- VÔ NGÃ
- ( Phần I )
Có
thể nói, trong bất cứ cuốn sách nào viết về giáo lý căn bản của Phật
Giáo đều có, không ít thì nhiều, nói về Vô Ngã. Ngoài ra, Ôn Từ Đàm
Thích Thiện Siêu có viết một cuốn dày gần 300 trang về chủ đề Ngũ
Uẩn Vô Ngã, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà-Nội, 1999; và Tỳ Kheo Thích
Trí Siêu (Hoàng Quốc Bảo) cũng viết một cuốn dày gần trăm trang riêng về
chủ đề Vô Ngã. Vậy tôi còn có thể viết gì thêm về Vô Ngã? Tuy
nhiên, viết bao nhiêu thì Phật Pháp cũng chẳng thừa, mà không viết thì
Phật Pháp cũng chẳng thiếu, do đó tôi xin mang cái vốn hiểu biết rất
giới hạn của tôi về Phật Giáo để viết một bài về chủ đề Vô
Ngã, mục đích chính là để kiểm điểm sự hiểu biết của tôi về Vô
Ngã, chứ không phải để giảng thuyết về Vô Ngã..
Trước khi đi vào thuyết Vô Ngã
trong Phật Giáo, có lẽ chúng ta cần phải nhớ lại một vài hiểu biết căn
bản về Phật Giáo.
- Phật giáo không phải là một tôn giáo theo nghĩa
người Tây phương thường hiểu, nghĩa là một tôn giáo trong đó các tín
đồ tin rằng có một vị Thần có khả năng sáng tạo ra vũ trụ muôn
loài, và thưởng phạt con người, do đó sợ hãi và cầu nguyện để vị
Thần đó ban ân huệ cho mình, hoặc để cho mình có sự sống đời đời
sau khi chết. Phật Giáo quan niệm một tâm cảnh như trên làm mất phẩm
giá con người vì như vậy là con người tự buộc vào mớ xiềng xích nô
lệ. Nô lệ vật chất hay nô lệ tôn giáo, tâm linh, cũng đều là nô lệ.
- Do đó, nếu chúng ta coi Phật Giáo là một tôn
giáo, thì chúng ta cần phải hiểu đó là một tôn giáo nhân bản và nhân
chủ. Nhân bản là đặt căn bản trên con người, và nhân chủ là con người
làm chủ chính mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không
trông ngóng ở bất cứ Thần quyền nào.
- Vì là một tôn giáo nhân bản và nhân chủ nên tất
cả những giáo lý, triết lý trong Phật Giáo không phải để thảo luận
suông mà để hành trì. Phật giáo quan niệm hiểu mà không thực hành thì
cái hiểu đó quả thật là vô ích, như người đọc thực đơn mà không
ăn, hay như người đếm tiền của thiên hạ trong ngân hàng.
- Phật Giáo dẫn dắt con người đạt đến thế
giới của các chân lý nhưng không phủ nhận thế giới của các hiện tượng.
Điều này được thuyết minh trong quan niệm về Nhị Đế của Bồ Tát
Long Thọ, trong quan niệm về Chân Không Diệu Hữu của Đại Thừa v..v..
Với những hiểu biết căn bản
như trên, nay chúng ta đã có thể đi vào một giáo lý đặc thù nhất của
Phật Giáo: thuyết Vô Ngã. Đặc thù vì Phật Giáo là tôn giáo duy nhất
trên thế gian chủ trương Vô Ngã.
Trong Phật Giáo, thuyết Vô Ngã ít
khi đứng một mình, thường đi cùng với Vô Thường và Khổ, được biết
dưới danh từ Tam Thế Sự hay Tam Pháp Ấn liên hệ tới ba cửa giải
thoát là Không, Vô Tướng và Vô Tác (hay Vô Nguyện), và lẽ dĩ nhiên,
không thể thiếu mặt một thuyết căn bản nhất của Phật Giáo: Duyên
Sinh hay Duyên Khởi.
Thật ra, bảo rằng Vô Ngã là một
thuyết lý hay triết lý không hoàn toàn đúng, vì, cũng như mọi giáo lý
khác, Vô Ngã là một phép quán. Phép quán này giúp con người cởi bỏ được
sự chấp vào một cái gì không thực, nguồn gốc của mọi bất hạnh
trên thế giới, từ sự xung đột giữa người với người, giữa tôn
giáo với tôn giáo, cho đến giữa quốc gia với quốc gia v..v... Còn nếu
chỉ luận suông về Vô Ngã bằng triết lý, hay lý luận trí thức, thì
không mang lại ích lợi gì.
Trước khi tìm hiểu tại sao Phật
Giáo lại chủ trương Vô Ngã chúng ta cần phải hiểu thế nào là Ngã, nhất
là quan niệm về Ngã trong xã hội Ấn Độ trong thời Phật tại thế.
Trong Áo Nghĩa Thư có nhiều quan niệm về Ngã khác nhau: hoặc là toàn thể
thân thể vật chất của con người, hoặc là một khối vật chất nhỏ như
ngón tay cái nằm trong tim. Nhưng quan niệm thông thường vào thời đó thì
cho rằng, trong mỗi người đều có một thực thể phi vật chất, trường
tồn, bất biến, cá biệt (anh là anh, tôi là tôi), có tính cách tuyệt đối,
làm chủ tể hay chúa tể nơi thân người, có chức năng cắt đặt, sắp
đặt, xét đoán, sai sử mọi ý nghĩ hành động và quyết định tương lai
của con người, gọi là "cái ta" hay "Ngã", tiếng Sanskrit
là "Atman". Theo đạo Bà La Môn thì thực thể phi vật chất trên
chuyển qua nhiều kiếp sống, dần dần trở nên thanh tịnh và cuối cùng
trở thành đồng nhất với Đại Ngã, một danh từ tương đương với Thượng
đế hay Brahma.
Quan niệm về Ngã này tương tự
như quan niệm về "linh hồn" trong Ca-Tô Giáo. Thật vậy, Sách Giáo
Lý của Giáo Hội Ca-Tô (Catechism of the Catholic Church, 1994) giảng về linh hồn
như sau, trang 93: "Trong Thánh Kinh, từ "linh hồn" thường chỉ
sự sống của con người hay toàn thể con người. Nhưng "linh hồn"
cũng chỉ thể trạng sâu thẳm nhất của con người… "linh hồn"
có nghĩa là nguyên lý tâm linh trong con người…Giáo Hội dạy rằng mọi
linh hồn đều được Thiên Chúa (của Ki Tô Giáo) tạo ra tức thời – nó
không "sinh ra" bởi cha mẹ – và nó bất diệt: nó không bị hủy
diệt khi nó tách rời khỏi thân xác vào lúc chết, và nó sẽ đoàn tụ với
thân xác trong lúc sống lại sau cùng" (In Sacred Scripture the term
"soul" often refers to human life or the entire human human person. But
"soul" also refers to the innermost aspect of man… "soul" signifies
the spiritual principle in man…The Church teaches that every spiritual soul is created
immediately by God – it is not "produced" by the parents – and also that it
is immortal: it does not perish when it separates from the body at death, and it will be
reunited with the body at the final Ressurection).
Khác với đạo Bà La Môn, Linh Hồn
trong Ki Tô Giáo chỉ sống có một đời, sau khi chết thì, hoặc bị đày
đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn nếu không chịu tin Chúa Giê-su, một người
Do Thái mới sinh ra đời cách đây 2000 năm, trong khi nhân loại đã xuất hiện
trên trái đất cả triệu năm, hoặc được lên một kho chứa linh hồn
trên thiên đường ngồi chờ cho đến ngày phán xét cuối cùng Chúa Giê-su
sẽ phù phép làm cho xác chết, bất kể chết bao giờ, trước hay sau khi Chúa
sinh ra đời, chết như thế nào, an lành trên giường hay tan xác ngoài mặt
trận, và chết ở đâu, bên Tây hay bên Tàu, sống lại để linh hồn được
đoàn tụ với xác chết sống lại, rồi từ đó cả hồn lẫn xác hưởng
đời sống đời đời bên Chúa. Chuyện lẩm cẩm, tàn nhẫn, ác độc, vô
lý, phi-lôgic, phản khoa học v..v.. như vậy mà thời buổi này vẫn còn có
nhiều người tin thì kể cũng lạ.
Phật Giáo bác bỏ mọi quan niệm về
Ngã hay linh hồn như trên bằng hai phương pháp: Dùng biện chứng pháp Reductio
ad Absurdum, nghĩa là dùng lôgic để đưa tới kết luận là những quan
niệm trên vô nghĩa; và dùng triết lý Phật Giáo để chứng minh không có
cái gì có thể gọi là Ngã. Chúng ta nên biết, triết lý Phật Giáo không
cùng nghĩa như triết lý Tây phương, thí dụ như triết lý của Thomas
Aquinas hay của Augustine, đặt sự hiện hữu của Thiên Chúa Ki Tô (Christian
God) như một tiền đề không có nghi vấn, rồi mới dùng những giải
thích thần học để biện minh cho sự hiện hữu của Thiên Chúa hay một
"đô thị của Thiên Chúa" (City of God). Trước sự tiến bộ trí thức
của con người, những triết lý thần học trên đã bị phá đổ dứt khoát
trong giới hiểu biết, và chỉ còn sót lại trong sách lược mê hoặc đám
tín đồ đầu óc yếu kém, hoặc trong đức tin không cần biết không cần
hiểu của một thiểu số trên thế giới. Triết lý Phật Giáo có tính
cách phổ quát, đúng trong mọi thời đại, vì đó là những kinh nghiệm thực
chứng của Đức Phật, của các Tổ và các Cao Tăng đắc đạo, những
người đã thấy rõ sự vận hành của vạn Pháp như chúng là như vậy
(như thực tri kiến).
I. Biện Chứng Pháp Reductio
ad Absurdum:
- Nếu cho rằng Ngã hay Linh Hồn là toàn thể con người
thì quan niệm này không thể đứng vững, không có tích cách thuyết phục,
và thiếu sót một cách trầm trọng. Một người bị tai nạn, hoặc một
thương phế binh, có một thân xác không toàn vẹn, hoặc một người có đầu
óc không bình thường vì bị hội chứng Down v..v.., vậy thì cái gọi là
Ngã hay Linh Hồn của những người này ra sao? Có còn toàn vẹn hay mất đi
một phần? Và khi con người chết đi thì cái Ngã hay Linh Hồn này đi đâu?
Tan rã cùng với xác thịt hay ở lại với những mảnh xương vụn? Do đó,
quan niệm Ngã hay linh hồn là toàn thể con người trở thành vô nghĩa.
- Nếu cho rằng Ngã hay Linh Hồn "được Thiên
Chúa của Ki-Tô Giáo tạo ra tức thời – nó không "sinh ra" bởi
cha mẹ – và nó bất diệt: nó không bị hủy diệt khi nó tách rời khỏi
thân xác vào lúc chết, và nó sẽ đoàn tụ với thân xác trong lúc sống lại
sau cùng" như Ca-Tô Giáo chủ trương thì chúng ta hãy làm một thí
nghiệm tưởng tượng (thought experiment): Giả thử chúng ta nhốt một người
rất tin Chúa và đang còn sống vào trong một thùng sắt rất dày, đậy nắp
và hàn kín nắp lại. Ai cũng biết chỉ sau một thời gian người đó sẽ
chết. Vậy nếu linh hồn của người đó không bị hủy diệt và tách rời
khỏi thân xác vào lúc chết thì linh hồn đó sẽ đi đâu? Và nếu thùng sắt
đó không bao giờ được khui ra thì tới bao giờ nó sẽ đoàn tụ với
thân xác mà Chúa sẽ làm cho sống lại vào ngày phán xét, khoan nói đến
chuyện bao giờ là ngày phán xét vì ngày đó hiện vẫn là một trong nhiều
ẩn số vĩ đại của một phương trình "cứu rỗi" duy nhất. Học
sinh lớp mười đều biết rằng nếu chỉ có một phương trình mà lại
có nhiều ẩn số thì phương trình toán học đó không thể nào có đáp số?
Do đó, định nghĩa về linh hồn của Ca-Tô Giáo hoàn toàn vô nghĩa vì nó
không thể áp dụng trong mọi trường hợp. Trừ phi chúng ta tiếp tục tin
rằng "Chúa quyền phép vô cùng, làm gì chẳng được", niềm tin của
một số dân Do Thái cách đây 20 thế kỷ.
Với trí
tuệ của con người ngày nay, vấn đề "linh hồn do Thiên Chúa tạo ra
tức thời - không sinh ra bởi cha mẹ" đã không còn tính cách thuyết
phục. Thật vậy, trong cuốn "Đối Thoại Với Giáo Hoàng...",
một tác giả, học giả Trần Văn Kha, đã đặt vấn đề "linh hồn"
đại khái như sau, trg. 82-83:
Nếu bảo rằng linh
hồn là một thực thể riêng biệt, không do thân xác sinh ra, nên không chết
cùng với thân xác, thì linh hồn ấy ở đâu mà ra? Nếu bảo rằng linh hồn
do Chúa sinh ra, chứ không phải thân xác, thì vị trí của cái linh hồn ấy
đối với thân xác là như thế nào? Sự thông minh, hay ngu dốt, hay tính độc
ác của một người là ở trong đầu óc, nghĩa là ở thân xác, hay ở linh
hồn? Nếu bảo là ở thân xác, thì tại sao Chúa lại đem một linh hồn
trong sạch bỏ vào một thân xác ngu đần, độc ác, rồi lại bắt linh hồn
phải chịu trách nhiệm? Nếu bảo là ở linh hồn, thì lại càng vô lý. Tại
sao Chúa lại sinh ra linh hồn tội ác? Chúa có chịu trách nhiệm về linh hồn
do Chúa sáng tạo ra không? Những linh hồn do Chúa sinh ra đều bình đẳng
như nhau, hay có cái tốt , cái xấu, như xe hơi Nhật, xe hơi Mỹ? Linh hồn
có tội gì đâu mà sinh ra ở Phi Châu đói khổ, rồi bị người da trắng
cai trị, bóc lột, đem buôn bán làm nô lệ?
Những linh hồn do Chúa sinh ra, ở
đâu trước khi nhập vào một đứa trẻ sơ sinh? Ở một chỗ nào đó
trên Thiên Đàng có một kho chứa linh hồn? Kho ấy lớn hay nhỏ, hay cần tới
đâu thì nới rộng tới đó?... Nhập vào khi nào? Khi vừa bắt đầu thụ
thai, hay khi đứa trẻ lọt lòng mẹ? v...v...
Linh mục Thiện Cẩm của thế kỷ
20 trả lời tác giả Trần Văn Kha bằng "lý luận": "Chúa đã
sáng tạo ra vũ trụ muôn loài thì chuyện ban cho mỗi người một linh hồn
đâu có khó khăn gì? " Đó là "trí tuệ" Ca-Tô A-Na-Mít (đặc).
Tưởng chúng ta cũng nên biết rằng,
năm 1996, giáo hoàng John Paul II đã phải công nhận thuyết Tiến Hóa và đặt
chắc thẩm quyền giáo lý của Giáo Hội Ca-Tô Rô-ma sau quan điểm là "Thân
xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của
Thiên Chúa, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần".
Ngài nói: "Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận
thuyết Tiến Hoa hơn là một giả thuyết". (Pope John Paul II has put
the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that " the
human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a
gradual process of evolution. The pope said that "fresh knowledge leads to
recognition of the theory of Evolution as more than just a hypothesis") nhưng để
nuôi dưỡng niềm tin vào một sự cứu rỗi trong Ca-Tô Giáo, Ngài vẫn còn
phải bám vào thuyết Chúa ban linh hồn cho mỗi người, đúng như hai câu
vè của ông linh mục Việt Gian Trần Lục:
- Phần hồn thì Chúa sinh ra
- Phần xác Chúa phó mẹ cha sinh thành
Điều này thật là khó khăn và
không có tính cách thuyết phục. Chính Giám mục John Shelby Spong cũng đã phải
đặt vấn đề linh hồn trong Ki Tô Giáo như sau:
Nếu chỉ có con người
có linh hồn, như Giáo hội đã dạy, thì chúng ta phải biết rõ khi nào
nhân loại thành hình và được Thiên Chúa ban cho một linh hồn vĩnh cửu.
Không có một sự sáng tạo tức thời, sự ban cho một linh hồn này trở
thành một vấn đề lớn. Những sinh vật đi thẳng đứng có phải là con
người không? Hay định nghĩa của con người chỉ dành riêng cho tình trạng
tiến hóa của sinh vật đi thẳng đứng thành con người? Nếu vậy, ở
giai đoạn nào của sự phát triển thành con người? Ngôn ngữ chỉ xuất
hiện trong khoảng từ 35 tới 50 ngàn năm. Nếu các nhà sinh học không thể
xác định tại thời điểm nào sinh vật đi thẳng đứng trở thành con người,
ngoại trừ chỉ có thể nói rằng, tiến trình này trải dài trong khoảng 1
triệu rưỡi năm, vậy các nhà Thần học có dám xác định rõ hơn không?
Theo như nhận định của Giám mục
Spong thì, nếu thuyết Sáng Tạo là một sự thật, và con người được
Thiên Chúa Ki Tô tạo ra tức thời tại một thời điểm nào đó, vấn đề
mỗi người có một linh hồn có thể tạm cho là có lý tuy không thể nào
chấp nhận được, vì không có tính cách hoàn toàn thuyết phục. Nhưng điều
rõ ràng là con người hiện nay đã tiến hóa dần dần, trải qua nhiều triệu
năm một cách liên tục, từ những sinh thể ban khai, rồi tới những sinh vật
đi thẳng đứng (homo erectus), sau cùng mới tới con người như chúng ta
(homo sapiens), vậy linh hồn của con người được Thiên Chúa Ki Tô tạo cho
bắt đầu vào thời điểm nào, và tạo như thế nào, biết rằng mỗi
giây, mỗi phút, trên thế giới có biết bao đứa trẻ đủ mọi chủng tộc,
sắc dân, sinh ra đời?
Trong cuốn The Happy Heretic, nữ
học giả Judith Hayes viết về quan niệm linh hồn trong Ki Tô Giáo như sau,
trang 40:
Linh hồn, cái mà người
ta không thể nhìn, nghe, sờ, mó, ngửi thấy, hay có thể dò ra được bằng
bất cứ cách nào đó qua giác quan của con người, cũng không thể tìm thấy
bằng tia X, những kỹ thuật nội soi CAT scans, MRI, hay thử máu. Người ta bảo
rằng linh hồn không có những tính chất vật lý, nghĩa là không có chất
lượng. Điều này phù hợp với định nghĩa của một cái gì đó không hề
hiện hữu. Trong khi, thí dụ, tư tưởng con người hiện hữu và không có
chất lượng, nhưng những neuron cần phải có để tạo ra các tư tưởng
hiển nhiên là có chất lượng. Do đó, tôi cho rằng linh hồn con người,
hoàn toàn tách biệt với thân thể, không thể hiện hữu.
Nhưng những người Ki Tô Giáo đoan
quyết rằng họ biết là có một nơi chốn có thực gọi là thiên đường,
nơi đây các linh hồn phù du, chóng tàn, ở vĩnh viễn, và ở đây thời
gian chỉ trôi theo một chiều – tới tương lai...
Nếu có một thiên thần hay một loại
tâm linh nào đó giáng trần để nhập vào cơ thể con người, vậy biến cố
này phải chăng xẩy ra ngay lúc tinh trùng gập trứng? Vậy linh hồn bắt đầu
có lúc nào, lúc người đàn bà đang tắm? Hay đang ngáy?
Nếu linh hồn bắt đầu có sau đó,
vậy thì bao giờ? Vào khoảng 30 hay 40 ngày sau khi thụ thai như giáo hội
Ca-Tô một thời đã dạy như vậy? Khi đứa trẻ mới sinh ra? Có ai biết
khi nào hay không? Đây có phải là một điều quan trọng mà chúng ta cần
phải biết hay không?
Chúng ta thấy rằng, quan niệm
về một "linh hồn" trong Ki Tô Giáo ngày nay đã không còn chỗ đứng
trong luận lý học cũng như trong khoa học. Nhưng hiển nhiên là nó vẫn
còn tồn tại trong đầu óc của nhiều người thuộc loại "không đội
trời chung" với luận lý học và khoa học. Xin quý độc giả đọc thêm
bài Thích Giác Hoàng trả lời một
câu hỏi về linh hồn của "Tiến sĩ Tin Lành" Lê Anh Huy.
- Trần Chung Ngọc
- Ngày Đông Chí + 4, 2001
-
- Mời độc giả đón xem phần II
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/vonga.htm