- Phật
Giáo – Sinh Thái Học và Đạo Đức Toàn Cầu
NHẬP
ĐỀ
Các quốc gia dân tộc trên thế giới đang
chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong một thời kỳ nhân loại đang đi tìm
những mối tương quan mới hỗ trợ cho địa cầu, giữa những cuộc khủng
hoảng môi trường đe dọa chính sự hiện hữu của mọi hình thái sống
trên hành tinh này.
Trong khi những
nguyên nhân và cách giải quyết đặc biệt đang được các nhà khoa học,
kinh tế, luật gia, chính trị gia thảo luận, thì những sự kiện về sức
tàn phá rộng lớn đang báo động trong nhiều khu vực và vấn đề được
đặt ra: “Con người có phải là một chủng
loại có thể tồn tại trên một hành tinh bị nguy cơ hủy diệt không?”
Đối với nhiều
người, cuộc khủng hoảng môi sinh ở phạm vi rộng lớn và phức tạp như
vậy không chỉ là kết quả của vài yếu tố xã hội, chính trị, và kinh
tế, nó còn là cuộc khủng hoảng tinh thần và đạo đức mà muốn giải
quyết, sẽ cần phải có sự hiểu biết rộng hơn trong phạm vi triết lý
và tôn giáo về bản thân chúng ta là những tạo vật của thiên nhiên,
được đặt vào chu kỳ sống và tùy thuộc vào các hệ sinh thái. Do vậy
đạo Phật cần được xem xét lại theo quan điểm của cuộc khủng hoảng
môi trường hiện nay để tạo nên những quan điểm về thế giới và đạo
đức làm nền tảng cho những thái độ và giá trị căn bản của các nền
văn hóa và xã hội khác nhau.
Trong khi chúng ta thảo
luận các vấn đề trực diện với chúng ta trên thế giới, thì truyền thống
Phật giáo phải được xem xét lại là điều tất nhiên. Ta cần xác nhận
rằng đạo Phật là một trong các tôn giáo lớn nhất theo con số tín đồ.
Địa vị của Phật giáo ớ Á châu đã ổn định. Mãi cho đến thời kỳ
cận đại, đó là tôn giáo duy nhất hay truyền thống xã hội duy nhất
được tìm thấy trong khắp mọi lãnh vực văn hóa Á châu. Aûnh hưởng của
đạo Phật trên tính cách lịch sử và hiện trạng phát triển văn hóa và
xã hội ở Á châu, do đó, rất vĩ đại.
Hơn nữa đạo Phật
đưa ra một khuôn mẫu dành cho một kỷ nguyên của các lịch sử văn hóa
quốc tế. Ta có thể nói rằng đạo Phật là tôn giáo đầu tiên của thế
giới, vì đó là tôn giáo đầu tiên vượt lên các biên giới ngôn ngữ,
mô hình gia tộc, cơ cấu chính trị, phạm vi văn hóa. Trong thế kỷ vừa
qua, đạo Phật đã trở thành một tôn giáo “di động” và nhờ năng lực
của các xã hội Á châu hiện đại thúc đẩy, nó đang tìm được nhiều
trú xứ mới ở những nơi thật xa cách nhau như: Brazil, Australia, Đông-Tây
Aâu, Mỹ quốc. Vấn đề chính trước mắt chúng ta là liệu chúng ta có
tìm thây một cách giải quyết các vấn đề sinh thái trong đạo Phật không.
Cuộc khủng hoảng
môi trường thế giới đã thúc đẩy những người đảm trách tôn giáo và quan tâm đến xã hội đi tìm các tài
nguyên trong các truyền thống của họ để giải quyết những nguyên nhân căn bản của cuộc khủng hoảng này, và công nhận tiềm năng dồi dào của bình
diện chung giữa Phật giáo và sinh thái. Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ. Bài thuyết trình này là một phần trong số các bài nghiên cứu
được thực hiện tại Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Tp. Hồ
Chí Minh liên hệ đến Phật giáo và sinh
thái, quan niệm Phật giáo về môi trường và
đạo đức môi sinh… nhằm tạo thành phần đóng góp khiêm tốn của
các cộng đồng trí thức Phật giáo và môi trường ở Việt Nam vào cuộc
đối thoại đưa đến sống chung hòa bình và hữu nghị trong một thế giới
ngày càng bị đe dọa nặng nề, và cuộc hội thảo về nhu cầu đạo đức
toàn cầu, và đồng thời kêu gọi sự hợp tác giữa các cộng đồng trí
thức Phật giáo và môi trường trên thế giới, nhất là của các nước
trong khối Asean để thúc đẩy một vài sức hồi quang có hiệu lực về
các vấn đề này.
I. Quan Niệm Phật Giáo về Môi Trường và Đạo
Đức Môi Trường
Quan Niệm Căn Bản về Môi Trường và Khủng
Hoảng Môi Trường
A. Quan niệm về môi trường:
Sinh thái học là một khoa tương đối mới
liên quan đến những nguyên lý khác nhau điều khiển các tương quan giữa
sinh vật và môi trường của chúng. Có nhiều định nghĩa về sinh thái học.
Ở đây chúng tôi đề cập định nghĩa của P.D Sharma (F.N.I.E, Ban Sinh vật,
Đại học Delhi) trong quyển sách của ông có nhan đề “Sinh thái học và môi trường”:
“Ngày nay, Sinh thái học đang đóng góp rất
nhiều vào các chính sách xã hội, kinh tế, chính trị và các lãnh vực tương
tự trên thế giới. Ta thường gặp nhiều cách đề cập sinh thái học
trong các bài viết, các tạp chí, tuần báo hay nhật báo về xã hội, kinh
tế…”
Sinh thái học quả
thật đang đóng một vai trò quan trọng hạnh phúc nhân loại. Trước hết
đây là một đề tài thực tiễn và khoa sinh thái học hiện đại liên hệ
đến các yếu tố tùy thuộc lẫn nhau trong chức năng hoạt động giữa các
sinh vật và môi trường của chúng.
P.D Sharma nói thêm: “Không những môi trường ảnh hưởng đến
đời sống của các sinh vật, mà các sinh vật cũng biến đổi môi trường
như là kết quả của sự sinh trưởng, phân tán, tái tạo, tử vong của
chúng. Do vậy, môi trường phải chịu biến đổi do các hoạt động của
sinh vật. Môi trường năng động và các sinh vật dọn đường cho sự phát
triển nhiều loại sinh vật khác nhau qua tiến trình được gọi là liên tục. Tiến trình này tiếp diễn cho
đến khi sự phát triển của một cộng đồng có đủ khả năng tự thích
ứng trong quân bình với môi trường chung quanh. Giai đoạn cuối cùng này của
cộng đồng được gọi là cực điểm”.
Hai đoạn trích dẫn
trên chứng tỏ có một quan hệ sinh động giữa loài người và môi trường,
mối liên hệ ấy liên tục bất khả phân và tự nhiên chính mối tương
quan mật thiết này nói lên rằng vi phạm môi trường có nghĩa là vi phạm
đời sống mọi cá nhân, như ta có thể thấy từ cuộc khủng hoảng môi
trường hiện nay.
B. Cuộc khủng hoảng môi trường:
Từ “ô nhiễm”
được “Nhóm Hội thẩm về Ô nhiễm môi trường thuộc Ủy ban Cố vấn về Khoa học của
Tổng thống (Aán Độ) định nghĩa trong bảng báo cáo “Phục hồi đặc tính của môi trường”
như sau:
“Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi bất
lợi của môi trường, hoàn toàn hay một phần lớn được xem như phó phẩm
của các hành động do con người gây ra qua các hậu quả trực tiếp hay
gián tiếp trong các khuôn mẫu năng lượng, cấp bậc phóng xạ, sự cấu tạo
hóa học hay vật lý và sức tăng trưởng phong phú của các sinh vật. Những
thay đổi này có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp trong các khuôn
mẫu năng lượng, các cấp bậc phóng xạ, sự cấu tạo hóa học hay vật
lý và sức tăng trưởng phong phú của các sinh vật. Những thay đổi này
có thể ảnh hưởng trực tiếp đến con người, hoặc qua sự cung cấp nước
và các sản phẩm nông nghiệp hay sinh học khác, hoặc các tài sản vật chất
hay các cơ hội giải trí, thích thú thiên nhiên.
Về vấn đề “Năng lượng hạt nhân. Cứu độ hay Trừng
phạt” E.F. Schumaker đã viết trong quyển sách của ông nhan đề “Nhỏ là Đẹp”: “Trong tất cả các
sự thay đổi do con người đưa vào ngôi nhà thiên nhiên, thì sự phân tán
hạt nhân (để tạo năng lượng hay gây nổ) ở quy mô lớn chắc chắn là
sự kiện nguy hiểm và sâu xa nhất. Kết quả là sự bức xạnăng lượng
để tạo i-on hóa đã trở thành tác nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất
đối với môi trường và là mối đe dọa lớn nhất đối với sự sinh tồn
của con người trên quả đất. Không gì đáng ngạc nhiên khi bom hạt nhân
đã thu hút sự chú ý của con người thông thường, mặc dù ít nhất cũng
còn cơ may là bom hạt nhân có thể chẳng bao giờ được sử dụng nữa. Mối
nguy hiểm đối với nhân loại do cái được gọi là “sử dụng năng lượng hạt nhân vì hòa
bình” có thể còn lớn hơn nhiều.
Ngoài ra, đối với
sự ô nhiễm quả đất và nguồn nước thì việc đưa chất phế thải vào
đại dương do các “cường quốc” thực hiện, sự tống khứ các chất
thải “cao cấp” vào biển trong khi các chất thải “trung cấp” và “hạ
cấp” được trút xuống sông ngòi hay trực tiếp vào mặt đất, những
khí thải do giao thông vận tải, các vụ cháy rừng… đều là nguyên nhân
chính gây ô nhiễm. Khối lượng khí carbonic phát ra ngày càng nhiều làm
cho bầu không khí quanh quả đất ấm dần và làm thay đổi khí hậu rất
có hại cho đời sống con người. Sự ô nhiễm môi trường hiện nay thật
nguy hiểm biết bao! Đời sống nhân loại trên quả đất bị đe dọa biết
chừng nào!
Sự ô nhiễm này hẳn là kết quả tất yếu
của nền văn minh khoa học hiện đại với sự phát triển nhanh chóng
không thể kiểm soát được của các nền công nghệ và kinh tế. Nền văn
minh này, đến lượt nó, lại là kết quả của sự phát triển cao độ của
cách tư duy hữu ngã, vị kỷ và hưởng thụ lạc thú của loài người.
Như vậy, các nguyên nhân chính của sự
khủng hoảng môi trường trọng đại đang được báo động là vô minh
(avijjà) và khát ái (tanhà) của loài người.
Ơû đây một câu hỏi
có thể được đặt ra là liệu giáo lý của đức Phật về chân lý của
Duyên khởi và Ngũ uẩn có đem lại giải pháp cho cuộc khủng hoảng môi
trường hiện nay không?
II. Quan Niệm
của Đạo Phật về Môi Trường
A. Lý Duyên khởi: (Paticca Samuppàda)
Chân
lý Duyên khơiû do đức Phật Gotama chứng ngộ nói rõ: “Do duyên vô minh
(Avijjà), hành (Sankhàra), sinh khởi. Do duyên hành, thức (Vijjnàna) sinh khởi;
danh sắc (nàma-rupà)… ; lục nhập, xứ (chabbithàna); Xúc (phassa)…; Thọ
(Vedàna)…; Aùi (Tanhà)…; Thủ (Upadàna)…; Hữu (Bhava)…; Sanh-tử
(Jàti-Marana)…; Sầu (Soka) trong đó Danh Sắc không bao giờ có thể tách rời
nhau và cũng không bao giờ có thể tách rời khỏi mười một yếu tố kia
của lý Duyên khởi. Cũng vậy, đối với Tam giới (Tibhava). Do vậy Sắc
bao gồm thân thể con người và thế giới vật chất. Hoạt động của Sắc
có nghĩa là hoạt động của tinh thần con người và ngược lại. Điều này
chứng tỏ rằng đời sống con người và môi trường có quan hệ hỗ tương.
B.
Ngũ uẩn: (Panca-Khandhas)
Cũng vậy đối với hoạt động của ngũ uẩn.
Đức Phật dạy: “Này chư Tỷ-kheo, ta sẽ dạy chư vị năm uẩn và năm uẩn
này có liên hệ với chấp thủ. Chư vị hãy lắng nghe. Và này chư Tỷ-kheo,
năm uẩn đó là gì? Mọi sắc thân, dù quá khứ, hiện tại, vị lai, nội
hay ngoại, thô hay tế, cao hay thấp, xa hay gần, đều được gọi là sắc
uẩn. Mọi cảm thọ, tưởng (nhận thức) mọi hành, mọi thức, dù quá khứ,
tương lai, hay hiện tại, nội hay ngoại.v.v… đó được gọi là “Thức
uẩn”.
Ở đây, cái được gọi là Sắc uẩn của
thân người bao gồm thân thể và thế giới vật chất bên ngoài.
Nói cách khác, môi
trường là một thành phần thân thiết của thân thể vật chất từng người:
Nếu thiên nhiên hay môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng thì thân thể vật
chất hay đời sống sẽ lập tức bị hủy diệt.
Ta có thể nói rằng
khoa sinh thái học và hiểm họa ô nhiễm môi trường đang đưa ra cho nhân
loại một hình ảnh rõ ràng không có giới
hạn về thể chất của con người. Cơ thể con người không chỉ giới hạn
vào mức độ của thân thể cá nhân, hoặc của đất nước mình hay bất
cứ lục địa nào. Đây là ý nghĩa thực sự của tính cách vô ngã của sắc
thân con người. Cũng vậy đối với các uẩn kia. Làm sao Giáo lý Duyên khởi
lại không có thể trở thành giải pháp cho cuộc khủng hoảng môi trường?
III. Đạo Đức Môi Trường
A. Đạo đức:
Từ điển Giáo dục Mc Graw.Hill định nghĩa:
“Sự nghiên cứu hành vi của con người
không phải chỉ để tìm thấy chân lý của vạn vật đúng như thật, mà
còn để tìm hiểu giá trị của tính thiện trong hành động con người, đó
là khoa học về phép xử thế của con người, liên hệ đến cách phán
xét các phận sự (đúng, sai, nên làm…) và cách phán xét các giá trị
(thiện hay ác).
Trong ý
nghĩa nhân bản, Đạo đức là “Lý thuyết cho rằng các khuôn mẫu chân
thật và các mục đích chính đáng phải được tìm thấy trong sự an lạc
về xã hội và sinh lý của mọi cá nhân tạo thành xã hội”.
B.
Đạo đức môi trường:
Như chúng ta có thể
nghĩ và thấy con người sinh ra để được hạnh phúc, chứ không phải để
chịu khổ đau. Vì thế khuôn mẫu chân chánh về các hành động thiện phải
được đặt nền tảng trên sự an lạc về tâm sinh lý và xã hội của
loài người. Người ta cần phải lựa chọn giữa hai giá trị ấy. Để làm
được điều này, họ cần phải quan tâm đến các điểm trọng yếu sau:
1. Hầu hết mọi
giá trị của nền văn hóa nhân loại hiện hành đều được đặt trên căn
bản tư duy hữu ngã (vị kỷ) hay vô minh (Avijjà), vì vậy chúng phải được
soi rọi dưới ánh sáng của lý Duyên khởi (hay tư duy vô ngã: Vijjà). Nói cách khác,
giáo lý Duyên khởi cần được phổ biến cáng rộng càng tốt cho quần
chúng trong thế giới giáo dục và xã hội, để cho một dòng văn hóa mới
về bảo vệ môi trường có thể được thành lập.
2. Giáo lý Duyên
khởi nói rằng “một” hiện hữu
trong “tất cả” và “tất cả” hiện hữu trong “một”. Điều này có nghĩa là sự ô
nhiễm hay rối loạn nơi này chính là sự ô nhiễm hay rối loạn ở các nơi
khác trên thế giới. Điều này đòi hỏi mọi cá nhân, mọi tổ chức và
mọi quốc gia có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ môi trường đồng thời
với sự tồn tại của nhân loại.
3. Chân lý Duyên
khởi cần được thêm vào khoa Sinh thái học như một lý thuyết căn bản
và phải được xem là triết lý và đạo đức môi trường.
4. Ngoài các điểm
được đề nghị trên, lời kêu gọi đình chỉ mọi thí nghiệm hóa học
và hạt nhân cần được lập đi lập lại nhiều lần. Cũng vậy đối với
sự kêu gọi giới hạn viiệc sử dụng năng lượng hạt nhân vào các mục
đích gọi là “hòa bình” và tạo ra một biện pháp an toàn cho việc tống
khứ chất thải từ các xí nghiệp và công nghệ.
5. Các biện
pháp hạn chế chất khí độc hại thoát ra trong không khí.
6. Biện pháp bảo
vệ rừng và sự vật khỏi bị tàn phá.
7.
Điều quan trọng nhất là giúp mọi người
hiểu biết và chế ngự tham ái hay dục vọng (tanhà) là nguyên nhân chính
trong mọi nguyên nhân ô nhiễm môi trường. Điều này có nghĩa là sự giải
thoát khỏi ô nhiễm trong tinh thần con người đòi hỏi giáo dục môi trường
cho mọi cá nhân và bổn phận cùng trách nhiệm của mọi cá nhân. Nếu
các dục vọng về cảm quan và giới tính cứ tăng mãi như hiện nay, nghĩa
là tham, sân, si tăng mãi, thì không có phương cách gì bảo vệ môi trường
được như chúng ta có thể thấy rõ từ giáo lý Duyên khởi: “Chỉ còn lại
một điều là: suy tàn, khổ đau và hủy diệt dành cho mọi loài hữu tình
trên thế giới”.
8. Các biện
pháp xây dựng một nền hòa bình bền vững trên thế giới.
Iv. Đạo Đức Toàn Cầu, Luật Quốc Tế và Phật
Giáo
A. Nhu cầu đạo đức toàn cầu:
Trong khi chúng ta đang bước qua ngưỡng cửa
không chỉ đi vào một thế kỷ mới, mà còn là một thiên niên kỷ mới,
suốt một thời kỳ đầy những biến động xã hội bất ngờ, chúng ta phải
đương đầu với việc xây dựng một thế giới hòa bình bền vững và
phát triển một nền đạo đức toàn cầu mới đứng đầu cách tư duy về
kiến tạo xã hội, để đáp ứng những nhu cầu của môi trường thế giới
đang thay đổi.
*Nhu cầu
về các giá trị đạo đức chung cho cả thế giới là điều căn bản bức
thiết: Trong khi các lực lượng kỹ thuật và kinh tế đang tạo ra một
cộng đồng toàn cầu mới, và tiến trình toàn cầu hóa không thể nào chặn
đứng được thì những cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ lan tràn
khắp hành tinh đang gây nên những vấn đề toàn cầu nghiêm trọng chỉ
có thể được giải quyết bằng những phương pháp và sự cộng tác toàn
cầu liên hệ đến mọi thành phần trong xã hội. Phận sự của đạo đức
toàn cầu là phát họa những đổi thay về giá trị cần thiết để hướng
dẫn các lực lượng ấy tạo thành một cộng đồng toàn cầu xuất hiện
theo các hướng sáng tạo xúc tiến nền an lạc khắp hành tinh.
Ý tưởng xây dựng một thỏa hiệp về đạo
đức sống chung trong một tế giớo đa văn hóa liên hệ chặt chẽ với
nhau về sinh thái, kinh tế, xã hội, đã được Ủy ban Thế giới Liên hiệp
Quốc tế về Môi trường và Phát triển nêu ra năm 1987, khi Ủy ban này
kêu gọi việc sáng lập một Hiến chương mới có thể đề xuất những
khuôn mẫu mới về cách xử sự của mỗi quốc gia và liên quốc gia cần
thiết để duy trì sinh kế và cuộc sống trên hành tinh chung của chúng ta.
Kể từ Tuyên ngôn Stockholm do Hội nghị LHQ
về Môi trường Nhân loại thành lập năm 1972, nhiều tiến bộ quan trọng
đã được thực hiện để phát triển luật Quốc tế liên hệ đến môi
trường và sự phát triển lâu dài. Nhưng điều mà đạo đức toàn cầu
đòi hỏi là những tài liệu về các “luật lệ khá mềm dẻo” trong
lãnh vực luật Quốc tế, đó là những
đề án không có tính cách trói buộc về pháp lý mà chỉ là những căn bản
biểu lộ các nguyện vọng và dự định cua các quốc gia liên hệ. Vấn đề
được nêu ra ở đây là: những nguyên tắc
nào từ quan điểm Phật giáo tạo thành cốt lõi của nền đạo đức toàn
cầu đang xuất hiện? Một số nhận xét và vấn đề liên hệ đạo đức
toàn cầu và Phật giáo có thể giúp vào sự thúc đẩy một vài suy tư có
kết quả về các vấn đề này.
B. Một vài
yếu tố căn bản đóng góp của đạo Phật và nền đạo đức toàn cầu
đang xuất hiện.
1. Luật Quốc tế hiện đại đang sử dụng
ngày càng nhiều quan điểm về thế giới phát xuất từ các ngành vật
lý, sinh lý tiến hóa và sinh thái học để chứng minh nhiều nguyên lý và
phương châm đang được phát triển. Người ta nhấn mạnh đến sự tương
quan tùy thuộc của nhân loại và thiên nhiên, mối tương quan chặt chẽ giữa
các thành phần cho một cộng đồng sinh hoạt rộng lớn hơn, và tầm quan
trọng của tính đa dạng về sinh lý cũng như văn hóa. Sự thật là một số
tài liệu nghiên cứu nêu rõ là hình như có một sự hội tụ đầy ý nghĩa
giữa triết lý đạo Phật và các khoa vật lý, sinh thái học và đạo đức
môi trường hiện đại.
Triết gia khổng giáo Tu Weiming trong bài viết
“Hướng về khả năng một cộng đồng
toàn cầu” nhấn mạnh tầm quan trọng căn bản của “Luật Vàng”: bước đầu tiên sáng tạo một trật tự thế
giới mới là nêu rõ ý định chung, về việc thành lập một nền cộng đồng
toàn cầu. Điều này đòi hỏi ở mức độ tối thiểu, sự thay thế nguyên
tắc tư lợi dù được định nghĩa rộng rãi ra sao đi nữa, bằng quy luật
mới bằng vàng: “Đừng làm cho người
khác những gì bạn không muốn người khác làm cho bạn”.
Trong đạo Phật, Hòa thượng Thích Minh Châu
giải thích: “Hại người/ vật vô tội cũng giống như ném bụi ngược
gió với kết quả là ta phải chịu hậu quả của hành động mình”. Đức
Phật khi quán sát khắp thế giới, nói rõ rằng, mọi loài hữu tình đều
xem bản thân họ là vật yêu quý nhất. Vậy nếu ai yêu bản thân mình,
thì không nên làm hại bản thân người/ vật khác”.
Đức Phật Gotama dạy: “Hành động của bạn phải phù hợp với
tên bạn. Bạn không được làm hại ai cả”.
“Người
nào không làm hại ai về thân, khẩu, ý, người nào không làm hại bất cứ
sinh vật nào, người ấy quả thật là người Bất hại”.
Đức Phật
tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, ngay cả sự sống của côn
trùng hay cây cỏ. Ngài khuyên ta không giết hại, vì mọi loài hữu tình đều
run sợ trước dao, gậy, đối với mọi loài, sự sống đều thân thiết.
Giới đều tiên mà người tại gia đảm nhận là sự tôn trọng này đối
với đời sống, tránh giết các loài sinh vật. Cũng như một vị Bà-la-môn
(tu sĩ thanh tịnh) xứng đáng với tên
gọi, một người hiền trí phải là người thực hành sự tôn trọng này
đối với đời sống, hoàn toàn trọn vẹn”.
Như vậy, đối với đạo Phật, nguyên tắc
giúp đỡ chứ không làm hại được phổ biến bao trùm mọi mối tương
quan giữa con người với mọi loài hữu tình, chứ không chỉ loài người
mà thôi.
Vấn đề là liệu nguyên tắc của Luật
Vàng này có được xem là lý tưởng đạo đức căn bản nhất được mọi
người chấp nhận chăng. Nó đã được nêu lên trong “Báo cáo của Ủy
ban Thế giới về Môi trường và Phát triển ( “Tương lai chung của chúng ta”) trong Phần
Liên hệ đến “Các Nguyên tắc về Luật mới của Quốc tế được đề
nghị” để đề phòng các tác hại môi trường xuyên biên giới. Bản
báo cáo ấy khuyến dụ rằng mọi quốc gia, trong mối tương quan với các
quốc gia khác, phải chấp nhận nguyên tắc: “Không được làm cho các nước khác những
gì bạn không muốn làm cho dân nước mình”. Người ta thừa nhận rằng
nguyên tắc căn bản nhất về sự bảo vệ môi trường hiện nay được công
nhận rộng rãi để trở thành một biến thể của đề tài Bất hại
(Ahimsa)
Dự thảo Công ước Quốc tế về Môi trường
và Phát triển do Hiệp hội Quốc tế để Bảo vệ Thiên nhiên và Tài
nguyên thiên nhiên soạn xác nhận trong Phần các Nguyên tắc căn bản: “Việc
bảo vệ môi trường được thực hiện tốt nhất bằng cách đề phòng
các tác hại đối với môi trường hơn là cách cố gắng sửa chữa và đền
bù các tác hại ấy” (Điều 6). Nguyên tắc này được xem là đặc biệt
quan trọng trong những tình huống có nguy cơ tác hại môi trường không thể
sử chữa được nữa, nếu một chủng loại nào đó bị đe dọa tiêu diệt.
2. Chúng ta tin rằng đạo Phật với những
truyền thống đạo đức ấy đang ở trong vị trí duy nhất yêu cầu cộng
đồng quốc tế phải có một dự định rõ ràng để cộng tác trong sự bảo
vệ muôn loài sinh vật khỏi sự đối xử tàn ác của loài người và phải
chịu những khổ đau vô ích. Tứ Thánh Đế (Bốn Sự Thật Cao thượng) tập
trung sự chú ý vào khổ đau là vấn đề căn bản mà mọi loài sinh vật
đều muốn tìm cách thoát ra, và Đạo đức Phật giáo xem lòng Từ bi (thương
xót) trước nỗi khổ đau của muôn loài, là đức tính tối thượng.
Đạo đức thế giới sa sút như đã được
diễn tả trong Luật Quốc tế nói rõ các nguyên nhân khác nhau của nỗi khổ
nhân loại (nghèo đói, bất công, ngu dốt, chiến tranh, suy thoái môi trường…),
tuy thế Luật Quốc tế hiện hành không xác nhận nỗi khổ đau của các
loài sinh vật khác con người là vấn đề đạo đức. Luật ấy có quan
tâm đến các chủng loại và sự bảo vệ đa dạng của sinh vật, nhưng nó
lại không quan tâm đến các sinh vật riêng biệt không phải con người,
ngoại trừ trường hợp chúng là đại diện của một loài có nguy cơ tuyệt
chủng.
Luật Quốc tế có giúp vào việc giảm bớt
nỗi khổ đau của các loài vật khác loài người bằng cách kêu gọi sự
bảo vệ các hệ sinh thái, nhưng sự quan tâm ấy đi kèm với sự lành mạnh
của hệ sinh thái và sự toàn vẹn của các cộng đồng sinh vật phù hợp
với đạo đức về địa cầu của Aldo Leopold, chứ không phải với sự
khổ đau của các loài sinh vật riêng biệt.
Luật quốc gia trong nhiều nước cũng đã
nói đến vấn đề tàn ác và lạm dụng các sinh vật. Nên chăng Luật Quốc
tế liên kết mối quan tâm của các nhà môi trường về các hệ sinh thái
và các chủng loại với tình thương xót (từ bi) đối với muôn loài hữu
tình?
Theo quan điểm đạo Phật, sự khổ đau của các loài sinh vật không phải
loài người do con người tạo ra phải được xác định là một vấn đề
đạo đức. Một nguyên tắc như vậy đã được chấp nhận trong Hội Liên hiệp Quốc tế về Bảo vệ Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN). Tôn chỉ về việc cư xử đối với
các sinh vật khác loài người được nêu ra ở mục “Quan tâm đến quả đất” (Gland
Switzerland, 1991) xác nhận: “Con người phải
đối xử nhẹ nhàng đối với mọi loài vật và bảo vệ chúng khỏi sự
tàn ác, khổ đau có thể tránh được và giết hại không cần thiết.
Ở đây, một lần nữa, ta có thể xác nhận
rằng đạo Phật với các truyền thống đạo đức của mình có thể giúp
đỡ thế giới đang trải qua những sự biến đổi có tính cách tàn phá hệ
sinh thái mong manh của nó.
KẾT LUẬN
Bản tham luận này trình bày trong Hội nghị
về Hòa bình do Hội đồng Hòa bình Thế giới và Ủy ban Hòa bình Việt
Nam tại Hà Nội, được đặt trên tiền đề là đạo Phật có thể ích lợi
trong việc giải quyết các tình thế nan giải về đạo đức do cuộc khủng
hoảng môi trường gây ra. Chúng ta hoàn toàn ý thức rằng sự phức tạp của
vấn đề đòi hỏi những biện pháp liên kết từ nhiều phạm vi như: khoa
học, kinh tế, chính trị, luật pháp, y tế, chính sách cộng đồng. Trong
khi cộng đồng nhân loại đang nỗ lực tạo thành những thái độ khác
nhau đối với thiên nhiên và nêu rõ những quan niệm rộng rãi hơn về đạo
đức bao trùm khắp các chủng loại và hệ sinh thái, thì đạo Phật cũng
có thể là một phần đóng góp vào các biện pháp đa dạng này.
Hiện nay kiến thức khoa học phong phú về
cuộc khủng hoảng môi trường đang sẵn sàng cho ta sử dụng và nhiều bản
báo cáo về kinh tế và chính trị đã được thành lập. Điều hiện nay
đang thiếu là một sự tham gia thưc tiễn vào việc biến đổi cuộc khủng
hoảng môi trường từ cách nói văn hoa trê giấy tờ thành một chính sách
hữu hiệu trong hành động. Nhiều người dần dần đồng ý rằng hiện
nay đạo Phật có thể đóng một vai trò có ý nghĩa, cũng như trong quá khứ
nó đã bảo tồn nhiều cá nhân và nhiều nền văn hóa khi đối diện với
những mối đe dọa nội tại hoặc ngoại lai.
Bài tham luận này được soạn ra nhằm triển
khai cuộc bàn thảo đang tiến hành trong một vài nhóm người, để mở rộng
và đào sâu nền tảng suy tư về sự hợp tác cao hơn vào một đề tài
được sự quan tâm chung của nhiều người: số phận của quả đất như là trách nhiệm
của đạo Phật. Chính là với một tinh thần khiêm tốn và trách nhiệm
mà chúng tôi tham gia vào cuộc thử thách “Phật
giáo và Sinh thái” mới này, không chỉ vì giả thiết rằng thế giới
quan Phật giáo, nhất là Phật giáo Á châu, từ trong bản chất rất thân thiết đối với môi
trường, mà đó còn là bước khởi đầu vào một phạm vi nghiên cứu
sẽ ảnh hưởng đến đạo Phật lẫn môi trường.
Trên một phương diện, ngành môi trường học
có thể công nhận Phật giáo đã giúp hình thành những thái độ đối với
thiên nhiên, và trên phương diện khác, vì đạo Phật có lòng tôn trọng
đối với thiên nhiên, nên nó có thể tạo ra những năng lượng biến cải
những tập tục đạo đức để bảo vệ những hệ sinh thái đang bị nguy
cơ tàn phá, những chủng loại bị đe dọa và các nguồn tài nguyên cạn dần.
Đạo Phật như vậy có thể được xem là
thân thiện với sinh thái. Dĩ nhiên trong khi đạo Phật cũng chịu ảnh
hưởng của phong trào “Hòa bình Xanh” bảo vệ môi trường, bản tham luận
này đề nghị những đường lối trong đó đạo Phật hiện đại với thế giới quan và
phương pháp tu hành đã thâm nhập cộng đồng các nhà môi trường học
trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường và đuợc sử dụng
như phương tiện trình bày những quan điểm đặc biệt của Phật giáo về
các vấn đề Môi trường và Hòa bình đang được nhiều sự quan tâm.
Chúng tôi xin cảm tạ Hội đồng Hòa bình
Thế giới và Ủy ban Hòa bình Việt Nam đã tạo cho chúng tôi cơ hội đóng
góp một phần khiêm tốn vào sự thành công của Hội nghị Quốc tế hợp
thời này được tổ chức tại Hà Nội, thủ đô yêu chuộng hòa bình và
thân thiết với môi trường của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
Chân thành cảm ơn
thầy Nguyên Hùng đã gởi tặng bản vi tính
http://www.buddhismtoday.com/viet/sinhthai/daoductoancau.htm