- Nepal và vườn
Lumbini
- Nguyên Anh lược dịch
Nepal là một thung lũng nằm giữa
những núi đồi của vùng Hy-mã-lạp Sơn, giáp biên giới vùng Đông Bắc
Ấn Độ. Về phía Bắc, Nepal giáp Tây Tạng, về phía Đông giáp Sikkim;
phía Nam giáp Bengal và Uttar Pradesh; phía Tây giáp Kumaon. Trên biên thùy vùng
Bắc Nepal, có rất nhiều đỉnh núi cao nhất của dãy Hy-mã-lạp Sơn:
Dhawalagiri (26.837 ft), Machapuchar, Gaurishankicr và Yasa (24.000 ft), Gosain than
(26,313 ft), đỉnh Everest (29.002 ft), Kinchinjunga (28.146 ft) v.v...
Vào lúc thời tiết trong sáng người
ta có thể thấy rặng núi đầy tuyết phủ đẹp lộng lẫy theo một đường
hầu như dài bất tận, bắt đầu từ đỉnh của một vài rặng núi thấp
gần Kathmandu.
Những đường bộ đi đến Nepal vẫn
còn đầy tính cách nguy hiểm, đường dễ nhất để vào thung lũng Nepal là
đường hàng không bay từ Patna đến. Ngay chính từ thành phố này mà hồi
xưa được gọi là thành Pataliputra, vị vua Phật tử vĩ đại là Asoka đã
khởi hành để đi chiêm bái nơi Thánh địa Đản sinh của đức Phật, vào
năm 250 (trướcT.C). Bay trên những dãy núi của Hy-mã-lạp Sơn với một độ
cao khoảng sáu nghìn bộ (6.000 ft), người ta có thể thấy được một
phong cảnh đẹp như tranh vẽ của cảnh núi đẹp tuyệt vời với những sông
dài, những rừng cây, những khoảng rừng thưa, những thung lũng và những
đỉnh núi cao đầy tuyết phủ. Sau khoảng một giờ bay thì người ta phải
lưu ý là chiếc máy bay đang hạ thấp xuống dần để hành khách có thể
nhìn quanh và nhận ra một thung lũng êm ả với những cánh đồng lúa, những
nhà nông bận rộn, những bầy gia súc và cừu và những căn nhà gỗ nhỏ
có ba hoặc bốn tầng. Quang cảnh đó có nghĩa là thung lũng Kathmandu là phần
đất quan trọng nhất của Nepal.
MỘT VÙNG ĐẤT
NHIỀU ĐỀN CHÙA
Nepal là một xứ có nhiều đền chùa:
Một cách chắc chắn là con số lên đến 2733 ngôi. Hai bên những con đường
hẹp ở Kathmandu và Lalipur người ta có thể thấy những kiến trúc đền
chùa trong nhiều dặm. Những đền chùa nầy đều là những cấu trúc bằng
gạch có nhiều phù điêu bằng gỗ thanh tú...
Ở Nepal có những "dagoba"
kiến trúc theo cùng kiểu như những "dagoba" đã thấy ở Sri Lanka
(Tích Lan) và cũng có những "Dagoba" kiến trúc kiểu Ấn Độ theo
kiểu chùa của Đại tháp Bồ Đề (The Maha Bodhi temple) ở Bồ Đề Đạo
Tràng (Buddha Gaya). Nơi thờ phụng thiêng liêng nhất của Phật giáo Nepal
là ngôi tháp Swayambhunath xây trên đỉnh ngọn đồi Swayambhunath ở
Kathmandu. Một nét đặc trưng riêng biệt của các ngôi "dagoba" ở
Nepal là hình vẽ hai con mắt lên mỗi mặt của một cấu trúc hình khối
vuông bên dưới một tháp hình nón cao (11 tầng) mang hình một cái lọng
(bên trên lại còn một chóp nhọn nữa). Những cặp mắt này là biểu hiện
cặp mắt từ bi của đức Bổn Sư. Những ngôi "dagoba" và những nơi
thờ phụng thiêng liêng khác ở Nepal là Both Nath, Namo Buddha, Maha Bodhi,
Machindranath, Shrigha Vihara và Charumathi.
NHỮNG LIÊN QUAN
TIỀN SỬ VỚI PHẬT GIÁO
Xứ Nepal đã có quan hệ với Phật
giáo từ thời tiền sử, trước cả biến cố lịch sử của đức Gautama
Buddha. Theo truyền thuyết Nepal và kinh sách về tôn giáo thì chư vị cổ Phật:
Dipankara, Vipassa, Kakusanda, Konagama và Kashyapa đã từng đến thăm viếng cõi
xứ Nepal này. Theo truyền thống Đại thừa rất có uy tín ở Nepal thì cõi
đất xứ này được tạo cho con người đến sinh tụ nhờ một hành động
của đức Phật Vipassi (Tỳ Bà Thi). Người ta bảo rằng vào ngày xa xưa,
thung lũng Nepal là một cái hồ đẹp có đủ tất cả mọi loài thủy thảo
trừ ra cây hoa sen. Đức Phật đến viếng cái hồ này và Ngài để ý rằng
giữa nhiều loại thủy thảo trong hồ thì Ngài không thấy có hoa sen. Bởi
vậy, Ngài đã mang đến một củ sen, ném nó vào trong nước và nói rằng
một ngày nào đó, khi củ sen nảy lên một "ngó" sen và vào lần nở
hoa đầu tiên của cây sen thì một vị Chúa tể của Vũ trụ sẽ sinh ra
ở trung tâm của đóa hoa sen có dáng một cây đèn tuyệt vời và nó sẽ
thắp sáng toàn bộ vũ trụ. Người ta cũng kể rằng vào một thời đại
sau, Bồ-tát Văn Thù (Manjusri) đã từ Trung Quốc đến hồ này và tạo một
đường nứt theo vành núi xung quanh với cây kiếm "chandrahasa" của
Ngài, làm cho nước cạn róc đi. Như vậy là xứ Nepal được cấu tạo cho
hợp với sự sinh tụ của con người. Đường nứt trong dãy núi bị cắt
bởi Ngài Văn Thù, truyền thuyết nói tiếp, hiện nay được gọi là thung
lũng Kodwa mà sông Dhagmati đang chảy qua.
SỰ SUY ĐỒI PHẬT
GIÁO Ở NEPAL
Hai giống dân đông nhất ở Nepal
là giống người Newars và giống người Gorhhas. Người ta cho rằng người
Gorhhas là hậu duệ của giai tầng Bà-la-môn, Ấn Độ và giống dân Bajputs
bị người Hồi giáo (Pruslims) đuổi chạy và đã đến tìm nơi trú ẩn
ở Nepal. Họ là người Ấn Độ; còn giống Newars thì đa số là tín đồ
Phật giáo. Sự suy đồi của Phật giáo ở Nepal chủ yếu là do sự phá hoại
của Shunkaracharya. Thiên anh hùng ca Vamsavali của Nepal đã nói:
"Shunkaracharya đã phá hủy tín ngưỡng Phật giáo và không cho phép một
"người nào theo đạo Phật, nhưng ông bị buộc phải để lại một số
Phật tử trong một số nơi với tư cách là những Tăng sĩ giữ các chùa
miếu, tại những nơi ấy ông thấy rõ rằng không có một người nào
khác có đủ khả năng có thể làm hài lòng các thần linh do các Phật tử
vĩ đại đã tôn trí trong các chùa miếu đó. Sau đó, ông quay về bờ biển,
để lại phần đất phía bắc của thế giới không binh phục nữa"."Những
xứ núi non nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã có đủ điều kiện an toàn
cho những kẻ tội phạm của một sự đàn áp tôn giáo. Kể từ đầu, ở
Nepal, Bhosu, và Tây Tạng, tín ngưỡng Phật giáo đã được đón nhận một
cách chân thành và đã được nâng đỡ một cách nhiệt tình; và mặc dầu
Sankaru xua toán người lánh nạn từ Hinduslan vào thung lũng Nepal, và đã
giáng những đòn tổn hại nhất vào nền văn học và kiến trúc thuộc
tôn giáo của người Newars; nhưng ông vẫn không thể phá đổ hoàn toàn
tín ngưỡng của họ được".
Cho đến nay, Một ngàn năm đã
trôi qua kể từ khi Sankara mất ở Tây Tạng và sự nỗ lực phá hủy sự
tôn thờ đức Phật của ông là vô ích, vì đạo Phật đã vẫn chiến thắng
trên mọi cuộc đàn áp của ông; và tại các xứ núi non ấy, đạo Phật
đã vẫn tiếp tục là một quốc giáo cho đến tận ngày nay (lược trích
từ cuốn Nepal của Dr. U. A. Oldlield, nguyên văn chú). Theo nhà chiêm bái
Trung Quốc là Pháp Hiền thì bất chấp những nỗ lực của Shankaracharya để
quét sạch Phật giáo ra khỏi Nepal, Phật giáo vẫn đã long thịnh ở xứ
này khá muộn vào thế kỷ thứ VI T.C. Sau T.C Ngài Pháp Hiền đã đến
Nepal vào năm 406 A.D. trong cuộc hành hương đến các Thánh địa có liên
quan đến đời sống của đức Phật. Trong tập "Phật Quốc Ký".
Ngài Pháp Hiền đã miêu tả một số địa điểm ở Nepal. Những địa điểm
nầy gồm có cả Kapilavastu, thủ đô vương quốc của vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) và rừng Lumbini (Lâm-tỳ-ni) là nơi mà Thái tử Siddharta (Tất-đạt-đa)
đã đản sinh...
LUMBINI, NƠI ĐỨC
PHẬT ĐẢN SINH
Theo lời giải thích trong những cuốn
sách cổ thì Lumbini ngày xưa hẳn phải nằm trong số những vườn cây đẹp
đẽ nhất. Nhưng, hỡi ôi, vương quốc Kapilavastu nhỏ bé ngay tức khắc đã
trở thành một minh họa sáng chói về lời kinh Phật thuyết rằng mọi sự
mọi vật đều chuyển biến. Chưa đầy một thế kỷ sau ngày Đản sinh thì
bộ tộc Sakyas cai trị ở đây đã bị sụp đổ hoàn toàn và đô thành của
họ đã bỏ hoang phế. Vườn Lumbini đẹp mỹ miều nhất, cùng chung số phận
này, đã rơi trở lại vào nanh vuốt của rừng nhiệt đới hoang rậm xung
quanh, luôn luôn hăm hở chực vồ lấy nó. Vì vậy mà nhà chiêm bái Trung
Quốc, Ngài Pháp Hiền, khi đến vùng lân cận đó vào đầu thế kỷ thứ
V của kỷ nguyên T.C đã nói: "Vương quốc Kalilavastu (Ca-tỳ-la-vệ) là
nơi hoang vắng vô cùng, dân cư thưa thớt, những đàn voi và sư tử hoang dã
thường được bắt gặp ở trên các con đường cũ ". Nơi Đản sinh
thì hiện nay khó lòng biết được vị trí thực sự là ở chỗ nào, nếu
giả như không có Đại đế Asoka (A-dục), vị Quốc vương tuyệt vời nầy,
người đã sống vào thế kỷ thứ III trước T.C. nhờ nghe được lời dạy
của đạo Phật, mà đã được chuyển đổi từ một tên độc tài khát
máu và rất hiếu chiến thành một nhà cai trị nhân đạo và một người
xiển dương Phật giáo hết sức nhiệt tình; vào năm thứ 12 thời nhà vua
trị vì, Asoka đã tổ chức một cuộc hành hương vĩ đại và đã dựng
lên nhiều trụ đá rất lớn tại các vùng thánh địa với những lời miêu
tả chi tiết. Ngay trong thời tại thế của Ngài, đức Phật đã nổi tiếng
một cách dị thường. Hầu như là người ta không thể nghi ngờ được,
sau một khoảng thời gian dài gần 3 thế kỷ, vua Asoka đã có nhiều phương
tiện phong phú để chỉ rõ từng địa vực một cách chính xác.
Lumbini, như tôi đang thấy trước mắt,
vẫn là một địa điểm quạnh vắng. Vào một buổi chiều, tôi đã đến
Nautanwa là điểm cuối cùng của một đường xe lửa nhỏ giống như một
ngón tay chỉ về hướng Nepal. Bên sau những dãy đồi có mây trùm cả đỉnh
đi về phía bắc là nhiều núi non hoang vắng không có đường sắt, đường
bộ chi cả...
... Phải cần tới ba giờ mới tới
vườn Lumbini. Ở đây, cũng vậy, rừng nhiệt đới đã được phát quang.
Thực ra nó có vẻ hoang vắng và chẳng có gì đẹp đẽ. Ngay cả rừng nhiệt
đới nguyên thủy hình như cũng có vẻ giống là vườn cây hơn là những
cánh rừng đầy vết sẹo của các công trình khảo cổ học chưa hoàn tất.
Cái cột còn lại của trụ đá Asoka, bị những kẻ xâm lược đập gẫy
xuống nằm trên đất đã 800 năm qua, đã được bảo vệ bằng một hàng
rào sắt xấu xí và đối diện bởi một đền thờ Ấn Độ giáo hoàn
toàn vô ý nghĩa. Về phía bên kia là những ụ gạch đã được chính quyền
Nepal dựng lên vào những năm trước đây theo một hình tháp, nhưng nó
hoàn toàn thiếu hẳn vẻ mỹ thuật. Trong một lúc, tim tôi đau nhói, nhưng
rồi tâm trạng của tôi đã thay đổi, vì tôi bắt đầu nhận ra những dấu
hiệu Lumbini đang trở lại dáng vẻ riêng của nó. Một ngôi chùa hình vòm
khả ái có nhiều cánh cửa bằng gỗ "teak" được chạm khắc mỹ
diệu đang được xây cất lên cùng với nhiều nhà trọ cho khách hành hương,
một con đường cho xe ô-tô đi đang được xây dựng, và những phế tích
của các tu viện cổ đang được khám phá một cách kiên nhẫn. Lumbini đã
được dự định để trở thành một công viên dễ mến một lần nữa với
những bồn cỏ xanh lục và những rừng cây "Sal" có những cành nặng
trĩu hoa màu đỏ thắm.
CÂU VĂN TRÊN TRỤ
ĐÁ CỦA VUA ASOKA Ở LUMBINI
... Bây giờ, sau một thời gian dừng
lại ở Lumbini lâu như vậy là bởi vì tất cả chúng tôi muốn hiểu biết
những sự mới lạ và chân thực về những khảo cứu đối với Ấn Độ
do các nhà du lịch, các nhà văn và các sử gia Hy Lạp viết, nhiều hơn là
sách vở của chúng tôi, đó là bộ "Mahàvamsa" (Đại Sĩ). Chúng
tôi vẫn còn nhớ lại trong trí mình cái việc bất ngờ đã xảy ra khi một
quan chức có trách nhiệm trong chính quyền Mint ở Calcutta, ông James Prinsep,
là người đầu tiên đã giải được những chữ viết tay của vua Asoka.
Nhà học giả này đã bị rối trí trong một thời gian dài bởi loại chữ
viết bí mật tìm thấy trên những đồng tiền cổ Ấn Độ. Sau khi được
một trong những đồng tiền trong đó có một bản văn Hy Lạp và những chữ
viết không thể biết được trên mặt bên kia của đồng tiền. Ông chợt
nảy ra một ý kiến: Hẳn rằng nó phải là một bản dịch của một truyện
cổ Hy Lạp; ông đọc từng vần của thứ chữ mới này, trong lúc ông theo
nguyên bản văn Hy Lạp, ông đã chuyển giải sang tiếng Brahmi và sau đó
chuyển dịch sang chữ viết Kharosti là căn nguyên có họ hàng với chữ
Devanagari và tất cả các thứ chữ viết khác của Ấn Độ và của những
xứ nằm sát biên thùy Ấn Độ đều có lối viết của họ theo chữ viết
từ xứ Ấn Độ cổ thời.
Ngay sau sự việc bất ngờ đầy hy
vọng này, xảy ra vào năm 1834 - 1835 C.E; Prinsep là nhà học giả đầu tiên
trong thời hiện đại đã giải thích được sự bí mật của những lời
văn khắc trên bia đá cứng. Khi ông được cho xem một bản dập của một
trong những Sắc Luật khắc trên đá (the Rock Edicts), ông đã giảng giải
được câu dẫn nhập sau này: "Devànampiye Piyadasì làjà hevam àha"
là "Đức vua được yêu mến của các vị thần linh, ngài đã nói với
tính cách đường bệ nhân từ của ngài như thế". Từ biến cố đáng
ghi nhớ ấy, thì một sự tìm tòi có tính cách khảo cổ học rộng lớn
và sự nghiên cứu nhiều phần đất của nước Ấn Độ lại phải cần
nhiều năm nữa trước lúc cột đá của Asoka tại vườn Lumbini được khám
phá vào năm 1896 và câu văn khắc trên cột đá là: "Hida Pudhe Jàta
Sàkyamunìti" có nghĩa "Đây là nơi đấng Giác Ngộ, là đấng Hiền
Sĩ của họ Sàkya đã đản sinh" trở thành nổi danh trên thế giới từ
đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỂ
DỊCH THUẬT
1) K.G.Amaradasa, Buddhism in the land of
the Buddha, tạp chí Jayanti V.2 N.II March 1957, trang 17 trở đi.
2) John Blofeld, Lumbini Where the Buddha was born, tạp chí Jayanti V.2 N.9, 10 Jan -
Feb. 1957, trang 13 trở đi.
3) Ven. C. Nyanasatta thera, Twenty - five centuries of Buddhism, tạp chí Jayanti V.1
N. 10 Feb. 1956 trang 01 trở đi. Tạp chí này xb ở Colombo, Tích Lan.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phattich/012-lumbini.htm