- Phật
Giáo và Khủng Hoảng Môi Sinh
Sự phát triển của nền
khoa học kỹ thuật phương Tây hiện nay được cổ vũ bởi niềm tin rằng
khoa học ứng dụng có thể khử bỏ tất cả nhu cầu của con người và mở
ra một con đường cho một thời đại vàng son - một sự phồn vinh, về mặt
vật chất cho tất cả nhân loại. Hiện nay, con người sử dụng thành tựu
kỹ thuật chinh phục thiên nhiên nhằm mục đích phục vụ nhu cầu mong muốn
của con người. Một mặt đời sống của con người được đầy đủ,
thoải mái về đời sống vật chất. Mặt khác, khoa học hiện đại đã
thành công trong việc làm cho đời sống thoải mái hơn và an toàn hơn về
một số khía cạnh so với những thời kỳ trước đây. Tuy nhiên, những
thành phố bị bao phủ đầy khói của chúng ta, những hệ thống nước nhiễm
ô, sự tàn phá hoàn toàn của những ngôi rừng và những chất thải hóa học
nhắc nhở chúng ta một cách đau đớn rằng những sự chiến thắng về mặt
vật chất của chúng ta đã được thành đạt bằng những sự trả giá
kinh khủng. Không chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên đang dần dần bị hủy hoại
hoàn toàn tự nhiên, con ờiõ đặt chính anh ta vào một trạng thái vô
cùng nguy hiểm và mất đi hết tất cả bản chất nhân đạo của anh ta.
Các nền triết lý và tôn giáo Á Đông có
thể cung cấp cho xã hội Phương Tây hiện thời một nguồn tư liệu phong
phú có thể ủng hộ việc cùng chung tồn tại một cách hài hòa và hòa
bình, an lạc giữa nhân loại và thế giới tự nhiên. Đi tiên phong và nổi
bật nhất trong các tôn giáo Á Đông trong lĩnh vực này đó là Phật giáo.
Triết lý Phật giáo còn có thể đóng góp một phần chính yếu và quan trọng
cho sự phát triển của một nền triết lý về môi sinh hiện thời. Ngoài
ra, Phật giáo cũng còn đóng góp rất lớn cho một nền tâm lý môi sinh cho
xã hội phương Tây hiện thời bởi vì Phật giáo không có giả định trước
một sự hiện hữu của đấng thần linh, nhưng nó được đặt trên cơ sở
trí tuệ, sự hiểu biểt của từng cá nhân, và do đó Phật giáo đã và
đang đóng góp rất nhiều cho một “quan điểm, cách nhìn của thế giới”
đang luôn ảnh hưởng bởi những ý tưởng, tư duy khoa học thực nghiệm.
Và như bác học Albert Einstein đã phát biểu: “Nếu có một Tôn giáo nào
đương đầu với những nhu cầu khoa học hiện đại tân tiến, thì đó
là Phật giáo” (If there is religion thát
would cope with modern scientific needs it would be Buddhism)
Không
giống như những giả thuyết đã được đề cập trong một số sách vở
khác giải thích về nền văn minh phương Tây, những khía cạnh sau đây của
Phật giáo hoàn toàn ủng hộ việc chăm sóc bảo vệ môi sinh chúng ta đang
sống. Đây là một nền triết lý thấu hiểu rõ bản chất của mối liên
kết và sự tương quan triệt để của tất cả các pháp hiện tượng hữu
vi.
Con người là một
bộ phận của tự nhiên và không có sự phân biệt rõ ràng có thể được
đưa ra giữa chúng và những thứ xung quanh bởi vì tất cả hiện tượng,
pháp vi đều là vô thường biên đổi liên tục
và những thứ xung quanh bởi vì tất cả hiện tượng, pháp hữu
vi đều là vô thường biến đổi liên tục và cùng chịu chung những quy
luật tự nhiên. Theo Phật giáo những yếu tố của sự sinh tồn, hiẹn hữu
có quan hệ liên kết với quy luật nhân quả. Mặc dầu các yếu tố không
phải là bộ phậncủa tổng thể, nhưng chúng có quan hệ liên kết với
nhau và tương quan tương duyên với nhau. Sự ý thức rằng tất cả đều vô
thường biến dịch như Héraclite đã phát biểu: “Ngươi không thể bước hai lần trong cùng một
dòng sông” và rằng nhân loại phải chịu chi phối bởi quy luật nhân
quả hay nói đủ là nhân duyên qủa phải được nhìn nhận như là một cơ
sở quan trọng cho một sự hiểu biết đúng đắn về vai trò của con người
đối với thiên nhiên.
Một sự
nhận thức như thế có thể thúc đẩy một thái độ khiêm nhường và sự
quan tâm chu đáo hơn về môi sinh. Học thuyết Phật giáo rất phong phú những
nguồn thông tin liên quan đến sự quan hệ liên kết và tương quan tương
duyên của tất cả các phấp hữu vi. Nhưng với thời gian có giới hạn,
tác giả xin trình bày mối tương quan giữa đạo đức con người và tự
nhiên.
Mặc
dù sự thay đổi vốn bản chất đã có, nhưng Phật giáo tin rằng các quá
trình tự nhiên được ảnh hưởng bởi hành vi đạo đức con người. Một
số bài kinh trong hệ trong hệ tạng
Pali cho thấy rằng Phật giáo thời kỳ nguyên thủy tin rằng có một mối quan
hệ gần gũi thân thiết giữa hành vi đạo đức con người và môi trường
tự nhiên. Ý tưưỏng này được hệ thống hóa trong học thuyết 5 quy luật
tự nhiên (Panca Niyamadhmma) trong những bản số giải
sau này. Theo học thuyết này, trong vũ trụ có 5 quy luật tự nhiên đang hoạt động đó là: quy luật vật
lý, quy luật sinh lý, luận lý, và nhân quả. Đièu này có nghĩa là môi trường
vật lý của bất kỳ một lãnh vực nào tạo điều kiện cho sự tăng trưởng
và phát triển của bộ phận cấu thành về mặt sinh học của nó như quần
thể sinh vật và quần thể động vật.
Những
quần thể này, ngược lại, ảnh hưởng mô hình tư duy của con người
trong khi tương tác với chúng. Những mô hình tư duy quyết địnhtêu chuẩn
hành vi đạo đức. Tiến trình ngwọc lại của quy luật tương tác cũng có
thể xảy ra. Những hành vi của con người tiền hành ảnh hưởng không chỉ ở cơ cấu tâm lý của con người
mà còn liên quan đếnmôi trường sinh học và vật lý. Do đó, 5 quy luật
trên chứng minh rằng con người và thiên nhiên được kết hợp với nhau
trong một mối quan hệ tương quan hỗ trợ lẫn nhau. Và sự thay đổi của
cái này cũng cần thiết cho cái khác thay đổi theo. Thế giới vũ trụ bao
hàm cả thiên nhiên và con ngưòi thịnh hành hay suy đồi là tùy thuộc vào
hành vi đạo dức của con người.
Nếu những
hành vi đạo đức lan tràn, nghự trị trong xã hội thì con người và
thiên nhiên ngày càng trở nên tồi tệ đi. Nếu những hành vi đaọ đức
ngự trị trong xã hội thì những phẩm chất của cuộc sống con người và
thiên nhiên ngày càng cải thiện. Do đó tham, sân, si phát sinh ra sự ô nhiễm
cả bên trong tâm con người cũng ngư bên ngoài môi trưòng xung quanh. Đây cũng
chính là lý do tại sao Đức Phật thế giới do tâm tạo, do tâm điều khiển.
Do vậy, thiên nhiên và con ngưòi, theo những ý tưởng được diễn tả
trong tư tượngPhât giáo nguyên thủy, có quan hệ tương quan tương duyên.
Những
quan điẻm này về những sự tương tác và phản tương tác trong mối quan
hệ giưã con người và thiên nhiêndường như rất tương hợp với những
quan điểm của khoa học hiện đại tân tiến. Chẳng hạn như, tại Tây phương,
những công trình nghiên cứu về sinh thái học và sinh thái học con người
đã quan sát nhiều yếu tố khác nhau trong tự nhiên có quan hệ liên kết với
nhau như thế nào và bằng cách nào mà xâm lấn của con người bằng cách
này hay cách khác đưa đến ảnh hưởng về không gian thời gian.
Luận
đề của Phật giáo rằng hạnh phúc, an lạc phải tìm thấy thông qua việc
những dục vọng ham muốn, và sống một cuộc sống thiểu dục tri túc hơn
là thông qua sự sinh sôi nảy nở dục vọng ham muốn. Và mục đích của
Phật giáo là sự giác ngộ, hiẻu biết nhờ vào sự xuất gia tu tập, và
thiền định. Theo giáo lý của Phật giáo, con người phải biết cách làm
thỏa mãn những nhu cầu thực sự chứ không phải là dục vọng. Nguồn
tài nguyên thiên nhiên của thế giới
thì có hạn trong khi đó lòng tham của con người thì không có giới hạn.
Lòng tham của con ngưòi không có buông tha, muốn ngâú nghiến xâu xé thiên
nhien cho những mục đích vụ lợi riêng tư, khién cho thiên nhiên ngày càng
trở nên nghèo nàn, cạn kiệt, Phật giáo hoàn toàn ủng hộ những dức
tính vô tham, vô sâ, vô si dối với tất cả những sự theo đuổi của con
người. Tham lam phát sinh buồn rầu và những hậu quả không lành mạnh.
Tri túc thiểu dục là những đức tính đưọc đề cao trong Phật giáo. Một
con người, một chúng sanh sống một cuộc sống giản dị, ít ham muốn
được ủng hộ được đề cao như là
một mẫu người gương mẫu lý tưởng.
Sự đạm bạc và xa xỉ, hoang phí cũng bị lên án như nhau, như là hai cực
đoan thoái hóa trong đạo Phật. Sự khai thác thiên nhiên một cách quá đáng
như đang được thực thi chắc chắn sẽbị lên án bởi Phật giáo bằng
ngững từ ngữ mạnh mẽ nhất.
http://www.buddhismtoday.com/viet/sinhthai/PGvasinhthai.htm