-
CON ÐƯỜNG SỐNG THEO PHẬT GIÁO
Văn hóa được xem như sự phát triển của tinh ba nhân loại và
trong vấn đề này văn hóa thực đã có sự liên hệ mật thiết đối với tôn giáo
và luân lý. Bất cứ nơi nào nền văn hóa được nẩy nỡ dồi dào, chúng đều phát
triển trên nền tảng của tôn giáo, những thói quen tốt đẹp, nhũng tập tục
xã hội, nghệ thuật, văn chương, ngôn ngữ, âm nhạc, hội họa và mọi công
trình vĩ đại khác của quốc gia và dân chúng. Những điều đó đã phản ảnh sâu
rộng sự cao quý tinh thần hay văn hóa của mỗi quốc gia và dân tộc.
Sự thật ai cũng nhận thấy rằng mọi tư tưởng văn hoá của các quốc gia Ðông
Phương đều được nuôi dưỡng lớn mạnh bởi sự bồi đắp của Phật giáo mà nó
được xem như là một trong những sản phẩm tuyệt hảo nhất của thế giới.Với
một giáo lý vững bền, tồn tại qua hơn 2.500 năm, văn hoá Phật giáo đã làm
phong phú đời sống tinh thần cho nhiều quốc gia Á Châu và những ảnh hưởng
lành mạnh của nền văn hóa đó ngày nay đang còn được thể hiện trong nhiều
nếp sống các dân tộc Ðông Phương qua tinh thần yêu chuộng hòa bình, khác
hẳn với các quốc gia hiếu chiến Tây Phương.
Sự đóng góp của Phật giáo cho nhân loại được thể hiện trong hai phương
diện: bồi đắp nền văn hóa và xây dựng tinh thần. Về tinh thần, nó bao gồm
trong sự rèn luyện nếp sống con người hướng theo lý tưởng và những lời dạy
đạo đức cao quý. Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ
con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết
mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống. Với những người khác, Phật giáo đã
khơi nguồn sự theo đuổi văn hóa cùng thực hiện những công trình nghệ thuật
của họ và hướng dẫn nhiều quốc gia ngăn cách bởi những hàng rào chủng tộc,
địa lý, hướng về sự đoàn kết nhất trí trong tinh thần thân hữu hòa bình.
Tiến xa hơn nữa, Phật giáo đã từng xây dựng một lý tưởng xã hội Phật giáo
như sự nhận xét dưới đây của một du khách ngoại quốc khi đến thăm Ấn Ðộ
vào thời A Dục Vương đang trị vì “Không có kẻ trộm cướp, tất cả dân
chúng đều thành thật chất phác, cuộc sống hòa bình và hạnh phúc được thể
hiện khắp nơi trong nước. Không có sự tranh chấp giữa chủ và thợ, giữa
chính quyền và dân chúng. Mọi quyền lợi và của cải được phân phối công
bình và những hình thức tư bản bóc lột không bao giờ thấy xuất hiện”.
Nhưng bất cứ tôn giáo lớn nào trong lịch sử cũng đều thăng trầm theo hoàn
cảnh quốc gia xã hội, nên Phật giáo cũng không thể thoát khỏi ngoài thông
lệ ấy. Như sự sụp đổ của kinh thành Constantinople đã kéo theo sự suy tàn
của đạo Cơ Ðốc, và sự phát triển sau này của nền khoa học đã đem lại sự sa
đọa cho trào lưu tiến bộ của nền văn hóa Tây Phương. Cũng thế, sự suy yếu
của Phật giáo với sự xâm lăng của ngoại quốc đã dẫn đến sự phá sản dần dần
nền Phật giáo tại Ấn Ðộ.
Có hai đức tính quan trọng biểu thị cho đường lối sống theo Phật giáo, đó
là tính ngay thật và đạo đức. Chính đời sống
của đức Phật là một tấm gương hoàn toàn về hai đức tính chân thật và đạo
đức. Ngài đã từ bỏ giang, sơn, ngôi báu, khoác vào mình chiếc áo tu hành
khổ hạnh để tìm cho loài người con đường an vui giải thoát mà không màng
đến sự tán thưởng hay lợi danh. Hằng ngày, Ngài đã vượt qua không biết bao
nhiêu dặm đường, leo đồi lặn suối, lên thác xuống ghềnh để giảng truyền
giáo lý cho mọi người không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, thông minh hay
ngu dốt. Ngài đã từng săn sóc và nuôi dưỡng những kẻ bệnh tật bởi chính
bàn tay của Ngài; nâng đỡ những người bị ép chế, an ủi những người khổ đau
và khai sáng cho những kẻ mê lầm. Vì đại nguyện cứu khổ cho loài người,
Ngài đã lìa bỏ tất cả hạnh phúc cá nhân để sống theo hạnh nguyện khất sĩ
của kẻ tu hành.
Ngày nay, giữa lúc đa số quần chúng đều mù quáng chạy theo thế giới Tây
Phương vật chất để đi tìm mọi thú vui tình cảm, và ánh sáng văn minh ngoại
giới đã che lấp sự cao khiết ở nội tâm con người, đời sống đức Phật cẩn
được nêu cao như một tấm gương toàn hảo để cho tất cả mọi người chung tu
sửa. Ðã đến lúc con người xa lìa những phiền toái của cuộc sống và chấm
dứt sự tìm cầu mọi xa hoa lạc thú trong những y phục đắt tiền và vật chất
thế gian. Ðã đến lúc con người cần dứt bỏ những tập quán và nếp sống xấu
xa, phát sinh từ nền văn hoá ngoại lai để trở về theo con đường sống chân
chính của Phật giáo, mà xưa kia đã từng được toàn thể dân tộc tôn kính.
Người Phật tử nên ý thức rằng nguồn vui chân chính của con người không
phải tìm thấy ở đời sống xa hoa vật chất bên ngoài hay những dục vọng thế
gian mà là nơi những đức tính tốt đẹp vĩnh cữu trong tâm hồn, những thái
độ khiêm nhường nhẫn nhục, những hành động lợi tha từ bi cao quý.
Con đường chân thật sống theo Phật giáo ngăn cấm con người
không được giết hại sinh mạng trong bất cứ trường hợp nào và phải kính
trọng tài sản của những kẻ khác. Nó không chấp nhận cuộc sống lang chạ bất
chính, hay lừa dối đảo điên và dùng những thứ rượu làm say người. Ngoài
năm giới cấm này được xem như những nguyên tắc đạo đức sơ đẳng nhất để áp
dụng cho hàng Phật tử, còn có những bổn phận và trách nhiệm khác mà mỗi
người con Phật bắt buộc phải chu toàn trong đời sống công dân và gia đình.
Những điều này được đức Phật giảng dạy trong nhiều bộ kinh như
Singalovada, Maha-Mangala v.v …..Nói tóm, tất cả những lời dạy đó đều thể
hiện toàn bộ quy luật của Phật giáo về luân lý và đạo đức xã hội, bao gồm
trong những bổn phận hàng ngày của mọi Phật tử đối với bất cứ cuộc sống
nào của họ.
Chính những nguyên tắc đạo đức căn bản này, vào thời kỳ xa xôi khoảng thế
kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, đã được đức Phật đem thực hiện để xây dựng
mối giao hảo giữa con người, nhằm thiết lập nền tảng cho một xã hội Phật
giáo đích thực tại Á Ðông, và giúp cho sự phát triển của nền văn hóa Phật
giáo đã được hơn phần ba nhân loại thấm nhuần mà di sản của nó hiện đang
còn là nguồn khích lệ và sáng tạo cho hàng trăm triệu người trên thế giới.
Bởi hành động đạo đức mà người Phật tử được xem như là cán bộ của một sức
mạnh văn minh Phật giáo vĩ đại, một kẻ kế thừa và duy trì nền văn hóa đạo
Phật tương lai. Bổn phận và trách nhiệm bắt buộc của hàng con Phật là phải
bảo vệ và phát triển nền văn hóa Phật giáo đó, không riêng vì sự lợi ích
cho chính họ là những Phật tử hiện đang sống mà cả đến những thế hệ con
cháu họ mai sau .
Nhu cầu khẩn cấp của chúng ta hiện nay là cố gắng bành trướng Phật giáo,
để có thể ngăn chận làn sóng duy vật đang xâm nhập phá hoại những di sản
tinh thần và tập tục văn hóa cao đẹp của quốc gia này, một nỗ lực cần
thiết để phục hưng lại những giá trị đạo đức cho tất cả mọi người Tích
Lan. “Chúng ta đừng quên Tích Lan là một xã hội bao gồm nhiều sắc dân
và tín ngưỡng. Cho nên, để có thể sống trong sự hòa thuận và giúp cho quốc
gia tiến bộ, chúng ta nên biết kính trọng ý kiến lẫn nhau, thay vì nuôi
dưỡng óc kỳ thị phân chia vì địa vị giai cấp, màu da và tôn giáo. Ðiều này
không có nghĩa bảo chúng ta luôn luôn không được nghĩ đến tín ngưỡng hoặc
dân tộc của mình, nhưng có ý nhắc nhở chúng ta khi muốn phát triển và
nâng cao nền văn hóa hoặc quốc gia, chúng ta nên cố gắng tránh mọi sự gây
tai hại và khổ đau cho những kẻ khác, dù lý tưởng của chúng ta theo đuổi
có tốt đẹp đến đâu chăng nữa.”
Chúng ta phải luôn ý thức rằng, mọi tôn giáo tuy có khác biệt về hình thức
diễn đạt chân lý, nhưng tất cả đều dạy con người làm việc lành. Mục đích
chung của các tôn giáo là cứu con người thoát khỏi vực thẳm vô tôn giáo mà
nó được xem như là mối đe dọa lớn lao nhất đối với cuộc sống con người
trong mọi thời đại. Và khi chúng ta hành động tán dương những sai biệt của
tôn giáo với ý niệm tạo nên sự hiềm khích giữa các tôn giáo, tức chúng ta
đã phản lại chân tinh thần của tôn giáo đích thực vậy. Ðến đây, với những
ai có thiện chí xây dựng xứ sở này, tưởng nên nhớ kỷ nguyên tắc khoan dung
mà vị Thủ Tướng của chúng ta đã tóm tắt trong câu châm ngôn bình dân sau
đây “Không ỷ vào đa số để đàn áp, không thấy mình thiểu số mà tỵ hiềm”.
-
Theo tạp chí JAYANTI tập1
- số 10, phát hành tại Colombo
(Tích Lan).
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/songtheophatgiao.htm