- SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG NAM Á
- TRONG VIỆC DUY TRÌ NGÔI ĐẠI THÁP
BỒ-ĐỀ
- Diệu Hương dịch
***
Đại tháp Bồ-đề (Maha Bodhi
Temple, tên hiện nay gọi là Buddha Gaya Temple) có lịch sử văn hóa và tôn
giáo lâu đời. Đại tháp Bồ-đề này là nơi thờ phượng và chiêm bái của
phật tử vùng Đông Nam Á đã nhận được sự bảo trợ của các triều
đại trong quá khứ, không chỉ Ấn Độ mà còn có các quốc gia vùng Đông
Nam Á tham gia trong việc bảo vệ, duy trì, trùng tu và nâng cấp đại tháp
này.
Suốt thời kỳ đen tối của lịch
sử Ấn Độ, từ thế kỷ XI đến XV, các vua quan Miến Điện và Tích Lan
đã nỗ lực phục hồi ngôi đại tháp Bồ-đề.
Từ thế kỷ I đến thế kỷ II
trước tây lịch, các nhà chiêm bái Tích Lan đã liên tiếp đến Bồ-đề
Đạo Tràng, và đã cống hiến rất nhiều trong việc bảo quản và trùng
tu đại tháp Bồ-đề này. Điều này được biết qua sự cúng dường của
Buddharaksta, người cư ngụ ở Tamprapani (Tích Lan) đã được khắc ghi trên
tường rào ở Bồ-đề Đạo Tràng và có niên đại trong khoảng thế kỷ
I và II trước tây lịch.
Một bản khắc trên bia đá khác
ở Bồ-đề Đạo Tràng có niên đại 588-89 đã ghi rằng Mahanama sống ở
Amardvipa, thuộc hoàng gia Tích Lan (Lankadwipa) đã xây một ngôi chùa tại đây.
Điều này được chứng thực bằng một bia đá khác được tìm thấy
trong các bức tường của đại tháp đã sụp đổ, nằm ở phía bắc của
đại tháp này.
Chư tăng Tích Lan Dharmadasa,
Dharmagupta và Damshitrasena đã đến chiêm bái thánh tích này và đã được
ghi nhận là những người đã có công đóng góp. Họ đã cúng dường hai
tượng Phật tại Bồ-đề Đạo Tràng.
Vua Tích Lan Meghavarna (352-357) đã
xây dựng một đại già-lam có sức chứa 1000 chư tăng và các nhà chiêm
bái. Ký sự của Ngài Huyền Trang (năm 635) ghi rằng khoảng 1000 tỳ-kheo
theo truyền thống Thượng Toạ (Sthavira) đã cư ngụ tại đại già-lam
này. Một bia khắc ở Bồ-đề Đạo Tràng cũng có ghi có một hậu duệ của
vua Tích Lan tên là Sarmana Prakhyatakirti đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng
và đảnh lễ Tam bảo (Ratnatraya) để cầu nguyện hòa bình cho nhân loại.
Bia ký này có niên đại khoảng thế kỷ thứ VI và VII.
Một bia đá Janibigha khác có khắc
ghi một ngôi làng tên Kotthala, nơi có tòa Kim cang (Vajrasana), có một vị tăng
Tích Lan tên Marigalaswamin đã cư trú tại đó. Bia này có niên đại 1179.
Một bia ký khác thuộc thế kỷ XII
có ghi sự hiện diện liên tục của chư tăng Tích Lan ở Bồ-đề Đạo Tràng
và Udaysri đã xây một tượng Phật tại đây.
Tháng 1/1891, Hòa thượng Anagarika
Dhammapala, người Tích Lan đã đến viếng Bồ-đề Đạo Tràng. Ngài xót xa
trước quang cảnh đổ nát của đại tháp và đã phát nguyện dâng trọn
cuộđời mình để phục hồi lại di tích.
Vào tháng 5/1891 Hội Maha Bodhi của
Ấn Độ được thành lập tại thủ đô Colombo, Tích Lan để nhằm mục đích
trùng tu di tích Phật giáo. Hội nghị Phật giáo lần thứ nhất được tổ
chức tại Bồ-đề Đạo Tràng vào tháng 10/1891 với sự tham dự của các
nước như Tích Lan, Chittagong, Trung Hoa, Nhật Bản nhằm xúc tiến các hoạt
động cao quý trong việc hồi phục lại thánh địa thiêng liêng nhất của
Phật giáo là Bồ-đề Đạo Tràng – nơi Đức Phật thành đạo.
Trong thời gian gần đây, với truyền
thống kính thờ và bảo tồn đại tháp Bồ-đề này, chính phủ và Phật
tử Tích Lan đã cúng tặng một tấm trướng bằng vàng rất đẹp và trang
nhã cho đại tháp, xây một hàng rào bảo vệ tòa Kim cang và cất 101 căn hộ
cho người nghèo ở Bồ-đề Đạo Tràng. Điều này đã đánh dấu mốc lịch
sử quan trọng trong mối quan hệ hữu nghị lâu đời giữa Tích Lan và Ấn
Độ.
Vua Pagan của Miến Điện cũng được
ghi nhận là người có công trong việc trùng tu đại tháp Bồ-đề. Điều
này có thể được xác định qua tấm bia ký của Miến Điện vào thế kỷ
XI, được phát hiện ở Bồ-đề Đạo Tràng. Như vậy, theo dòng thời gian
các vua, quan, quý tộc, tu sĩ Miến Điện đã trùng tu và duy trì đại tháp.
Raja-Sad-Meng, Raja-Senpya-Sokhentra-Mengi là những người bảo trợ cho tháp
này.
Các nhà chiêm bái Trung Hoa như Pháp
Hiền, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh trong nhật ký hành hương của mình đã mô tả
một cách rất chi tiết về đại tháp Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng và
các hoạt động tôn giáo ở vùng này. Ngài Nghĩa Tịnh đã đề cập đến
việc vua Tích Lan đã xây dựng đại tháp Bồ-đề và tăng già-lam gần
cây bồ đề.
Các bia ký bằng tiếng Trung Hoa đã
ghi nhận Chi-I, Yen-Shu, I-Ching, I-Lin và Hiu-Wen đã xây dựng tháp ở Bồ-đề
Đạo Tràng, xây một chánh điện và cúng một tấm y kim tuyến phủ trên
tòa Kim cang và được ủy quyền để xây nhiều tháp xung quanh. Điều này
chứng minh sự nhiệt tâm làm Phật sự của người Trung Hoa ở Bồ-đề Đạo
Tràng. Bia ký của Chi-I có ghi chép sự kiện ngài cùng với những người hành
hương khác đến đảnh lễ tòa Kim cang. Hơn nữa trong suốt triều đại nhà
Tống , vị tăng Yun-Shu đã ghi nhận: "Họ đi cùng tôi đến đảnh lễ
thánh tích của Phật, thầy I-Ching và I-Lin thì từ tu viện đến. Sau khi
thuyết pháp ở phía đông thủ đô, mỗi người trong họ mang theo một tấm
phướng Kasaya thêu kim tuyến để cúng ở chánh điện của đại tháp và
ngồi hồi tưởng tại nơi đó."
Tóm lại, sự đóng góp về nhân lực
và tài lực của Phật giáo vùng Đông Nam Á ở Bồ-đề Đạo Tràng là do
những cá nhân, những tổ chức đòan thể với nhiều quan điểm khác nhau
nhưng tất cả cùng chung một mục đích là bảo tồn đại tháp và xúc tiến
việc chấn hưng Phật giáo. Từ đó, những hoạt động xây dựng cũng như
các Phật sự nhắm tới sự trau giồi các giá trị văn hóa và tôn giáo tại
Ấn Độ và tất cả đã đang được sự ủng hộ chẳng những từ giới
Phật giáo của vùng Đông Nam Á mà còn bắt đầu lan rộng đến các quốc
gia châu Âu.
***
[Dịch từ nguyên tác tiếng
Anh "Contribution of South East Asia to the Preservation of Maha Bodhi Temple"
của Ven. M. Wimalasara, đăng trong kỷ yếu Buddha Vandana, Buddha Gaya
Temple Management Committee, Buddha Gaya, 1981, p. 39].