1. Thân cận bậc Chân nhân
Đối với vị Tỳ-khưu hữu học,
Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này
các Tỳ-khưu, tức là làm bạn với thiện. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu
làm bạn với thiện, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.
Tỳ-khưu làm bạn thiện,
Tôn kính và kính trọng,
Làm theo những lời nói,
Của bạn bè thân hữu,
Tỉnh giấc và chánh niệm,
Vị ấy sẽ tuần tự,
Ðạt được sự hoại diệt,
Tất cả mọi kiết sử.
[Phật thuyết như vậy, 17]
Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn:
-- Một nửa Phạm hạnh này, bạch
Thế Tôn, là thiện bạn hữu (kalyàsamittatà), thiện bạn đãng (kalyànasahàyatà),
thiện thân tình (kalyàsam-pavankatà).
-- Chớ có nói vậy, này Ànanda! Chớ
có nói vậy, này Ànanda! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ànanda, là thiện bạn
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình. Với Tỳ-khưu thiện bạn hữu,
thiện bạn đãng, thiện thân tình, này Ànanda, thời được chờ đợi Thánh
đạo Tám ngành được tu tập, Thánh đạo Tám ngành được làm cho viên
mãn.
Và này Ànanda, thế nào là Tỳ-khưu
thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập và làm cho
viên mãn Thánh đạo Tám ngành? Ở đây, này Ànanda, Tỳ-khưu tu tập chánh
tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn
diệt, hướng đến từ bỏ. Tỳ-khưu tu tập chánh tư duy... tu tập chánh
ngữ... tu tập chánh nghiệp... tu tập chánh mạng... tu tập chánh tinh tấn...
tu tập chánh niệm... tu tập chánh định liên hệ đến viễn ly, liên hệ
đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này
Ànanda, là Tỳ-khưu thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu
tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
Này Ànanda, chính với pháp môn
này, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình. Do Ta lấy thiện làm bạn hữu,
này Ànanda, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các
chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh bị chết
được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não
được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Chính với pháp môn này,
này Ànanda, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là
thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
[Tương Ưng, 45.2]
Này cư sĩ Byagghapajja, thế nào là
làm bạn với thiện? Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống tại
làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những
trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được
lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy
đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận.
Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng
tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy
đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập
với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học
tập với đầy đủ trí tuệ. Này Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với
thiện.
Và này Byagghapajja, thế nào là đầy
đủ lòng tin? Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có lòng in, tin tưởng
ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là bậc Ứng cúng, Chánh biến tri,
Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều ngự trượng
phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn". Này Byagghapajja, đây gọi là đầy
đủ lòng in.
Và này Byagghapajja, thế nào là đầy
đủ giới đức? Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, từ bỏ đắm
say rượu men, rượu nấu. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ giới đức.
Và này Byagghapajja, thế nào là đầy
đủ bố thí? Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống ở gia đình, với
tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay mở
rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia xẻ
vật bố thí. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ bố thí.
Và này Byagghapajja, thế nào là đầy
đủ trí tuệ? Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có trí tuệ, thành tựu
trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập (quyết trạch), chơn chánh chấm
dứt khổ đau. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ trí tuệ.
[Tăng Chi, 8.54]
Phàm một người nào đã vi phạm một
pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào
là một pháp? Này các Tỳ-khưu, tức là rõ biết mà nói láo.
Người nào đã nói láo,
Là vi phạm một pháp,
Không kể đến đời sau,
Không ác gì không làm.
[Phật thuyết như vậy, 25]
- Này các Tỳ-khưu, có đầy đủ
ba đức tánh, một người bạn cần được thân cận. Thế nào là ba? Ở
đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu cho điều khó cho, làm điều khó làm, nhẫn
điều khó nhẫn. Này các Tỳ-khưu, đầy đủ ba đức tánh, một người bạn
cần được thân cận.
[Tăng Chi, 3.133]
Ba pháp này, này các Tỳ-khưu, được
người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Thế nào là
ba? Bố thí, này các Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên bố, được bậc
Chân nhân tuyên bố. Xuất gia, này các Tỳ-khưu, được người Hiền trí
tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Hầu hạ cha mẹ, này các Tỳ-khưu,
được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Ba
pháp này, này các Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên bố, được bậc
Chân nhân tuyên bố.
[Tăng Chi, 3.45]
Này các Tỳ-khưu, thế nào là địa
vị bậc không phải Chân nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỳ-khưu,
không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là
đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỳ-khưu, tức là không biết
ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này
các Tỳ-khưu, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân,
này các Tỳ-khưu, là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân,
đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỳ-khưu, tức là
biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỳ-khưu,
tức là biết ơn, nhớ ơn.
[Tăng Chi 2.31]
Này các Tỳ-khưu, với cộng trú,
giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ-khưu, với cùng một
nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy, trong
một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác
ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ-khưu, trong những hoạn
nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời
gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí
tuệ, không phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ-khưu, với đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ.
(1) Này các Tỳ-khưu, với cộng trú,
giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, có người
do cộng trú với một người khác biết được như sau: "Trong một thời
gian dài, vị Tôn giả này làm giới bị bể vụn, làm giới bị cắt xén,
làm giới bị vết nhơ, làm giới bị chấm, đen, làm việc không có liên tục,
hạnh kiểm không có liên tục trong các giới. Ác giới là Tôn giả này,
Tôn giả này không giữ giới".
Nhưng ở đây, này các Tỳ-khưu,
người này do cộng trú với người kia, biết như sau: "Trong một thời
gian dài, vị Tôn giả này không làm giới bị bể vụn, không làm giới bị
cắt xén, không làm giới bị vết nhơ, không làm giới bị chấm, đen, làm
việc có liên tục, hạnh kiểm có liên tục trong các giới. Giữ giới là
Tôn giả này, Tôn giả này không phải ác giới".
Này các Tỳ-khưu, với cộng trú,
giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài,
không có tác ý vấn đề khác, không có không tác ý, với trí tuệ, không
phải với liệt tuệ. Như vậy được nói đến, do duyên này được nói
đến như vậy.
(2) Này các Tỳ-khưu, với cùng
chung làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết.
Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không
có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được
nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một
người do cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau:
"Khác thay, vị Tôn giả này khi làm việc với một người; khác thay, với
hai người; khác thay, với ba người; khác thay, với nhiều người, làm
trái ngược là vị Tôn giả này, các sở hành trước khác với sở hành
sau. Không thanh tịnh là sở hành của vị Tôn giả này. Vị Tôn giả này
có sở hành không thanh tịnh. Nhưng ở đây, này các Tỳ-khưu, một người
do cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau:
"Như thế nào, Tôn giả này khi làm việc với một người, như thế
ấy với hai người, như thế ấy với ba người, như thế ấy với nhiều
người, không làm trái ngược là vị Tôn giả này, các sở hành trước giống
với sở hành sau. Thanh tịnh là sở hành của vị Tôn giả này."
Này các Tỳ-khưu, với cùng chung
làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy
trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không
tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến.
Do duyên này được nói đến như vậy.
(3) Này các Tỳ-khưu, trong các hoạn
nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời
gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí
tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì
được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, có người
cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức
khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau: "Bản chất như vậy là sự an trú
thế giới này; Bản chất như vậy là bản tánh tự ngã có được này; Bản
chất như vậy là sự an trú thế giới. Bản chất như vậy là có được
bản tánh tự ngã. Tám thế giới pháp này vận chuyển thế giới, và thế
giới vận chuyển tám pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh tiếng
và danh tiếng, chê và khen, lạc và khổ". Người ấy, cảm thọ bà con
bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị
ách nạn, sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Nhưng ở đây, này các Tỳ-khưu, có
người cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm
thọ sức khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau: "Bản chất như vậy là
sự an trú thế giới này; Bản chất như vậy là bản tánh tự ngã có được
này; Bản chất như vậy là sự an trú thế giới. Bản chất như vậy là
có được bản tánh tự ngã. Tám thế giới pháp này vận chuyển thế giới,
và thế giới vận chuyển tám pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh
tiếng và danh tiếng, chê và khen, lạc và khổ". Người ấy cảm thọ
bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe
bị ách nạn, không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực,
không rơi vào bất tỉnh.
Này các Tỳ-khưu, trong các hoạn nạn,
sức mạnh kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời
gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí
tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này
được nói đến như vậy.
(4) Này các Tỳ-khưu, trong đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, có người,
do đàm luận với một người khác, biết như vầy: "Vị Tôn giả này,
đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi
là như vậy, thời liệt tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không có trí
tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này không nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh,
thù thắng, vượt ngoài lý luận suông, tế nhị, được người hiền trí
cảm thọ. Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị ấy không có khả năng,
hoặc tóm tắt, hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày,
an lập, mở rộng, phân tích, phát lộ. Liệt tuệ là vị Tôn giả này, vị
Tôn giả này không có trí tuệ". Ví như, này các Tỳ-khưu, một người
có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một con cá nhỏ nổi lên,
người ấy suy nghĩ như sau: "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy, làm
cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. Nhỏ bé là con cá này, con cá
này không lớn".
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có người
do đàm luận với một người khác, biết như vầy: "Vị Tôn giả này,
đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi
là như vậy, thời có trí tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không phải
là liệt tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh,
thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người hiền trí
cảm thọ. Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị này có khả năng, hoặc
tóm tắt, hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập,
mở rộng, phân tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn giả này, vị Tôn
giả này không phải là liệt tuệ". Ví như, này các Tỳ-khưu, một
người có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một con cá lớn nổi
lên, người ấy suy nghĩ như sau: "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy,
con cá này làm cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. To lớn là con
cá này, con cá này không nhỏ".
Này các Tỳ-khưu, trong đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không phải không tác ý với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được
nói đến như vậy.
[Tăng Chi, 4.192]
-- Này các Tỳ-khưu, một người bất
chánh (asappurisa) có thể biết một người bất chánh: "Người bất
chánh là vị này", hay không?
-- Bạch Thế Tôn, không biết được.
-- Lành thay, này các Tỳ-khưu! Này
các Tỳ-khưu, không thể có sự tình, không thể có sự kiện, một người
bất chánh có thể biết một người bất chánh: "Người bất chánh là
vị này." Này các Tỳ-khưu, nhưng một người bất chánh có thể biết
một người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này" hay không?
-- Bạch Thế Tôn, không biết được.
-- Lành thay, này các Tỳ-khưu! Này
các Tỳ-khưu, không thể có sự tình, không thể có sự kiện một người
bất chánh có thể biết được một người chơn chánh: "Người chơn
chánh là vị này".
Người bất chánh, này các Tỳ-khưu,
là người đầy đủ pháp bất chánh, giao du với người bất chánh, suy tư
như người bất chánh, tư lường như người bất chánh, nói năng như người
bất chánh, hành động như người bất chánh, có tà kiến như người bất
chánh, bố thí như người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm,
liệt tuệ. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh đầy đủ pháp
bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh giao du với những người bất chánh? Ở đây, này
các Tỳ-khưu, những vị Bà-la-môn nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe,
biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu với
người bất chánh ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh
giao du với người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh suy tư như người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh suy nghĩ tự làm hại mình, suy nghĩ làm hại người khác,
suy nghĩ làm hại cả hai.. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh
suy tư như người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh tư lường như người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh tư lường tự làm hại mình, tư lường làm hại người,
tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh
tư lường như người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh nói năng như người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh nói lời nói láo, nói lời hai lưỡi, nói ác khẩu, nói
lời phù phiếm. Như vậy này các Tỳ-khưu, là người bất chánh nói năng
như người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh hành động như người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh sát sanh, lấy của không cho, làm các tà hạnh trong các dục.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh hành động như người bất
chánh.
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh? Ở đây, này các
Tỳ-khưu, người bất chánh có tà kiến như sau: "Không có bố thí,
không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp
thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có cha, không có mẹ,
không có loại hóa sanh. Ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị
Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng
trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại". Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người bất chánh bố thí như người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người bất chánh bố thí một cách vô lễ, bố thí không phải tự tay, bố
thí không có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật không cần dùng, bố
thí không nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất
chánh bố thí như người bất chánh.
Này các Tỳ-khưu, người bất chánh
ấy, đầy đủ pháp bất chánh như vậy, giao du với người bất chánh như
vậy, suy tư như người bất chánh như vậy, tư lường như người bất chánh
như vậy, nói năng như người bất chánh như vậy, hành động như người
bất chánh như vậy, có tà kiến như người bất chánh như vậy, bố thí
như người bất chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh
giới của những người bất chánh. Và này các Tỳ-khưu, thế nào là cảnh
giới của những người bất chánh? Ðịa ngục hay là bàng sanh.
Này các Tỳ-khưu, một người chơn
chánh có thể biết được một người chơn chánh: "Người chơn chánh
là vị này" hay không?
-- Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này các Tỳ-khưu! Sự
tình này xảy ra là người chơn chánh có thể biết được người chơn chánh:
"Người chơn chánh là vị này". Nhưng này các Tỳ-khưu, người
chơn chánh có thể biết được người bất chánh: "Người bất chánh
là vị này" hay không?
-- Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này các Tỳ-khưu! Này
các Tỳ-khưu, có sự tình này là người chơn chánh có thể biết được
người bất chánh: "Người bất chánh là vị này". Này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp, giao du với các bậc chơn chánh,
suy nghĩ như các bậc chơn chánh, tư lường như các bậc chơn chánh, nói năng
như bậc chơn chánh, hành động như bậc chơn chánh, có chánh kiến như bậc
chơn chánh, bố thí như bậc chơn chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người
chơn chánh có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần,
tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người
chơn chánh đầy đủ những Chánh pháp.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý nghe
nhiều, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ, những vị ấy là bạn,
là thân hữu của vị chơn chánh ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người
chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh.
Và này, các Tỳ-khưu, như thế nào
là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh không suy nghĩ tự làm hại mình, không suy nghĩ làm hại
người khác, không suy nghĩ làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là
người chơn chánh suy tư như người chơn chánh.
Và này, các Tỳ-khưu, như thế nào
là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh không tư lường tự làm hại mình, không tư lường làm
hại người khác, không tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh?
Và này các Tỳ-khưu, như thế nào
là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh từ bỏ không nói láo, từ bỏ không nói hai lưỡi, từ
bỏ không nói ác khẩu, từ bỏ không nói phiếm luận. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người chơn chánh hành động như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ
làm các tà hạnh trong dâm dục. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người
chơn chánh hành động như người chơn chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người chơn chánh có chánh kiến như bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh có chánh kiến như sau: "Có bố thí, có lễ hy sinh,
có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời
khác, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh. Ở đời có những vị Sa-môn, những
vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng
trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là
người chơn chánh bố thí như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố
thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ
đến tương lai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người chơn chánh bố thí
như người chơn chánh.
Này các Tỳ-khưu, người chơn chánh
ấy, đầy đủ Chánh pháp như vậy, giao du với người chơn chánh như vậy,
suy tư như người chơn chánh như vậy, tư lường như người chơn chánh như
vậy, nói năng như người chơn chánh như vậy, hành động như người chơn
chánh như vậy, có chánh kiến như người như người chơn chánh như vậy,
bố thí như người chơn chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh
vào cảnh giới của những người chơn chánh. Và này các Tỳ-khưu, thế nào
là cảnh giới của những người chơn chánh? Ðại tánh của chư Thiên hay
đại tánh của loài Người.
[Trung Bộ, 110]
Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng,
Hãy thân cận người trí !
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.
[Pháp Cú, 76]
Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.
[Pháp Cú, 78]