trí và đệ lục ý thức là trí quán sát vi diệu, đệ thất mạt na thức trí tánh bình đẳng, đệ bát A lại da thức là trí gương tròn lớn. Tứ trí có khả năng chuyển bát thức và dễ có thể phá nhị chấp: ngã chấp, pháp chấp và đoạn mê hoặc chứng chân như, cho nên gọi là Bát thức nhị vô ngã. Bát thức này trong Thánh ngôn của Phật Đà đã nói rất nhiều, chẳng những Bát thức không có thuyết phân tích rõ ràng mà còn có thuyết về mật ý. Trong tiểu thừa, phần nhiều chỉ nói đến lục thức. Từ trong mật ý Thánh ngôn của Phật, từ trong thiếu sót của tiểu thừa, từ trong nghiêng lệch của nghĩa không, từ trong hỗn tạp của ngoại đạo thì chỉ có học giả tông pháp tướng duy thức trải qua thời gian dài công phu, trải qua sự gọt rửa và nung nấu cái không của thắng nghĩa mới kiến lập được quy củ của “Tám thức” và cho rằng vạn pháp là danh tướng phân biệt sở hiện, sở hữu của các thức mà chúng đều là hư vọng không thực, phải chuyển thức thành trí thì mới có khả năng liễu ngộ thực tướng của các pháp. Nghĩa của thực tướng tức là vô tướng. Tất cả pháp đều lấy vô tướng làm tánh. Vô tướng tức là không sanh, không diệt. Không sanh, không diệt thì vốn là tự tánh Niết bàn tịch tĩnh.

4/ * Pháp giới vô chướng ngại _  Pháp giới tức là chân như, cũng tức là chân như của vô phân biệt trí tương ưng. Như thuyết vũ trụ không phải chỉ có thấy không gian và thời gian mà thật là bao gồm sâm la vạn vật. Pháp giới cũng lại như thế, chính là nói một cách tổng quát về vạn pháp. Trong vạn pháp, một pháp bất kỳ như thế nào đều là tổng tướng của các pháp. Nêu lên một pháp tức là pháp giới, như một cây có thể tổng quát tất cả pháp vì tất cả pháp theo các duyên mà thành, các duyên vì các duyên mà triển chuyển vô tận, lý do là một nhiếp tất cả, một nhập tất cả. Cho nên pháp giới là nghĩa tổng tướng của các pháp. Lại giới là nghĩa của nhân duyên, tức là nhân của các pháp là pháp giới. Nghĩa là nói pháp và pháp tuy hỗ nhập nhưng không mất tự  tánh của nó. Vì mỗi mỗi pháp có chủng tử  khác nhau làm nhân nên pháp này không mất tự  tánh. Loại nhân này, mỗi cái hỗn tạp giống mỗi cái, mỗi cái hiện hành, cũng mỗi cái sai biệt mỗi cái. Nhưng loại nhân sai biệt mỗi cái của mỗi cái này lại xen kẽ và thiên lệch nhau. Cho nên mỗi mỗi loại nhân, một mà làm thiên lệch tất cả, vì năng lực trong A lại da thức không có phương sở, không có biên tế vậy.

Phần Pháp giới, ở  trên đã được nói theo ba nghĩa:

1-chân như.

2-Pháp giới là tổng tướng của các pháp.

3-Pháp giới là nhân mà loại của nhân thì khác biệt với mỗi loại của các pháp.

Lại vì mỗi mỗi pháp của pháp giới nhiếp nhau và nhập nhau mà không hỗn loạn nhau cho nên gọi là pháp giới vô chướng ngại. Pháp giới vô chướng ngại còn có nghĩa là các duyên của các pháp sanh vô tự tánh, lại vì các pháp duy tâm hiện ra, nghĩa là từ  trong hàm tạng thức, tất cả chủng tử đều biến hiện thành sự hỗn tạp phân biệt khác nhau, lại nhiếp nhau, nhập nhau mà vô chướng ngại. Nhất thật tướng ấn của đại thừa này vì thiên lệch nên tất cả đều là như thế.

Nhất thật tướng ấn của đại thừa có thể nói là Tam pháp ấn khái quát. Tam pháp ấn cũng có khả năng quán thông Nhất thật tướng ấn. Từ sự quán thông của Tam pháp ấn mà Nhất thật tướng ấn được nói ra và lý giải từ  các pháp vô ngã. Vì Nhất thật tướng ấn hiểu rõ các pháp vô ngã nên biết duyên sanh vô tánh, vì duyên trở thành pháp nên duyên khởi hỗ trợ nhau. Từ thuyết duyên khởi mà Nhất thật tướng ấn biết cửa lưu chuyển nhân quả tương sanh, nó thông với vô thường, cửa hoàn diệt nhân quả tịch diệt thông với Niết bàn. Do đó quán duyên khởi của vô ngã tức là có khả năng quán thông với hữu vi và vô vi. Nhất thật tướng ấn quán thông với các pháp tánh không của duyên khởi thì toàn bộ đều là vô ngã của không.

[ Chú giải ]:

1.   Tam pháp ấn _ “Các hành vô thường”, “Các pháp vô ngã”, “Niết bàn tịch tĩnh” gọi là Tam pháp ấn. Hoặc thêm vào “Các loại thọ đều khổ” thì gọi là Tứ pháp bổn. Tam pháp ấn có ý nghĩa bao hàm của “Vô thường”, “Khổ”, “Không”, “Vô ngã”là do Tam pháp ấn có đủ pháp bổn của “Các loại thọ đều khổ”. Cũng chính là Tam pháp ấn đã bao quát Tứ pháp bổn. Phật Đà thuyết Tam pháp ấn chính là muốn khiến cho người học Phật hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh: vô thường, khổ, không, vô ngã, không theo dòng trầm mê, diệt trừ phiền não, không tạo ác nghiệp, tránh chịu quả báo đau khổ mà phải tích cực hướng thiện, hành thiện, trồng bồi mỹ đức, dùng tinh thần vô ngã làm sự nghiệp tự lợi, lợi tha. Cho nên giáo lý cơ bản mà Đức phật dạy là cách mạng tự ngã một cách tích cực ( cải trừ ngã chấp, pháp chấp và các loại phiền não tham, sân, siv.v…) khiến cho nhân cách đạo đức bản thân được kiện toàn. Còn thuyết phê bình Phật giáo vô thường, khổ, không, vô ngã của người đời lại là tư tưởng tiêu cực. Đó là vì họ không tham cứu giáo lý của Đức Phật mà gây ra quan niệm có sai lầm này.

2.   Phân đoạn sanh tử và biến dị sanh tử _ phân đoạn sanh tử là sanh tử lưu chuyển luân hồi của phàm phu nội trong tam giới mà về quả báo, hình mạo, thọ lượng v.v…được phân loại có hạn độ và khác biệt có thể thấy được.

            Biến dị sanh tử là sanh tử của Thánh giả ngoài Tam giới. Thánh giả đã không còn thân hình phân đoạn của sanh tử luân hồi mà tâm niệm chỉ là sanh sanh diệt diệt không ngừng, là sanh tử  trên tinh thần. Bồ tát đoạn trừ vô minh thì mới hoàn toàn không còn biến dị sanh tử:

1/      Nhân ngã kiến _ các loại đươc kể ra như : ngã, nhân, chúng sanh, thọ mệnh….đều là nhân ngã kiến.

2/      Pháp ngã kiến _ như các loại chấp về ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới v.v… gọi là pháp ngã kiến. (Câu Xá luận nói: uẩn, xứ, giới bao gồm tất cả pháp “Sắc” và “Tâm”.)

3/      Thập nhị xứ _ tức là lục căn, lục trần gọi là Thập nhị xứ. Xứ là nghĩa xuất sanh, tức là do lục căn, lục trần mà xuất sanh lục thức. Nghĩa là lục căn, lục trần, lục thức đều hợp thành Thập bát giới.

4/      Tam giải thoát môn:

      1)   Không rỗng giải thoát _ quán chiếu tất cả pháp do nhân duyên mà sanh, tự tánh vốn không, không có người làm, không có người nhận. Người thông đạt như thế thì có khả năng ngộ nhập Niết bàn.

      2)   Vô nguyện giải thoát _ còn gọi là vô tác giải thoát. Ở trong tất cả pháp sanh tử mà mong cầu ý niệm xa lìa tạo tác, không phát sinh việc mong muốn đời sau có được để ngộ nhập Niết bàn.

3)   Vô tướng giải thoát _ hiểu rõ Tứ đại, ngũ uẩn đều là không và tướng của căn thân là giả hòa hợp nên lìa bỏ chấp tướng nhân ngã mà ngộ nhập Niết bàn tiểu thừa tịch tĩnh.

5/      Niết bàn của tiểu thừa là lấy: Diệt, Tận, Diệu, Ly làm cứu cánh. Diệt gọi là diệt tất cả phiền não, Tận gọi là dứt sạch nghiệp sanh tử. Ly gọi là giải thoát các khổ của Tam giới. Diệu gọi là diệu ứng chân thường, tức là chứng được diệu trí của pháp tánh vô vi, nó tương ưng với khế hợp chân thường. Đó tức là cứu cánh của Niết bàn tiểu thừa.

6/  Lý tánh Không mà Nhất thật tướng của đại thừa sử dụng có nghĩa lý thâm sâu:

1)   Biến tất cả pháp cuối cùng là không.

2)      Biến tất cả pháp thành Tam tự tánh của Ngũ pháp.

3)      Biến tất cả pháp thành nhị vô ngã của Tám thức.

4)      Biến tất cả pháp thành pháp giới vô chướng ngại.

Lý tánh Không được nói rõ là cũng không rời xa pháp môn nhân duyên. Do vì vạn pháp là tánh không của duyên khởi nên nó hiện rõ tất cả pháp cuối cùng là không, tức là sắc pháp không thì tâm pháp cũng không. Về danh, tướng, và phân biệt thì pháp hữu vi của ngũ pháp là không. Về chánh trí, chân như thì pháp vô vi là danh từ giả thiết trên trí quán cũng là không. Y tha khởi và sanh vô tự tánh của Tam tự tánh là không. Nhị chấp tướng (ngã chấp và pháp chấp) của Biến kế sở chấp cũng là không, mà pháp vô vi của Viên thành thật tánh cũng là thắng nghĩa vô tự tánh (không). Còn Bát thức nhị vô nghĩa tức là nhị chấp (ngã chấp và pháp chấp) đều không. Nghĩa không có khả năng lý giải như thế thì tâm vô sở chấp, pháp và pháp ở trong pháp giới hỗ nhiếp, hỗ nhập mà không hỗn loạn nhau; vạn pháp dung nạp nhau mà không chướng ngại. Đến cảnh giới này thì phiền não đều không, mà xã hội đời người của hiện thực đã tịnh hóa thì xã hội trở thành thế giới cực lạc.

                             7/   Pháp giới có: “Sự pháp giới” và “Lý pháp giới”. Chữ pháp của sự pháp giới chỉ cho các pháp. Giới là phân giới. Các pháp, mỗi pháp có nhân tự gieo và có phân giới khác nhau nên gọi là sự pháp giới. Còn như trong lý pháp giới thì mười pháp giới chỉ có một pháp giới chân như. Tổng hợp mà nói thì pháp giới có ba nghĩa:

         1) Pháp giới tức chân như.

         2) Pháp giới là tổng tướng của các pháp.

         3) Pháp giới là các pháp mà mỗi pháp có nhân được gieo riêng.

         8/    Các pháp cuối cùng là không:

                                 1) Sắc pháp cuối cùng là không _ pháp hữu vi chính là nhân duyên được sinh ra nên chỉ có giả tướng ảo dụng, tự tánh rỗng không, cho nên sắc pháp cuối cùng là không.

                                 2) Tâm pháp cuối cùng là không _ pháp vô vi là danh nghĩa giả thuyết của trí quán, cuối cùng cũng là không.

9/   Tam tự tánh:                                                                                                                                                             

  

10/  Long Thọ _ truyện Bồ tát Long Thọ, căn cứ theo bản dịch của La Thập: nói là ông sanh trong gia đình Bà La Môn ở phía nam Ấn Độ. Ông thông minh lạ lùng, ban đầu học rộng các loại địa lý, thiên văn, thuật số, phệ đà… về sau ông cùng với ba người bạn tri kỷ khác dẫn đi học phương pháp ẩn thân, ra vào cung vua, dâm loạn cung nữ, được hơn một trăm ngày, sau đó sự việc bị thất bại, ba người bạn bị giết, nhưng Long Thọ do nhờ tránh thân, nhân đó mà thể ngộ “Dục là gốc của khổ, là rể của các họa”. Ông bèn thâm nhập lời dạy của Phật mà xuất gia. Đầu tiên ông học tam tạng của tiểu thừa, kế đến ông thọ nhận kinh điển đại thừa ở nơi lão Tỳ kheo trong tháp Tuyết Sơn. Ông vì chưa hiểu được thực nghĩa mà khởi tâm kiêu mạn. Cho nên có Bồ tát Đại Long thấy mà thương xót, tiếp nhận ông vào biển, ở long cung mười chín ngày. Ông đọc các kinh điển phương đẳng thâm sâu mà thể ngộ nghĩa chân của Phật pháp. Thế rồi ông trở về Nam Ấn đại hoằng Phật pháp, phá vỡ ngoại đạo, theo việc trước thuật làm sự nghiệp. Sau khi ông giáo hóa được quốc vương của Nam Ấn Độ, ông biết có một vị pháp sư tiểu thừa vì bực dọc ông mà bệnh, ông bèn lui về nhập thất và bỏ xác thân. Long Thọ còn được dịch là Long Mạnh, hoặc Long Thắng. Căn cứ vào cuối truyện của Bồ tát Long Thọ thì được biết rằng: “ Mẹ của ông sanh ông dưới gốc cây”, nên ông “lấy chữ Long làm thành pháp danh cho ông”, hiệu là Long Thọ. Trước tác của ông rất nhiều, trong đó tập Đại trí độ luận (100 quyển) do La Thập dịch, được gom lại thành luận dịch: Đệ nhị hội Đại Bát nhã kinh, tức là Đại phẩm Bát nhã (25.000 lời tụng). Đại trí Độ luận của ông là lập trường trung đạo, do quyển này không giống Bát Nhã (nên không phải được sự thừa nhận của Tam thừa).

10.  Điểm khác nhau về Tam pháp ấn của tiểu thừa và Nhất thật tướng ấn của đại thừa:

1)   Tiểu thừa nói các hành vô thường khác với vạn pháp của đại thừa là không thường. Vì các hành vô thường nó vẫn được hiểu rằng nó thì không từng đoạn diệt.

2)   Tiểu thừa nói các pháp vô ngã khác với vô ngã thuyết chân lý của đại thừa. Các pháp vô ngã nó vẫn ám chỉ tục đế mà biến hóa nó.

3)   Tiểu thừa nói Niết bàn tịch tĩnh chỉ vì ngã không. Đại thừa nói Niết bàn vô trụ lại vì nhị không (ngã chấp và pháp chấp). Đại thừa sở dĩ khác với tiểu thừa là vì tự nó có hết thảy diệu dụng của đại thừa, vì Nhất thật tướng ấn này mà việc chấp trước có khế hợp. Cho nên giáo pháp mà đại thừa biện chứng lại là Nhất thật tướng ấn.

XXXIII      BỐN LẦN KIẾT TẬP KINH PHẬT:

            (Từ chương XXXIII đến chương XLII là nói rõ nhân duyên diễn hóa và truyền nhập của Phật pháp vào Trung Quốc).

            Sau khi Đức Phật diệt độ, chúng đệ tử e rằng kinh Phật dễ bị nói tà kiến nên họ gia nhập vào Phật pháp, vì sợ giáo nghĩa Tam tạng lâu ngày tản thất, nên mới có việc đề cử  kiết tập.

            Nghi thức của kiết tập đơn giản như mở hội thời nay. Đầu tiên, việc kiết tập dựa vào quy tắc của giới luật mà tụ tập chúng Tỳ kheo, tổ chức họ thành một hội. Trong hội tuyển ra một người khiến đăng cao tọa thuật lời Phật nói. Đại chúng không dị nghị, liền coi như toàn thể đã được thông qua và công nhận rằng việc này được ghi chép vào lá cây Cụ Đa là phù hợp với Phật thuyết lúc đó và trở thành điển tịch chánh thức. Kinh luật ngày nay được lưu truyền là đều trải qua sự kiết tập mà ra. Cho nên Đại tạng, kinh nào chưa sao chép đều phải được hệ thống lại để tránh sự ngụy tạo của người đời sau mà tin theo.    

Kiết tập Tam tạng đáng lẽ chỉ nên có một lần, nhưng vì trãi qua thời gian đã lâu, tà thuyết tạm thời hưng thịnh, giáo lý của Phật bị ảnh hưởng. Sau khi Phật diệt độ trong bốn trăm năm mới có lần kiết tập, còn ba lần sau đều có lý do bất đắc dĩ của nó. Nay việc kiết tập được phân thuật như sau:

            Kiết tập lần thứ nhất _ ba tháng sau khi Phật diệt độ, Tôn giả Ca Diếp được sự hỗ trợ của vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà có mời thêm ngàn người A La Hán tập hợp trong hang nham động Thất Diệp ngoài thành Vương Xá. Sau đó trong ngàn người lại tuyển ra năm trăm người đảm nhiệm sắp xếp kiết tập Tam tạng, họ phái A Nan Đà phụ trách kinh tạng, Ưu Ba Li phụ trách luật tạng. Do đây, việc kiết tập lần thứ nhất còn  được gọi là Thượng tọa bộ kiết tập, cũng gọi là Ngũ bá kiết tập.

            Lúc đó có vài chục ngàn Tỳ kheo đến sau, muốn tham gia nghe pháp bên trong hang động, Ca Diếp không cho phép. Nhưng vì ở phía Tây bắc hang nham động, cách hơn hai mươi dặm có vài người tụng Tam tạng nên là lý do chính để Ca Diếp làm sự kiết tập khác, gồm năm loại kiết tập được kể ra là kinh tạng, luật tạng, luận tạng, tạp tập tạng và cấm chú tạng. Do đây mà lần kiết tập hai được gọi là Đại chúng bộ kiết tập.

            Kiết tập lần thứ hai _ khoảng cách Phật diệt độ đã được một trăm năm, lần này có việc nghiêm khắc quá mức đối với giới luật. Cho nên, Thượng tọa bộ nghiêng nặng về bảo thủ quy chế cũ. Đại chúng bộ thì giảng về hoàn cảnh thích ứng và đề nghị người hiệu đính nên đặt nặng cái Ta. Lúc đó, trưởng giả Da Xá bèn mời Tỳ kheo hiền tài bảy trăm người vào thành Tỳ Xá Ly cẩn thận làm việc kiết tập, và đem vấn đề này đưa cho đại hội để thảo luận và quyết định. Kết quả vẫn tán thành và mọi người rất tuân theo quy chế của Đức Thế Tôn để lại. Đại hội phủ quyết việc đề nghị mở rộng giới luật, đó là kiết tập lần thứ hai.

            Kiết tập lần thứ ba _ thời gian trước công nguyên 250 năm, vua A Dục một lòng tin Phật pháp, ngoại đạo vì ăn mặc khốn khổ mới làm thân hình Tỳ kheo trà trộn vào trong Phật giáo, sửa đổi kinh điển Phật, nhiễu loạn giáo nghĩa. Đệ tử  Phật không có khả năng giải quyết, nhiều người bị dụ vào tà kiến. Lúc đó có sáu mươi ngàn Tỳ kheo hội tụ bàn tính kế sách để cứu vãn. Kết quả là tuyển ra người tinh thông Tam tạng, được một ngàn người, Mục Kiền Liên tối thắng phải là thượng thủ đều được tập hợp ở thành Ba Tra Lợi Phất (tức thành Hoa Thi) để chỉnh lý chánh pháp, và đào thải tăng ác ma, đó là kiết tập lần thứ ba.

            Kiết tập lần thứ tư _ năm bảy mươi trước công nguyên, vua Ca Nị Sắc Ca, nước Kiện Đà La, sùng tín Phật pháp. Mỗi ngày thỉnh một vị Tăng vào cung thuyết pháp, cùng một đề kinh nhưng vị nào nói cũng khác nhau. Vua vì đó hỏi Hiếp Tôn giả. Tôn giả nói: “Cách Phật ngày một xa, các Sư dần dần có cách nhìn riêng mà tạp nhập trong giáo điển, bây giờ chúng ta đang kiết tập trùng tân để quyết định bàn bạc điều này”. Lời vua như thế nên tôn giả tuyển A La Hán năm trăm người, chọn Bà Tu Mật hay gọi là Bồ tát Thế Hữu làm thượng thủ, tập hợp ở thành Ca Thấp Di La , đem mỗi bộ Tam tạng chế ra mười vạn lời tụng, gọi là Đại Tỳ Bà Sa Luận, khắc trong lá đồng đỏ, và xây Tạng tháp ở đó. Đó là kiết tập lần thứ tư.

            Kiết tập của đại thừa _ phần trên đã thuật bốn lần kiết tập, đó đều là sự kiết tập Tam tạng của tiểu thừa. Trí Độ luận nói: sau khi Phật diệt độ, các đại Bồ tát như Văn Thù, Di Lặc v.v… thỉnh A Nan Đà kiết tập Tam tạng ở núi Thiết Vi và gọi kiết tập này là Bồ tát tạng. Đó là sự kiết tập của Bồ tát đại thừa.

            [ Chú giải ]:

a.      Cụ Diệp tức là thời xưa ở Ấn Độ, lá của cây Cụ Đa dùng để viết chép kinh văn, cho nên cũng gọi là Cụ Diệp.

b.      A Xà Thế tên vua của một nước. Lúc Phật còn ở đời, ông là vua thống trị của nước Ma Kiệt Đà. Lúc ông còn là Thái Tử, nghe lời bạn ác là Đề Bà Đạt Đa bỏ tù vua cha là Tần Tỳ Sa Bà. Sau khi lên ngôi, ông thôn tính các nước nhỏ và có oai thần với bốn nước láng giềng. Nhưng vì tội hại cha, khắp thân thể sinh ra ung nhọt. Oâng đến Phật mà sám hối. Sau khi bệnh thuyên giảm, liền quy y Đức Thích Tôn, ông là môn đồ của Phật có sức hộ pháp.

c.       Hang Thất Diệp _ ở núi Linh Thứu, bên thành Vương Xa ùcó cây Thất Diệp mọc ở trong hang nham động, cho nên có tên gọi.

d.      A Nan Đà _ Tàu dịch là Khánh Hỷ, là con của vua Bạch Phạn, em của Đề Bà Đạt Đa, em họ của Đức Phật, sanh vào đêm Đức Phật thành đạo. Về sau theo Phật xuất gia, hai mươi lăm năm làm thị giả Đức Phật. Oâng là đệ tử chấp sự của Phật, là đệ nhất đa văn.

e.      Ưu Ba Li _ nguyên là người thợ hớt tóc Bạt Đề, con vua Hộc Phạn, vốn là đệ tử của ngoại đạo Ni Kiền, về sau xuất gia quy y Phật. Trong các đệ tử, ông là đệ nhất trì giới luật.

f.        Vua A Dục _ quốc vương nước Ma Kiệt Đà thống nhất toàn Ấn Độ. Ban đầu theo giáo pháp Bà La Môn. Hành vi bạo ác của ông bất chấp, giết lầm huynh đệ, đại thần và vô số nhân dân. Về sau sửa đổi và tin Phật giáo, ông là đại hộ pháp phát lên lòng từ bi, ban ra chính sách nhân từ. Ông xây dựng 84.000 ngôi chùa lớn và 84.000 bảo tháp, phái giáo sư truyền pháp ở bốn phương khiến cho Phật pháp được hoằng dương ở ngoài nước.

g.      Vua Ca Nị Sắc Ca _ nguyên là người của nước Đại Nguyệt Thi (khu vực Tây Hán). Oâng chinh phục miền bắc Ấn Độ, làm vua tự chủ. Ban đầu ông không tin giáo lý của Phật nhưng đến tuổi già mới tin theo Phật giáo. Oâng triệu tập tiến hành kiết tập lần thứ tư và xây chùa tạo tháp, cất giữ ba tạng kinh điển hoặc khắc kinh điển trong lá đồng đỏ. Công đức của ông tích tụ ngang với vua A Dục.

h.      Hiếp Tôn giả _ do vì nghiệp xưa, hơn sáu mươi tuổi mẹ ông mới mang thai. Lúc sanh ra, râu tóc của ông trắng xóa, tuổi tám mươi mới xuất gia. Oâng tự thệ nguyện rằng: “Tôi nếu không thông giáo lý của Tam tạng, không đoạn trừ cái dục của tam giới, không được sáu thần thông thì cuối cùng không có chiếc chiếu để nằm.” Trải qua ba năm sau, lời thề của ông thật thỏa mãn. Người bấy giờ tôn ông là Hiếp Tỳ kheo, hoặc là Hiếp Tôn giả.

i.        Nước Kiện Đà La _ biên giới phía tây của nước Khắc Thập Mễ Nhĩ, nằm ở Tây bắc Ấn Độ. Núi xung quanh rất nhiều. Nơi lối ra của núi bị khuyết, là con đường cái quan trọng của Ấn Độ thời xưa.

 

XXXIV    BA THỜI KỲ PHẬT PHÁP CỦA ẤN ĐỘ:

            Sau khi Phật diệt độ, Phật pháp Ấn Độ có thể trở thành ba thời kỳ để xem xét. Mỗi một thời kỳ là thời gian khoảng 500 năm. Sau khi qua 1.500 năm này, Phật giáo Ấn Độ cũng chính là bị suy tàn.

     THỜI KỲ THỨ NHẤT:

            Thời kỳ ẩn náu của đại thừa – việc hành pháp của tiểu thừa tương đối với đại thừa.

            Đức Thích Tôn một đời thuyết pháp 45 năm. Ngoài thời đại A Hàm, Đức Phật hoàn toàn nói kinh giáo của tiểu thừa. Ngoài ra vào thời đại Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn Đức Phật đều thuyết kinh giáo của đại thừa.

            Sau khi Phật diệt độ, ngoài hai bộ Thượng tọa và đại chúng kiết tập trong hang, ở ngoài hang núi, mỗi nơi đều kiết tập Tam tạng tiểu thừa. Các Bồ tát như Văn Thù, Di Lặc v.v… và Tôn giả A Nan Đà cũng kiết tập Tam tạng đại thừa ở trong núi Thiết Vi. Lại trong năm loại pháp tạng mà đại chúng bộ kiết tập ở ngoài hang như kinh, luật, luận, tạp, chú và kinh thuộc về loại đại thừa cũng không ít. Những kinh này đều không phải kinh mà tiểu thừa thành thạo.

            Giáo pháp đại thừa tuy trải qua sự kiết tập ngoài hang và ở núi Thiết Vi, nhưng vào thời gian 500 năm sau khi Phật diệt độ, Phật pháp cả Ấn Độ được hoằng dương phần nhiều thuộc về tiểu thừa. Vào thời kỳ này tuy nhiên cũng có Phật pháp đại thừa xen tạp trong đo,ù nhưng do duyên cớ giáo pháp tiểu thừa thịnh hành, nên giáo pháp đại thừa chỉ ẩn chìm không biểu dương.

Cho nên trong 500 năm ban đầu này có thể gọi là tiểu thừa thịnh hành, là thời đại mà đại thừa ẩn chìm. Đồng thời 500 năm này cũng được gọi là thời kỳ chánh pháp.

THỜI KỲ THỨ HAI:

            Thời kỳ đại thừa là chính – tiểu thừa là phụ.

            Thời kỳ đầu 500 năm đã đi qua, mãi đến lúc năm thứ 600 Bồ tát Mã Minh bắt đầu ra đời tạo ra các kinh luận như Đại thừa Khởi Tín luận, kinh Đại Trang Nghiêm v.v… và hết sức đề xướng Phật pháp đại thừa, lý do là giáo nghĩa đại thừa mới trùng quang ở đời. Đến khoảng 700 năm, Long Thọ và Đề Bà sinh ra đúng thời vận : vì muốn nhắm vào để phá pháp chấp các loại nhất thiết hữu bộ của tiểu thừa nên  họ mới tạo ra nhiều các bộ luận để làm rõ các pháp duyên khởi của đại thừa: cuối cùng là nghĩa không. Đến khoảng 900 năm, học giả vì chịu ảnh hưởng của học thuyết Long Thọ, đa số chấp không nên bị bao vây bởi đoạn diệt kiến (nghiêng chấp thế gian và ngã, chung quy là tà kiến bị đoạn diệt). Nhờ Vô Trước và Thế Thân căn cứ vào lý của Du Già Duy thức học mà phát huy ra lý diệu hữu của đại thừa: nói rằng chủng tử có khả năng sinh tất cả, nhân quả là có. Sau khi trãi qua hai phen bày tỏ ý nghĩa, Phật pháp đại thừa lan rộng toàn Ấn Độ khiến cho tiểu thừa trở thành phụ thuộc. Cho nên, Phật diệt độ 600 năm đến 1000 năm thì trong (500 năm thời kỳ thứ hai) có thể gọi là thời đại mà đại thừa làm chủ, tiểu thừa làm phụ.

THỜI KỲ THỨ BA:

            Thời đại Mật chú làm chủ – Hiển giáo làm phụ.

            Sau khi thời kỳ thứ hai 500 đã qua, Phật diệt độ thời gian khoảng 1.200 năm, luận sư Thanh Biện tông không của đại thừa, ông căn cứ rốt ráo của nghĩa không mà bác bỏ tông hữu. Luận sư hộ pháp tông hữu của đại thừa, căn cứ vào nghĩa có như ảo ảnh mà bác bỏ tông không. Đồ đệ của ông tôn sùng điều này mà trở nên tranh cãi tông hữu và tông không, khiến cho tư tưởng đại thừa phân chia ra hai hệ: hữu và không. Đồng thời tiểu thừa đi tới trạng thái suy tàn.        

            Lúc này có Bồ tát Long Trí hoằng dương mật chú, đem mật chú dung nhiếp vào phong tục tập quán Ấn Độ. Do đó mật chú chính là dần dần phát triển. Lúc này Phật pháp tiểu thừa và đại thừa đều nương theo mật chú mà lưu hành. Mãi đến thời gian Phật diệt độ 1.300 năm, vì bên trong Ấn Độ có sự phục hưng của Bà La Môn giáo và sau đó bên ngoài có sự xâm nhập của Hồi giáo, nên nó khiến cho Phật pháp dần dần hướng về chỗ rơi rớt. Chính quốc Ấn Độ gần như mất tung tích. Cho nên khoảng 500 năm của thời kỳ thứ ba này có thể gọi là thời đại Mật chú làm chủ, Hiển giáo làm phụ.

            Ba thời kỳ Phật pháp Ấn Độ được tóm tắt sau khi Phật diệt độ:


[ Chú giải ]:

1.      Thời kỳ chánh pháp _ Phật tuy diệt độ nhưng nghi thức của pháp chưa đổi, có người dạy, có người hành, có người chứng quả thì gọi là thời kỳ chánh pháp. Pháp của Đức Thích Tôn được vận dụng có kỳ hạn, mỗi kinh được chép ra khác nhau, Cổ Đức phần nhiều tán thành bằng cách nói: chánh pháp 500 năm, tượng pháp 1.000 năm và mạt pháp 10.000 năm.

2.      Bồ tát Mã Minh _ người ở trung Thiên Trúc, ban đầu là ngoại đạo, có tài biện luận, về sau được Hiếp tôn giả chiết phục, bèn trở về chánh đạo, đại hoằng Phật pháp, khuất phục được ngoại đạo, trùng quang tông chỉ của đại thừa.

3.      Đại thừa Khởi Tín luận _ có hai bản dịch:

a)      Quyển một là Lương Chân Đế dịch.

b)      Quyển hai là Đường Thực Xoa Nan Đà dịch.

Bản dịch của Lương Chân Đế được lưu thông nhiều nhất.

4.      Đại Trang Nghiêm kinh _ 15 quyển, đời Diêu Tần, La Thập dịch. Tập Nhân duyên là tập cốt lõi có nhiều thí dụ để khuyên răn người.

5.      Long Thọ _ cũng dịch là Long Mạnh. Ông ra đời ở nam Thiên Trúc, học vấn uyên thâm. Sở học của ông thiên về phương diện pháp tánh không, đối lập với tư tưởng hữu bộ.

6.      Đề Bà _ người nam Thiên Trúc là đệ tử của Long Thọ, tạo ra Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận v.v… và dùng kinh giải thích hệ Bát Nhã. Oâng hoằng dương tư tưởng các pháp cuối cùng là không.

7.      Vô Trước _ người nước Kiện Đà La (phía tây Khắc Thập Mễ Nhĩ). Ban đầu xuất gia từ miền Di Sa Tắc, về sau tin đại thừa, ban đêm lên nội viện cõi Trời Đâu Suất ở nơi Bồ tát Di Lặc thọ trì các luận Du Già, Trang Nghiêm v.v… Ban ngày thì xuống Trời thuyết pháp cho chúng sanh, ông là Tổ của tông pháp tướng, được truyền thừa pháp môn Du Già của Bồ tát Di Lặc mà tụng ra các luận: Du Già Sư Địa Luận, Đại thừa Trang Nghiêm lý luận, Biện Trung Biên luận. Đồng thời tạo ra các luận như Nhiếp đại thừa luận, Hiển dương thánh giáo luận, A Tỳ Đạt Ma luận ….và rộng nói diệu lý pháp tướng Duy Thức.

8.      Thế Thân _ tiếng phạn là Bà Tẩu Bàn Đậu, có người dịch là Thiên Quán, là em của Vô Trước. Các luận mà ông đều tạo ra là Xả luận, Duy thức Nhị thập luận, Tam thập luận, Phật tánh luận, Thập địa kinh luận, Niết bàn luận v.v… Đại tiểu thừa luận, mỗi luận 500 bộ được đặt tên là Thiên bộ luận chủ, để tuyên dương giáo nghĩa tông hữu của đại thừa.

9.      Du Già – tức Du Già Sư địa luận 100 quyển, Di Lặc Bồ tát thuyết, Vô Trước ký lục và Đường Huyền Trang dịch. Đó là luận căn bản của Duy Thức học, nói diệu hữu nhưng không nói tánh không, trong đó nói rõ 17 nước mà Sư Du Già đã đi, cho nên gọi là Du Già Sư Địa luận.

10.  Duy thức _ nghĩa là các pháp của thế gian do tâm thức suy nghĩ mà hiện ra. Vì tất cả pháp đều không lìa tâm thức, cho nên gọi là Duy thức. Tông pháp tướng tức là Duy thức học, dùng bồi dưỡng trong A Lại Da thức để có khả năng sinh ra tất cả công năng, gọi là chủng tử. Giống như chủng tử của cây cỏ có khả năng khai hoa kết quả.

11.  Thanh Biện luận sư _ được truyền thừa tông chỉ Trung Quán của Long Thọ. Ông soạn ra Đại thừa Chưởng Trân luận để phá tông hữu của luận sư Hộ pháp mà lập tông không.

12.  Hộ pháp luận sư _ người nam Ấn Độ, rất hoằng dương tông chỉ của Duy thức Du Già. Oâng tranh luận với luận sư Thanh Biện về nghĩa không và hữu, tịch diệt vào tuổi 32, truyền pháp cho luận sư  Giới Hiền.

13.  Bồ tát Long Trí _ là đệ tử của Bồ tát Long Thọ, là thầy của Kim cang trí, là Tổ thứ tư của Mật tông, tuổi thọ quá 700 mà diện mạo như người 30 tuổi. Pháp sư Huyền Trang đã tầng gặp ông ở Ấn Độ. Bồ tát Long Trí khuyên sư Trang học Mật thừa. Sư Trang vì không phải nguồn vốn có nên từ chối.

14.  Thần chú bí mật _ tức là Đà la ni. Mật giáo dùng mật chú đặc sắc làm chủ, còn Hiển giáo dùng để biểu dương lại giáo nghĩa.

15.  Tiểu thừa _ vì hiểu rõ sanh tử, lìa tham ái mà chứng Niết bàn, đắc quả A La Hán. Lấy việc siêu thoát thế gian làm tông yếu. Vì muốn tự cầu giải thoát sinh tử  nhưng không phát tâm rộng lớn để độ thế, cho nên gọi là tiểu thừa. Thừa được ví dụ như bánh xe, là cái nghĩa vận chuyển. Tức là nhờ nghe hiểu Phật pháp, nói rõ là nhờ bánh xe Phật pháp mà có thể vận chuyển đến bờ Niết bàn. Đó chỉ là tự độ mà thôi.

16.  Đại thừa _ đại thừa là tông yếu của Phật pháp: trước nhất do có đại giác ngộ siêu thoát thế gian, về sau do đại từ bi mà hộ niệm chúng sanh, thực hiện đại phương tiện mình thích ứng với thế gian mà độ sanh. Cho nên Phật pháp đại thừa được gieo trồng ở tinh thần tự lợi, lợi tha. Đại thừa có thể ví như người có chiếc xe lửa lớn, có khả năng nhạy bén độ nhiều người, vận chuyển đến bờ Niết bàn. Bồ tát đại thừa dùng tâm bồ đề làm nhân, đại từ bi làm gốc, phương tiện làm cứu cánh nhưng tự tùy thuận thế gian mà có lợi lạc cho chúng sanh, dốc lòng với phương tiện vị lai một cách vô tận, không vì tự lợi mà toàn là lợi tha, chính là cứu cánh.

 

XXXV     PHẬT PHÁP TRUYỀN NHẬP VÀO TRUNG QUỐC:

            Căn cứ vào việc biên chép của sử sách thì khi Phật pháp đựơc truyền vào Trung Quốc, đầu tiên được hệ thống lại từ đời Hậu Hán.Thật ra, trước đời Hậu Hán Trung Quốc đã có Phật pháp. Liệt Tử đã từng dẫn thuật lời Khổng Tử: “Khâu nghe tây phương có Thánh nhân ở đó, không trị mà không loạn, không nói mà tự  tin, không dạy mà tự làm, bồng bềnh ở dân mà không thể biết dân”. Có thể biết Khổng Tử đã biết có Phật. Căn cứ vào kinh của Chu Sĩ Hành có sao chép: “Tần Vương năm thứ tư, Sa môn tây vực 18 người như là Thất Lợi Phòng v.v… đầu tiên mang kinh Phật đến nước Tàu, vua sợ tình hình này nên bắt họ bỏ tù và dòng họ bị đày đi nước ngoài”. Có thể biết bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng lúc chưa xưng đế, đã có Sa môn và kinh Phật đến nước Tần. “Trong lễ đi săn mùa đông của vua Vũ Đế đời Tiền Hán khiến cho bệnh ông mau hết lại được Hỗn Tà Vương hiến dâng hình người bằng vàng, dài hơn một trượng, Vũ Đế cho rằng hình người này là đại Thần nên đặt vào cung CamTuyền thắp hương lễ bái”. Có thể biết vào thời Hán Vũ Đế tượng Phật đã đến Trung Quốc. Phần trên thuật là việc có thật, là Phật giáo đến Trung Quốc chỉ có thể coi như đầu mối mới, ngay cả sự lan truyền rộng lớn chính thức cũng không có.

            Mãi đến năm thứ bảy, niên hiệu Vĩnh Bình thời Đông Hán, vua Minh Đế nằm mộng thấy người vàng bay ngang triều đình, trên đỉnh có ánh sáng tròn. Sáng mai vua bèn hỏi quần thần, đó là điềm lành gì? Thái Sử Truyền Nghị trả lời rằng: “Chu Thư Dị Ký chép: thời Chiêu Vương có ánh sáng năm màu, tia chiếu rất nhỏ.” Thái Tử Tô Do tâu rằng: “có đại Thánh nhân sanh ở Tây phương, cho nên hiện điềm lành này thì một ngàn năm sau pháp âm sẽ đến nay”. Vua lệnh cho ghi khắc việc này trên đá rằng: “Điềm trong mộng của Bệ Hạ nó là như thế”. Thế rồi, vua Minh Đế sai lang trung là Sát Aâm cùng bác sĩ vương tôn, trong đó có thầy lang và các tướng như Tần Cảnh v.v… 18 người đi cầu Phật pháp. Đến nước Nguyệt Để, gặp hai Tôn giả Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chuyên chở kinh và tượng Phật bằng Bạch Mã muốn đến Trung Quốc hoằng pháp, 18 người này bèn xin cùng đi. Đến niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười, hai Tôn giả đến Lạc Dương tạm trú trong chùa Hồng Lô, về sau mới xây dựng chùa Bạch Mã và ở đó. Hai tôn giả bèn dịch ra bốn mươi hai chương kinh. Lúc đó, Trung Quốc có chùa Phật và là sự bắt đầu của việc phiên dịch kinh Phật. (Chùa là cơ quan làm việc của chính phủ Chư hầu thời Hán triều, chùa cũng không phải là miếu mà là một cấp đơn vị do đế vương quản lý. Cấp dưới là của Hoàng đế, được thành lập có 9 chùa, quan trưởng của chùa gọi là “Liêu”. Sau khi Phật giáo được truyền vào thì cấp dưới của Hoàng Đế lại tăng thêm một đơn vị, cũng tức là từ 9 chùa mà tăng lên đến 10 chùa. Chùa này chính là “Phật tự”).

            Khi Phật giáo mới đến Trung Quốc thì Phật giáo rất được sự bảo hộ và sùng phụng của triều đình. Thế rồi, đạo sĩ các núi Ngũ Nhạc ôm lòng ghen ghét đi nói rằng: “Bệ Hạ bỏ góc theo ngọn, mong cầu Tăng dạy tư tưởng triết học, e rằng không phải là đại đạo. Các thần ở các núi Ngũ Nhạc, nhiều người có trí tuệ thông minh hiểu rộng kinh điển, xin cho thử nghiệm. Các thần đã trải qua việc học thuật, họ đều có khả năng hiểu rõ, ngay cả phù chú quá suy nhược họ đều biết như: kiểu dụ hoặc bằng cách nuốt phù chú, phương kế sai quỷ thần vào lửa không cháy, xuống sông không chìm, mong được đem so sánh”. Vua Minh Đế hứa việc này. Vua chọn hướng nam của chùa Bạch Mã là hướng mặt trời để xây cất ba đài, bố trí kinh điển đạo Phật và xá lợi của Phật được nhúm lửa thiêu đốt. Kinh đạo đều thành tro tàn, kinh Phật thì có ánh sáng lửa và khói phát ra, nhưng lửa không thể đốt cháy. Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, thân nhảy trong hư không, hiện các việc thần biến và nói kệ rằng: “Cáo không phải loài Sư tử; đèn không phải ánh sáng mặt trời, mặt trăng; ao nước không có lưu lượng của biển lớn; gò đất không có vẻ vang của Tung sơn; mây pháp rũ xuống thế giới; mưa pháp thấm nhuần đám cỏ non. Chúng ta hãy hiểu rõ việc hy hữu này mà đi khắp nơi để hóa độ quần sanh.”

            Đạo sĩ thời này 628 người lập tức theo quy y Phật giáo. Quan coi công trình kiến trúc 260 người như Tư Không, Lưu Tuấn v.v…, thứ dân và kẻ sĩ 390 người ở kinh đô, tử tôn của vua và phu nhân trong cung ấm, cung phi và tỳ nữ v.v…. 190 người thấy việc thần kỳ này đều muốn xuất gia, mục đích là để tu chứng thánh quả. Vua bèn sắc chỉ xây dựng 10 chùa. Ngoại thành 7 chùa an trú cho Tăng, nội thành 3 chùa an trú cho Ni. Lý do là Tam Bảo đều được đầy đủ nên Phật pháp đại thông hành.

            [ Chú giải ]:

1.      Hồng Lô tự: Hồng Lô là tên quan, đời nhà Chu gọi là Hành Nhân, nắm việc ngoại giao và triều kiến, đời nhà Tần gọi là Điển Khách, nắm việc từ  Chư hầu cho đến việc Man di quy nộp lễ nghĩa. Nhiệm vụ của quan thi tương tự Bộ ngoại giao ngày nay. Chùa là nhà quan, Phàm nơi làm việc của triều đình đều gọi là chùa. Ban đầu nó chỉ được gọi bằng Nha Thự , từ khi Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Hoa, lúc đầu dừng chân ở chùa Hồng Lô, về sau lại dùng chùa Bạch Mã làm nơi ở. Từ đó, nơi mà chuyên để cho Tăng chúng ở gọi là Tự, và mãi gọi đến ngày nay.

2.      Xá Lợi của Phật: Phật, Bồ tát, La Hán, cao Tăng v.v… sau khi tịch thì được thiêu hóa. Mỗi vị đều được kết đọng thành xá lợi. Có xá lợi như hạt châu, có xá lợi như hoa. Màu trắng là xá lợi xương, màu đỏ là xá lợi huyết nhục, màu đen là xá lợi tóc, cũng có xá lợi tạp sắc là xá lợi chung hợp mà thành. Đó là do lúc sanh tiền, giới, định, huệ  huân tu mà có được, là sự kết tụ của vô lượng công đức. Nếu là xá lợi của Phật thì thế gian không có vật nào có thể phá được, còn xá lợi của Bồ tát trở xuống thì độ cứng có giảm đổi.

3.      Sư tử : tên loài thú, tức là Sư tử. Ngày xưa cũng đều gọi là Sư tử.

4.      Tiệp, âm đọc là Tiếp, gọi là tiếp nhận sự vất vả từ ở bên trên vậy. Dư, âm đọc là Dư, là tên nữ quan đời nhà Hán, vua Vũ Đế đặt ra, chức vị cao hơn nữa là Khanh, còn chức tước thấp hơn Tiệp là Hầu.

 

XXXVI      LÝ DO PHÂN TÔNG CỦA PHẬT MÔN:

Phật pháp rộng lớn tinh vi, bao la vạn vật. Tất cả các pháp: có pháp nhập thế, có pháp xuất thế đều nằm trong phạm vi của pháp. Như giương mi, chớp mắt, gánh nước, bửa củi là pháp thế gian rất tầm thường, nhưng nếu như muốn nghiên cứu phải hỏi: vì sao có lông mi, có mắt, có nước, có củi? Vì sao biết giương, biết chớp, biết gánh, biết bửa? Sở dĩ việc thâm nhập kinh tạng và thâm nhập pháp tướng Duy thức học nếu không phải là cái học cùng cực thì tất nhiên không có khả năng đề xuất một đáp án viên mãn như thế. Vì thế, tánh tướng và thể dụng lớn lao của toàn thể vũ trụ và nhỏ nhít của một hạt bụi, nếu chúng ta không dùng Phật pháp để nói rõ thì tánh tướng và thể dụng đó biến thành vấn đề thắc mắc.

            Sau khi truyền đến Trung Quốc thì Phật pháp được phân ra nhiều tông. Còn việc nghiên cứu phân tông thì có lý do như:

§      Thứ nhất: số lượng sách của giáo nghĩa Tam tạng quá nhiều, nếu không phân loại thì khó cho việc nghiên cứu và đọc tụng.

§         Thứ hai: mỗi pháp đều khác nhau, có lúc tính chất của nó vẫn có sự tương phản cực đoan như sách được tổng hợp thì khó cho việc nghiên cứu và đọc tụng. Còn sách được phân loại thì mỗi loại có tác dụng rõ rệt.

§          Thứ ba: căn khí của chúng sanh không bình đẳng, nếu muốn đối trị tập khí của họ, nhất định phải theo bệnh mà cho thuốc, chứng bệnh đã nhiều nguyên nhân thì thuốc cần phân loại.

§         Thứ tư: Để khiến cho hệ thống kinh điển rõ ràng, dễ truyền thừa nên không được sửa đổi rơi rớt, tránh phiền phức mà cầu đơn giản.

§         Thứ năm: Phật pháp quảng đại tinh thâm, nếu muốn học rộng khắp lại bị giới hạn của tinh thần và việc thọ mệnh thì nhất định sẽ đến chỗ một môn cũng không thành, nếu như thâm nhập một môn thì hạ thủ và thành công đều dễ dàng.

§         Thứ sáu: Đại Đức của Phật môn trãi qua các thời đại, pháp họ tu chứng được truyền giữ lại, đã mỗi pháp có sự khác nhau thì người bước vào căn duyên của họ sau khi được hóa đạo cũng khác nhau. Do là mỗi pháp dập dìu lập ra, nhất định không tránh được sự bất đồng. Những lý do này đều là sự phân tông của Phật môn. Có người cho rằng phân tông là sự phân chia của Phật pháp. Thật ra phân tông chính là phân công hợp tác: ví như trong y viện, tuy đa khoa được phân ra như nội khoa mắt, tai v.v… nhưng chỉ như thế mới có khả năng hoàn thành công tác và hệ thống của y viện một cách hoàn chỉnh.   

      Phật pháp ở vào thời đại Ấn Độ tuy đã rất đầy đủ và quy mô, nhưng trong thời gian đó cũng có sự truyền thừa của tông phái tương tự. Ví dụ việc biểu dương Duy thức rộng lớn như Vô Trước, Thế Thân. Hoằng dương về Tam luận như Long Thọ, Đề Bà. Hoằng dương Thiền pháp như Ca Diếp, A Nan. Hoằng dương Mật pháp như Long Trí, Thiện Vô Uùy v.v… Nhưng các tông phái đó đều không được sự tâng bốc ồ ạt một cách nổi bật. Các thiện tri thức đã phân tích quy nạp, kết quả trước sau đã thành lập mười ba tông, kịp lúc với pháp vũ từ phía Tây đến. Đó là: - hai tông thành thực và Câu Xá của tiểu thừa – Mười một tông của đại thừa: Luật, Thiền, Tịnh Độ Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp Tướng, Tam Luận, Chân Ngôn, Địa Luận, Niết Bàn và Nhiếp Luận. Sau đó Địa Luận nhập chung Hoa Nghiêm, Niết Bàn nhập chung Thiên Thai, Nhiếp Luận nhập chung Pháp Tướng. Vì đại thừa chỉ còn tám tông nên hợp với hai tông của tiểu thừa, tổng cộng là mười tông. Đây chính là hình bóng giao thoa Phật pháp của Ấn Độ vào Trung Quốc.

            Trong kinh Viên Giác, Bồ tát Oai Đức Tự Tại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ví như thành lớn, bên ngoài có bốn cửa, phương tiện để người đến không chỉ theo một con đường. Phật quốc, nơi tất cả Bồ tát trang nghiêm và thành tựu Bồ đề không phải một phương tiện. Con chỉ mong Đức Thế Tôn rộng vì chúng con mà lần lượt tuyên nói tất cả phương tiện. Ngay cả người tu hành gồm có mấy loại? Khiến Bồ tát trong hội này và chúng sanh đời mạt pháp, người cầu đại thừa mau được khai ngộ, và được du hí vào biển đại tịch diệt của Như Lai”. Điều này được nói rõ rằng: Phật pháp không phải dừng lại ở một môn, tu hành thì có nhiều phương tiện, thế thì việc phân tông nhất định là điều tất nhiên. Cũng như thế, pháp và pháp đều quy về vô thượng Bồ đề thì các tông các phái cũng như vạn dòng sông hướng về biển lớn, nghĩa là việc nói và hành không trái lẽ nhau vậy.

      [ Chú giải ]:

1.      Địa luận: là cách nói gọn của mười địa luận, là luận giải thích kinh Hoa Nghiêm phẩm thứ sáu - Hội Thập Địa. Tông Hoa Nghiêm đời Đường Trung Quốc và tông Tằng Lập được xây dựng đầu tiên và được nhập chung lại thành tông Địa Luận.

2.      Niết Bàn: là tông nương theo nghĩa của kinh Niết Bàn, là tông rộng bố trí về Phật tánh thường trụ, thịnh hành ở khoảng sáu triều đại Tùy và Đường. Đến khi tông Thiên Thai được thành lập do dùng kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn làm chủ yếu nên hai tông này nhập lại thành tông Niết Bàn.

3.      Nhiếp Luận: là tông giáo rộng bố trí Nhiếp Đại thừa luận của Bồ tát Vô Trước, thịnh hành ở khoảng đời Trần và đời Tùy, nhưng đến khi tông Pháp Tướng được thành lập thì tông này không có người truyền thuật.

 

XXXVII      LOẠI HÌNH CỦA PHẬT GIÁO ĐỒ:

(Từ chương XXXVII đến chương XLI nói về việc giảng thuật Phật pháp không rời sự giác biết của thế gian- là sự giác ngộ của nhân sinh).

            Phật giáo là tông giáo của tất cả nhân loại, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, ai cũng đều có khả năng hoạch được lợi ích Phật pháp. Nhưng cá tính và chí thú của nhân loại mỗi người khác nhau, vì hiểu rõ khế hợp và cơ nghi của chúng sanh nên Đức Thế Tôn chủ yếu đưa ra các loại pháp môn khác nhau khiến cho người tin nhận và nương theo đó thực hành. Về loại hình mà Phật giáo đồ được thành lập mỗi loại có khác nhau:

Đạo lý nhân quả được nắm rõ chính xác một cách tất nhiên ở một loại người đã nghe Phật pháp và hiểu rõ “Vạn hữu đều từ nhân duyên sanh” nên họ xác thực tin tưởng sinh mệnh của mình là luân hồi không thời hạn, mà hành vi thiện ác của mình ảnh hưởng đến nhân quả tương tục của sinh mệnh này là trong khoảng nhân quả tương tục đó, nghiệp báo thiện ác phải chịu cũng rõ ràng tỉ mỉ không cách nào tránh được. Thế thì một loại “Tâm thắng tiến” của họ được sanh khởi vì không chịu đọa lạc nên lập chí hướng thượng, thọ trì Tam quy ngũ giới, thập thiện giới, nổ lực tu tiến trên hành vi tư tưởng và nương vào đạo lý nhân quả nghiệp báo để giành lấy cảnh ngộ sung túc mỹ mãn đời hiện tại hoặc đời sau. Kiểu loại hình này là thực hành môn đồ Phật giáo “Pháp thừa cõi nhân thiên”.

            Riêng có một loại người đã nghe Phật pháp, hiểu rõ từng bước và sinh hoạt được thoải mái, mỹ mãn nhưng điều thoải mái đó họ thật không khả năng bảo trì lâu dài vì khổ đau chồng chất của sanh, lão, bệnh, tử mỗi lúc đang bức bách họ, cho nên đối với hiện thực họ khởi tâm sanh chán nản mãnh liệt và phải mau mau giải thoát đau khổ sanh tử. Thế thì họ nương theo pháp Tứ đế trong Phật pháp và 37 phẩm đạo để tu hành. Đó là họ thực hành môn đồ Phật giáo “Pháp thừa cõi Thanh văn”. Còn những người tu tập Thập nhị nhân duyên là thực hành môn đồ Phật giáo “Pháp thừa cõi Duyên sắc”, do pháp Thập nhị nhân duyên này mà họ đã giác ngộ chân lý nhân sinh, đạt được cảnh giới giải thoát.

Còn có một loại người đã nghe Phật pháp, lý giải được tất cả vũ trụ nhân sinh, mỗi người và mình đều có quan hệ mật thiết, đều duyên khởi nương nhau và tồn tại lẫn nhau, ai cũng đều có ân huệ nặng nề đối với mình thì làm sao có thể bỏ mọi người, mà không ngó tới để giải thoát một mình sao? Vì đời người càng lúc càng thống khổ nên mình cần phải giúp đỡ họ. Thế thì mình phát khởi tâm đại bồ đề, phải cứu độ tất cả chúng sanh, nỗ lực tu tập pháp môn lục độ, nguyện phục vụ chúng sanh, nguyện thay thế chúng sanh mà thọ vô lượng khổ khiến chúng sanh cuối cùng được hạnh phúc lớn, thì mới được xem là hạnh phúc chân chánh. Người thuộc kiểu loại hình này là thực hành môn đồ Phật giáo “Pháp thừa của Bồ tát”.

             Loại hình Phật giáo đồ “Pháp thừa của nhân thiên” mà bên trên đã nói là lý tưởng cao cả nhưng còn khiếm khuyết của việc “Luyến đời”. Loại hình Phật giáo đồ “Pháp thừa của Thanh văn, Duyên giác” là loại hình xuất thế nhưng chỉ cầu sự giải thoát cá nhân. loại hình Phật giáo đồ “Pháp thừa của Bồ tát” là nhập thế không luyến đời, không xuất thế riêng cho thân mình mà đủ khả năng xả bỏ thân mình vì quần chúng, lợi độ chúng sanh và nương theo chỉ thị của Phật Đà và biểu dương tinh thần cứu thế của Phật Đà, là môn đồ Phật giáo gương mẫu.

XXXVIII      QUY TẮC SINH HOẠT CỦA GIÁO ĐOÀN:

            Môn đồ Phật giáo tuy có sự phân biệt của bảy chúng đệ tử nhưng trên nguyên tắc sinh hoạt đoàn thể thì có một tiêu chuẩn cộng đồng. Tiêu chuẩn này gọi là “Lục hòa kính”. Chính là sáu loại quy tắc có khả năng khiến sinh hoạt mà mọi người trải qua là sinh hoạt thuần một màu, một vẻ, hài hòa tụ họp, kính trọng lẫn nhau và vui vẻ thanh tịnh.

1.      Thân hòa đồng trụ: mọi người cùng ở chung, ắt phải làm cho thân nghiệp thanh tịnh, cư  xử hòa kính nhau, không gây ra cử động thô bạo dã man như xích mích, đánh nhau v.v…

2.      Ngữ hòa vô tranh:  mọi người cùng ở chung, ắt phải làm cho ngữ nghiệp thanh tịnh, tức là lời nói phải có ngữ khí khiêm nhường, lễ phép, êm tai đáng mến, không nên ác khẩu lớn tiếng khiến người không vui đến nỗi phát sanh sự  kiện tranh cãi.

3.      Ý hòa đồng duyệt: mọi người cùng ở chung, ắt phải làm cho ý nghiệp thanh tịnh, lòng dạ thẳng thắn, có việc hân hoan chánh đáng vui vẻ ở trong lòng nên cùng mọi người vui vẻ hài hòa, không nên vì mong cầu sự vui vẻ cá nhân mà không chú ý tới sự vui vẻ của đại chúng, hoặc đặt vui vẻ cá nhân trên đau khổ của đại chúng.

4.      Giới hòa đồng tu: bảy chúng đệ tử của Phật giáo, mỗi chúng đều có giới luật, nhưng trong mỗi một trường phái đều có đề ra giới pháp tuân thủ chung và nương theo để tu trì, như dùng Tăng đoàn Tỳ kheo làm ví dụ: Tỳ kheo chính là có giới pháp 250 điều để thọ trì chung. Mọi người nên làm thế nào và nhất định phải làm thế nào để tỏ ra tinh thần giới pháp mà mọi người tuân thủ chung.

5.      Lợi hòa đồng quân: lợi chính là lợi ích mà mọi người hoạch được, gồm có tài lợi và pháp lợi. Sự phân phối bình quân và hưởng thụ bình đẳng rất cần cho mọi người dù là tài lợi trên kinh tế hay pháp lợi trên trí thức, không lý do người này nhiều, người kia ít khiến họ phát sinh xung đột lợi hại, hoặc nuôi dưỡng thói ác mưu lợi riêng để đầy túi, không thể khiến cho tài sản giáo đoàn trở thành tài sản công cộng mà gây ra việc tranh chấp, tranh quyền đoạt lợi, sẽ ảnh hưởng đến sự phá sản của giáo đoàn.

6.      Kiến hòa đồng giải: kiến tức là ý kiến, sáng kiến, kiến giải. Mọi người cùng là môn đồ của phật giáo, phải nên cùng nhau thống nhất trên tư tưởng kiến giải thì lực lượng giáo đoàn mới không thể phân hóa. Vì nếu không như thế thì mỗi phần tử có nhiều suy nghĩ, nhiều ý kiến, mỗi ý kiến bám chặt thành kiến, tự cho rằng mình là vượt trội nên đoàn thể này nhất định không thể thanh tịnh, tinh thần ắt cũng bị tản mác, không có khả năng phấn chấn về kết quả.

Lục hòa này tuy có sáu loại, cũng có thể được nhiếp thành hai loại, tức là lý hòa và sự hòa. Như kiến hòa đồng giải thì chỉ cho tánh chân như mà mọi người chứng ngộ, cũng chính là chân lý nhận thức về vũ trụ nhân sinh. Chân lý này chỉ có một dạng không hai, cho nên về phương diện tư tưởng nhiều thuyết tự nhiên có thể đi tới chỗ nhất trí. Ngũ hòa khác đều là thuộc về phương diện Sự Tướng. Tư tưởng đã thống nhất thì hành động tự nhiên cũng hướng về một luật, đây cũng là đạo lý tất nhiên. Cho nên sinh hoạt lục hòa của môn đồ Phật giáo không những có thể là phép tắc sinh hoạt của đoàn thể Phật giáo mà cũng có thể là phép tắc sinh hoạt tổng quát của tất cả đoàn thể xã hội. Lợi ích lớn nhất của Tăng đoàn lục hòa là ngoài việc xem nặng tinh thần pháp trị “Tứ hòa” trước khi Phật Đà nhập diệt vẫn xem nặng tư tưởng thống nhất “Nhị hòa” và bình quân kinh tế sau khi Phật Đà nhập diệt. Một đoàn thể kiện toàn thì tinh thần pháp trị tự nhiên không thể thiếu sót được. Còn như tư tưởng hòa và thống nhất bình quân phân phối kinh tế mà không được xem trọng thì đúng là việc tổn thương sinh mệnh mà tập đoàn này gây ra sẽ bước tới sự phân hóa và sụp đổ. Vì từ việc đấu tranh của đoàn thể nhỏ cho đến việc đấu tranh lớn của thế giới, nguyên nhân phát sinh của nó phần nhiều do sự chi phối kinh tế mất cân bằng và không thể thống nhất tư tưởng chủ yếu. Có thể là trước đây hơn 2.500 năm Phật Đà đã định ra nguyên tắc sinh hoạt chung của đoàn thể: hòa bình là yếu tố xử sự chung, khiến cho nguyên tắc của tất cả sinh hoạt đoàn thể đời sau đều không thể vượt qua phạm vi “Lục hòa kính” này, mà trí tuệ và tài lực của lục hòa kính, người ta không thể cho rằng việc nhắc nhở của người ở đời trước là vô ích!

XXXIX    NHÂN SINH QUAN PHỤC VỤ PHẬT GIÁO:

            Đức Phật nói: làm người phải nên “Tri ân và báo ân”. Phàm là người có ân huệ với chúng ta, chúng ta đều phải nhớ mãi không quên, hết sức tìm cách để báo đáp họ. Vong ân phụ nghĩa là điều Đức Phật bác bỏ.

            Ai có ân đối với chúng ta? Đức Phật nói chúng ta có bốn ân:

1.            Ân phụ mẫu.

2.            Ân quốc gia.

3.            Ân chúng sanh.

4.            Ân Phật.

Ở trong gia đình, người có ân huệ nhất đối với chúng ta là cha mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, dạy dỗ chúng ta. Aân huệ của cha mẹ có sự cao thâm giống như biển lớn, núi cao. Vì vậy, chúng ta phải nên hiếu kính và vâng lời cha mẹ. Cha mẹ tuổi già thì việc phụng dưỡng phải chu đáo. Đó gọi là báo ân cha mẹ.

            Quốc gia là nơi chúng ta sinh trưởng, cũng là nơi mà tổ tiên và cha mẹ chúng ta sinh trưởng. Tài sản, sinh mệnh chúng ta chính là hoàn toàn dựa vào sự bảo hộ của quốc gia. Cho nên quốc gia rất có sự ban ơn cho chúng ta. Chúng ta nên yêu mến quốc gia, hết sức trung thành quốc gia và báo ân quốc gia.

Hạt gạo thường ngày chúng ta ăn là do người nông dân gieo trồng, vải mặc là do người công nhân dệt. Suy nghĩ cho kỹ: mỗi một việc mà thường ngày chúng ta sinh hoạt đều là máu huyết mà người khác đã hao tổn. Ở trong duyên khởi mà hỗ trợ nhau, tất cả loài người đều có giúp đỡ chúng ta, cũng chính là có ân huệ đối với chúng ta. Không những loài người, ngay cả loài động vật: chó giúp chúng ta giữ nhà, trâu giúp chúng ta cày ruộng, thậm chí con giun rất không có quan hệ mà cũng ngày đêm ở trong đất không ngừng giúp chúng ta xới ruộng đất. Cho nên tất cả chúng sanh đều có ân huệ đối với chúng ta. Chúng ta nên yêu quý chúng sanh và báo ân chúng sanh.

Ba loại ân huệ này, đều có ân huệ rất lớn về “Nhục thể sinh mệnh”, nhục thể này đồng dạng với chúng ta từ gia đình đến quốc gia cho đến thế giới vũ trụ, nhưng phạm vi có rộng hẹp, quan hệ có thân sơ. Ngoài ra, còn có sự ban ơn lớn trên “Sinh mệnh tinh thần” mà chúng ta đang có, đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta nhận thức được chân lý, hiểu được đạo lý làm người. Cho nên chúng ta nên tin theo Phật, cung kính Phật và đền đáp sự ban ân của Đức Phật.

            Từ Phật đến cha mẹ, đến tất cả nhân loại, tất cả chúng sanh đều có ân huệ rất lớn đối với chúng ta, chúng ta đều nên báo đáp. Cho nên chúng ta hãy quên mình vì người, cống hiến tất cả để phục vụ cho gia đình, phục vụ cho quốc gia, phục vụ cho nhân loại, phục vụ cho Phật giáo. Nếu như mình giúp đỡ người khác, ngay cả không phải họ có công lao gì mà chính là phận sự chủ yếu mình báo ân, cũng là việc nên làm trong trách nhiệm: “Mục đích của người đời là phục vụ”, nguyên nhân chính là ở trong câu này. Cho nên, chúng ta phải dựng ra nhân sinh quan phục vụ từ trên tư tưởng báo ân.

 

XL    NHIỆM VỤ VÀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC HỌC PHẬT:

            Bất cứ làm việc gì đều có một mục đích. Làm việc nếu như không dự định một mục đích, không những lãng phí thời gian, hao phí tinh lực, vả lại kết cục cũng quyết không thể thu được hiệu quả mỹ mãn.Thậm chí có người sẽ để lại nhiều ăn năn, hối hận tạo thành nỗi bất hạnh và nuối tiếc cả đời của mình!

            Học Phật, đương nhiên cũng cần biết rõ mục đích: mục đích học Phật là cái gì? Nói gọn chính là “Chuyển mê thành ngộ” và “Lìa khổ được vui”.

            Mê và ngộ là danh từ tương đối. Mê chính là không ngộ, ngộ chính là không mê, không mê chính là bậc Thánh, không ngộ chính là phàm phu. Phàm phu ngu muội không hiểu chân như của lý tánh nhân sanh vốn là như thế, cũng không hiểu sự tướng của vũ trụ duyên khởi là vô thường. Cho nên chấp ngã, chấp pháp mà gây tạo nghiệp mê hoặc, sanh tử lang thang, chìm đắm khổ hải. Danh hiệu của Phật là Bậc giác ngộ, giác mà không mê, có đại trí huệ, có lý giải thấu triệt, có sự tướng của vũ trụ duyên khởi về chân như, lý tánh của nhân sanh. Biết tánh không của duyên sanh, vô ngã của duyên khởi nên chúng ta không theo chấp trước, nếu lại tạo ác nghiệp, tự tìm phiền não để chiêu quả báo thì đây đúng là giới tuyến của mê và ngộ, cũng chính là ranh giới của thánh phàm.

Do đó, mục đích học Phật không khác với chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Nhưng mê là mê cái gì? Ngộ là ngộ cái gì? Mê là mê muội sự thực của chân lý, không biết tu tập đạo pháp: giới, định, huệ, ngược lại nó còn biến thành phiền não tham, sân, si. Ngộ là ngộ lý tánh và kiến tánh, hiểu rõ sự tướng, từ đó mà tu Giới và huân tập Định. Do định mà phát huệ, đúng là chúng ta có thể quyết định phá lưới vô minh, cắt đứt nguồn gốc sanh tử, chứng lên bờ kia Niết bàn mà phát sanh được thắng dụng và lìa khổ được vui.

            Lìa khổ được vui là mục đích học Phật, cũng là diệu dụng thù thắng hướng tới thành Phật. Sự khổ đau của đời người có nhiều nguyên nhân, nhưng nói theo quy nạp thì cái khổ đau đó nằm trong cái khổ tinh thần và cái khổ vật chất: bụng ăn không no, thân khó có chỗ ở, đi không có thuyền xe đều là khổ đau của việc thiếu thốn vật chất. Đến nỗi đau khổ tinh thần. Cho nên nó đúng là một dục vọng vì dục vọng vừa khởi lên, nghĩ điều này không thành, nghĩ điều kia không được, không có tiền thì nghĩ đến tiền, đã có tiền thì nghĩ đến con cái, đã có con trai, con gái thì nghĩ đến việc làm quan, đã có quan thì muốn lên chức: giống như TầnThủy Hoàng sai khiến Từ Phước xuống biển tìm thuốc tiên. Hán Vũ Đế cũng như thế: mời Triệu Phương Sĩ luyện đơn, hy vọng cho mình được trường sanh bất tử. Kết quả của ông là một cơn ác mộng, cuối cùng trở về chỗ không, không những khó lấp vào dục vọng mà trên tinh thần vẫn để lại nỗi đau khổ và đáng tiếc không thể bù đắp.

Vì sự trầm mê của người đời nên chúng ta vạch ra việc học Phật, bởi vì phật pháp dạy người nên có tâm thanh tịnh, ít ham muốn, nên tháo gỡ sự trói buộc và có khả năng nhận được loại tu dưỡng này khiến cho thân tâm điềm đạm yên tĩnh, ít muốn biết đủ. Vậy, phải hiểu rõ tánh của các pháp là không, là đạo lý của vô ngã duyên khởi, phải nhìn cho thấu triệt, không tranh không chấp đối với tất cả sự vật của thế gian, tức là hiện đời nên có thể giảm nhiều nỗi khổ đau của việc tự chuốc lấy phiền não. Nếu như lại có khả năng nương vào Tam học: giới, thiền định và trí tuệ để tu tập mà đoạn trừ  tập khí tam độc của tham, sân, si. Thế thì ngay cả đời người, chúng ta có thể hoạch được sự an lạc của Niết bàn giải thoát xuất thế. Nhưng trách nhiệm việc học Phật của chúng ta vẫn không rõ rệt, vì nỗi đau khổ chỉ giải quyết cho mình tìm cầu an vui. Đời hiện tại chúng ta nên ít muốn và biết đủ để giảm nỗi khổ đau của phiền não, hoặc nên tu tập đạo pháp giới, định, huệ để được chứng Niết bàn. Đây đều là thuộc phương diện tiêu cực vì mục đích đạt được chỉ vì lìa khổ được vui cho mình. Vì thế, chúng ta còn phải nên phổ biến cho tất cả chúng sanh giải trừ khổ nạn và được an vui và chúng ta sau khi đạt được loại mục đích này, càng phải bước lên một bước để nắm lấy tinh thần tích cực mà phục vụ cho xã hội, hướng dẫn xã hội, hóa độ xã hội, mưu cầu phước lợi của quảng đại quần chúng trong xã hội khiến cho quảng đại quần chúng đều đi vào hoàn cảnh lìa khổ được vui. Như Đức Phật nói: “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục?” Như điều mà Địa Tạng đại sĩ nói: “Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật, độ hết chúng sanh mới chứng Bồ đề”. Người học Phật có đủ khả năng làm điều này, thế thì không riêng vì mục đích của việc học Phật đạt được mà trách nhiệm của việc học Phật cũng hoàn thành.

[ Chú giải ]:

1.   Bồ tát Địa Tạng _ trước khi Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Đức Phật lên cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ để báo ân. Đức Phật dặn dò Người và Trời hộ trì Phật pháp, khuyên Địa Tạng Bồ tát thay thế Đức Phật độ chúng sanh đời mạt pháp mãi đến khi Ngài Di Lặc thành Phật. Địa Tạng Bồ tát gánh vác việc giáo hóa chúng sanh trong địa ngục, việc này có nhân duyên với bổn nguyện của Ngài Địa Tạng: Lúc mà người nữ Quang Mục làm việc cứu vớt cái khổ của mẹ nàng ở địa ngục, nàng phát nguyện ở trước Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai là độ không hết chúng sanh thề không thành Phật. Nghĩa là: “ Địa ngục không trống, thề không thành Phật, độ hết chúng sanh mới chứng Bồ đề”. Lại có dấu tích mà Địa Tạng Bồ tát giáo hóa: trước công nguyên tới 696 năm, vương tử nước Tân La, họ Kim, tên Kiều Giác, năm 24 tuổi ông cạo tóc xuất gia, dắt con chó trắng có tiếng là nghe giỏi, lên thuyền vượt biển đi vào Cửu Hoa Sơn của Đại Đường tu đạo, tọa thiền 75 năm, đã từng nhập định 20 năm, được Mẫn Công dâng tặng Cửu Hoa Sơn để ông làm đạo tràng. Con trai của Mẫn Công xuất gia với ông tên là Đạo Minh Hòa thượng. Về sau Mẫn Công cũng xuất gia. Bồ tát Địa Tạng thọ ở đời 99 tuổi (hạ lạp Tăng 75 năm). Ngày dập diệt là ngày 30 tháng 7 âm lịch, nhục thân của Bồ tát được đưa vào trong hộp đá. Về sau hộp đá được mở ra, pháp thể của Ngài y như cũ, diện mạo như còn sống, được khen là kỳ tích. Do sự cung kính chí đức của Tổ tiên, người ta trong 20 năm xây dựng tháp để an trí pháp thân của Ngài, khi tháp tạo thành, tháp phát ra ánh sáng như lửa. Do đó, nơi xây tháp này được gọi là “Thần Quang Lĩnh”.

2.   Từ Phước còn gọi là Từ Thị: là người nước Tề, tự xưng là đạo sĩ. Oâng nói với Tần Thủy Hoàng là trong biển có ba ngọn núi thần: một ngọn là Phùng Lai, một ngọn là Phương Trượng, một ngọn là Doanh Châu, những ngọn núi thần này đều có tiên nhân ở khắp, bề tôi muốn thay Hoàng Đế xuống biển tìm Tiên để tìm được phương pháp trường sanh, nhưng trước tiên phải đợi ngày trai giới, còn phải mang đồng nam, đồng nữ vài ngàn người cùng đi trước, ngay cả vật phẩm thực dụng cũng phải cung cấp và dự bị cho nhiều. Thủy Hoàng nghe rồi thì rất mừng, sai người đến dân gian mộ vài ngàn đồng nam, đồng nữ và cũng cấp cho nhiều vật phẩm thực dụng khiến Từ Phước xuống biển tìm Tiên. Có thể là Từ Phước tìm được một hòn đảo ở biển rồi ở trên đảo, còn những đồng nam, đồng nữ kia cùng nhau ở dưới biển và không trở về nữa. Tần Thủy Hoàng chỉ may mắn là ngày đêm trông mong Tiên nhân giáng lâm mà ngay cả tin tức cũng đều không có. Kết quả là Tần Thủy Hoàng chỉ làm Hoàng Đế 12 năm thì băng hà ở gò cát.

3.   Hán Vũ Đế : là Hoàng Đế cường thịnh nhất ở triều Hán Trung Quốc. Ông đã tạo cung điện lộng lẫy và mê tín thần tiên, hy vọng trường sanh bất lão, cho nên mời Triệu Phương Sĩ để luyện đơn.

XLI     PHẬT GIÁO LÀ SỰ GIÁO DỤC CHÍ THIỆN VÀ VIÊN MÃN CỦA PHẬT ĐÀ:

1.      Phật giáo là cái gì?

Ngọn nguồn của Phật giáo là cái gì? Người học Phật không thể không biết. “Phật giáo” là sự giáo dục của Phật Đà, là sự giáo dục chí thiện và viên mãn của Phật Đà đối với chúng sanh trong 9 pháp giới. Nội hàm của giáo dục bao gồm Sự Lý vô tận vô biên, so với khóa trình bên trong của đại học hiện đại thì nội dung giáo dục của Phật Đà vẫn cần nhiều hơn. Về thời gian, giáo dục của Phật Đà được giảng về quá khứ, hiện tại, vị lai. Về không gian, giáo dục của Phật Đà được giảng về sinh hoạt trước mắt của chúng ta và mãi suy rộng đến thế giới vô tận. Cho nên giáo dục của Phật Đà là dạy học, là giáo dục, không phải tôn giáo. Nó là sự giáo dục về trí tuệ giác ngộ vũ trụ nhân sinh. Sự giáo dục của Khổng Tử bên Trung Quốc là giáo dục được giảng về một thế hệ (một đời) _ từ khi sanh đến chết. Còn Phật pháp là sự giáo dục ba đời, là nói về quá khứ, hiện tại, vị lai. Mục đích xác thực của Phật giáo là giáo dục phải không? Nếu như chúng ta quan sát tỉ mỉ thì nghi vấn này sẽ được tiêu trừ. Trong sinh hoạt thường ngày, chỉ có dạy học mới có cách xưng hô của Thầy và Trò. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta là Thầy giáo căn bản (Bổn Sư), chính là người đầu tiên sáng tạo giáo pháp, còn người bày tỏ truyền đạt giáo dục mở ra ban đầu này là Tổ Sư của Đức Phật. Chúng ta được tự xưng là “Đệ tử”, đệ tử là cách tự xưng của học sinh thời xưa của Trung Quốc. Do cách xưng hô này mà chúng ta biết sự quan hệ của chúng ta với Đức Phật là sự quan hệ Thầy trò. Nói theo tôn giáo thì Thượng Đế và tín đồ không phải là sự quan hệ Thầy Trò. Còn phép tắc của Phật môn thì được nói rõ ràng: Quan hệ của Đức Phật và chúng ta là quan hệ Thầy Trò. Quan hệ của chúng ta và Bồ tát là đồng học – Bồ tát là học trò của Phật trong thời kỳ đầu. Chúng ta là học trò của Phật trong hiện tại. Chúng ta và Bồ tát là đồng học trong thời kỳ trước và sau. Bồ tát là học trưởng của chúng ta, việc này phải nên hiểu rõ. Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta gọi người xuất gia là “Hòa thượng”. Thực ra trong một tự viện chỉ có một vị Hòa thượng. “Hòa thượng” là tiếng Ấn Độ, dịch là “Thân giáo sư”, chính là Thầy giáo đích thân dạy và hướng dẫn mình, tức là giống như  giáo sư chỉ đạo trong trường học bây giờ. Giáo sư là người trực tiếp chỉ đạo mình và có quan hệ gần gũi mật thiết. Giáo sư nếu như không trực tiếp chỉ đạo mình thì gọi là “Pháp sư. Pháp sư giống như rất nhiều thầy giáo trong cùng một trường, nhưng không là thầy giáo giảng dạy và chỉ đạo mình. Sự khác biệt của “Hòa thượng” và “Pháp sư” chính là ở trong đây. Thầy giáo thay mặt Hòa thượng để dạy học thì gọi là “A Xà Lê”, lời nói và việc làm của Thầy “A Xà Lê” có thể làm gương mẫu cho chúng ta, có thể làm mẫu mực cho chúng ta, chúng ta có thể học tập với Thầy A Xà Lê. Những việc xưng hô này trong giáo dục mới có, còn mặt trong của tôn giáo không có loại xưng hô này. Do đó, có thể chứng minh Phật giáo là sự giáo dục không phải tôn giáo.

            Lại xem xét theo sự tổ chức của đạo tràng Phật giáo (tự viện Phật giáo Trung Quốc), tự viện là một cơ cấu giáo dục của việc dạy học Phật giáo và nghệ thuật Phật giáo kết hợp nhau, chính là giống như trường học và viện Bảo tàng bây giờ kết hợp chung lại. Loại hình thức này chính là nghệ thuật dạy học được giảng theo hiện đại, nói chung cũng có thể xem tự viện và trường học hiện đại có sự tổ chức giống nhau. “Hòa thượng” tương đương với Hiệu trưởng của trường học, là người chủ trì chính sách dạy học mà khóa trình là Hòa thượng chế định, người dạy học là do Hòa thượng thỉnh mời, đó là chức trách của Hòa thượng. Phía bên dưới của Hòa thượng có ba người giúp đỡ mà nhà Phật gọi là cương lĩnh chấp sự, được phân ra để nắm giữ ba bộ môn:

v     Người cai quản về giáo vụ gọi là “Thủ tọa”.

v     Người cai quản về huấn đạo gọi là “Duy na”.

v     Người cai quản về tổng vụ gọi là “Giám viện”

Tên gọi trong nhà Phật khác với trường học, trên thực tế sự vụ mà người cương lĩnh chấp sự cai quản không khác với việc giáo vụ, huấn đạo và tổng vụ bên trong trường học hiện đại. Có thể biết tổ chức của cơ cấu tự viện xác thực là một trường học, là một trường học rất hoàn chỉnh. Trung Quốc trước đây gọi tổ chức này là “Tùng Lâm”, “Tùng Lâm” chính là đại học của Phật giáo. Khởi nguồn mà chúng ta theo Phật giáo mãi đến Phật giáo Trung Quốc được xây dựng thì có thể Phật giáo có dụng ý đặc thù là làm cho sáng tỏ và hiểu rõ thì Phật giáo không thể trở thành là Thần giáo và chúng ta nên hiểu rõ một cách chân chính thì tâm khâm phục của chúng ta mới tự nhiên phát sinh.

                                    Tất cả chư phật là đại biểu cho đức tánh chúng ta. Tất cả Bồ tát, La Hán là đại biểu cho đức tu. Không tu thì đức tánh tuy có nhưng không thể đủ hiện ra, không đươc thoải mái. Cho nên đức tánh hiện ra là phải nhờ vào đức tu. Bồ tát đại biểu cho “Tu”, Phật đại biểu cho “Bổn tánh”. Vì đó, Phật môn cúng dường tượng Phật cũng đều là nhất Phật, nhị Bồ tát. Phật Nhất Tôn này đại biểu cho “Bổn tánh” chân như, Bồ tát đại biểu cho “Dụng” theo “Tánh” mà khởi lên.Bổn tánh là rỗng không, là thể, khởi lên dụng là có. Thể – Tướng – Dụng:  “Thể” là phạm trù trống vắng. Tướng theo “Thể” mà hiện ra, mà tướng hiện thì có tác dụng. Bồ tát đại biểu cho “Tướng” và đại biểu cho “Dụng”. Phật đại biểu cho “Bổn thể”. Cho nên ở bên trong kinh Hoa Nghiêm Phật không nói pháp _ “Bổn thể” đương nhiên không có lời nói. Bồ tát thì nói pháp _ khởi tác dụng chính là lời nói có được. Lời giảng có được từ trên tướng, lời giảng có được từ trên tác dụng. Từ trong “Bổn thể” một câu nói đều không có. Bổn thể không giảng được mà cũng không có ý nghĩ. Đó gọi là : “Mở miệng trật liền, động và niệm trái nhau”, đúng là lời nói từ trong “Bổn thể”. Cho nên Phật đại biểu cho “Thể” và đại biểu cho việc cúng dường Phật Nhất Tôn. “Dụng” là cái gì để cúng dường Lưỡng Tôn? “Tướng” và “Dụng” vô lượng, vô biên được phân ra hai loại lớn: một loại là tri, một loại là hành, chính là giải và hành. Vương Dương Minh đề xướng học thuyết hợp nhất “Tri” và “Hành”, chính là học thuyết đến từ Phật giáo. Nhà Phật giảng “Giải hành tương ưng”. Tổ tiên của Phật hoán đổi danh từ thành “Tri hành hợp nhất” và Phật đã làm thành triết học của Phật. Thực ra, triết học của Phật có được là do hoàn toàn từ Phật pháp mà thoát thai.“Giải” và “Hành” chính là “Sự” và “Lý”. Thông thường chúng ta cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni tức là cúng dường cho đại biểu “Bổn thể”. Cúng dường hai bên của Phật Thích Ca là cúng dường nhị tôn La Hán _ Tôn giả A Nan và Tôn giả Ca Diếp. Tôn giả A Nan là đệ nhất đa văn, Ngài là đại biểu “Giải” và đại biểu trí tuệ. Tôn giả Ca Diếp là đệ nhất khổ hạnh, Ngài đại biểu cho “Hành” thât sự. Cũng có sự cung phụng bên trái và bên phải của Phật Thích Ca Mâu Ni là Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền. Ngài Văn Thù là đệ nhất trí tuệ, đại biểu cho “Giải”, Bồ tát Phổ Hiền là đại biểu cho “Hành”. Nói cách khác, dù cho bao nhiêu triết học, nói chung là không ngoài hai loại lớn “Giải” và “Hành”. Tịnh độ tông cung phụng Phật A Di Đà _ đại biểu cho bổn thể. Bồ tát Quan Âm đại từ, đại bi đại biểu cho “Hành”. Bồ tát Đại Thế Chí đệ nhất trí tuệ đại biểu cho “Giải”, cho nên cách cúng dường tượng Phật đều có ý nghĩa của nó. Nhất định là nhất Phật, nhị Bồ tát, không thể cúng dường Phật Lưỡng tôn và Bồ tát Tam tôn!

Mỗi một bộ phận của Phật nhất tôn đại biểu cho đức tánh, nhưng mỗi một bộ phận được biết cuả Chư vị đó là viên mãn, cứu cánh. Cho nên “Một tức là tất cả, tất cả tức là một”. Phật Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật được nói từ trong danh hiệu, danh hiệu là tên mà đức tánh hiện ra, “Thích Ca” là ý nghĩa nhân từ. Đó là dạy chúng ta phải nhân từ đối với người, phải dùng từ bi đối xử với người. “Mâu Ni:” là ý nghĩa thanh tịnh - yên lặng chính là thanh tịnh, là thanh tịnh cho mình, từ bi cho người. Còn yêu cầu cho mình là thanh tịnh! Đó là đại biểu cho Phật Thích Ca, đó là đức tính vốn có đầy đủ của chúng ta. A Di Đà Phật là tiếng Phạn được dịch ra. “A” dịch là “vô”, “Di Đà “ dịch là “Lượng”. A Di Đà là ý nghĩa vô lượng. Vô lượng cái gì? Tất cả đều vô lượng, không như nhau thì không phải vô lượng: trí tuệ vô lượng, thần thông vô lượng, đạo lực vô lượng, thọ mệnh vô lượng …. Cho nên cúng dường Phật thì phải hiểu rõ mỗi Đức Phật Nhất Tôn, mỗi Bồ tát Nhất Tôn là đại biểu cho một loại phương pháp tu hành của Phật giáo, là đại biểu cho một loại chân lý giữa vũ trụ.

Về phương diện kiến trúc của Phật giáo, chánh điện cúng dường Phật mà chúng ta thấy từ bên ngoài là hai tầng, bên trong thấy có một tầng, việc này đều có ý nghĩa: nhìn từ ngoài là nhị đế (chân đế và tục đế), nhìn bên trong nói lên cho chúng ta biết là chân và tục không hai, là vạn pháp nhất như. Ý nghĩa này chính là nói: bề ngoài có sai khác nhưng thực chất là chân và tục nhất trí (không có hai dạng). Kiến trúc chính quy của Phật giáo là vừa bước vào sơn môn, vật kiến trúc được thấy thứ nhất là điện thiên Vương, bên trong cung phụng Tứ đại Thiên vương _ Thần hộ pháp _ trong đó Bồ tát được cung phụng nỗi bật. Phương thức cung phụng như thế này khiến cho người ta vừa bước vào sơn môn, vừa nhìn thì đầu tiên thấy được là Bồ tát Di Lặc, tượng Bồ tát Di Lặc được đắp là tượng Hòa thượng túi vải, dáng vẻ cười thoải mái đó của Bồ tát chính là nói cho chúng ta biết rằng: Bạn muốn học Phật chăng? Trước tiên phải cười và mắt ngưỡng nhìn người mà không thể phát tỳ khí, phát tỳ khí thì không thể học Phật, phải nhất định vui vẻ. Lại nhìn bụng của Bồ tát rất lớn. “Lớn” là đại biểu cho cái gì cũng đều có khả năng khoan dung, không so đo với người. Cho nên Bồ tát Di Lặc cũng đại biểu (dạy cho chúng ta) tâm bình đẳng, tướng vui vẻ _ đối đãi với bất cứ người nào, bất cứ sự việc gì trong lòng cũng đều hoan hỷ bình tĩnh, không muốn tính toán với bất cứ ai. Có những điều kiện này mới có thể bước vào cửa học Phật. Cho nên gương mặt của Bồ tát Di Lặc hướng rõ về đại môn là nói lên rằng: phải có điều kiện này của ta mới đủ tư cách bước vào Phật môn.

Hộ pháp hai bên trái và phải là Tứ đại thiên vương được bố trí ở hướng đông, nam, tây, bắc. Hướng đông là Thiên vương đại biểu cho việc gánh vác trách nhiệm, gọi là Trì Quốc Thiên vương (trì là bảo trì, quốc là quốc gia), là chủ trì, là đế vương, là tổng thống của một sự vụ quốc gia thì phải làm như thế nào? Nhất định phải làm tròn nhiệm vụ mà mình phụ trách. Trong xã hội này mỗi người đều có một phần chức trách của mình, có thể đem nhiệm vụ bổn phận của mình, hết tâm hết sức làm cho xã hội được viên mãn. Xã hội này vui vẻ hòa hợp thì quốc gia nhất định giàu mạnh. Trì quốc thiên vương đã dạy cho chúng ta sự lý này.

Hướng nam là Tăng Trưởng thiên vương. Nếu chỉ có làm sự việc trong trách nhiệm của chúng ta thì rất tốt nhưng vẫn không đủ, chúng ta còn phải ngày ngày cầu tiến bộ. Không tiến là lùi! Thời đại luôn luôn tiến bộ, cho nên Tăng Trưởng thiên vương nói cho chúng ta biết rằng: đức hạnh của chúng ta phải tăng trưởng, phẩm đức phải tăng trưởng cho đến học vấn, trí tuệ, tài nghệ, năng lực đều phải tăng trưởng. Ngay cả mức độ sinh hoạt của chúng ta cũng phải ngày ngày nâng cao. Bạn hãy nhìn xem! Phật môn không rơi vào tình trạng năm vị Hộ pháp! Phật môn nói cho đúng là tiến bộ, vẫn luôn luôn giữ được tình tiết trước đây của thời đại. Phật môn không phải đi theo thời đại mà là lãnh đạo để thời đại đi.

Chúng ta phải làm sao khiến cho Trì quốc thiên vương và Tăng trưởng thiên vương được vô cùng viên mãn? Còn hai vị Thiên Vương phía sau dạy cho chúng ta phương pháp thực tiễn.

Hướng tây là Quảng Mục thiên vương, khiến chúng ta xem xét nhiều. Hướng bắc là Đa Văn Thiên vương, khiến chúng ta nghe nhiều. Đó chính là “Đọc sách vạn quyển, đi đường vạn dậm” mà người Trung Qụốc đã nói. Đọc sách là học vấn thành tựu căn bản, đi đường vạn dậm chính là việc mà ngày nay cho là tham quan, du lịch, khảo sát khắp nơi để nhìn xem. Thấy được ưu điểm của người khác thì chúng ta tiếp nhận khuyết điểm và để ý mà cải tiến. Chúng ta có đủ năng lực “Bỏ cái dở của người và lấy cái hay của người” để tạo dựng xã hội của chính mình, tạo dựng quốc gia của chính mình. Thế thì, quốc gia này chính là quốc gia hoàn mỹ nhất trên thế giới. Đó gọi là Hộ pháp chân chính! Cho nên cúng dường những tượng đắp này ở đó, chính là dạy cho chúng ta học! Chủ yếu là bạn vừa nhìn thì hiểu được, vả lại nhắc nhở cho mình mỗi lúc hướng về trong đây mà nghĩ tới việc tinh tấn để làm mục tiêu! Có thể làm như thế này thì ở đâu Phật giáo cũng là mê tín, ở đâu cũng là sùng bái tượng gỗ!

Trên tay của Tứ đại thiên vương đều cầm đạo cụ. Đạo cụ này cũng là cách để bày tỏ: trên tay của Trì quốc thiên vương cầm Tỳ bà, đại biểu cho việc làm không thể làm quá gấp, phải biết “Trung đạo”, không thể vượt qua, cũng không thể không kịp. Giống như đàn cầm, dây đàn lỏng lẻo thì đàn không được, căng thẳng thì nó đứt. Nhà Nho giảng về
Trung Dung. Phật pháp giảng về trung đạo, chính là làm tròn trách nhiệm phụ trách, là phải làm cho thích hợp với lợi ích, không cần thật quá đáng cũng không nên không kịp thì sự việc mới có thể viên mãn. Tăng trưởng thiên vương ở hướng nam, đó là đại biểu cho mỗi ngaỳ càng thêm mới. Đạo cụ trên tay của ông cầm là kiếm _ huệ kiếm (kiếm trí tuệ) là ý nghĩa “Dao bén chặt ma loạn, kiếm tuệ đứt phiền não”. Trên thân của Quảng Mục thiên vương ở hướng tây được bao bọc một con rồng, có khi một con rắn. Rắn và rồng đều có ý nghĩa giống nhau, là đại biểu cho sự biến hóa! Chúng ta thường nói: “Thần long thấy đầu không thấy đuôi” là biểu thị cho xã hội hiện thực của thế giới này: mọi người, mọi sự, mọi vật là biến hóa vô thường, biến hóa đa đoan, nhất định phải nhìn nó cho rõ mới đủ khả năng từ đó mà dễ ứng phó. Sự biểu đạt của rồng chính là ý nghĩa này. Trên tay của Đa Văn thiên vương ở hướng bắc cầm một cây dù, dù là che đậy, thế giới thiên biến vạn hóa, nhiễm ô chồng chất thì phải ngăn chặn, không nên bị ô nhiễm. Cho nên đồng thời của việc học rộng, nghe nhiều còn phải bảo hộ tâm thanh tịnh của mình, không nên bị nhiễm ô và có đủ khả năng xử lý hoàn toàn đối với xã hội hiện thực thì chúng ta mới có trí tuệ, năng lực để biết được nên dùng thái độ, phương pháp gì để ứng phó xử lý, để có thể làm cho hết sức tốt, hết sức đẹp (đối với bất cứ là người, sự hay vật ). Điện thiên vương dạy bảo chúng ta những điều đó! Tứ thiên vương không chỉ là Thần linh mà thắp mấy nén hương thì Tứ thiên vương phò hộ cho bạn được bình an! Thế là thật sai lầm, rất sai lầm!

Do đó có thể biết, tự viện của Phật không hình dáng nào mà không dạy chúng ta học. Ngay cả cúng dường đạo cụ cũng có ý nghĩa giáo dục của nó. Trước Phật cúng một bát nước có ý nghĩa gì? Cách biểu hiện nhiều lắm! Nước là chất trong sạch, thanh tịnh, đại biểu cho tâm chúng ta trong sạch giống như nước. Nước không tạo ra sóng, là nước yên bình, tâm chúng ta phải bình an giống như nước, yên lặng giống như nước. Thấy được chén nước cúng này thì nghĩ đến tâm của mình phải thanh tịnh, bình an giống như nước. Trước Phật cúng hoa, hoa đại biểu cho “nhân”. Sau khi hoa nở thì kết quả, hoa đại biểu cho lục độ vạn hạnh. Cúng quả,  trái cây không phải cúng cho Phật và Bồ tát ăn mà là dạy chúng ta xem thời vụ của “Quả” thì có thể nghĩ tới “Hy vọng quả báo loại gì thì nên phải tu nhân loại gì”. Cho nên tất cả sự thiết chế cúng dường của Phật môn ở khắp nơi, đều là để nhắc nhở và giáo dục chúng ta.

Phật và Bồ tát không nghe cũng không ăn, cũng đều không cần thứ gì! Lại nữa là  “Đèn”, đại biểu cho trí tuệ trong sáng. “hương” đại biểu cho hương thơm chân thật của giới và định. Không có loại nào mà không phải là cách biểu hiện, không có dạng nào mà không phải là giáo dục. Người học Phật bây giờ phần nhiều đều không biết về những ý nghĩa giáo dục này. Vì sao phải thắp hương? Vì sao phải cúng dường những tượng ở hướng đông, tây này? Họ đều không biết, cho nên tất cả sự tin Phật đều biến thành mê tín. Trong xã hội có người phê bình người học Phật là “Mê tín”. Họ nói không sai! Bao nhiêu người học Phật thật không hiểu cho rõ. Nếu như mình rõ rồi thì giảng giải cho họ rõ, tin tưởng rồi thì họ cũng phải học.

2.      Phật giáo bị biến thể trong hiện đại:

Trong thế giới này, trước mắt, Phật giáo ít nhất có bốn loại hình thức khác nhau, cùng một lúc xuất hiện ở thế gian, cho nên nó làm chúng ta mơ màng.

o       Thứ nhất: “Phật giáo truyền thống” vừa mới giảng, chính là “Sự giáo dục của Phật Đà. Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là mẫu mực này. Nhưng giáo dục Phật giáo của truyền thống hiện tại rất ít thấy. Còn Phật giáo khác thì ít nhiều cũng đều đã có biến chất.

o       Thứ hai: là “Phật giáo của tôn giáo”. Phật giáo vốn không phải là tôn giáo, bây giờ đã biến thành tôn giáo rồi. Ngày nay chúng ta nghe người ta nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta cũng không có biện pháp phủ nhận! Vì sao? Vì hình thức mà Phật giáo bày tỏ ở bên ngoài xác thực là tôn giáo vì Phật giáo không giống với tùng Lâm tự viện trước kia. Tùng Lâm tự viện bây giờ họ thấy mồi ngày học tám giờ, còn tùng Lâm tự viện Trung Quốc thời xưa mỗi ngày học tám giờ, tu hành tám giờ. Có hai loại phương thức tu hành: một loại là tọa thiền, một loại là niệm Phật. Cho nên người tu hành mỗi ngày chăm chỉ mười sáu giờ, giải và hành phải tương ưng, đi học là nghe giảng, nghiên cứu là thảo luận, là bước vào lý luận, sau đó tu tâm thanh tịnh, tu giác chánh tịnh. Mỗi ngày họ cố gắng mười sáu giờ, đương nhiên là ít vọng niệm, cho nên thành tựu rất mau. Bây giờ, đạo tràng Phật giáo mà chúng ta thấy chỉ là mỗi ngày dâng lên đồ cúng cho Phật, tu một ít phước báu mà thôi thì Phật giáo xác thực biến thành tôn giáo rồi.

o       Thứ ba: là “Phật học”. Phật giáo biến thành học thuật, biến thành triết học. Bây giờ có một số đại học mở môn học này “Triết học kinh Phật”, làm cho giáo pháp của Phật trở thành việc nghiên cứu triết học. Vì sao làm cho Phật giáo trở thành triết học để nghiên cứu cũng là sai lầm? Các vị nghĩ xem, giáo dục Phật giáo là một đại học hoàn chỉnh, tất cả khoa của trường đại học đều được gom lại, hiện tại chỉ nhận định nó là bộ môn triết học và rút ngắn lại còn có một ít, cho nên điều này cũng sai lầm. Tiên sinh Âu Dương giảng rất hay: Phật giáo không phải là triết học, cũng không phải là tôn giáo. Phật pháp chính là Phật pháp, Phật pháp là tâm mà tất cả chúng sanh cần. Vì sao? Phật pháp có khả năng giúp đỡ chúng ta giải quyết vấn đề sở hữu một cách chân chính, từ vấn đề sinh hoạt hiện tiền đến việc lớn sanh tử của tương lai không có loại nào mà Phật giáo giải quyết không được. Nội hàm dạy học của Phật giáo có thể thấy được là rất quảng đại tinh thâm và ông cho rằng Phật giáo mà làm học thuật cũng là bị biến chất.

o       Thứ tư: là Phật giáo của “Tà môn ngoại đạo”, điều này mới xuất hiện gần đây nhất khoảng 340 năm, đó là điều rất bất hạnh. Các vị phải biết Phật giáo của tôn giáo là khuyến thiện, khuyên người làm người tốt. Phật giáo của học thuật tìm cầu chân lý, nghiên cứu trí thức, không có sự tổn hại nhiều lắm cho xã hội. Nhưng nếu như Phật giáo của học thuật biến thành tà giáo, biến thành ngoại đạo, lợi dụng nhược điểm của nhân tánh mà dùng Phật pháp làm chiêu bài, lừa dối chúng sanh, tổn hại chúng sanh, nhiễu loạn xã hội, làm nguy hại sự an toàn của đại chúng, đó là biến chất, biến đến nỗi thật không giống như lời nói, biến đến nỗi thật quá mức. Những tà môn ngoại đạo này cũng có một số ngôn từ, một số hành vi rất có khả năng thu hút người, dụ hoặc người, một khi chúng ta bước vào đợi đến sự việc thất bại mới biết là mình bị mắc lừa, bị thiệt hại, về sau ăn năn không kịp.

  Các vị đồng tu, trong xã hội trước mắt, Phật giáo có bốn loại đó, cho nên chúng ta phải mở lớn đôi mắt, phải xem kỹ, suy nghĩ rõ ràng thì xét cho cùng chúng ta phải học một loại Phật pháp đó mới có lợi ích chân chính cho chúng ta.

LXII    DANH TỪ PHÁP TƯỚNG VÀ PHẬT GIÁO THƯỜNG THỨC:

( Chương thứ LXII là giới thiệu danh từ pháp tướng và Phật học thường thức, có quan hệ với quyển sách).

1.      Danh từ pháp tướng:

1/                  Phật Đà Da: gọi tắt là Phật Đà hoặc Phật, nghĩa là đấng giác ngộ, tức là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Cho nên Phật Đà là Đại Thánh Nhân đầy đủ ba giác.

2/                  Bồ đề tát đỏa: gọi tắt là Bồ tát. Nghĩa là giác hữu tình, tức là chúng sanh đại giác, là trên cầu Phật quả, dưới là Thánh nhân hóa độ chúng sanh.

3/                  Duyên giác: chính là nghe Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ chân lý nhân sinh.

4/                  Thanh văn: là nghe âm thanh của Phật thuyết pháp Tứ đế mà ngộ đạo.

5/                  A La Hán: là tiếng Phạn. Tàu dịch ra ba nghĩa là: vô sanh, phá ác, ứng cúng.

6/                  Bồ đề: nghĩa là giác đạo, tức là giác đạo mà trí huệ chứng đắc.

7/                  Bồ đề tâm: tức là phát tâm : “ Trên cầu Phật đạo, dưới là tâm hóa độ chúng sanh”, gọi là tâm bồ đề.

8/                  A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề: là ý nghĩa vô thượng chánh đẳng chánh giác.

9/Nhất thiết trí trí : trí huệ của Phật gọi là Nhất thiết trí trí, vì trí huệ siêu việt của Phật có khả năng biến thiên thế gian trí và xuất thế gian trí.

10/              Nhất thiết hữu tình: là tất cả chúng sanh hữu tình ( hữu tình là động vật có sinh mệnh).

 

11/              Nhất xiển đề: người không có thiện căn, không tin Phật pháp.

12/              Nhị chấp: ngã chấp (còn gọi là nhân ngã chấp), pháp chấp (còn gọi là pháp ngã chấp)

13/              Nhị không: ngã không (ngộ chân lý vô ngã của ngũ uẩn), pháp không (ngộ chân lý tánh không của các pháp của các pháp duyên sanh).

14/              Nhị chướng: phiền não chướng (chướng ngại Niết bàn), sở tri chướng (chướng ngại trí của cái biết chân thật).

15/              Nhị thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa.

16/              Tam thừa: Bồ tát thừa, Thanh văn thừa và Duyên giác thừa hợp lại gọi là Tam thừa.

17/              Ngũ thừa: Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát hợp lại gọi là Ngũ thừa.

18/              Tam độc: tham, sân, si có thể làm độc hại thân mệnh và huệ mệnh gọi là tam độc.

19/              Tam học: giới học, định học và huệ học (còn gọi là Tam vô lậu học).

20/              Tam thân: ba thân mà Phật có, tức là pháp thân,  báu thân và ứng hóa thân.

21/              Tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

22/              Tam chướng: phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng.

23/              Tam huệ: văn huệ, tư huệ và tu huệ.

24/              Tam tạng: kinh tạng (Tu đa la), luật tạng (Tỳ nại da), luận tạng ( A tỳ đạt ma).

25/              Tam ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

26/              Tam quy y: quy y Phật, quy y pháp và quy y Tăng. Phật, Pháp, Tăng là Tam bảo.

27/              Đại thừa: là pháp môn của Bồ tát, lấy việc cứu thế lợi tha làm tông chỉ.

28/              Tiểu thừa: là pháp môn của Thanh văn, lấy việc tu thân tự lợi làm tông chỉ.

29/              Tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

30/              Tam pháp ấn: các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh là Tam pháp ấn của tiểu thừa (lại thêm vào các pháp thực tướng của đại thừa là Tứ pháp ấn).

31/              Tứ đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại.

32/              Tứ đế: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

33/              Tứ đẳng: tức là Tứ vô lượng tâm:

a.      Từ vô lượng tâm.

b.      Bi vô lượng tâm.

c.       Hỷ vô lượng tâm.

d.      Xả vô lượng tâm.

 

34/              Tứ ân: ân phụ mẫu (gia đình), ân chúng sanh (xã hội), ân quốc độ (quốc gia), ân Tam Bảo (tôn giáo).

35/              Bồ tát Tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.

36/              Tứ đức: thường, lạc, ngã, tịnh.

37/              Tứ hoằng thệ nguyện: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

38/              Tứ niệm trụ:

a.      Quán thân bất tịnh.

b.      Quán thọ thị khổ.

c.       Quán tâm vô thường.

d.      Quán pháp vô ngã.

39/                Giai cấp của bốn họ: Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Đà, Thủ Đà La.

40/              Bốn loại kinh A Hàm: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm.

41/              Ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.

42/                Ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy.

43/                Ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

44/                Ngũ đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại và không đại.

45/              Ngũ minh: thanh minh, công xảo minh, y phương minh, nhân minh và nội minh.

46/              Ngũ nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

47/                Ngũ cái: tham cái, sân khuể cái, thùy miên cái, điêu hối cái và nghi pháp cái.

48/              Ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.

49/                Ngũ ác kiến:

a.      Thân kiến (Tát Ca Da Kiến).

b.      Biên kiến (kiến chấp thường và kiến chấp đoạn).

c.       Tà kiến (phỉ báng nhân quả, phá hoại việc thiện).

d.      Kiến thủ kiến (không phải quả mà cho là quả).

e.Giới cấm thủ kiến (không phải nhân mà cho là nhân).

50/                Lục căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

51/              Thập hoặc: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến cũng gọi là Thập sử.

52/                Lục căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỵ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.

53/              Lục trần: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.

54/              Lục suy: lục trẩn: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, có khả năng làm suy hao chân tánh của người.

55/                Lục đạo: Trời, Người, A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

56/              Thập pháp giới: Phật Đà, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A Tu La, địa ngục, quỷ và súc sanh.

57/              Lục Ba la mật: tức là tên gọi khác của lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và Bát nhã.

58/              Lục hòa: thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, lợi hòa đồng quân, kiến hòa đồng giải.

59/              Lục tướng: tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng và hoại tướng.

60/              Lục thời: ban ngày ba thời (sáng sớm, trưa, chiều). Ban đêm ba thời(đầu hôm,giữahôm, cuối hôm).

61/              Lục đạo tứ sanh: trong lục đạo có bốn loại chúng sanh: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.

62/                Lục nan:

1)            Khó gặp Phật ở đời.

2)            Khó nghe chánh pháp.

3)            Khó sanh thiện tâm.

4)            Khó sanh trung quốc.

5)            Khó được thân người.

6)            Khó đủ các căn.

63/              Tây phương tam Thánh: Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Aâm, Bồ tát Đại Thế Chí.

64/              A Di Đà Phật : dịch nghĩa là vô lượng quang, vô lượng thọ, cho nên cũng gọi là Phật Vô Lượng Thọ.

65/              Tăng già: nghĩa là “ Hòa hợp chúng”, chỉ cho lục hòa của Tăng nhân xuất gia ở chung.

66/              Đạt Mạ: nghĩa là “Pháp”, chỉ cho pháp của Phật pháp, tức là kinh điển.

67/              Niết bàn : là giải thoát viên tịch, cũng nghĩa là tịch diệt hoặc là bất sanh bất diệt.

68/              Pháp vô vi: là chân lý mà bậc Thánh trí chứng đắc, không có sự tạo tác của nhân duyên. Tức là đoạn trừ phiền não, chứng được lý pháp thanh tịnh tự tại (còn gọi là pháp vô lậu).

69/              Pháp hữu vi: là pháp của thế gian tạo tác nhân duyên, có phiền não, không thể thanh tịnh.

70/              Vô học: trong bốn quả của Thanh văn thừa, ba quả trước là hữu học, quả thứ tư là A La Hán, gọi là Vô học ( tu tập giới, định, huệ, tiến tới viên mãn rồi việc tu tập ngưng lại, gọi là (Vô học).

71/                Quả Vô học: là quả vị A La Hán (còn gọi là Vô sanh).

72/                Phật Đà có mười đại đệ tử:

1)      Xá Lợi Phất, đệ nhất trí tuệ.

2)      Mục Kiền Liên, đệ nhất thần thông.

3)      A Nan Đà, đệ nhất đa văn.

4)      Ưu Ba Li, đệ nhất trì giới.

5)      A Na Luật, đệ nhất thiên nhãn.

6)      Đại Ca Diếp, đệ nhất đầu đà.

7)      Phú Lầu Na, đệ nhất thuyết pháp.

8)      Ca Chiên Diên, đệ nhất luận nghị.

9)      La Hầu La, đệ nhất mật hạnh.

10)  Tu Bồ Đề, đệ nhất giải không.

73/              Phát bồ đề tâm: trong kinh Phật đã nói: điều kiện quan trọng để phát bồ đề tâm là:

a.   Thứ nhất là thâm tâm, rộng tu pháp vô lượng thiện.

b.   Thứ hai là bi tâm, rộng độ vô lượng chúng sanh.

c.   Thứ ba là trực tâm, chánh niệm chân như. Kinh Hoa Nghiêm nói:

“ Cây bồ đề diệu pháp, mọc chỗ đất trực tâm”. Vì tâm thẳng thì chân chánh, tâm chân chánh thì chí nguyện kiên cố, nên tín ngưỡng trước sau cũng không dời đổi, mà còn có khả năng để làm công tác tự lợi, lợi tha một cách dõng mãnh tinh tấn.

2.   Phật giáo thường thức:

1)            Ngày Vệ Tắc: tức là ngày trăng tròn, ngày Phật Đà giáng sinh, thành đạo, Niết bàn, đều vào ngày trăng tròn tháng năm dương lịch.

2)            Cờ Phật giáo : là căn cứ vào lúc Phật Đà thành đạo, Thánh thể phóng ra sáu loại ánh sáng màu mà chế thành màu cờ. Tức là màu lam, màu vàng, màu hồng, màu trắng, màu chanh và màu hỗn hợp của năm màu trên.

3)            Phật Đà giáng sinh vào năm 623 trước công nguyên, thành đạo vào năm 588 trước công nguyên, Niết bàn vào năm 543 trước công nguyên.

4)            Bồ đề thọ: Vì Phật đã chứng ngộ thành đạo ở dưới cây bồ đề nên gọi là cây giác. Lá cây hình trái tim, đầu nhọn và dài.

5)            Sa La thọ: Phật Đà nhập Niết bàn giữa hàng Sa La Song thọ của thành Câu Thi Na La. Loại cây này là mọc um tùm, lá dài hình tròn, đến thời kỳ nở hoa thì nhị hoa rơi lả tả, phủ đầy trên đất.

6)            Thánh Khách Sa: là nơi Phật Đà tuyên giảng Phật pháp cho mẹ Ngài và từ Trời Đâu Suất Ngài đi xuống. Bồ tát Di Lặc là Phật vị lai sẽ đản sinh ở đất này.

7)            Chu vi thành Vương Xá có năm ngọn núi, cao khoảng hơn 1.000 thước, gọi chung là núi Linh Thứu (RAJAGAHA). Thành Vương Xá có tên Linh Thứu là do dựa vào núi mà đặt tên. Linh Thứu, tiếng Pali gọi là RAJAGAHA. Núi Kỳ Xà Quật là tên khác của núi Linh Thứu, tiếng Pali gọi là GiJJHAKUTA.

8)            Đạo tràng mà Phật Đà ban đầu giảng kinh là tinh xá Trúc Lâm của thành Vương Xá Ấn Độ xưa. Đạo tràng quy mô rộng lớn nhất là tinh xá Kỳ Đà của thành Xá Vệ.

9)            Đại học Phật giáo xưa nhất của Ấn Độ gọi là “Na Lan Đà”, là nơi mà pháp sư Đường Huyền Trang du học.

10)        Triều Đường có pháp sư Tam Tạng, gọi là Huyền Trang, đã tầng gian nan hiểm trở đi sang Ấn Độ thỉnh kinh.

11)        Đời Đông Tấn có pháp sư Pháp Hiển, sang Ấn Độ thỉnh kinh, đã từng đi qua các nước Tích Lan và Nam Dương.

12)        Ấn Độ có hai pháp sư đến Trung Quốc sớm nhất là Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan.

13)        Lúc Phật Đà còn tại thế, quốc vương ủng hộ Phật pháp trung thành của Ấn Độ là vua Tần Bà Sa La và vua Ba Tư Nặc.

14)        Sau khi Phật Đà diệt độ, quốc vương của Ấn Độ nổi tiếng ủng hộ Phật pháp có ba vị: tức là A Dục Vương (cũng dịch là A Thâu Ca Vương), Ca Nị Sắc Ca Vương và Khát Lợi Sa Vương (tức là Giới Nhật Vương, ông đã tầng thỉnh pháp sư Huyền Trang tuyên giảng Phật pháp đại thừa và rất là tôn kính pháp sư).

15)        Con trai của vua A Dục là Mã Hưng Đạt (MAHINDA) vào năm 252 trước công nguyên, cùng với em gái là Tăng Ca Mỹ Đạt, đến chỗ Mể Hưng Đạt Lễ thuộc đảo Tích Lan, tình cờ gặp Đế Sa Vương (KING TISSA) vào lúc đi săn và tuyên giảng Phật pháp cho vua, Đế SaVương rất hoan hỷ và mời Mã Hưng Đạt trở về kinh thành thuyết pháp. Không bao lâu, đại bộ phận nhân dân vương quốc Tích Lan tin theo Phật giáo. Thế rồi, em gái của Mã Hưng Đạt đem cây bồ đề của Ấn Độ sang trồng ở Tích Lan. Cây bồ đề này đến nay vẫn tồn tại, là thắng tích của Phật giáo.

16)        Sự truyền bá của Phật giáo được phân ra làm hai nhánh nam và bắc. Phật giáo bắc truyền gọi là đại thừa giáo, Phật giáo nam truyền gọi là tiểu thừa giáo, hoặc gọi là Phật giáo nguyên thủy.

17)        Khu vực của Phật giáo đại thừa là các nước như Trung Quốc, Tây Tạng, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bổn v.v…

18)        Khu vực của Phật giáo tiểu thừa là các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên và các vùng ở Đông Bộ.

19)        Có bốn lần kiết tập kinh Phật:

a.      Kiết tập lần thứ nhất ở động Thất Diệp, núi Linh Thứu, thành Vương Xá. Sau khi Phật diệt độ 90 ngày, chủ trì đại hội biên tập là do Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa, người tham gia kiết tập có 500 A La Hán.

b.      Kiết tập lần thứ hai ở thành Tỳ Xá Ly khoảng 100 năm sau khi Phật diệt độ, trưởng lão Da Xá được cử làm thượng thủ, trùng tân kinh điển và giữ vững giới cấm.

c.       Kiết tập lần thứ ba là do  vua A Dục (ASOKA) triệu tập ở thành Ba Tra Lợi Phất Đa La (PATALLPU – TRA tức là miền Bát Na Ấn Độ bây giờ) cử hành đại hội kiết tập. Lúc đó, năm 250 trước công nguyên, do vua và Hoàng tử cử Mục Kiền Liên (MOGGALI PUTA) làm thượng tọa. Kiết tập lần này thì kinh tạng, luật tạng, luận tạng đều đã đầy đủ.

d.      Kiết tập lần thứ tư là do vua Ca Nị Sắc Ca triệu tập ở Ca Thấp Di La (miền Khắc Thập Mễ Nhĩ Ấn Độ bây giờ). Lúc đó vào khoảng năm 70 sau công nguyên, do tôn gia Bà Tu Mật (VASUMITAN) làm thượng tọa. Kiết tập lần này tạo dựng được 200 quyển Tỳ Bà Sa, thành công lớn là tập hữu bộ.

20)        Phật giáo dùng màu vàng để tượng trưng cho trí tuệ và trung đạo. Cho nên nhiều Tỳ kheo, đa số mặc Tăng y màu vàng.

21)        Phật giáo dùng hoa sen đại biểu cho thanh tịnh, vì hoa sen mọc ở bùn lầy mà không bị nhiễm.

22)        Đạt Lại Lạt Ma : Đạt Lại là từ ngữ Mông Cổ, nghĩa là biển lớn, là trí tuệ như biển lớn. Lạt Ma là từ ngữ Tây Tạng, ý nghĩa là thù thắng. Đạt Lại Lạt Ma là giáo chủ của Tây Tạng Lạt Ma giáo, thuộc phái áo vàng, vẫn có Lạt Ma Ban Thiền, là vị đứng sau Đạt Lại Lạt Ma, thống trị toàn thể Hậu Tạng.

23)        Huệ Năng là Tổ thứ sáu thiền tông đời nhà Đường Trung Quốc, chủ trương thiền đốn ngộ và đại sư Thần Tú chủ trương thiền tiệm ngộ ở phía bắc, có cách gọi là nam đốn, bắc tiệm.

24)        Tông Thiên Thai đem giáo pháp một đời của Phật Đà phân ra làm năm thời thuyết pháp:

a.            Thời Hoa Nghiêm.

b.            Thời A Hàm.

c.             Thời Phương Đẳng.

d.            Thời Bát Nhã.

e.            Thời Pháp Hoa và Niết Bàn.

25)              Mười tông của Phật giáo Trung Quốc: tông Thành Thật, tông Câu Xá, tông Tánh, tông Tướng, tông Thiên Thai, tông Hiền Thủ, tông Thiền, tông Tịnh Độ, tông Luật, tông Mật.

26)              Vì sao gọi là tạng kinh? Tạng kinh chính là gọi tắt của ba tạng kinh điển của Phật giáo được tập hợp thành, hoặc gọi là “Đại tạng kinh”.

27)              Muốn nghiên cứu Phật giáo, vì sao phải xem kinh tạng? Vì kinh tạng là kinh điển căn bản của Phật giáo, tất cả nghĩa pháp căn bản mà Phật thuyết đều nhiếp trong kinh tạng.

28)              Vì sao gọi tam tạng là Thập nhị bộ? Tam tạng tức là kinh, luật, luận. Mười hai bộ tức là kinh Phật thuyết được phân ra làm 12 loại, cũng gọi là 12 phần giáo:

a.            Trường hành.

b.            Trùng tụng.

c.             Cô khởi.

d.            Tỷ dụ.

e.            Nhân duyên.

f.              Vô vấn tự thuết.

g.            Bổn sanh.

h.            Bổn sự.

i.              Vị Tằng hữu.

j.              Phương Quảng.

k.            Luận nghị.

l.              Ký biệt hoặc thọ ký.

29)              Mười hai bộ kinh được nói ra bằng bốn câu kệ 7 chữ:

Kệ rằng:

a.            Trường hành Trùng tụng cùng Cô khởi.

b.            Tỷ như Nhân duyên và Tự thuyết.

c.             Bổn sanh Bổn sự Vị Tằng Hữu.

d.            Phương Quảng Luận nghị và Ký biệt.

30)              Kinh Phật mà Trung Quốc dịch bắt đầu vào thời vua Minh Đế đời Đông Hán, đặc biệt là được thỉnh Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Quốc đảm nhiệm công tác này, dịch tổng cộng là 5 bộ kinh nhưng bị thất truyền 4 bộ, nay kinh hiện còn chỉ có 42 chương.

            Thất truyền bốn bộ tức là:

  • Thập Địa đoạn kết kinh.

  • Phật Bổn sanh kinh.

  • Pháp Hải tạng kinh

  • Phật Bổn hành kinh./.

  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phatphap_nhapmon_tt.htm

 


Vào mạng: 10-7-2008

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang