Chúng ta thường không hay để ý đến
những việc tầm thường. Chúng ta thường chỉ nhận biết hơi thở của chính
mình khi hơi thở không bình thường, như lúc chúng ta lên cơn suyễn hoặc
lúc chúng ta chạy quá sức. Tuy vậy, với cách quán niệm hơi thở, chúng ta
sử dụng hơi thở tầm thường của chúng ta làm đề tài cho việc thiền định.
Chúng ta không cố gắng làm cho hơi thở dài hơn, ngắn hơn hay điều khiển nó
theo một phương thức nào, chỉ đơn giản là ngồi yên theo dõi nhịp hơi thở
ra vào một cách bình thường. Hơi thở không phải là vật gì đó mà chúng ta
tạo ra hay tưởng tượng, chỉ là một quá trình tự nhiên của cơ thể liên tục
hoạt động cho đến khi mạng sống chấm dứt, dù chúng ta có chú tâm vào hơi
thở hay không, hơi thở vẫn luôn hiện diện, và chúng ta có thể quay về hơi
thở bất cứ lúc nào. Chúng ta không cần có những trình độ chuyên môn nào
để theo dõi hơi thở, chúng ta không cần phải đặc biệt thông minh, chúng ta
chỉ cần hài lòng và nhận biết hơi thở ra vào của chính mình. Sự sáng suốt
không phải nhờ vào học hỏi các lý thuyết, triết lý vĩ đại, mà là nhờ vào
sự quan sát những việc tầm thường.
Hơi
thở thiếu tính chất hấp dẫn
hoặc lôi cuốn, vì thế chúng ta có thể trở nên chán ngán và không thích
nó. Chúng ta luôn ham muốn phải có thêm vật gì đó, tìm kiếm vật gì hấp
dẫn và lôi cuốn chúng ta, cho dù chúng ta không cần cố gắng. Nếu chúng ta
nghe âm nhạc, chúng ta không nghĩ “Tôi phải chú tâm đến điệu nhạc quyến
rũ, hấp dẫn nầy” – chúng ta không thể tự chủ, bởi vì điệu nhạc có sức thu
hút, lôi kéo chúng ta. Nhịp điệu của hơi thở bình thường không hấp dẫn,
và không có sức thu hút, hơi thở rất yên tĩnh, và phần đông con người
không quen với sự yên tĩnh đó. Đa số thích cái ý niệm yên ổn, nhưng lại
thấy kinh nghiệm theo dõi hơi thở thật là chán ngấy và dễ làm nản lòng.
Họ mong muốn một sự kích thích, một cái gì đó lôi cuốn họ. Với cách quán
niệm hơi thở (anapanasati), chúng ta chú tâm vào một đối tượng
trung lập, chúng ta không cần phải thích hay không thích hơi thở, và chỉ
chú tâm với sự hít vào, lúc bắt đầu, lúc giữa, và lúc kết thúc, kế đó chú
tâm với sự thở ra, lúc bắt đầu, lúc giữa, và lúc kết thúc. Nhịp thở nhẹ
nhàng sẽ chậm hơn nhịp suy nghĩ, đưa chúng ta về với tĩnh lặng, chúng ta
bắt đầu chấm dứt suy nghĩ. Tuy nhiên, chúng ta không nên cố gắng để sở hữu
bất cứ gì từ nơi thiền định, hay thiền chỉ, bởi vì tâm thức luôn cố gắng
đạt được hoặc sở hữu cái gì đó hơn là hài lòng một cách nhún nhường với
hơi thở, và như vậy, hơi thở không chậm lại, hoặc yên tĩnh, do đó chúng ta
mới trở nên dễ nản lòng.
Lúc đầu, tâm thức hay đi lang thang.
Một khi chúng ta nhận biết mình đã đi lang thang, không còn chú ý đến hơi
thở, chúng ta chỉ cần trở về với hơi thở một cách nhẹ nhàng. Chúng ta phải
thật kiên nhẫn và luôn luôn quyết tâm bắt đầu lại. Tâm thức của chúng ta
không quen bị kiềm chế, chúng bị huấn luyện phải liên kết vật nầy với vật
khác, và có ý kiến về mọi sự việc. Thói quen sử dụng trí thông minh của
chúng ta để nghĩ ra nhiều cách khôn ngoan, chúng ta thường trở nên quá
căng thẳng và sốt ruột khi chúng ta không làm được việc gì đó, và khi
chúng ta thực tập cách quán niệm hơi thở, chúng ta thấy chán ngán, và muốn
chống đối với nó. Giống như một con ngựa hoang lần đầu bị đóng yên cương,
nó nổi giận với những thứ đã cột nó.
Khi tâm thức đi lang thang, chúng ta
bực bội và thất vọng, cự tuyệt và chán ghét mọi thứ. Nếu vì thất vọng,
chúng ta cố gắng bắt buộc tâm thức đứng yên với ý chí tuyệt đối, thì chúng
ta chỉ có thể theo dõi hơi thở trong một thời gian ngắn, và tâm thức lại
tiếp tục đi lang thang nơi khác. Vì vậy, thái độ đúng đắn với việc quán
niệm hơi thở là phải thật kiên nhẫn, coi như chúng ta có rất nhiều thời
gian để không hấp tấp, buông bỏ hoặc vứt hết những việc thế gian, những
vấn đề tài chánh hay khó khăn của cá nhân. Trong lúc nầy, không có gì để
cho chúng ta phải lo, phải làm, ngoài việc theo dõi hơi thở.
Nếu tâm thức di động đến việc hít vào
thì hãy cố gắng chăm chú đến sự hít vào. Nếu tâm thức di động đến việc thở
ra thì cố gắng chăm chú đến sự thở ra. Giữ sự chú tâm vào hơi thở ra vào.
Luôn luôn quyết tâm bắt đầu lại. Bắt đầu với mỗi một ngày mới, lúc khởi
đầu cho mỗi cái hít vào, trau dồi tâm thức của người sơ cơ, không mang
theo vật gì từ mới đến cũ,
đừng để lại dấu vết, giống như một
ngọn lửa mừng.
Một cái hít vào và tâm thức đi lang
thang, vì thế chúng ta lại phải đưa tâm thức trở lại với hơi thở, và như
vậy đó là một khoảnh khắc của chánh niệm. Chúng ta luyện tập tâm thức như
một bà mẹ tốt luyện tập con của mình. Một đứa trẻ không biết nó đang làm
gì, cứ đi lang thang, và nếu người mẹ nổi giận thì sẽ đánh nó, đứa trẻ sẽ
trở nên sợ hãi, và thần kinh dễ bị rối loạn. Một người mẹ tốt thì khác, bà
xem chừng đứa trẻ, luôn luôn để ý đến nó, và nếu nó đi lang thang thì bà
đưa nó trở về bên mình. Phải có tính kiên nhẫn như vậy chúng ta mới không
tự trách, không ghét bỏ hơi thở, không bực bội mỗi khi chúng ta không được
yên tĩnh với cách quán niệm hơi thở (anapanasati).
Đôi lúc chúng ta quá nghiêm khắc về
mọi việc, hoàn toàn thiếu sự vui vẻ, hạnh phúc, thiếu sự hài hước, chỉ là
nén lại mọi thứ. Hãy làm cho tâm thức vui vẻ, hãy nở nụ cười trên gương
mặt ! Hãy thư giãn và thanh thản, không có áp lực về việc phải thành tựu
điều gì đặc biệt – không có gì để đạt đến, không có gì quan trọng, hay đặc
biệt. Và khi tự hỏi, anh đã làm được việc gì trong ngày để xứng đáng với
những gì anh sở hữu ? Chỉ là một hơi thở được hít vào với chánh niệm ?
Điên rồi sao ? Nhưng nó vẫn ý nghĩa hơn những gì mà đa số nói về sinh hoạt
trong ngày của họ.
Chúng ta không chiến đấu với sức mạnh
của ma quỷ. Nếu chúng ta cảm thấy chán ghét cách quán niệm hơi thở (anapanasati),
thì hãy ghi nhớ lấy nó . Đừng cảm thấy đấy là một việc mà anh phải làm,
hãy để việc đó như là một sự giải trí, một việc mà anh thật sự thích thú
khi thi hành. Khi anh nghĩ « Tôi không làm được » , hãy nhìn nhận đó là
sự chống cự, sự sợ hãi hoặc thất vọng, và rồi thì anh hãy thư giãn. Đừng
để cho việc thực tập trở thành một việc khó khăn, một gánh nặng. Lần đầu
khi tôi thọ giới, tôi rất là nghiêm khắc, dữ tợn, và nghiêm nghị đối với
chính mình, như một cái cây cằn cỗi, khô đét, và tôi luôn suy nghĩ trong
trạng thái khủng khiếp, « tôi phải làm … tôi phải làm… » Những lúc đó,
tôi tập chú tâm vào sự an lạc. Nghi ngờ và bồn chồn, bất mãn và chán ghét
– dần dà tôi có thể suy nghĩ về an lạc, lập đi lập lại hai từ nầy, thôi
miên chính bản thân tôi để thư giãn. Những nghi ngờ về bản thân lại xuất
hiện « Tôi không thành công với việc nầy, thật là vô dụng, tôi muốn được
cái gì đó » . Nhưng chú tâm về hai từ an lạc đã giúp tôi thư giãn, yên
tĩnh trong lúc đó. Đây là một phương thức mà bạn có thể sử dụng. Như vậy,
khi chúng ta bắt đầu căng thẳng, chúng ta dùng phương thức nầy để được an
lạc, và chúng ta trở về với việc quán niệm hơi thở (anapanasati).
Ban đầu, chúng ta cảm thấy vụng về
một cách thảm hại như khi chúng ta học chơi đàn guitar. Khi bắt đầu chơi
đàn thì các ngón tay của chúng ta thật là vụng về, coi như là hết hy vọng.
Nhưng khi chúng ta thực hành được một thời gian thì chúng ta đạt được kỹ
xảo và việc chơi đàn trở nên dễ dàng. Chúng ta học làm nhân chứng cho
những gì đang xảy ra nơi tâm thức, như vậy chúng ta có thể biết khi nào
chúng ta bồn chồn, căng thẳng hoặc chúng ta đang ù lì . Chúng ta nhận
biết hết, và chúng ta không cố gắng để thuyết phục bản thân là không phải
như vậy, chúng ta hoàn toàn nhận biết mọi sự việc như chúng là. Chúng ta
cố gắng chống đỡ để chú tâm vào một hơi thở được hít vào. Nếu không làm
được như vậy, thì ít ra chúng ta cũng có thể chú tâm vào một nửa hơi thở
hít vào. Như vậy, chúng ta không cố gắng để trở nên hoàn hảo liền lập tức.
Chúng ta không cần phải làm mọi việc đúng hết như vài ý kiến được đưa ra,
nhưng chúng ta chỉ khắc phục những khó khăn đang hiện diện trước mắt. Nếu
tâm thức của chúng ta luôn tán loạn, thì chỉ có trí tuệ mới nhận biết được
là tâm thức đang đi lang thang khắp nơi – đây mới là sự sáng suốt. Nghĩ
rằng chúng ta không nên làm vậy, tự chán ghét bản thân hoặc cảm thấy thất
vọng, điều nầy chỉ là tự nhiên thôi, vì bản chất của chúng ta là như vậy –
đó là gốc rễ si mê.
Chúng ta không bắt đầu bằng một thiền
giả hoàn hảo, chúng ta không làm những tư thế theo Iyengar [*], trước khi
chúng ta có thể gập người xuống và đụng các ngón chân của mình. Cách đó
chỉ là làm hại bản thân thôi. Chúng ta có thể nhìn thấy các tư thế trong
quyển sách « Light on Yoga » ( Ánh sáng Yoga), và thấy
Iyengar đang quấn đôi chân quanh cổ, với tất cả các tư thế hết sức ngoạn
mục, nhưng nếu chúng ta thử làm theo thì chắc chúng ta sẽ được đưa vào nhà
thương gấp. Vì vậy, chúng ta bắt đầu thử gập người từng chút một, bắt đầu
ở thắt lưng, quan sát cái đau và sức chịu đựng, tập duỗi ra từ từ. Đối với
quán niệm hơi thở (anapanasati) cũng không khác, chúng ta nhận biết
cách thức bây giờ và bắt đầu từ đây, chúng ta giữ vững sự chú tâm lâu hơn
một chút, và chúng ta bắt đầu hiểu sự tập trung tư tưởng là như thế nào.
Đừng làm như Siêu Nhân (Superman) khi chúng ta không phải là Siêu
Nhân. Anh nói « Tôi ngồi xuống và theo dõi hơi thở suốt đêm » , và rồi khi
làm không được, thì anh nổi giận. Hãy làm một thời khoá biểu thực tập mà
anh nghĩ anh có thể thực hành được. Thực nghiệm, khai thác tâm thức cho
đến khi anh biết làm thế nào để cố gắng hết sức và làm thế nào để thư
giãn.
Lúc chúng ta học đi thì đương nhiên
bị té. Hãy nhìn những đứa bé, tôi chưa thấy một đứa bé nào có thể tự nhiên
biết đi. Trước khi bước đi, đứa trẻ phải học bò, bám vào các vật dụng để
đứng lên, rồi té, nhưng nó lại lồm cồm bò dậy tiếp tục tập đi. Thiền định
cũng giống vậy. Chúng ta nhận biết trí tuệ bằng cách quan sát si mê, lầm
lỗi, suy ngẫm và tiếp tục thực tập. Nếu chúng ta suy nghĩ về nó nhiều quá,
sẽ thấy vô vọng. Nếu các đứa trẻ suy nghĩ nhiều thì chúng sẽ không bao giờ
biết đi, bởi vì khi chúng ta nhìn thấy đứa bé tập đi, thấy vô vọng quá
phải không nào ? Cũng vậy, chúng ta có thể nghĩ thật là không hy vọng gì
thiền được, nhưng chúng ta vẫn cố gắng tiếp tục. Thật là dễ dàng khi chúng
ta tràn đầy hăng hái, thật sự có cảm hứng về vị thầy và bài giảng, nhưng
sự hăng hái và cảm hứng là những trạng thái vô thường, chúng rồi sẽ đưa ta
vào sự buồn tẻ, với các ảo tưởng. Khi chúng ta chán nản, chúng ta phải
thật cố gắng trong thực tập ; khi chúng ta chán nản và muốn bỏ cuộc, và
muốn tái sanh vào nơi nào hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Tuy nhiên, với sự sáng
suốt và trí tuệ, chúng ta phải kiên nhẫn chịu đựng chuỗi thời gian thất
vọng đầy ảo tưởng nầy. Chỉ như vậy chúng ta mới thôi củng cố những thói
quen và chúng ta sẽ hiểu được thế nào là sự đoạn diệt, hiểu được thế nào
là tâm trống rỗng và yên tĩnh.
Nếu chúng ta đọc sách thấy nói rằng
không cần cố gắng, hãy để mọi việc xảy ra một cách tự nhiên, không gò bó,
và chúng ta sẽ nghĩ lệch lạc rằng chúng ta chỉ cần nằm ườn ra đó, như vậy
chúng ta sẽ rơi vào trạng thái ù lì . Trong sự thực tập, cá nhân tôi đã
từng rơi vào trạng thái ù lì, và tôi nhận ra việc quan trọng của tư thế
ngồi thiền . Tôi thấy rằng sẽ không đi đến đâu khi cố gắng một cách thụ
động . Lúc đó, tôi sẽ ngồi thẳng lên, ưỡn ngực ra, và dồn hết năng lượng
vào thư thế ngồi thiền, hoặc tôi trồng cây chuối. Mặc dù trong những buổi
đầu tôi không có nhiều năng lượng, tôi vẫn thu xếp để làm bất cứ việc gì
đòi hỏi sự cố gắng . Tôi cố chịu đựng ít nhất là trong vài giây và rồi tôi
lại thất bại, nhưng vẫn còn hơn là không cố gắng chút nào .
Càng chọn con đường dễ dãi nhất,
chúng ta càng dễ dàng buông xuôi theo những ham muốn, tinh thần sẽ trở nên
uỷ mị, thiếu tập trung và rối rắm.
Thật là dễ dàng khi suy nghĩ, càng dễ
hơn khi ngồi và suy nghĩ luôn luôn, hơn là không suy nghĩ gì, đấy là thói
quen mà chúng ta học được . Kể cả với ý nghĩ « Tôi không nên suy
nghĩ » cũng là một ý nghĩ . Để tránh một ý nghĩ chúng ta phải lưu tâm tới
nó, cố gắng quan sát và lắng nghe nó, bằng cách quan tâm tới dòng chảy ý
thức. Chúng ta đừng nghĩ nhiều về tâm thức, mà chỉ nên quan sát nó . Chúng
ta nhận diện các ý tưởng hơn là bị chúng lôi cuốn. Ý tưởng là một chuyển
động, nó là một năng lượng, nó đến rồi đi, nó không phải là trạng thái
thường hằng của tâm thức. Không đánh giá, hoặc phân tách, chúng ta chỉ
việc nhận dạng ý tưởng là ý tưởng, nó bắt đầu chậm dần và ngừng bặt . Đây
không phải là sự huỷ diệt, chỉ là giúp cho ý tưởng ngừng lại. Đấy là tình
thương. Khi sự suy nghĩ theo thói quen bắt đầu mờ nhạt, không gian to lớn
mà chúng ta không bao giờ biết đến sẽ hiện diện .
Chúng ta làm chậm lại mọi việc bằng
cách chăm chú vào hơi thở tự nhiên, làm lặng yên các cơ cấu mang tính chất
nghiệp quả, và như vậy chúng ta nói đến thiền định (samatha), hoặc
tĩnh lặng, cho đến tột đỉnh của sự yên tịnh. Tâm thức trở nên dễ uốn,
thuần thục và linh hoạt, hơi thở trở nên nhẹ nhàng. Tuy vậy, chúng ta chỉ
thực tập samatha (thiền định) đến điểm upacara samathi (tập
trung lân cận), chúng ta không cố gắng để chăm chú vào đối tượng và bước
vào Jhana (sơ thiền). Lúc nầy chúng ta vẫn còn chú tâm đến đối
tượng và vòng ngoại biên của nó. Các loại khích động của tâm thức đã giảm
rất nhiều và chúng ta vẫn có thể hoạt động bằng cách sử dụng trí tuệ. Với
trí tuệ, chúng ta tiếp tục khảo sát, và đấy là vipassana ( thiền
minh sát) – quan sát để thấy rõ bản chất của mọi thứ mà chúng ta đang kinh
nghiệm qua : tính chất vô thường, không như ý và vô ngã. Aniccam
(vô thường), dukkham (đau khổ) và anatta (vô ngã) là những
khái niệm mà chúng ta không thể tin được, nhưng chúng ta vẫn có thể quan
sát chúng. Chúng ta khảo sát sự bắt đầu và kết thúc của hơi thở. Chúng ta
quan sát cái gì là bắt đầu, không nên nghĩ nó là gì, chỉ là quan sát nó,
biết rõ nó, với sự chú tâm tối thiểu vào hơi thở lúc ban đầu và lúc kết
thúc. Cơ thể tự động thở, hơi thở ra vào tuỳ thuộc vào nhau, chúng ta
không thể điều khiển bất cứ gì. Hơi thở thuộc về thiên nhiên, không thuộc
về chúng ta, hơi thở là vô ngã. Khi chúng ta nhận biết điều nầy, chúng ta
đang thực hành vipassana (thiền minh sát) .
Sự hiểu biết về Thiền mà chúng ta học
được từ Thiền Phật Giáo thật là khiêm nhường – Ajah Chan gọi điều nầy là
sự hiểu biết của con trùng đất – Nó không làm cho bạn tự hào, không thổi
phồng bạn, không làm cho bạn cảm thấy bạn là người quan trọng, cũng không
cho bạn cảm giác thành đạt. Trong ngôn ngữ đời thường, sự thực tập nầy
không quan trọng và cần thiết , không ai viết bài báo ở hàng đầu với dòng
chữ « Tám giờ tối nay, Thầy Sumedho tập hít thở !» Đối với một số người,
suy nghĩ để giải quyết các vấn đề thế giới rất quan trọng, làm sao để giúp
tất cả mọi người trên các đất nước đang phát triển, làm sao để sắp đặt lại
thế giới cho ngăn nắp. Đối với những vấn đề nầy, việc theo dõi hơi thở
thật là vô nghĩa, và đa số nghĩ rằng « Tại sao lại mất thời gian để làm
việc ấy ? » Một số người đã đối chất với tôi về điều nầy, họ nói « Các vị
tu sĩ làm gì mà ngồi đó ? Các vị đã làm gì để giúp đỡ nhân loại ? Các vị
thật là ích kỷ, các vị đòi hỏi người ta dâng tặng thực phẩm trong khi các
vị chỉ ngồi đó và theo dõi hơi thở. Các vị là người trốn tránh xã hội thực
tại. » Nhưng thế giới thực tại là như thế nào ? Ai trốn tránh và trốn cái
gì ? Có gì để mà giáp mặt ? Chúng ta hiểu rằng khi người ta nói « thế giới
thực tại », tức là thế giới mà họ đang tin tưởng vào, thế giới mà họ đang
sống, hoặc thế giới mà họ quen biết và thân thuộc. Nhưng thế giới đó chỉ
là trạng thái của tâm thức. Thiền định thật ra là đối chất với thế giới
thực tại, nhận diện và biết rõ nó là gì tốt hơn là chỉ tin tưởng suông
hoặc bào chữa, hay cố gắng huỷ diệt nó trong tư tưởng. Bây giờ thế giới
thực tại hoạt động trên một mô hình giống nhau, xuất hiện, biến mất như
hơi thở. Chúng ta không lý thuyết về bản chất tự nhiên của mọi vật, không
lấy ý tưởng triết học của người khác, và cố gắng hợp lý hoá chúng ; nhưng
bằng cách theo dõi hơi thở, chúng ta thật sự quan sát bản chất của thiên
nhiên. Khi chúng ta theo dõi hơi thở, chúng ta thật ra đang theo dõi thiên
nhiên, xuyên qua sự hiểu biết về bản chất tự nhiên của hơi thở, chúng ta
có thể hiểu được thiên nhiên và các hiện tượng bị điều kiện hoá . Nếu
chúng ta cố gắng am hiểu các hiện tượng bị điều kiện hoá trong những thời
gian khác nhau, sự khác biệt và phẩm chất của chúng, v…v… , việc nầy sẽ
trở nên phức tạp, tư tưởng của chúng ta sẽ không có khả năng am tường toàn
bộ. Chúng ta chỉ nên học tính đơn giản.
Như vậy, với tâm thức yên tịnh chúng
ta có chánh niệm về một dạng tuần hoàn, chúng ta thấy tất cả mọi vật đều
xuất hiện và biến mất. Chu kỳ đó được gọi là samsara, bánh xe sanh
tử. Chúng ta quan sát chu kỳ bánh xe sinh tử của hơi thở . Chúng ta hít
vào và rồi chúng ta thở ra, chúng ta không thể chỉ hít vào hoặc chỉ thở
ra, hít vào thở ra tuỳ thuộc vào nhau. Thật là phi lý khi suy nghĩ « Tôi
chỉ muốn hít vào . Tôi không muốn thở ra. Tôi từ bỏ việc thở ra. Cuộc sống
của tôi chỉ là sự hít vào liên tục » , điều nầy thật là tức cười. Nếu tôi
nói như vậy với anh, anh chắc chắn nghĩ tôi điên rồi, nhưng đa số thật sự
làm vậy. Con người dại dột chỉ muốn đắm mình vào sự náo nhiệt, khoái lạc,
tuổi trẻ, sắc đẹp và sức mạnh. « Tôi chỉ muốn những vật đẹp đẽ, và tôi
không muốn biết đến những vật xấu xí. Tôi chỉ muốn khoái lạc, niềm vui
sướng, và óc sáng tạo, nhưng tôi không muốn buồn bã hoặc thất vọng. » Cũng
là một dạng điên khùng như anh nghe tôi nói « tôi không chịu nỗi việc hít
thở. Tôi không muốn hít thở nữa. » Khi chúng ta quan sát sự tham đắm vào
sắc đẹp, khoái lạc nhục dục, và tình yêu luôn đưa đến thất vọng, như vậy
thái độ của chúng ta là phải tách rời khỏi những ham muốn nầy. Đó không
phải là sự đoạn diệt, hoặc tiêu huỷ bất cứ ham muốn nào, chỉ là buông bỏ
chúng, không bám víu. Chúng ta không tìm kiếm sự hoàn hảo trong bất cứ
phần nào của chu kỳ tuần hoàn, nhưng nhận biết sự hoàn hảo nằm trong
nguyên chu kỳ đó, bao gồm già, bệnh và chết . Vật gì tự xuất hiện sẽ vươn
lên tột đỉnh của nó, và rồi sẽ tự biến mất, đấy là sự hoàn hảo.
Khi chúng ta nhận thấy tất cả
sankharas (hình thành ý chí) mang mô hình đến rồi đi, chúng ta bắt đầu
nhìn vào bên trong sự lặng yên và không bị điều kiện hoá của tâm thức.
Chúng ta bắt đầu kinh nghiệm suññata hoặc rỗng không, không phải là
sự quên lãng hay hư vô, chỉ là một trạng thái trong sáng tĩnh mịch. Chúng
ta quay lại với sự rỗng không hơn là những điều kiện của hơi thở và tâm
thức. Sau đó chúng ta có một viễn cảnh về những điều kiện và sẽ không còn
mù quáng phản ứng theo chúng. Có những vật bị điều kiện hoá, vô điều kiện
hoá, và sự hiểu biết . Hiểu biết là gì ? Có phải là kỷ niệm ? Có phải là ý
thức ? Có phải là tôi ? Tôi chẳng bao giờ tìm thấy câu trả lời nhưng tôi
có chánh niệm. Trong Thiền Phật giáo, chúng ta ở nơi cái biết, có chánh
niệm, tỉnh thức, làm Phật trong hiện tại, biết rằng mọi vật đến và đi, và
vô ngã. Chúng ta áp dụng sự hiểu biết nầy đối với mọi vật, bị điều kiện
hoá, và vô điều kiện hoá. Đấy là chuyển hoá, tỉnh thức hơn là trốn tránh,
và mọi vật đều ở nơi bình thường. Chúng ta có bốn tư thế bình thường về
ngồi, đứng, đi và nằm – chúng ta không đứng bằng đầu hoặc búng người hay
cách nào khác. Chúng ta sử dụng bốn tư thế và hơi thở bình thường, bởi vì
chúng ta tiến về phía trước, điều nầy bình thường nhất, vô điều kiện hoá.
Các điều kiện thì khác thường, nhưng sự an lạc của tâm thức, vô điều kiện
hoá, quá bình thường đến nỗi không ai nhận thấy nó. Nó luôn luôn hiện diện
vào mọi lúc, nhưng chúng ta không khi nào nhận biết nó, vì chúng ta quá
tham đắm vào những gì bí hiểm và thần kỳ. Chúng ta bị cuốn theo những gì
đến và đi, những gì kích thích và làm chúng ta thất vọng. Chúng ta bị cuốn
theo những thứ đó và quên bẳng vị trí của sự hiểu biết . Một khi thế giới
được chúng ta hiểu biết đúng nghĩa thì chúng ta sẽ không còn ảo tưởng về
nó .
Sự thực hiện về Luân Hồi (samsara)
là một điều kiện của Niết Bàn. Khi chúng ta nhận biết chu trình của thói
quen và phẩm chất của nó, chúng ta sẽ nhận biết Niết Bàn. Sự hiểu biết có
tính chất Phật chỉ có hai việc : điều kiện hoá và vô điều kiện hoá. Đây là
một nhận biết tức thời các vật như chúng là, và không còn tham đắm hay bám
víu . Ngay lúc nầy, chúng ta có chánh niệm về những điều kiện của tâm
thức, những xúc cảm của thân thể, những gì chúng ta thấy, nghe, nếm, đụng
chạm, ngửi và suy nghĩ cũng là sự rỗng không của tâm thức. Sự điều kiện
hoá và vô điều kiện hoá là những gì mà chúng ta có thể nhận biết .
Vì thế, lời dạy của đức Phật là một
lời dạy trực tiếp nhất. Sự thực hành của chúng ta không phải là để giác
ngộ mà là để sống trong thực tại của sự hiểu biết.
-oOo-
Chú Thích :
[*] B.K.S. Iyengar là một du sĩ đương
thời nổi tiếng về thuật Hatha.
-oOo-
[Trích từ Now is The Knowing
(Bây giờ là sự hiểu biết) ]