Đ
? kiểm
soát, uốn nắn và giải phóng tâm, trong Phật giáo có hai loại thiền.
Theo một lối, thiền hành giả gom tâm vào một điểm và cột
chặt tâm lâu dài vào điểm duy nhất ấy để phát triển vắng lặng, an lạc.
Danh từ Pàli gọi thiền này là samatha bhàvavà, phương pháp trau giồi tâm
nhằm làm cho nó trở nên tĩnh lặng. Ta gọi là thiền chỉ, thiền định
hay thiền vắng lặng.
Lối thiền khác là vipassanà, thiền minh sát -- cũng gọi là
thiền quán hay thiền tuệ -- hướng tâm định soi vào đời sống để chứng
ngộ thực tướng của vạn pháp. Đại Đức Piyadassi giải thích như sau:
"... Danh từ vipassanà (vi + passanà), trong một biến thể,
có nghĩa là "thấy một cách phi thường", thấy khác với lối thấy
thông thường, do hai thành phần "passati" là thấy và "vi"
hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy
vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Đây không phải là nhìn
thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà
nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu
sắc căn cứ trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi
bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết
Bàn. Thiền minh sát (vipassanà bhàvanà) là loại thiền mà chính Đức Phật
đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban truyền, trước kia
chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..."
Thiền Vắng Lặng.
Thí dụ như hành giả lấy hơi-thở-ra-thở-vô làm đề mục,
trụ tâm vào điểm mà luồng hơi thở ra và thở vào chạm đến -- có thể
là chót mũi hoặc phía trên môi trên. Khi hành như thế ít lâu hành giả
có thể hình dung rõ ràng cảm giác xúc chạm của luồng gió vào nơi đụng
ấy. Đó là uggaha nimitta, ấn tượng hình dung. Không để gián đoạn, hành
giả cố tâm vào cái hình ảnh phát hiện trong tâm ấy một cách liên tục
đến khi phát triển một hình ảnh khái niệm (patibhàga nimitta). Sự khác
biệt giữa ᮠtượng hình dung (uggaha nimitta) với ᮠtượng khái niệm
(patibhàga nimitta) là trong ấn tượng khái niệm, hình ảnh phát sanh do tri
giác, được thanh lọc trong sạch, sáng sủa như mặt trăng không bị mây
che, còn trong ấn tượng hình dung, hình ảnh mù mờ như mặt trăng nhìn
xuyên qua lớp mây.
Trong lúc liên tục chuyên chú gom tâm vào khái niệm trừu tượng
như vậy năm pháp triền cái tạm thời được khắc phục, hành giả đạt
đến mức độ gọi là cận định (upacàra samàdhi).
Vẫn tiếp tục gia công, vào một lúc nào hành giả có thể
nhập định (appanà samàdhi, định trọn vẹn) và đắc Thiền (Jhàna), thọ
hưởng trạng thái an tĩnh và vắng lặng của tâm an trụ. Hai trạng thái cận
định và định chỉ khác nhau ở sức mạnh của các chi thiền. Lúc cận
định vẫn có đầy đủ năm chi thiền nhưng năng lực của các chi thiền
chưa được vững chắc, giống như em bé tập đi, khấp khểnh bước vài bước
rồi té xuống. Đứng dậy đi nữa, rồi té xuống nữa. Khi nhập định rồi
thì giống như người lớn mạnh khỏe, đi đứng ngay thẳng, vững vàng. Năm
chi thiền - tầm, sát, phỉ, lạc, trụ -- đồng thời phát sanh mạnh mẽ
bao gồm cái được gọi là Thiền (Jhàna) và năm pháp triền cái tạm thời
được chế ngự.
Hành giả tiếp tục gia công và phát triển Nhị Thiền. Đến
đây, hai chi thiền đầu tiên -- tầm và sát -- bị loại đi. Hành giả đã
quen thuộc, không còn phải qua hai giai đoạn tầm và sát nữa mà thẳng
vào phỉ và lạc rồi đến trụ.
Đến Tam Thiền, chi thiền phỉ bị loại, chỉ còn lạc và
trụ. Cuối cùng đến Tứ Thiền, luôn cả lạc cũng không còn mà chỉ có
xả (upekkhà) và trụ. Chi thiền xả có tầm quan trọng đặc biệt về mặt
đạo đức và tâm lý. Đây không phải là thọ xả, tức thọ vô ký, cảm
giác không vui không buồn. Chi thiền xả là trạng thái tâm bình thản giữa
những hoàn cảnh thăm trầm của đời sống, phải do một ý chí mạnh mẽ
phát triển. Nhận định rằng chi thiền lạc vẫn còn thô kịch, hành giả
loại trừ luôn chi thiền ấy như đã loại trừ ba chi thiền trước và
trau giồi, phát triển chi thiền xả, đắc Tứ Thiền, tầng cao nhất của
Thiền Sắc Giới.
Đã thành tựu tất cả bốn tầng thiền của Thiền Sắc
Giới, hành giả chuyên chú gia công trau giồi Thiền Vô Sắc. Trong phần
chú giải quyển Abhidhammattha Sangaha, Đại Đức Nàrada viết như sau:
"... Vị hành giả đã có phát triển Thiền Sắc Giới
(Rùpa Jhàna) và bây giờ muốn trau giồi Thiền Vô Sắc, bắt đầu gom tâm
vào ấn tượng khái niệm (Patibhàga nimitta, đã có đề cập đến ở phần
trên). Khi chuyên chú gom tâm như vậy một ít lâu hành giả thấy một đốm
sáng nhỏ, yếu, giống như con đôm đốm, phát ra từ đối tượng. Hành giả
ước nguyện rằng ánh sáng nhỏ này sẽ lớn lên dần dần cho đến bao trùm
toàn thể không gian. Đến đây hành giả không còn thấy gì khác, ngoài
ánh sáng này, cùng khắp mọi nơi. Không gian đầy ánh sáng này không có
thiệt, không thật sự hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ
là một hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ là một khái niệm.
Gom tâm vào đối tượng này hành giả niệm "àkàsa ananto", không
gian vô tận vô biên, cho đến khi phát triển Sơ Thiền Vô Sắc, tầng Thiền
Vô Sắc đầu tiên, Không Vô Biên Xứ, cảnh giới không gian vô biên.
"Lấy Sơ Thiền làm đề mục, hành giả tiếp tục gom
tâm vào đó và niệm, "vinnanam anantam", thức vô tận vô biên, cho
đến lúc phát sanh Nhị Thiền Vô Sắc, Thức Vô Biên Xứ, cảnh giới thức
vô biên.
"Để phát triển Tam Thiền Vô Sắc, Vô Sở Hữu Xứ,
hành giả lấy tâm Sơ Thiền Vô Sắc làm đề mục và niệm "natthi
kinci", không có gì hết.
"Tứ Thiền Vô Sắc được phát triển bằng cách lấy
Tam Thiền Vô Sắc làm đề mục. Tam Thiền Vô Sắc này vi tế đến độ ta
không thể quả quyết rằng có tâm hay không có tâm. Khi chăm chú ít lâu
vào Tam Thiền hành giả phát triển Tứ Thiền, Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng.
"Bốn tầng Thiền Sắc Giới khác nhau do các chi thiền.
Bốn tầng Thiền Vô Sắc thì khác nhau do đề mục gom tâm. Sơ Thiền và
Tam Thiền Vô Sắc có hai khái niệm (pannati). Đó là khái niệm về tánh
cách vô biên của không gian và khái niệm về hư vô. Tâm Nhị Thiền lấy
tâm Sơ Thiền làm đề mục. Tâm Tứ Thiền lấy tâm Tam Thiền làm đề mục
... "
Hành giả đã tiến đạt đến tuyệt đỉnh của thiền vắng
lặng. Tuy nhiên, đến tầng vắng lặng cao siêu cùng tột này hành giả vẫn
còn chưa trọn vẹn phát triển đủ ánh sáng trí tuệ để đánh tan đêm tối
vô minh ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Vô minh và ái dục giống như hai con
thú dữ. Hành giả chỉ nhốt trong chuồng mà không diệt. Ngày nào sút chuồng
nó sẽ còn là tai hại lớn lao. Vì lẽ ấy hành giả chưa tuyệt đối châu
toàn, chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới
và Vô Sắc Giới), chưa hoàn toàn giải thoát.
Trước ngày Thành Đạo của Bồ Tát Gotama, chỉ có thiền
vắng lặng, samatha bhàvanà. Hai vị đạo sư lỗi lạc thời bấy giờ, thầy
của Bồ Tát, là những vị đắc thiền cao nhất, lúc ấy chưa ai đạt đến.
Các Ngài đã tiến đến mức cùng tột của thiền vắng lặng là Phi Tưởng,
Phi Phi Tưởng. Chắc chắn đây là mức rất cao của tâm định khi hành giả
tạm thời trọn vẹn đè nén, khắc phục năm triền cái. Các chi thiền phỉ
và lạc phát sanh, đưa đến trạng thái tâm tuyệt đối vắng lặng và an
lạc. Nhưng Bồ Tát không thỏa mãn với những thành quả ấy. Đã kiểm
soát và khắc phục tâm, tạm thời làm chủ mình, nhưng Ngài nhận định rằng
bấy nhiêu đấy chưa đủ. Thú dữ vẫn còn đó. Phải tận diệt mọi nhiễm
ô và mọi hoặc lậu mới tuyệt hậu hoạn. Mục tiêu cứu cánh của Ngài
chỉ là chứng ngộ Chân Lý Cùng Tột, chứng ngộ Thực Tại, thấy sự vật
đúng như sự vật là như vậy, tức là chứng ngộ ba đặc tướng của các
pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã. Chính nhờ trí tuệ trực giác
này mà Bồ Tát đập vỡ tung cái vỏ Vô Minh dày cứng đã bao phủ Ngài từ
vô lượng kiếp để vượt đến Thực Tại, để chứng ngộ tận tường
và trọn vẹn Bốn Chân Lý Cao Thượng "trước kia chưa từng được
nghe".
Thiền Minh Sát.
Pháp hành mà chúng ta thảo luận đến đây là chú niệm,
gom tâm an trụ vào một điểm duy nhất và không biết gì ngoài điểm ấy.
Có một pháp định tâm khác, gọi là Thiền Minh Sát, không hạn chế đối
tượng của niệm bằng cách chỉ chú tâm vào một đối tượng bất di dịch
mà hướng tâm vào những trạng thái luôn luôn biến đổi của tâm và
thân, ghi nhận bất luận hiện tượng nào xảy diễn đến mình. Công phu
hành thiền của hành giả là giữ chú niệm của mình bám sát vào bất luận
gì mình tri giác, nhưng buông bỏ tất cả, không bám níu gì hết. Trong khi
tu tập theo dõi ghi nhận như vậy tâm định của hành giả càng lúc càng
kiên cố cho đến một lúc nọ trở thành nhất điểm tâm, vững chắc
trên mỗi điểm của luồng trôi chảy luôn luôn biến đổi của sự vật.
Mặc dầu đối tượng đổi thay, di động như thế nào, tâm nhất điểm của
hành giả luôn luôn an trụ vững vàng vào đó. Tâm định vừa vững chắc
vừa di động này được phát triển bằng cách thực hành Tứ Niệm Xứ:
niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, đây là "con đường duy
nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành đạt
trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn."
Khác biệt giữa Thiền Vắng Lặng và Thiền Minh Sát.
Thiền Vắng Lặng là pháp môn nhằm đè nén năm triền cái
và định tâm trong một đối tượng nhất định. Tâm phỉ lạc đưa đến
chứng đắc các tầng Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thiền Minh Sát
đưa đến một loại trí tuệ nhận thức rõ ràng ba đặc tướng của các
pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã.
Trong thiền vắng lặng, hành giả chọn và xử dụng một
trong số các môn, như nhãn môn hay ý môn. Còn các môn khác thì không dùng.
Trong thiền minh sát, hành giả không nhất thiết chọn một đề mục nào
mà dùng cả sáu môn cùng với sáu đối tượng của nó.
Trong thiền vắng lặng, khi hành giả chọn đề mục, dùng
tâm quán tưởng ở trong đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực
đè nén năm triền cái, năm chi thiền dần dần hiện rõ, tâm an trụ vững
trong đề mục và cuối cùng chứng đắc các tầng Thiền (Jhàna). Năm triền
cái đối nghịch với thiền vắng lặng vì là chướng ngại, cản trở tâm
an trụ, nhưng không đối nghịch với thiền minh sát. Niệm về năm triền
cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần này làm đề mục
thiền, là một phần của Niệm Pháp.
Đối tượng của thiền minh sát là thực thể pháp trong thời
hiện tại, những gì thật sự xảy diễn trong khoảnh khắc hiện tại. Đối
tượng của thiền minh sát là Tứ Niệm Xứ. Các đối tượng chế định,
do hành giả tự tạo như ấn chứng, cảm giác hay hình ảnh v.v... không thể
dùng làm đối tượng thiền minh sát, chỉ dùng làm đối tượng của thiền
vắng lặng.
Dầu thiền vắng lặng và thiền minh sát có sự khác biệt
nhau song thiền vắng lặng có thể làm nền tảng cho thiền minh sát như
trường hợp Đức Phật. Ngài tiến cao đến mức cùng tột của thiền vắng
lặng là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng rồi xả thiền, quán chiếu thân và tâm
Ngài, dùng chi thiền phỉ, lạc v.v... làm đối tượng và thấy rõ vô thường,
khổ, vô ngã. Đó là "thiền minh sát dùng thiền vắng lặng làm nền tảng."
Ta cũng có thể trực tiếp hành thiền minh sát mà không qua
thiền vắng lặng, như chỉ quán niệm theo bốn oai nghi, đi, đứng, nằm,
ngồi.
Để giải đáp m?t câu hỏi về sự khác biệt giữa thiền
vắng lặng và thiền minh sát, Ngài Acharn Chah -- một thiền sư danh tiếng
ở Thái Lan -- nói:
"... Thật dễ hiểu. Thiền vắng lặng và thiền minh
sát cùng đi chung với nhau. Trước tiên, do nhờ pháp hành gom tâm an trụ
vào đề mục, tâm trở nên an tĩnh, vắng lặng. Tâm chỉ vắng lặng trong
khi ta ngồi thiền. Đó là thiền vắng lặng. Căn bản tâm định sẽ khởi
duyên, tạo điều kiện cho trí tuệ, tuệ minh sát, phát sanh. Đến mức độ
này tâm luôn luôn vẫn an tĩnh, dầu ta ngồi nhắm mắt tham thiền nơi vắng
vẻ hay đi bách bộ giữa phố phường nhộn nhịp. Nó là vậy. Ngày nào
còn là trẻ con, giờ đây lớn khôn. Ta là người đứng tuổi. Em bé thủa
nào và người đứng tuổi hiện nay có phải là một không? Có thể nói
là một. Hoặc, theo một lối nhìn khác, có thể nói là hai người khác biệt.
Cùng thế ấy, ta có thể tách rời thiền vắng lặng và thiền minh sát.
"Chớ tin Sư bằng lời. Hãy thực hành đi, rồi tự mình sẽ thấy.
Không cần phải làm gì đặc biệt. Nếu chăm chú quan sát, nhin xem trạng
thái vắng lặng và trí tuệ phát sanh thế nào, quý vị sẽ tự bản thân
thấu đạt chân lý. Trong những năm sau này người ta quá chú trọng đến
danh từ. Họ gọi pháp hành của họ là minh sát và coi rẻ thiền vắng lặng.
Hoặc họ gọi thiền của họ là vắng lặng và hãnh diện nói rằng muốn
thành công thiền minh sát phải trải qua giai đoạn hành thiền vắng lặng.
Tất cả những lời qua tiếng lại ấy là điên cuồng. Chớ nên bận tâm
suy tư. Chỉ giản dị hành. Tự mình sẽ thấy ...."
Phạm Kim Khánh
(1993)
Narada Center, Seattle, USA
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/003-hanhthien.htm