- BỒ-ĐỀ ĐẠO TRÀNG
- Thích Nữ Giới Hương
Bồ-đề Đạo Tràng ở Ấn Độ
được biết là nơi thiêng liêng nhất của giới Phật giáo. Từ một ngôi
làng nhỏ Uruvela (Uruvella), nơi này trở thành một địa danh nổi tiếng cho
sự thanh bình, trở về nội tâm và thức tĩnh. Thái tử Sĩ-đạt-ta, Sa-môn
Cù-đàm đã đạt được giác ngộ tại đây cách nay 25 thế kỷ.
Bồ-đề Đạo Tràng là Buddha
Gaya hoặc hiện nay thường được gọi là Bodh Gaya nằm ở phía
tây của bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana) của thị trấn Gaya, thuộc tiểu
bang Bihar. Đây là nơi có cây bồ-đề thiêng, gắn liền với sự thành đạo
của đức Phật lịch sử. Vì lí do đó mà ông B.M. Barua [1] đã ghi nhận rằng:
"nếu hiểu theo nghĩa rộng Bodh Gaya là một ngôi làng cổ và theo nghĩa
hẹp là nơi của cây bồ-đề thiêng liêng và những vùng lân cận đó."
Bồ-đề Đạo Tràng vốn không phải
là nơi hiu quạnh trước khi Đức Phật giáng sanh. Việc khai quậy mới đây
nhất tại làng Taradih, phía nam của đại tháp đã cho thấy rằng trước
thời Đức Phật, nơi đây có rất nhiều cư dân sinh sống. Cuộc đào xới
năm1981 đến 1985 của các nhà khảo cổ học, chính quyền Bihar đã cho thấy
rằng cư dân sống tại đây hơn 4500 năm bao gồm 2000 trước khi Đức Phật
đạt giác ngộ ở Bồ-đề Đạo Tràng.
Việc đào xới đã chia thành 7 giai
đọan bắt đầu từ thế kỷ XXV trước tây lịch đến thế kỷ XII trước
tây lịch. Suốt 4500 năm, người dân cư ngụ ở đây đã dùng sắt và đồng
trong sinh hoạt hằng ngày của họ cho nên gọi là thời kỳ đồ đá. Đồ
cổ được tìm thấy trong cuộc khảo cổ này là đầu người bằng đất
sét nung, bằng xương thú hoặc các đồng tiền bằng kim loại.
Trong thời kỳ đầu từ thế kỷ
XXV-XVII trước tây lịch, mọi người đã sống bằng nhà lợp bằng lá nan
và bùn trộn rơm. Những bếp lò to lớn được tìm thấy nơi đây đã cho
biết rằng người ta đã dùng nhà bếp chung và hình như họ sống với
nhau thành từng đàn.
Trong thời kỳ thứ hai từ thế kỷ
XVII-XI trước tây lịch, nền kinh tế nông thôn đã bắt đầu phát triển,
mặc dù vẫn còn dùng sắt nhưng không thịnh hành cho lắm. Một số vật
thể làm bằng xương và đồng đã được các nhà khảo cổ học xác định.
Trong thời kỳ thứ ba từ thế kỷ
thứ X - VII trước tây lịch người dân đã sử dụng sắt hằng ngày.
Trong thời kỳ thứ tư, từ thế kỷ thứ VI- I trước tây lịch, người ta
đã biết chế tạo hàng hóa và đồng kim loại. Thời kỳ thứ năm từ thế
kỷ I-III là những hoạt động của bộ tộc Kusanas. Thời kỳ thứ sáu từ
thế kỷ IV-VIII là thời đại trị vì của dòng họ Guptas. Thời kỳ thứ
bảy là từ thế kỷ thứ VIII-XII là thời đại trị vì của dòng họ
Palas.[2]
Lịch sử con người ở Bồ-đề Đạo
Tràng đã giúp chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu những thời đại
con người ở đây. Gaya cách phía bắc của Bồ-đề Đạo Tràng 15 cây số
cũng được biết đến như là nơi quan trọng của Ấn Độ giáo. Gaya và
Ma-kiệt-đà là trung tâm của các hoạt động tôn giáo. Những câu chuyện
thần thoại nói về Lord Rama viếng thăm Gaya để cúng dường bánh đến
cha mình là Dasaratha. Sự kề cận của vùng đất Gaya với Bodh Gaya cũng đã
có ảnh hưởng với nhau rất nhiều.
Đại tháp Bồ-đề hiện nay ở Bồ-đề
Đạo Tràng được xây cách đây hơn 1300 năm. Có người cho là ngôi tháp
nhỏ do vua A Dục xây khoảng thế kỷ thứ III trước tây lịch, để kỷ
niệm ngày Đức Phật thành đạo. Nhưng thật ra ngôi tháp hiện nay là được
xây khoảng thế kỷ thứ V-VI.
Khoảng năm 399, nhà chiêm bái Trung
hoa là Đại sư Pháp Hiền đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng, nhưng ngài
không có đề cập đến ngôi tháp này. Các nhà lịch sử và khảo cổ cho
rằng ngôi tháp chưa được xây suốt thời gian mà ngài Pháp Hiền chiêm
bái thánh địa này. Hoặc là ngôi tháp không có gì đặc biệt để thu hút
những người hành hương. Nhưng dù với hình thức tồn tại nào, đáng để
đề cập thì ngài Pháp Hiển nên đề cập trong nhật ký hành hương của
mình chứ.
Tuy nhiên, một nhà chiêm bái Trung
Quốc khác là ngài Huyền Trang đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng năm 637
và đã mô tả ngôi đại tháp giống như ngôi đại tháp hiện nay. Trong thời
gian ngài chiêm bái bức tường rào xung quanh được trang hoàng với những
nghệ thuật điêu khắc và những đường dây hoa tuyệt đẹp làm bằng ngọc
và đồ quý. Những kiến trúc hình khuôn, những trụ đá, cánh cửa và cửa
sổ được trang hoàng bằng vàng bạc, ngọc và đá quý. Việc nghiên cứu
này đã cho thấy sự giàu có của người dân ở đây, cũng như đó là biểu
lộ lòng tín kính của họ đối với đức Thế Tôn. Những người xây đại
tháp này là những người yêu nghệ thuật và điêu khắc nên đã trang
hoàng thật tuyệt mỹ cho ngôi đại tháp này.
Cũng có thể đoán là ngôi đại tháp
đã có thể được xây khoảng thời gian giữa hai nhà chiêm bái Trung Quốc,
tức khoảng giữa năm 400-636, nghĩa là vào khoảng thời gian ngài Pháp Hiền
đã đi và trước khi ngài Huyền Trang đến.
Theo ngài Huyền Trang nói thì ngôi
đại tháp rất khang trang và đẹp. Rõ ràng, phải mất nhiều năm mới xây
được ngôi tăng già-lam này, có thể công tác xây dựng bắt đầu ngay sau
khi Pháp Hiền rời Ấn Độ trở về Trung hoa vào năm 414.
Từ thế kỷ XIII-XVIII, ngôi đại
tháp cùng chung với số phận của lịch sử Phật giáo bị thăng trầm lên
xuống nhiều lần. Công việc khởi xướng trùng tu lại được bắt đầu
khoảng thế kỷ XI-XIV do những nhà lãnh đạo Miến Điện thực hiện để
duy trì di sản Phật giáo vô giá này cho nhân loại. Với sự cộng tác của
các nhà chuyên môn người Anh vào thế kỷ XIX, sự đóng góp nhân lực và
tài lực của vua chúa, quan quyền, Phật tử người Tích Lan, Miến Điện…
cộng với đất nước Tây Tạng bao gồm Đức Dalai Lama cùng những người
dân Phật tử đến tị nạn ở Ấn Độ năm 1959 đã góp tay xây dựng khiến
cho ngôi đại tháp và Bồ-đề Đạo Tràng được phục hồi và phát triển.
Ngôi đại tháp là một di sản tinh
thần cho những nhà tư tưởng suy nghĩ về Phật giáo. Hàng trăm ngàn Phật
tử cả tăng lẫn tục, những du khách từ các nơi trên thế giới đã đến
Bồ-đề Đạo Tràng để cầu nguyện và tu tập. Các vị sư Tây Tạng mỗi
buổi sáng, buổi tối đến đến đốt nến, đèn để cầu nguyện cho hòa
bình thế giới. Những nét đẹp khảo cổ, nghệ thuật của đại tháp từ
từ đã được giữ gìn một cách khoa học hơn do bộ phận quản lý của
Phật giáo Ấn Độ phụ trách.
Đại tháp Bồ-đề (the Maha Bodhi
Temple) là nơi gắn liền với những dữ kiện giác ngộ của Đức Phật. Nói
một cách cụ thể có ba vật liên kết chặc chẻ với sự chứng ngộ của
Ngài là ngôi đại tháp (Maha Bodhi), cây bồ-đề thiêng liêng (Bodhi tree) và
tòa Kim cang (Vajrasana).
NGÔI ĐẠI THÁP BỒ-ĐỀ
Là ngôi tháp chính vuông vức mỗi
bề 15 mét và nhọn dần lên đỉnh theo hình kim tự tháp, cao khoảng 52
mét. Bốn cạnh tháp có 4 tháp nhỏ. Bên trong thờ tượng Phật Thích-ca-mâu-ni
ngồi thiền dưới cội bồ-đề hướng mặt về phía đông giống y tư thế
Đức Thế tôn đã ngồi khi thành đạo.
CÂY BỒ-ĐỀ
Cây tọa lạc phía sau đại tháp rất
to lớn, tàng lá sum suê bao phủ đầy lá tươi xanh tốt. Đã hơn 25 thế kỷ
qua cây bồ-đề cũng đã biết bao lần sanh và diệt rồi lại sanh. Theo
ông Alexander Cunningham, thì cây bồ-đề này là cháu chít khoảng đời thứ
20 của cây bồ-đề mẹ và cây này mới hơn 100 tuổi. Cây bồ-đề rất
được tôn trọng kính thờ vì đó là biểu tượng cuộc đời và sự
giác ngộ của Đức Phật.
TÒA KIM CANG (VAJRASANA)
Tòa bằng đồng mạ vàng dài 2,28
mét, rộng 1,5 mét và cao 0,9 mét; trên mặt và xung quanh tòa có khắc rất
nhiều hoa văn rất mỹ thuật. Tòa nằm bên dưới giữa cội bồ-đề và
ngôi đại tháp. Tòa Kim cang là vật thiêng liêng nhất ở Bồ-đề Đạo Tràng
vì đây là trung tâm của vũ trụ phát sáng năng lực thức tỉnh từ Đức
Phật. Chính tại nơi tòa ngồi này, Đức Phật đã giác ngộ. Vì vậy,
tòa này là điểm không thể so sánh được, là điểm tối thượng và chỉ
có nơi này Đức Phật mới có thể giác ngộ. Với lòng tin và sự tín
thành này sẽ khiến phát sinh sự thanh tịnh trong nội tâm của chúng ta. Đệ
tử Phật tin rằng có những năng lực siêu thoát vô hình đang bao phủ khắp
không gian ở Bồ-đề Đạo Tràng và sẽ làm tăng thêm sức mạnh tâm linh
của chúng ta trên con đường hoàn thiện trở về tánh giác.
Ngoài ba điểm trên, còn có những
vật thiêng liêng khác như là nơi Đức Phật đã trãi qua bảy tuần sau khi
giác ngộ hoặc có những vật thiêng liêng liên quan đến cuộc đời của
Ngài tại Bồ-đề Đạo Tràng như :
1. Tháp Animeslochana: Nơi Đức Phật
đã trãi qua 1 tuần vào tuần thứ hai sau khi giác ngộ để ngồi nhìn chăm
chú vào cội bồ-đề với ánh mắt biết ơn cây đã che chở cho Ngài suốt
thời gian qua.
2. Trụ Chankramenar: Chạy dọc
theo hành lang phía bắc của đại tháp sẽ có một khối xi-măng dài 18,2
mét và cao 0,9 mét; có 18 hình hoa sen khắc nổi lên trên nền để đánh dấu
vào tuần lễ thứ ba Đức Phật đã đi kinh hành tới lui thì có 18 đóa
hoa kỳ diệu đã hiện lên để đỡ gót chân ngài.
3. Đền Ratnagraha: là một ngôi
đền nhỏ không mái, đánh dấu nơi Ngài ngồi thiền trong tuần thứ tư.
Khi Ngài ngồi nơi đây thì thân Ngài tỏa ra những luồng hào quang màu
xanh, vàng, đỏ, trắng và cam.
4. Cây Nigrodha (Ni câu đà) :
Trong tuần thứ năm Đức Phật đã ngồi thiền dưới cây này và một người
Bà-la-môn đã đến vấn nạn Thế tôn thế nào là ý nghĩa của Bà-la-môn.
Đức Phật đáp rằng một người không phải khi sanh ra là Bà-la-môn mà
chính là khi chết đi việc ấy mới quyết định tùy theo nghiệp anh ta đã
làm trong đời này. Bà-la-môn có nghĩa là Phạm chí và chỉ những người
nào tạo nghiệp lành mới có thể sanh thiên thì mới được gọi như thế.
5. Hồ Rồng mù Muchalinda: Nơi
vua rồng Muchalinda đã hiện lên lấy thân quấn mình Đức Phật và đầu làm
tràng cái để che chở cho Ngài khỏi bị mưa gió làm ướt, khi Đức Phật
đang ngồi thiền vào tuần lễ thứ sáu.
6. Cây Ravyatna: Trong tuần lễ thứ
bảy sau khi thành đạo, Đức Phật đã ngồi dưới cây này để thiền định
và nhận đồ cúng dường từ những vị thương gia cũng như của bốn vua
trời.
7. Trụ đá vua A Dục: Có ba trụ
nhỏ do vua A Dục dựng ngay cổng ra vào của đại tháp và một trụ lớn
ở trước hồ rồng Muchalinda.
8. Những kiến trúc quanh tháp:
Có vô số những kiến trúc tháp nhỏ, bé, vừa, trung ở chung quanh tháp
làm nổi bật sư uy nghi của đại tháp. Đặc biệt những tháp này do những
vị vua chúa, quan thần đã xây dựng để nhớ ơn Đức Phật hoặc sau khi
họ thành công được một việc gì thì xây tháp để tạ ơn.
9. Sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana):
Cách đại tháp 180 mét, sông này ngày nay được gọi là sông Lilajan. Bề rộng
của sông gần 1 km. Đây là nơi Đức Phật đã tắm trước khi Ngài lên tọa
thiền và thành đạo.
10. Sujata-Kuti : là nơi nàng
Sujata dâng sữa. Vượt sông Ni-liên-thuyền đi về hướng nam 2 km có một
miếu nhỏ có hình Đức Phật ngồi thiền và cô gái chăn cừu Sujata dâng
sữa, để đánh dấu chính nơi đây Sa-môn Cồ-đàm đã nhận bát cháo sữa
từ nàng Sujata cúng dường.
11. Khổ hạnh lâm: Vượt khỏi
sông Ni-liên-thuyền đi xe khoảng 30 phút về hướng Gaya, rồi đi bộ khoảng
1 tiếng đồng hồ nữa sẽ đến một cái núi có hang đá tối. Tương truyền
nơi đây Đức Phật đã lưu bóng sau khi chư thiên cho biết nơi đây không
phải là nơi thích đáng để Ngài thị hiện chứng quả.
Bên cạnh những điểm trên là những
di tích lịch sử quá khứ, khách hành hương chiêm bái còn có thể viếng
thăm những thánh tích hiện nay như Bảo tàng viện nằm ở phía tây đại
tháp khoảng hơn 1 cây số. Nơi này trưng bày những tượng Phật, những pháp
khí, những món đồ cổ … do các nhà khảo cổ học khai quật và tìm thấy
tại khu vực Bồ-đề Đạo Tràng này.
Ngoài bảo tàng viện ra, còn có vô
số những chùa chiền, đặc biệt những chùa thuộc vùng Đông Nam Á như:
Nhật bản, Thái lan, Tích lan, Miến điện, Lào, Taiwan, Trung hoa, Việt nam,
Nepal, Tây Tạng, Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Sikim … Mỗi chùa với những
nét nghệ thuật của nước mình đã tạo nên một sự tổng hợp hài hòa
sinh động của ngành mỹ thuật Phật giáo hiện đại tại Bồ-đề Đạo
Tràng trong kỷ nguyên mới này.
Địa bàn Bồ-đề Đạo Tràng hiện
nay nằm khoảng 24 đến 25.9 vĩ độ bắc và khoảng 84 đến 86 kinh độ đông.
Nơi này cao hơn mặt biển 112 mét. Nhiệt độ ở đây giữa mùa đông và
mùa hè không cách biệt nhau mấy. Khoảng từ 24 đến 46 độ C trong mùa hè
và khoảng từ 24 đến 5 độ C trong mùa đông. Trong mùa mưa thì khoảng 118
cm3.
Bồ-đề Đạo Tràng hiện nay có một
mạng thông tin tiến bộ hơn trước dù không nhiều nhưng hệ thống
internet, điện thoại, fax đã có để liên lạc khắp nơi trên thế giới.
Tại Bồ-đề Đạo Tràng có nhiều đường giao thông để đi Delhi,
Varanasi, Dhanbad, Calcata, Sanchi. Tại Gaya có một ga xe lửa lớn ở phía đông
nối liền với Delhi, Mumbai, Nagpur, Calcata, Puri, Varanasi, Allahabad, và Jaipur.
Ngoài ra tại Varanasi và Patna (Thủ phủ của tiểu bang Bihar) cũng có một
sân bay nội địa có tuyến bay mỗi ngày đến các thành phố lớn của Ấn
Độ.
Bồ-đề Đạo Tràng ngày nay phát
triển thành một thị trấn nhỏ đẹp với đầy đủ tiện nghi như : bưu
điện, nhà băng, điện thoại, thư viện, khách sạn, phòng trọ, bệnh xá,
chợ búa, dịch vụ thông tin, trạm xe buýt, trạm cảnh sát, trạm cung cấp
điện nước, văn phòng quản lý đại tháp, dịch vụ du lịch của chính
phủ và tư nhân phục vụ cho nhu cầu chiêm bái, du lịch các nơi như: đồi
Barabar, núi Linh thứu, trường Đại học Nalanda, Parvapuri, thác Kakolat, thị
trấn Gaya …
Tóm lại Bồ-đề Đạo Tràng là một
ngôi thị trấn nhỏ nổi tiếng về Phật giáo, về sự thanh bình, trở về
nội tâm và thức tĩnh mà Sa-môn Cù Đàm đã giác ngộ tại đây. Bồ-đề
Đạo Tràng trong nhiều thế kỷ qua đã là điểm trung tâm cho tất cả tăng
lẫn tục tu học và thực hiện lời dạy của Đức Phật. Bồ-đề Đạo
Tràng trở thành một nơi thiêng liêng nhất của Phật giáo thế giới và
trở thành một trung tâm hành hương Phật giáo lớn nhất vì có liên quan
đến cuộc đời và sự giác ngộ của Đức Thế tôn cũng như là một nơi
thu hút các nhà khảo cổ, nhà lịch sử, khách du lịch, giới báo chí … tại
Ấn Độ và từ hải ngoại tìm đến.
***
SÁCH THAM KHẢO
Buddha Gaya Temple: its History,
Dipak K. Barua, Buddha Gaya, 1981.
Buddha Vandana, Buddha Gaya Temple
Managerment Committee, Buddha Gaya, 1998.
Xứ Phật Tình Quê, Thích Hạnh
Nguyện và Vô Thức, tập I, Đại Thừa, 1996.
CHÚ THÍCH
[1] Malalasekera G.P. ed. Extended Mahavamsa, 1937, p. 14;
Buddha Gaya Temple its History, Buddha Gaya Temple Managerment Committee, Buddha Gaya,
1981, p. 1.
[2] Prof. Naresh Banerjee, Bodh Gaya: The Place of
enlightenment, Buddha Vandana, Buddha Gaya Temple Managerment Committee, 1998, p. 3.