- VÀI NÉT VỀ BỒ-ĐỀ ĐẠO TRÀNG
- Nguyên tác: tiến sĩ D.C. Ahir
- Thích Phước Chí dịch
Ngày nay, ngôi tháp Đại
Giác đã một lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu
khách hành hương chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa
được lớn mạnh như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền
tự viện của những nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại
Bồ-đề Đạo Tràng.
***
Khi thái tử Sĩ-đạt-ta từ bỏ tất
cả những dục lạc thế gian, rời bỏ hoàng cung đi tìm chân lý, ngài đã
có định hướng rõ ràng. Sau khi khỏi kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, thái tử trở
thành người hành khất và Ngài đã đi bộ suốt đoạn đường 643km (400 dặm)
đến Rajagaha, nơi mà sau đó nổi tiếng là quê hương của những nhà triết
học và những nhà tư tưởng lớn. Tại đó, Ngài đã lưu trú khá lâu
trong tu viện của đạo sư Alara Kalama. Không thỏa mãn với giáo lý ở đây,
Ngài đã tìm đến đạo sư Uddaka Ramamputta và thực hành thiền định. Chính
bản thân Ngài cũng đã chứng đạt thiền định như vị thầy, nhưng Ngài
chóng nhận ra rằng đây không phải là chân lý tối thượng.
Để tìm cầu chân lý tuyệt đối
an tĩnh tâm hồn, Bồ-tát đã đi đến cánh rừng Uravela Vana, cách đó khoảng
64 km (40 dặm), cùng với năm vị đạo sĩ mà Ngài đã từng gặp tại
Ragajaha, bắt đầu thực hành phương pháp khổ hạnh. Bồ-tát đã thực
hành những phương pháp tự hành xác khắc nghiệt nhất trong sáu năm trời,
nhưng vẫn không đạt được những gì mà Ngài mong mỏi. Nhận thấy sự
vô ích của lối tu hành xác, Bồ-tát đã từ bỏ con đường tu hành khổ
hạnh và nhận bát cơm của nàng Sujata, con gái của vị trưởng làng bên cạnh,
Senani. Việc làm này của Sĩ-đạt-ta đã khiến cho năm người bạn tu hành
khổ hạnh đã từ bỏ Ngài. Rồi từ đó, Bồ-tát đã một mình một bóng
đi tìm chân lý.
Hồi phục lại sức khỏe sau khi
dùng bát cơm của nàng Sujata, Bồ-tát nhận ra các phương pháp thực hành
trước đây đều là sai lệch. Xác định mục đích, Ngài vượt sông đến
một cội Bồ-đề, phía tây của sông Ni-liên-thuyền (Neranjara), hiện nay
là sông Nilajan hay Lilajan về phía nam khoảng 10 km của thành phố Gaya thuộc
bang Bihar. Ngài ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề và phát nguyện không đứng
dậy nếu không chứng đắc được chân lý tối thượng. Vào đêm trước
khi Ngài chứng đắc Phật quả, Ma vương đã dùng những kỷ nữ xinh đẹp
ca múa quyến rũ bằng nhiều cách để cản trở sự nỗ lực của Ngài. Nhưng
mọi sự cản trở của Ma vương đều thất bại. Chúng biến mất trong sự
bực tức. Sự kiện này được tôn giả AἯfont> vaghosha viết như sau:
"Suốt đêm ấy, vào canh thứ
nhất Bồ-tát chứng được Túc Mạng minh, vào canh thứ hai Ngài chứng được
Thiên Nhãn minh và vào canh cuối Ngài thấu hiểu đươc chân lý duyên sinh.
Khi mặt trời mọc, Ngài đạt được toàn giác."
Trong tất cả những thánh tích
liên quan đến Đức Phật Gautama, Bồ-đề Đạo Tràng là nơi quan trọng nhất.
Chúng ta hãy đi ngược dòng thời gian để thấy rõ lịch sử truyền thống
của thánh địa này với những hình ảnh khổ hạnh và chứng đắc quả
giác ngộ viên mãn của Đức Phật.
Vào năm 259 trước TL, đại đế
A-dục đã đến viếng thăm và đảnh lễ Bồ-đề Đạo Tràng, và sau đó
Bồ-đề Đạo Tràng đã thu hút hằng triệu tín đồ trở về chiêm bái
không ngừng nghỉ suốt hơn 1500 năm. Rajendralal Mitra đã viết như sau:
"Không chỉ những hoàng gia từ
các vùng của Ấn Độ mà còn những quốc gia khác thi nhau làm cho Bồ-đề
Đạo Tràng ngày càng phát triển và tươi đẹp. Mỗi một nơi mà Đức Phật
dừng chân hay thọ thức ăn, mỗi một ao nước mà Đức Phật đã tắm hay
giặt giũ, mỗi một góc đưỡng mà Ngài đã đi qua, hay những nơi mà ngài
đã tu tập khổ hạnh, thiền định, đã một lần tạc vào đá và không
có điều gì có thể làm mờ nhạt những dòng lịch sử kỷ niệm kỳ diệu
này."
Vua A-dục đã cho xây dựng một
ngôi đền thờ đầu tiên tại thánh địa này. Sự mô tả ngôi đền của
vua A-dục và những đền thờ khác tại Bồ-đề Đạo Tràng trong những năm
250 trước TL đã được tìm thấy trên một bản khắc phát hiện tại
tháp Bharhut ở Madhya Pradesh. Bản khắc cho thấy phía trước cội Bồ-đề
là tòa Kim Cang với một chiếc lọng bên trên và những vòng hoa; tất cả
nằm trong một đại sảnh. Xung quanh cội Bồ-đề là một vòng rào với cửa
ra vào ở phía đông.
Ngôi tháp Đại Giác hùng vĩ đã
được xây dựng vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch. Nó được xây dựng
trên nền tháp cũ của ngôi tháp A-dục và tòa Kim Cang vẫn giữ đúng vị
trí nguyên thủy nơi Đức Phật ngồi chứng đắc chân lý. Niên đại của
ngôi tháp được xác định bằng sự phát hiện ra những đồng tiền vàng
trong số những di vật được chôn trước tòa Kim Cang cùng với một số
những đồng tiền mang nhiều chứng tích của vua Huvishka. Ông Cunningham, người
đã phát hiện ra nơi thánh tích này vào năm 1871, đã tìm thấy ba tầng đất
khác nhau ở nền tháp tại phòng chính của tầng trệt. Lớp trên là lớp
đá hoa cương, lớp giữa là lớp đá cát và lớp dưới là lớp thạch
cao. Bên trong phòng nầy là một ngai vàng bằng đá Basan, mặt bằng đá
xanh đặt trên một sàng đá hoa cương. Di chuyển sàng nầy, ông phát hiện
một ngai vàng thứ hai ở phía sau ngai vàng đầu tiên cách bốn lớp thạch
cao. Tiếp tục di chuyển những lớp thạch cao nầy ông phát hiện mỗt quả
cầu tròn cứng bằng đất sét, bên trong chứa những di vật:
- Hai đồng tiền vàng trên một lá
vàng bề mặt có đóng dấu của vua Kuvishka được kết nhau bằng một chiếc
vòng.
- Năm đồng tiền bạc: Những đồng
tiền có lỗ với hình người và bên cạnh là nhiều mảnh vỡ không hình
dạng.
- 145 viên ngọc nhỏ đã bị đen
qua thời gian.
Lại di chuyển toàn bộ lớp thạch
cao trên mặt, ông bắt đầu phát hiện ngai vàng thứ ba phủ đầy cát đá
ở phía sau ngai vàng thứ hai cũng cách bốn lớp thạch cao đúng như nó
được khắc trong một bản khắc ở tháp Bharhut và với những hình ảnh
giác ngộ của Đức Phật Thích-ca (Bhagavato Sakamunino bodho).
Những bia đá thuộc triều đại
Gupta và Scythian cũng đều ghi lại cách kiến trúc của ngô⩠tháp Đại Giác
là thuộc về triều đại Huvishka, vị vua thứ hai của triều đại Kushana,
sau vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka).
Tượng Phật mạ vàng khổng lồ với
ấn xúc địa ở bên trong phòng chính của tháp Đại Giác được tạc vào
khoảng năm 380 sau Tây lịch Tượng Phật đặc biệt nầy tượng trưng cho
sự kiện giác ngộ vĩ đại của Đức Phật.
Theo những bia đá được tìm thấy
tại Bồ-đề Đạo Tràng, một tu viện lớn với những đỉnh tháp được
bao quanh bởi một tường rào cao 9-12m (30-40 feet), được vua Megha Varna xây
dựng. Vua này thuộc triều đại Siri Meghavana của Tích Lan vào năm 388 sau Tây
lịch.
Người Miến đã trùng tu tháp Đại
Giác vào khoảng năm 450 sau Tây lịch. Vào năm 600 sau Tây lịch vua Brahmin của
xứ Bengal, người rất thù nghịch với Phật giáo, đã chặt và đốt phá
cội Bồ-đề. Hai mươi năm sau, năm 620 vị vua mộ đạo Phật, Raja Purna
Varma đã phục sinh lại cội Bồ-đề và xây dựng một tường rào cao 7m
(24 feet) để bảo vệ. Từ đó cội Bồ-đề không còn bị phá hủy.
Trước thế kỷ thứ 7, không có
sách vở nào gọi ngôi tháp tại Bồ-đề Đạo Tràng là tháp Đại Giác
(Mahabodhi). Trên bia đá của vua A-dục đã đề cập tên ngôi tháp là tháp
Đại Định (Sambodhi). Ngài Pháp Hiển đã đến đây vào năm 409 sau TL
nhưng tiếc thay Ngài không đề cập đến tên ngôi tháp này trong bút ký của
ngài. Tuy nhiên, hai thế kỷ sau, tức thế kỷ thứ 7, Ngài Huyền Tráng đã
đến đây, thì lúc ấy ngôi tháp được gọi là tháp Đại Giác
(Mahabodhi). Từ đó về sau tháp Đại Giác đã đươc đề cập trên một số
bia đá phát hiện tại Bồ-đề Đạo Tràng. Tên Tháp Đại Giác được đề
cập lần cuối vào cuối thế kỷ 14.
Ngài Pháp Hiển, nhà chiêm bái đầu
tiên của người Trung quốc, nói rằng: "Những ngôi chùa được xây dựng
khắp tất cả những nơi mà Đức Phật đã thực hành khổ hạnh và bảy
tuần thất sau khi Ngài giác ngộ." Hơn nữa, Ngài còn nói: "Nơi Đức
Phật chứng đắc được Phật quả, có 3 tu viện mỗi nơi đều có tăng
sĩ cư trú và nhận được sự cúng dường rất đầy đủ của Phật tử.
Những nơi chính mà Đức Phật đã đi qua khi Ngài còn tại thế và những
nơi thánh địa khác đều thực hành một nguyện ước chung của Phật giáo,
thái độ cư xử hết sức nghiêm trang khi đi vào những nơi thánh địa và
kéo dài đến ngày nay." (ngày mà Ngài Pháp Hiển viếng thăm).
Ngài Huyền Tráng, nhà chiêm bái thứ
hai của Trung quốc, đến đây vào năm 637 sau Tây lịch đã thấy ngôi tháp
Đại Giác và những sân bãi rộng rãi xung quanh với 21 ngôi tháp, 3 hồ nước
(Buddha, Sakra, Muchilinda) và 6 tu viện bao gồm cả tu viện người Tích-lan với
hơn 1000 tăng sĩ. Ngài viết:
"Đi từ phía tây –nam của ngọn
đồi Pragbodhi chúng ta đến cội Bồ-đề. Cội Bồ-đề được bao quanh bởi
một lớp rào bằng gạch cao và chắc chắn. Chiều dài từ đông sang tây,
chiều ngang từ nam sang bắc. Đi vòng quanh khoảng 500 bước chân. Những loại
cây quí hiếm và những tàng cây đầy hoa che mát như một tấm thảm hoa trên
đất. Cổng chính ở phía đông, đối diện với dòng sông Ni-Liên Thiền.
Cổng phía nam mở ra là một vườn hoa. Hướng tây đã bị phong tỏa. Cổng
phía bắc mở về hướng Tăng già lam Sangharsama. Trong vòng rào bao bọc có
vô số những di tích nối liền nhau. Nơi nầy với những ngôi tháp thì nơi
khác với những tu viện." "Khoảng giữa của khuôn viên được rào
quanh là cội Bồ-đề và tòa Kim Cang, nơi Đức Phật chứng đắc Phật quả,
còn được gọi là Bồ-đề Đạo Tràng (Bodhi manda)." " Cội Bồ-đề
bên cạnh Kim Cang tòa như loại cây đa (Pippala). Ngày xưa, khi Đức Phật ngồi
tọa thiền dưới cây nầy, cao hằng chục mét. Mặc dù bị chặt phá nhiều
lần nhưng cội Bồ-đề vẫn cao từ 12- 15 mét (40-50 feet). Đức Phật đã
thiền định dưới cội cây nầy mà chứng đắc trí tuệ tối thượng và
do đó cây nầy còn được gọi là cây trí tuệ (Samyak Sambodhi). Hướng đông
cội Bồ-đề là một tu viện cao khoảng 48-51 mét (160-170 feet). Quanh mặt nền
có hơn 20 bước đi. Sàn nhà bằng đá xanh, tất cả những bục thờ đều
có những hình ảnh khác nhau về Đức Phật. Bốn phía của tòa nhà đều
có những hoa văn nghệ thuật độc đáo với hình ảnh của chư thiên và
những chuổi trân châu. Tất cả được bao quanh bởi những cây A-mặc-la
(Amalaka). Bên phải và trái của cổng ra vào có những hóc tường, bên
trái với tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, bên phải là tượng Bồ-tát Đại
Thế Chí được mạ bạc cao khoảng 3 mét (10 feet)."
Vua Meghavarna của Tích Lan đã xây dựng
một tu viện và được Ngài Huyền Tráng mô tả như sau:
"Bên ngoài cổng, hướng bắc cội
Bồ-đề là tu viện Mahabodhi Sangharama, do vua nước Tích Lan xây dựng. Tu viện
nầy có 6 phòng lớn và những ngọn tháp có thể quan sát cả 3 tầng nhà.
Tăng sĩ của tu viện nầy hơn cả ngàn người, họ nghiên cứu đại thừa
thuộc trường phái Thượng Toạ (Sthavira). Họ nghiên cứu cẩn thận Luật
tạng và phẩm hạnh rất thanh cao."
Gần ba thế kỷ sau khi Ngài Huyền
Tráng viếng thăm, Bồ-đề Đạo Tràng hầu như không có sửa đổi gì nhiều
và cũng không có sự mở mang phát triển gì thêm. Chỉ vào năm 1010, vua
Mahipala, vị vua nổi tiếng cùa triều đại Pala ở Bengal đã có vài thay đổi
nhỏ. Vào những năm 1070, người Miến đã có có trùng tu và phục hồi lớn
lại ngôi tháp Đại Giác.
Vị vua Phật giáo Ấn Độ cuối cùng
đã trang hoàng lại ngôi tháp Đại Giác là vua Raja Asoka-Balla ở núi Siwalik
của bang Punjab. Trên bia đá của ông có ghi rằng: "Trong thời giáo
pháp suy tàn có sự ủng hộ của vua Asoka-Ballacủa xứ Sapadalaksa."
Với sự giúp đỡ của ông và một
vị trưởng làng tại đó tên là Purusottama Simha, ngôi tháp được phục hồi
và vài tác phẩm nghệ thuật được sửa chữa dưới sự giám sát của một
vị tăng tên là Dharmaraksita. Một bia đá khác ghi vào năm 51 của triều đại
Lakshamanasena ở Bengal hya vào năm 1157 của vua Asoka-Balla được tìm thấy tại
Bồ-đề Đạo Tràng ghi:
"Sự tôn kính Đức Phật, vị
đại sa-môn, người đã dạy những gì là cội nguồn của dòng suối đức
hạnh và những gì làm cản trở đức hạnh. Đây là món quà thể hiện
tinh thần mộ đạo của vua Asoka-Balla, một người ủng hộ trường phái
đại thừa và là một phật tử thuần thành của Phật giáo. Tất cả những
công đức và trí tuệ mà tôi làm được xin nguyện hồi hướng công đức
đầu tiên về cho Phụ-Mẫu và sau đó là cho tất cả chúng sanh."
Vào thời kỳ vua Asoka-Balla, công việc
lễ nghi tại già-lam này do một vị thượng tọa người Tích Lan đảm trách.
Hơn nữa, trên cùng bia đá vua Asoka-Balla ghi rằng:
"Hơn thế nữa tại tháp Đại
Giác, hằng ngày việc thờ phụng và dâng cúng nhang đèn được một vị
Tăng sĩ đứng đầu Phật giáo Tích Lan đảm trách. Chỉ khi nào mặt trời
và mặt trăng kia mất đi thì công việc này mới không còn."
Dharmasvamin, một vị chiêm bái người
Tây Tạng, đảnh lễ thánh tích vào năm 1234, đã tìm thấy môt thiền viện
hoang phế. Ngài viết:
"Còn lại chỉ 4 vị tăng sĩ. Một
vị nói: Thật là bất hạnh tất cả tăng sĩ đã bỏ trốn vì sự khủng
bố của quân đội Turushka. Họ đã phong tỏa cổng chính ở phía trước
Tháp Đại Giác bằng gạch và thạch cao. Gần đó, họ xây một tượng khác
để thay thế."
Khi Phật giáo suy tàn tại ấn Độ,
người Miến đã đến và cứu ngôi tháp Đại Giác thoát khỏi bàn tay phá
hoại. Họ sửa chữa lại ngôi tháp Đại giác ít nhất 3 lần suốt từ thế
kỷ 14 đến thế kỷ 15. Lần sửa chữa sau cùng là những năm 1472-1492.
Từ đó về sau, Bồ-đề Đạo Tràng
đã bị quên lãng và ngôi tháp Đại Giác ngày càng hoang phế. Với điều
kiện thuận lợi về vị trí, ông Gosain Giri thuộc Ấn Độ giáo đã xây dựng
môt ngôi đền Hindu tại Bồ-đề Đạo Tràng năm 1590. Sự có mặt của
ngôi đền này đã làm cho Bồ-đề Đạo Tràng rơi vào tay những người không
phải phật tử và giai đoạn phi Phật giáo bắt đầu.
Vào năm 1811 tiến sĩ Buchanan
Hamilton, một nhà khảo cổ học nổi tiếng, đến viếng thăm Bồ-đề Đạo
Tràng, đã phát hiện ra ngôi tháp Đại Giác trong tình trạng hoàn toàn đổ
nát. Ông ghi lại trong bút ký như sau:
"Việc thờ cúng tại Bồ-đề
Đạo Tràng do người Ấn giáo đảm nhiệm. Cách đó không lâu, họ xây dựng
một cầu thang ở một phía của nền tháp để có một lối đi khác với
lối đi chính vào tháp và một biểu tượng căm thù đức Phật."
Năm mươi năm sau, năm 1861, ông
Cunningham đã gặp giáo hội Ấn giáo Mahant và những môn đồ tổ chức những
nghi lễ phi Phật giáo tại tháp Đại Giác. Hơn thế nữa, mặc dù tổ chức
này tuyên bố tháp Đại Giác và vùng đất quanh đấy là của riêng họ nhưng
họ chưa từng bao giờ sửa sang lại ngôi tháp lich sử này.
Năm 1875, Vua Mindan Min của Miến Điện
đã can thiệp và được sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ và giáo hội
Ấn giáo Mahant đã sửa sang lại ngôi tháp Đại Giác bị hoang phế nhiều
năm. Nhưng kỳ sửa chữa đầu tiên của người Miến diễn ra không đúng
theo truyền thống nên chính phủ Ấn Độ đã quyết định bổ nhiệm ông
J.D Beglar vào năm 1880 trùng tu lại hoàn toàn ngôi tháp. Ông Cunningham và tiến
sĩ Rajendra Lal Mitra cũng được cử làm cố vấn trong việc trùng tu. Công
việc khôi phục đã được tiến hành dựa trên nền móng cũ của ngôi
già-lam nhỏ ngày xưa. Toàn bộ được trù tính và kế hoạch khôi phục như
là ngôi tháp đã tồn tại từ thời trung cổ và kế hoạch này có thể thực
hiện được. Sự khôi phục và cải tiến lại ngôi tháp hiện nay hầu hết
chính xác từ bản mô phỏng của ngôi đền nguyên thủy. Công việc này rất
phức tạp và đòi hỏi sự đầu tư nặng nề về kinh tế. Nhưng nó đã
hoàn thành với sự tận tình hiếm có và sự hy sinh của ông Cunningham,
ông R.L Mitra và ông Beglar.
Ngay sau khi được khôi phục, ngôi
tháp Đại Giác và vùng đất xung quanh vẫn tiếp tục thuộc về giáo hội
Ấn giáo Mahant.
Ông Edwin Arnold, tác giả nổi tiếng
trên thế giới với tác phẩm "A鮨 Sáng
Phương Đông" (The Light of Asia) đã diễn tả thái độ thờ ơ
và nhẫn tâm trước sự bảo quản thánh địa và việc làm của giáo hội
Mahant. Sau đó ông đã công bố sự kiện này trên tạp chí Daily Telegraph
ở Lodon mà ông là chủ bút của. Ông thống thiết kêu gọi:
"Quả thật, Phật giáo thế giới
hầu như đã quên đi Thánh địa này và chỉ có biết đến những trung tâm
tín ngưỡng như Mecca, Jerusalem của những tôn giáo phương đông. Khi tôi lưu
lại Bồ-đề Đạo tràng cách đây mấy năm, tôi thật sự đau lòng khi thấy
hàng ngàn những di sản cổ quí giá, những tảng đá có khắc chữ Sanskrit
nằm ngổn ngang chồng đống quanh đây."
Sự vận động giành lấy lại quyền
điều hành tại khu vực Tháp Đại Giác bắt đầu vào tháng giêng năm 1891
khi Anagarika Dharmapala đến đảnh lễ thánh địa này. Do sự lãng quên mà nơi
Đức Phật giác ngộ đã suy tàn đổ nát và rơi vào tay người Ấn giáo.
Sau đó, ông kiên quyết từng bước ngăn chặn những việc làm của ngoại
đạo tại thánh địa này. Với tầm nhìn xa, bước đầu tiên, Ngài
Dharmapala đã sáng lập ra "Hội Đại Giác Ngộ, Bồ-đề Đạo Tràng"
(The Buddha Gaya Mahabodhi Society) vào ngày 31 tháng 5 năm 1891. Sau đó, ông đã
thuyết phục 4 vị tăng từ Tích Lan đến tại Bồ-đề Đạo Tràng vào
tháng 7 năm 1891 và ở tại nhà nghĩ người Miến xây dựng trước đó vài
năm. Bốn vị đó là: (i) Thượng tọa Dunuarla Chandajati, (ii) Thượng tọa
Matale Sumangala, (iii) Thượng tọa Anuradhapura Pemmananda, và (iv) Thượng tọa
Galle Sudassana
Giáo hội Ấn giáo vẫn sở hữu
toàn bộ khu vực Bồ-đề Đạo Tràng và họ phản đối về sự có mặt của
những tăng sĩ người Miến. Vào tháng 2 năm 1893 hai vị tăng sĩ đã bị những
người Ấn giáo đánh đập một cách tàn nhẫn. Hai năm sau, năm 1895 khi
Dharmapala đang làm lễ an vị tượng Phật được người Nhật cúng, ở tầng
trên của ngôi đền, thì ngài đã bị những người Ấn giáo tấn công và
ngăn cản. Tượng Phật đành phải được an vị nơi nhà nghĩ người Miến.
Sau đó, giáo hội Ấn giáo tại Bồ-đề Đạo Tràng và vài tổ chức Ấn
giáo khác đặc biệt là hiệp hội Ấn-Anh ở London cố gắng dời tượng
Phật đi nơi khác nhưng chính phủ không đồng ý.
Năm 1906, họ yêu cầu trục xuất
những vị tăng sĩ Phât giáo ra khỏi khu vực Bồ-đề Đạo Tràng. Tín đồ
Phật tử cũng yêu cầu và công khai tuyên bố quyền điều hành tại khu vực
tháp Đại Giác. Cuộc xung đột vẫn kéo dài cho đến sau khi Ấn Độ độc
lập, chính phủ tại Bihar ban đạo luật quản lý khu vực Bồ-đề Đạo
Tràng năm 1949. Năm 1952, chính phủ Ấn Độ đã thành lập một ủy ban quản
trị và giao cho ủy ban này điều hành quản lý khu vực Bồ-đề Đạo Tràng
và những di sản khác. Ủy ban này gồm có 8 thành viên, 4 vị Ấn giáo và
4 vị Phật giáo với một vị quận trưởng Gaya làm chủ tịch. Chắc chắn
rằng người Ấn giáo luôn nắm giữ những vị trí cao trong ủy ban do những
điều khoản đặc biệt trong bản giao ước. Phần 3 của bản giao ước viết:
"Vị quận trưởng của khu vực này do chính phủ bổ nhiệm sẽ mặc
nhiên trở thành chủ tịch của ủy ban (trong giai đoạn vị này không theo
Ấn giáo)"
Năm 1956, lễ tưởng niệm Phật Đản
lần thứ 2500 (Buddha Jayanti) được Phật giáo quốc tế tổ chức. Chính phủ
Ấn Độ đự tính tái tạo hồi phục lại những thánh tích Phật giáo tại
Ấn Độ. Bồ-đề Đạo Tràng phải cần thời gian dài để sửa chữa lại
ngôi tháp Đại Giác và nới rộng các hàng rào. Vài khu vực quanh đền thờ
được sử dụng. Vài ngôi nhà nhỏ được di dời và xung quanh được quét
dọn sạch sẽ. Một con đường được mở rộng xung quanh đền thờ. Một
viện bảo tàng nhỏ và những bia đá khắc nằm rải rác quanh ngôi đền
được cất giữ và tái tạo. Những tiện nghi về điện nước và chỗ trọ
cho khách hành hương được xây dựng.
Những năm gần đây, quang cảnh
xung quannh ngôi tháp Đại Giác được ủy ban quản lý cải thiện. Như một
lối đi vào từ phía đông với một khoảng trống thích hợp, một đường
đá lát quanh tháp và bức tường thêm vào cảnh yên bình của ngôi tháp.
Ngày nay, khách chiêm bái có thể cầu nguyện, lễ lạy đấng Đại Giác
trong khung cảnh yên tĩnh và môi trường thanh tịnh. Sau đây chúng tôi xin
điểm lược các di tích quan trọng tại Bồ-đề Đạo Tràng:
1. Ngôi Tháp Đại Giác (Mahabodhi
Temple)
Ngôi đại tháp đứng sừng sững với
chiều cao khoảng 52m (170 feet), mỗi một cạnh vuông là 15m (50 feet). Ngọn của
tháp có hình chóp nhọn vươn cao. Cổng vào ngày nay cũng như nguyên thủy nằm
ở phía đông. Mỗi 4 mặt của ngôi tháp với những tầng tháp nhỏ và có
nhiều góc tường để đặt tượng. Mặt chính có cửa sổ (nhọn ở
trên) được mở ra để ánh sáng vào phòng chính. Tầng thứ nhất của
ngôi tháp có những tháp nhỏ ở mỗi bốn góc như là những mô hình thu nhỏ
của tháp chính. Ngôi tháp được xây dựng bằng gạch nung và được tô bằng
một lớp thạch cao. Phía trước lối đi chính có một cổng vào được khắc
chạm tinh xảo. Phía trước cổng vào có một ngôi tháp nhỏ bằng đá xây
rất cân xứng tỉ lệ. Căn phòng chính của ngôi đền nằm ở tầng trệt.
Cửa ra vào được làm bằng đá.
Tượng Phật lớn mạ vàng với ấn
xúc địa tượng trưng cho sự kiện giác ngộ vĩ đại của Đức Phật,
được đặt tại phòng chính của ngôi tháp. Tầng trên có hai cầu thang bằng
đá. Chúng ta có thể đi kinh hành vòng quanh ngôi tháp. Tại 4 góc của tầng
này có 4 ngọn tháp nhỏ làm tăng thêm vẻ cân xứng tuyệt vời của toàn
bộ cấu trúc. Hai ngọn tháp ở phía tây có điện thờ nhỏ với những hình
tượng của Bồ-tát. Hai ngọn tháp còn lại ở phía đông với hai cầu
thang và bên trong có hai tượng Phật to. Lan can dọc theo hành lan với vô số
tháp nhỏ được khắc chạm hết sức tinh xảo, những trháp ở phía đông
rất đẹp. Bên dưới ngọn tháp chính ở tầng thứ nhất là một chánh
điện rộng với một hình tượng Bồ-tát đặt trên một bệ thờ. Bên
ngoài ngôi tháp với vô số góc tường khắc chạm hình tượng Đức Phật
và những loài vật. Hóc tường chính ở vách phía tây có một tượng Phật
rất đẹp hiếm có được mạ vàng do người Tây tạng. Có thể nhìn thấy
ngôi tháp đẹp nhất từ phía bắc.
2. Cội Bồ-đề (Bodhi Tree)
Cội cây thiêng mà thái tử Sĩ-đạt-ta
đã ngồi và chứng đắc chân lý nằm ở phía tây của ngôi tháp Đại Giác.
Lần viếng thăm cội Bồ-đề của vua A-dục được biết do những bia đá
của Ngài và cũng được mô tả trên mặt cổng vào ở động Sanchi. Vua
Sasanka, vị vua theo đạo Ấn đã chặt phá cội Bồ-đề vào thế kỷ thứ
6 sau TL nhưng may mắn thay một cây khác đã mọc lên ngay cội cây xưa. Cội
cây này là cội cây mà Ngài Huyền Tráng đã gặp vào năm 637 sau Tây lịch
Trong quá trình khai quật vào năm 1870, cây Bồ-đề cũ đã ngã và một cây
con được ông Cunningham trồng ngay vị trí nguyên thủy của nó. Đây là
côịi Bồ-đề mà chúng ta thấy ngày nay.
3. Tòa Kim Cang (Vajrasana)
Tòa Kim Cang nằm giữa tháp Đại Giác
và cội Bồ-đề, đánh dấu nơi Đức Phật ngồi và đạt giác ngộ.
Ngày nay, nơi thiêng liêng này được
lát một phiến đá đỏ, bề dài khoảng 2,28m (7 feet 6 inches), bề ngang khoảng
1,29m (4 feet 3 inches), chiều cao khoảng 0,914m (3 feet).
Tòa Kim Cang đã được phát hiện
trong giai đoạn sửa chữa vào năm 1881.
4. Bảy tuần thất của Đức Phật
Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã tắm
ở hồ nước Sakra. Ngày nay, hai hồ nước vẫn còn. Một hồ nằm ở làng
Pipal Pati thuộc về phía nam của Buddha Pokhara, một hồ khác nằm ở làng
Tikahigha thuộc hướng đông của làng Pipal Pati. Có thể hồ Sakra và hồ
Muchilinda khác nhau.
Tuần thứ nhất
Sau khi tắm ở hồ Sakra, Đức Phật
ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề trong 7 ngày và cảm nhận những an lạc
của Niết-bàn.
Tuần thứ hai
Đức Phật trải qua tuần lễ thứ
hai trong việc đi kinh hành qua lại cội Bồ-đề. Đoạn đường mà đức
Phật đi kinh hành cũng được như là "quãng đường thiêng" nằm
ở hướng bắc của tháp Đại Giác. Dấu chân của Đức Phật được mô
tả hết sức tỉ mỉ như một hoa sen trên một bục nề, chiều dài khoảng
16m (53 feet), chiều ngang khoảng 1,1m (3 feet 6 inches), chiều cao khoảng 0,914m
(3 feet).
Tuần thứ ba
Ngọn tháp Animesalocana, bên trong
sân tháp Đại Giác, đánh dấu nơi Đức Phật đứng suốt tuần lễ thứ
ba nhìn về cội Bồ-đề bày tỏ lòng biết ơn cội cây đã cho Ngài nơi
nương náu.
Tuần thứ tư
Ngôi đền nhỏ Ratanaghara (không có
mái che), nơi Đức Phật đã trải qua tuần lễ thứ tư trong thiền định
cũng ở trong sân thuộc về hướng bắc quãng đường mà đức Phật đi
kinh hành.
Tuần thứ năm
Đức Phật đã trải qua tuần lễ
thứ năm dưới cây Ni-Câu-Đà (Ajapala Nigrodha), nơi nàng Sujata đã dâng cho
Ngài bát cháu sữa. Vị trí thực tế của cây này chưa được xác định
nhưng có thể nó nằm tại một đền thờ Ấn giáo thuộc làng Bakraur, bên
bờ phía đông sông Ni-liên-thuyền gần bên cạnh đền nàng Sujata.
Tuần thứ sáu
Đức Phật đã trải qua tuần lễ
thứ sáu gần bên hồ Muchilinda nơi Muchilinda, con rắn chúa đã che chở cho
Đức Phật khi trời mưa. Làng Mocharin cách về hướng nam của tháp Đại
Giác khoảng 1,6km (1 dặm), hiển nhiên bắt nguồn từ tên Muchilinda.
Tuần thứ bảy
Đức Phật đã trải qua tuần lễ
thứ bảy dưới cây Rajyatana, nơi mà Ngài đã giáo hóa 2 vị đệ tử
thương buôn đầu tiên đến từ Utkala, nay là bang Orissa. Tên hai vị đó
là Tapussa (Đế-lê-phú-bà) và Balluka (Bạt-lê-ca)
Vị trí cây Rajyatana vẫn chưa được
xác định. Từ đây Đức Phật trở lại cội Bồ-đề và suy nghĩ cách đến
Vườn Nai ở Sarnath (Isipatana) để truyền đạt chân lý giác ngộ cho năm
đạo sĩ đồng tu với Ngài trước kia.
5. Những di tích khác
Những di tích quan trọng khác tại
Bồ-đề như:
- Một vòng rào bằng đá quanh tháp mà hiện chỉ
còn vài khúc còn nguyên vẹn.
- Vô số những tháp nhỏ quanh tháp Đại Giác và
ở trong sân tháp.
- Tháp Panca Pandava màu trắng nằm bên trái của lối
đi vào tháp Đại Giác với năm tượng Bồ-tát.
- Một dãy tu viện Phật giáo ở hướng tây nam
tháp Đại Giác.
- Một hồ nước rộng ở phía nam tháp chính.
- Trụ đá vua A-dục ngay lối vào hồ nước.
- Sông Ni-liên-thuyền mà Bồ-tát đã vượt qua trên
đường đi đến cội Bồ-đề nằm ở phía đông tháp Đại Giác.
Trước khi giác ngộ đức Phật đã
ở bên kia sông Ni-Liên-Thiền, nay thuộc khu vực làng Bakraur. Do đó, trong
ngôi làng này phải còn lại những di tích như: Cây Ajapala Nigrodha (Ni-câu-đà),
hình ảnh nàng Sujata dâng cúng bát cháu sữa và căn nhà xưa của Sujata. Một
vị trí lịch sử khác tại làng Bakraur, nơi mà vẫn còn lưu lại những vết
tích ngày xưa là khu rừng khổ hạnh (khổ hạnh lâm). Đó là ngôi đồi
Pragbodhi, nơi mà đức Phật đã rời bỏ 5 người bạn đồng tu khổ hạnh
trước khi thiền định dưới cội Bồ-đề. Ngài đã cư trú trong một
hang động (động Dungeswari) một thời gian. Ngọn đồi nay là Dhongra, cách
làng Bakraur khoảng 1,6km (1 dặm) về hướng đông bắc và chạy dọc theo
dòng sông Ni-Liên-Thiền.
Thánh địa Bồ-đề với những di
tích khắc chạm, nghệ thuật chạm trổ trên tòa Kim Cang và vài trụ đá
trên quãng đường mà Đức Phật đã từng đi kinh hành, vòng rào bằng đá
hoa cương. Đa số những di tích mang những nét nghệ thuật chạm trổ có
thể từ những năm của thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Nó mang cả
hai chủ đề tôn giáo và thiên văn.
Những chủ đề về tôn giáo như:
- Sự giáng sinh của Đức Phật tại
vườn Lâm-Tỳ-Ni.
- Bốn hình ảnh khác nhau tượng
trưng cho sự kiện giác ngộ của Đức Phật.
- Sáu hình ảnh khác nhau tượng
trưng cho sự kiện chuyển pháp luân đầu tiên tại Sarnath.
- Tám hình ảnh khác nhau tượng
trưng cho sự kiện nhập Niế-bàn của Đức Phật tại Câu-thi-na
(Kushinagar).
Bốn sự kiện trong thời kỳ Đức
Phật còn tại thế được mô tả như sau:
-Trưởng giả Cấp Cô Độc
(Anathapindika) đã mua vườn xoài tại thành Xá-vệ để dâng cúng Đức Phật.
-Vị vua trời Sakra đã cử
Panchasika yết kiến Đức Phật để thỉnh Ngài viếng thăm cung trời (Kinh
Sakkapancha trong Trường Bộ Kinh)
-Lòng tôn kính Đức Phật của một
vị vua rắn.
-Đức Phật và một vị nông dân
ở thành Xá-Vệ.
- Mười tám kinh Bổn Sanh (Những
câu chuyện về tiền thân của Đức Phật cũng được mô tả.)
Những quan niệm về thiên văn bao gồm:
- Mặt trời (Surya)
- Mười hai dấu hiệu hoàng đạo của
thái dương hệ (Rasi-Chakra)
- Chòm sao hình lưỡi liềm
(Nakshataras)
6. Những ngôi chùa hiện nay
Ngày nay, ngôi tháp Đại Giác đã một
lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu khách hành hương
chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa được lớn mạnh
như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền tự viện của những
nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại Bồ-đề Đạo Tràng.
Trong số đó quan trọng nhất là:
Chùa Phật giáo Tây Tạng
Ngôi chùa này nằm ở phía đông của
ngôi tháp và được xây dựng với hình thức của Phật giáo Tây Tạng.
Chánh điện nằm ở lầu một với nhiều hình tượng đầy màu sắc. Nhiều
tạng kinh điển và những pháp khí khác được lưu giữ với một bánh xe
chuyển pháp thật lớn.
Chùa Phật giáo Trung Quốc
Ngôi chùa này được xây dựng với
lối kiến trúc của Phật giáo Trung Quốc, nằm về phía tây nam của tháp
Đại Giác.
Chùa Phật giáo Thái Lan
Chùa Thái và cũng là viện bảo
tàng khảo cổ, nằm về hướng tây của tháp. Chùa được chính phủ
hoàng gia Thái Lan xây dựng vào năm 1957 và trùng tu vào năm 1970-1972. Chùa
được xây dựng theo hình thức Phật giáo Thái Lan giống như những chùa
đá hoa ở Bangkok. Ngôi chùa này có một tượng Phật khổng lồ bằng vàng
ở chánh điện, hoàn toàn gây ấn tượng và cuốn hút khách hành hương từ
nhiều nơi đến chiêm ngưỡng.
Chùa Phật giáo Nhật Bản
Chùa Nhật Bản rất đẹp nằm không
xa chùa Thái Lan về tay phải. Chùa được Hiệp hội Liên hữu quốc tế Nhật
Bản xây dựng và khánh thành vào ngày 8 tháng 12 năm 1973. Ngoài ra còn có một
ngôi chùa Nhật Bản thứ hai nằm sát bên ngôi chùa Nhật Bản thứ nhất.
Ngôi chùa này mang một vẻ đẹp khác, được Hội Daijokoyo xây dựng và
khánh thành vào ngày 13 tháng 2 năm 1983.
Tu viện Phật giáo Miến Điện
Phật giáo Miến Điện cũng đã
xây dựng một tu viện theo kiến trúc của Phật giáo Miến Điện tại khu
vực Bồ-đề Đạo tràng.
***
[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh của
D.C. Ahir., Buddhist Shrines in India. (Delhi: B.R. Publihing Corporation, 1986),
pp. 7-21.]