Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là
âm thanh xác thực của khoảng trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu
chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú,
như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối
xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó
không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt
động ở tâm thức. Thí dụ, khi có ai đó nói với chúng ta « Anh là một người
tốt » hoặc « Anh là một người khó ưa » , những chữ « tốt » hoặc « khó
ưa » không phải là « vật gì » . Đó chỉ là những âm thanh mà tự nó không
« tốt » hay « khó ưa », nhưng đơn giản gợi lên ý nghĩ về « tốt » hoặc « khó
ưa », và gây ra một tác dụng nơi tâm thức. Cũng như vậy, trong phạm vi
tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai
lạc.
Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Thí dụ, OM
MANI PADME HUNG (ÁN MA-NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi ngài Chenrezig (Quán Âm).
Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý
nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là
trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của
ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những
phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng
lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của ngài. Như chúng ta đồng hóa chúng
ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách nầy, trên bình diện
tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại
duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị
thần ; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được
vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.
Thần chú OM MANI PADME HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu
kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của
Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và
thiêng liêng, OM và HUNG.
-
OM tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm
nầy.
-
MANI nghĩa « châu báo » trong Sanksrit ;
-
PADME, phát âm theo Sankrit, or PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa
« hoa sen » ;
-
HUNG tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu
cuối trong các thần chú.
-
MANI nói về châu báo mà Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) cầm trong hai
tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là
gọi tên ngài Chenrezig xuyên qua những phẩm hạnh của ngài : « Người đang
cầm châu báu và hoa sen. » « Chenrezig » hoặc « Hoa sen báu » là hai
tên gọi của ngài Chenrezig (Quán Âm).
Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên ngài
Chenrezig. Thực tập nầy có lẽ trông lạ lùng. Tỷ như có một người mang tên
Sonam Tsering và chúng ta lặp đi lặp lại tên người đó không ngừng nghỉ
theo kiểu đọc thần chú. Sonam Tsering, Soanm Tsering, Sonam Tsering, v..v..
Điều nầy thật là lạ và có thể là vô dụng. Mặt khác, nếu như niệm câu chú
OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy được « đầu tư » bởi
sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm (Chenrezig), ngài
Chenrezig đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bố Tát.
Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và
thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và
từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị bồ tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm
chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu
quả.
Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất
phù hợp.
Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái
sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi :
- OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời ;
-
MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la
-
NI, cánh cửa cõi người
-
PAD, cánh cửa cõi súc sanh
-
ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ;
-
HUNG, cánh cửa cõi địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa :
-
OM thanh tịnh hóa bản thân ;
-
MA thanh tịnh hóa lời nói ;
-
NI thanh tịnh hóa tâm thức ;
-
PAD thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn ;
-
ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ;
-
HUNG thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện :
-
OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ;
-
MA lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ;
-
NI lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật ;
-
PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật ;
-
ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ;
-
HUNG gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của
các vị Phật.
Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa :
-
OM liên hệ đến sự rộng lượng ;
-
MA, đạo đức ;
-
NI, kiên trì, nhẫn nhịn,
-
PAD, chuyên cần,
-
ME, chú tâm,
-
HUNG, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia :
-OM liên hệ đến Ratnasambhava (Bảo-Sanh Phật) ;
- MA, Amaghasiddi (Bất-Không-Thành-Tựu Phật) ;
-
NI, Vajradhara (Kim Cương Trì / Phổ-Hiền Bồ
Tát) ;
- PAD, Vairocana (Lô-Xá-Na Phật) ;
- ME, Amitabha (A-Di-Đà Phật) ;
- HUNG, Akshobya (A-Súc-Bệ Phật) .
Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ :
- OM = Trí tuệ thanh thản, an bình ;
-
MA = trí tuệ hoạt động ;
-
NI = trí tuệ tự tái sanh ;
-
PAD = trí tuệ pháp giới ;
-
ME = trí tuệ phân biệt ;
-
HUNG = trí tuệ như gương.
Ở Tây Tạng, mọi người thường tụng niệm thần chú của ngài Chenrezig (Quan
Âm). Sự đơn giản và phổ thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của
thần chú, và còn có giá trị to lớn hơn. Điều nầy được thể hiện trong câu
nói khôi hài sau :
Ở đoạn khởi đầu, không có đau khổ vì không biết,
Ở đoạn giữa, không có lòng tự kiêu vì hiểu biết,
Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú.
Không có sự hiểu biết về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa
học khác là sự đau khổ, bởi vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng
và chấp nhận nhiều mệt mỏi để học hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn
ngủi đã đủ để học thuộc thần chú của ngài Chenrezig. Không cần đối diện với
đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết. Bởi vì vậy, « Ở đoạn đầu không có đau
khổ vì không biết. »
Một người sau mấy năm học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng
hoặc chức vị ở xã hội, và họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ
giỏi hơn tất cả những người khác. Thần chú đơn giản của ngài Chenrezig
giúp cho một người tránh rơi vào tình trạng nói trên. Như vậy, « Ở đoạn giữa,
không kiêu ngạo khi hiểu biết. »
Cuối cùng, nếu chúng ta không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta
thâu thập được trong y học, chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác
có thể dần dà bị mai một. Nhưng không thể nào quên được sáu âm tiết câu
chú. OM MANI PADME HUNG. Vậy, « Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú. »
Cũng vậy, từ những bài ghi chú của tôi « Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho
Chúng Sinh » :
- OM là màu TRẮNG ;
- MA, màu XANH LÁ CÂY ;
- NI , màu VÀNG ;
- PAD, màu XANH DA TRỜI ;
- ME, màu ĐỎ ;
- HUNG, màu ĐEN.
Câu chú có thể được tóm tắt như sau : « Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng
và năm ý thức chuyển hóa, Vị bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ
tôi thoát khỏi những nỗi đau khổ của chúng sinh trong sáu cõi. »
OM MANI PADME HUNG là bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất
cả các vị Phật. Những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản
chất Tinh Thông Bí mật về các vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất
và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là
con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu và tự do cao cả.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/