“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như
những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại
thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
Điều ấy nghe qua tưởng chừng đơn giản,
nhưng phải mất hơn 20 năm tôi mới nhận ra khi nhìn lại những ngày khổ nhọc
đã qua như những áng mây đen che khuất bầu trời trong xanh. May mắn thay,
niềm tin nơi Đức Phật chẳng biết tự bao giờ đã luôn ở trong tôi. Có thể
bắt nguồn từ ngày mang thai tôi mẹ hay đọc Quan Âm Thị Kính, cũng có thể
từ những ngày rằm, bà nội hay dắt tôi vào chùa của Hội Bắc Việt Tương Tế...,
nhìn tranh vẽ trên tường cảnh Mục Kiền Liên xuống âm ty tìm mẹ, thấy hình
phạt dành cho những kẻ làm ác trên đời mà trong tâm hồn một cậu bé mới lớn
như tôi đã hình thành sự vững tin nơi luật nhân quả và lẽ công bằng.
Ra trường vào những năm sau ngày đất
nước thống nhất, trong thời kỳ bao cấp, phần lớn mọi người đều cơ cực, tôi
ra Nha Trang nhận nhiệm sở làm anh thầy giáo với đồng lương còm cõi, sống
một mình còn không đủ, nói gì đến giúp đỡ gia đình. Một hôm nhận điện tín
báo cha hấp hối, tôi quyết định trở về Sài Gòn ngay trong đêm ấy. Đúng là
“họa vô đơn chí”, trong lúc vội vã ra ga, tôi đã bị một kẻ phóng xe bạt
mạng đâm vào. May mà tránh kịp. Nhưng vẫn bị trật khớp chân. Rồi phải xếp
hàng cả buổi chiều đến nửa đêm mới mua được vé, trong lúc chen lấn, tôi bị
mất chiếc ví trong đó là số tiền tạm ứng cho cả tháng lương sắp tới. Cay
đắng tột cùng. Trên chuyến tàu đêm ấy, tôi đã cầu nguyện Đức Quan Âm cho
mọi chuyện bình an, gia đình qua cơn tai biến.
Về đến nhà, gặp mẹ đang lui cui khấn
vái, cầu mong cho cha tôi qua khỏi cơn nguy kịch. Gia đình đang túng bấn,
biết lấy gì để lo thang thuốc, mà rủi cha tôi có bề gì, lo ma chay cũng là
một vấn đề lớn.
Những ngày ngắn ngủi tại Sài Gòn, tôi
thường xuyên niệm chú Đại Bi. Và lời nguyện cầu là phương cách duy nhất để
tôi lấy lại sự thăng bằng cho tâm hồn trong lúc cảm thấy bất lực đến cay
đắng, khi thấy cha nằm mê man mà những đứa con lại không xoay đâu ra tiền.
“Công chưa thành, danh chưa toại", chưa thấy lóe lên chút ánh sáng nào
sau bao nhiêu ước mơ kỳ vọng thì đã bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh
ly loạn. Mẹ tôi càng tuyệt vọng, bởi ngoài nỗi đau tinh thần là nỗi đau
thể xác, dù một bên tai bị nhức buốt nhưng vẫn phải lo toan cho hai đứa
con còn đi học và một người chồng đang trong cơn thập tử nhất sinh. Mẹ tôi
đã nguyện rằng, nếu cha tôi chết thì xin cho mẹ tôi chết cùng. Rồi một hôm,
mẹ tôi kể về giấc mơ: một cụ già râu tóc bạc phơ như ông Bụt đã cầm một
bình nước đầy ắp đưa cho mẹ và nói rằng: "Con không chết được đâu. Con hãy
lo cho chồng cho con. Của tiền nhân để lại cho con nhiều lắm, nhưng hãy
còn ở ngoài khơi”. Sau đêm đó, mẹ tôi vững tin hẳn lên. Mẹ như tiếp nhận
năng lực vô hình từ cụ già trong giấc mơ ấy mà thức dậy từ 3 giờ sáng mỗi
ngày để ra chợ bán hàng, rồi sau đó về nhà chuẩn bị nấu nướng cho con, đem
thức ăn cho chồng trong bệnh viện, và ở lại đó đến khuya mới về.
Cứ như thế, cha tôi qua cơn bạo bệnh
với ý chí mãnh liệt cùng với sự nỗ lực tột cùng của mẹ và một số bác sĩ
tận tâm ngày ấy.
Sau khi khỏi bệnh, cha tôi dù rất yếu
nhưng đã thanh thản ngồi chép kinh vào những quyển vở, vì hồi ấy kinh sách
chưa được in. Cha tôi muốn vừa chép vừa chiêm nghiệm, thọ trì. Cha tôi
thường nói rằng: “Nhà ta có trời Phật độ”. Cả gia đình đã vượt qua cơn bĩ
cực bằng niềm tin nơi Đức Phật. Điều cảm nhận thiêng liêng là trong hoàn
cảnh khó khăn ấy, gia đình vẫn quây quần quanh mâm cơm đạm bạc.
Đã có lúc tôi toan bỏ dạy, về lại Sài
Gòn để buôn lậu thuốc tây và chạy áp phe. Nhưng nghe lời cha: "Trong hoàn
cảnh nào cũng phải làm người trước đã. Con sẽ hư vì những đồng tiền phi
nghĩa ấy. Hãy trở lại trường tiếp tục công việc dạy học”. Tôi nghe lời cha
khuyên, trở lại công việc giảng dạy và tìm thấy những niềm vui. Sự kính
trọng và ngập tràn thương yêu từ những đứa học trò ở tỉnh mà hôm nay đây
đã 27 năm trôi qua, dù không còn đứng trên bục giảng, tôi vẫn nhận những
tấm thiệp, những tin nhắn, những cuộc điện thoại hỏi thăm, chúc mừng nhân
ngày Nhà giáo hay mỗi độ xuân về.
Gia đình tôi trong những ngày u ám nhất
đã nương Phật làm điểm tựa, để tìm lấy niềm tin mãnh liệt mà sống, vượt
qua những nghịch cảnh, không trách người, không oán trời, vì hiểu đó là
nghiệp mà mỗi người phải cưu mang. Mẹ vẫn đi chùa vào những ngày rằm và
mồng một, cho dù có bận bịu thế nào đi nữa. Mẹ không lý luận, chỉ sống
bằng một đức tin thuần thành và tinh khiết. Tôi thì luôn dành một đức tin
mãnh liệt vào sự bình an trong tâm hồn, do việc niệm danh hiệu Quan Âm đem
lại. Tôi thấy mình tỉnh táo, mạnh mẽ, và có đầy nghị lực.
Đức Từ Phụ đã soi sáng những góc tối
của bi kịch, giúp tôi vững tâm mà an nhiên trước những tai ương, oan khổ.
Niềm tin ấy đã làm hành trang cho tôi vào đời, vượt bao trở lực, có lúc
tưởng như làm mình sụp đổ. Từ đó tôi mới hiểu vì sao Đức Phật đã nhìn
phiền não để thấy Bồ đề.
"Chúng ta chạy trốn khổ đau để tìm hạnh
phúc, chạy trốn thứ này đi tìm thứ khác vì chúng ta dùng con mắt nhị
nguyên. trong khi đó Bụt nhìn bằng con mắt bất nhị. Ngài thấy hạnh phúc
với khổ đau nương vào nhau. Có cái này nên có cái kia” (Thiền sư Nhất Hạnh).
Phật hiện ra trong tôi, hiện ra bên mẹ
bên cha tôi. Phật là nguồn phúc lạc mầu nhiệm khi chúng ta sống và làm
việc trong niềm kính tín sâu xa của chánh niệm .
Và Đức Phật của tôi thật gần trong từng
suy nghĩ.
Nguồn:
vanhocphatgiaocom
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phattai_longta.htm