- Nguyên lý cơ bản của
thiền định Phật giáo ứng dụng vào đời sống hằng ngày
- Giáo Sư Minh Chi
- Học viện Phật giáo Việt Nam
Thiền định là một hiện tượng sinh lý và
tâm lý. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nghiên cứu
nghiêm túc, có quy mô đầy đủ và có hệ thống đối với hiện tượng này.
Khi khoa học bắt đầu nghiên cứu một hiện tượng mới thì việc đầu
tiên phải làm là quan sát hiện tượng thật tế, thâu thập tài liệu rộng
rãi, cuối cùng mới tiến hành nghiên cứu về mặt lý luận.
Hiện nay, có không ít các nhà y học và tâm lý
học có hứng thú nghiên cứu môn học Thiền định và Du-già. Nhiều tài
liệu quan sát đã được thu nhập về những biến đổi tâm lý và sinh lý
trong thiền định như các cuộc trắc nghiệm do Bác sĩ Green tiến hành đối
với đạo sĩ Du-già Swami Rama. Các cuộc trắc nghiệm này cho thấy đạo
sĩ Rama có thể chủ động làm cho tim ngừng đập lên đến ba phút. Rama cũng
có thể tuỳ ý và chủ động biến đổi điện áp ở trong não, tuỳ ý
và chủ động biến đổi các lán sóng beta, alpha, theta và delta ở trong
não. Các cuộc trắc nghiệm cho thấy đạo sĩ Rama có thể hầu như hoàn
toàn khống chế hoạt động thần kinh của mình, chủ động làm cho quả
tim đập nhanh chậm tuỳ ý, làm cho các mạch máu lưu thông nhanh chậm tuỳ
ý. Ông ta cũng có thể tuỳ ý chủ động chuyển từ trạng thái này sang
trạng thái kia trong bốn trạng thái: tỉnh thức, ngủ say, nằm mộng và
siêu ý thức.
Gần đây, nhiều học giả Mỹ và Nhật đã
nghiên cứu điện não đồ (EES electron encephalographic study) của những người
nhập thiền, những người ngủ nằm mộng và những người bị thôi miên.
Họ phát hiện thấy cảnh giới thiền định không phải là cảnh giới của
người bị thôi miên. Khi ngồi thiền, điện não đồ cho thấy sự xuất
hiện của rất nhiều làn sóng alpha, cho thấy người ngồi thiền đạt tới
tình trạng thân tâm hết sức thoải mái, nhẹ nhàng, không có chút gì là
khẩn trương.Tâm thức của người ngồi thiền, tuy có rất ít niệm xảy
ra, nhưng vẫn rất tỉnh táo sáng suốt, nhạy bén hơn người bình thường
rất nhiều. Hãy chọn một người xưa nay không từng ngồi thiền làm đối
chứng. Hãy đánh lên một tiếng chuông, lập tức ở điện não đồ nhịp
sóng tăng nhanh hơn bình thường và tình trạng này kéo dài trong 15-16 giây.
Điều này cho thấy người bình thường phải mất15-16 giây mới khôi phục
lại được nguyên trạng bình thường của não. Sau đó nếu tiếp tục đánh
chuông, thì do thói quen, não không phản ứng nữa. Còn điện não đồ của
người tu thiiền thì trình bày một hình ngược lại. Khi tiếng chuông đánh
lên trong1-2 giây, điện não đồ trình bày hiện tượng không bình thường,
(chứng tỏ người ngồi thiền rất tỉnh táo) sau đó não đồ lập tức
trở lại tình trạng bình thường, nhanh chóng hơn đối chứng bảy lần.
Sau đó có đánh chuông tiếp thì cũng trải qua hai giây, điện não đồ biến
động. Điều này chứng tỏ người ngồi thiền không bị thói quen làm cho
mất tỉnh táo, hay mất cảnh giác. Tình hình này chứng tỏ người ngồi
thiền một mặt tâm chuyên chú ổn định vào một cảnh, nhưng mặt khác vẫn
tỉnh táo ,không mê muội. (Tư liệu từ tạp chí Newsweek 23/3/1970).
Vài ba thí dụ liệt kê trên đây, chứng tỏ sự
nghiên cứu của khoa học ngày nay đối với thiền định, tuy cũng có cái
phát hiện, nhưng còn rất sơ bộ và ấu trĩ. Chưa thể nói được là một
công trình khoa học nghiên cứu thiền định về mặt lý luận.
Do đó, ở đây bàn đến lý luận của thiền định,
cũng chưa có cơ sở nghiêm túc. Bất quá, chúng tôi chỉ lược thuật lại
những tài liệu truyền thống mà thôi.
Tình hình cũng giống như Đông y và Đông dược
vậy. Đông dược và Đông y thỉnh thoảng cũng chữa trị được những loại
bệnh đã làm cho Tây y bó tay. Thế nhưng, trình độ tri thức chúng ta hiện
nay không cho phép chúng ta giải thích tại sao lại như vậy. Chỉ có thể dựa
vào tài liệu cũ, truyền thống để nói lên nguyên tắc cho thuốc trị bệnh
mà thôi.
Hiện nay, đối với thiền định cũng vậy,
cũng không thể đứng trên lập trường của các môn khoa học hiện đại
như tâm lý học, não điện đồ học, sinh lý hoá học và đặc thù tâm
lý học để bàn luận về thiền định, mà chỉ có thể dựa vào truyền
thuyết cũ, những tài liệu truyền thống để đề xuất một thuyết minh
lý luận tương đối hoàn hảo nhất.
Sách Phật bàn đến phép tu thiền và kinh nghiệm
tu thiền rất là nhiều, nhưng bàn về lý luận tu thiền thì lại rất ít.
Theo chỗ tôi biết, bàn về lý luận cơ bản của thiền định một cách tương
đối chính xác, thì có thuyết Tâm Khí Bất Nhị của Mật
giáo Tây Tạng (Anuttanra Tantra) hay là lý luận tâm khí không khác
(Rlun-sma-dbyer-med). Nay xin giới thiệu thuyết đó như sau:
Mọi sự vật thế gian hay xuất thế gian đều
do tâm và khí cấu thành. Tâm là một chính thể, nhưng lại có hai mặt
tác dụng tâm và khí. Tâm là năng lực phân biệt, rõ biết. ( Thông thường
chia thành tâm thức). Khí, chữ Phạn là Prana, chữ Tây Tạng là Rlun, không
phải chỉ cho không khí mà thôi mà chỉ cho tất cả mọi năng lực hay động
năng. Nói tâm và lý không hai có nghĩa là mọi sự vật thế gian và xuất
thế gian đều có cái tâm rõ biết và động năng vô hạn của nó tạo
thành. Tông Duy Thức khi nói:"Vạn pháp do tâm biến hiện", chỉ mới
nói một nửa sự thật, một nửa đạo lý. Còn một nửa đạo lý kia, một
nửa sự thật kia là: sắc pháp, bốn đại, tức ngoại cảnh cũng là khí,
do tâm thức biến hiện ra mà thôi. Cho nên thuyết Duy Tâm của Mật tông
là: "Vạn pháp do khí tạo, và khí thì do tâm mà thành". Thế nhưng
khí là gì? Chữ Phạn là Prana có các ý tứ: hô hấp, sinh mạng, tính linh,
tinh thần, sức hoạt động (hoạt lực), năng lực, thể năng v.v…Điều này
có ý nghĩa là vạn vật trong hiện tượng giới, nếu nhìn hời hợt thì
do các nguyên tố tạo thành. Nhưng nếu do các nguyên tố đó lại do các loại
năng lượng tạo thành, và trong các loại năng lượng đó, điện năng là
loại bộc lộ rõ nhất. Mà điện năng cũng là do phân tử khí (khí phần)
tạo ra. Có các loại khí: khí thô. Khí vi tế, khí mạnh, khí yếu, khí động,
khí tĩnh. Lại có năm loại khí trí: phàm tục, thắng nghĩa v.v…(khí trí
vi tế tạo ra hoạt động tinh thần).
Trên đây đã nêu nguyên lý tâm khí là một.
Nghĩa là tâm và khí là đồng loại và tương ưng với nhau. Tính chất của
tâm như thế nào thì sinh sản ra khí tính chất tương tự. Ngược lại
cũng vậy, tâm chúng sanh còn vướng vào ngã chấp và pháp chấp, thì chất
khí tương ưng với một tâm thức như thế sẽ tạo thành ngoại cảnh có
núi sông, gạch, ngói , đá v.v…còn tâm thức của các bậc Thánh đã đoạn
trừ ngã chấp, pháp chấp, có đầy đủ bi và trí thì chất đó đồng loại
đã tạo ra cảnh pháp giới vô lượng thanh tịnh, trong sáng. Tâm phàm tục
thì sinh ra chất khí phàm tục. Tâm trí tuệ, tâm siêu việt thì cũng sanh
ra chất trí tuệ và siêu việt. Khí có loại thô, loại tế. Loại thô tạo
ra các sắc pháp, loại tế tạo ra sức nóng và gió lay động. Đạo Phật
có thuyết đại: địa, thuỷ, hoả, phong tức là các chất cứng rắn, ướt
dính, nóng và động. Bốn đại đều do khí tạo thành. Trong bốn đại thì
phong đại (gió) là nhẹ nhất, vi tế nhất. Địa đại là nặng nhất,
thô nhất. Nhưng thô hay tế, nặng hay nhẹ cũng đều là một chất khí cả.
Trong thân người, da xương, thịt là địa đại,
là chất khí nặng hay thô. Nước ở trong cơ thể như máu, nước bọt, nước
tiểu, mồ hôi là thuỷ đại, là chất nhẹ hơn chất khoáng trong cơ thể.
Khí hô hấp, điện năng, sóng não,v.v…là phong đại, là chất khí vi tế
nhất, nhỏ nhiệm và nhẹ nhất.
Hãy lấy ví dụ: Một người lên cơn giận dữ,
tâm trở thành thô động, không thuần. Lửa giận trong tâm không nguôi,
các khí của địa đại trong thân trở thành căng thẳng. Hơi thở cũng thành
nặng nề (phong đại). Những biến đổi trong thân bài tiết ra nhiều chất
độc (thuỷ đại).
Ngược lại, khi người ngồi thiền, nội tâm an
định,vui vẻ. Thân thể cũng nhẹ nhàng an lạc. Hơi thở cũng nhẹ nhàng,
dài và đều. Gân cốt trong toàn thân cũng thư giản, thoải mái. Các chất
bài tiết ra đều có lợi cho sức khoẻ chung của cơ thể. Ví dụ này cho
thấy tâm với khí tương ưng và đồng loại với nhau.
Xin đưa một ví dụ khác, khi chúng ta chăm chú
làm một việc gì đó, như quan sát một vi khuẩn bằng kính hiển vi, hơi
thở chúng ta trở thành nhỏ nhẹ, thậm chí chúng ta nín thở để quan sát.
Bởi vì chỉ có khi nín thở, sự chú ý mới đạt mức tập trung cao nhất.
Tâm thức mới phân biệt được một cách rõ ràng minh bạch nhất.
Khi hành giả chứng đạt thể tánh không và
sáng của tự tâm, thì thường hô hấp của hành giả ngưng chỉ. Khi niệm
tiếp tục khởi lên, thì hô hấp bắt đầu trở lại. Khi dòng tư tưởng
ngừng chỉ, vọng niệm không còn khởi lên, thì hô hấp cũng ngưng chỉ.
Ngược lại, khi trong thời gian dài, một cách tự nhiên (không miễn cưỡng,
không phải tạm thời), hô hấp đình chỉ thì dòng tư tưởng cũng cắt đứt.
Đó cũng là một ví dụ nói lên sự tương ưng và đồng loại giữa tâm
và khí.
Bộ luận Câu-xá, ở phẩm thứ sáu, tức là phẩm
"Phân Biệt Hiền Thánh" cũng nói tới sự nương tựa vào nhau của
tâm và hơi thở:"Nhập xuất tức tuỳ thân, y nhị sai biệt chuyển"
Trong câu trên, y nhị nghĩa là dựa vào thân và
tâm. Ý tức là khi thở vào thở ra, sự vận động ấy dựa vào thân, đồng
thời cũng dựa vào tâm. Không có thân, tức nhiên cũng không thể có hơi
thở. Nhưng không tâm, thì cũng không thể có hô hấp được. Tuy nhiên,
tình hình trên chỉ nói tâm và hơi thở nương tựa vào nhau, nhưng không giải
thích được tâm và hơi thở là một, không phải là hai.
Theo Mật tông thì tâm có một phần chứng ngộ
xuất thế, thì khí phần của nó bao gồm tất cả bộ môn sinh lý cũng phải
có một phần chuyển biến. Khí mạch, tinh dịch của hành giả cũng có những
thay đổi căn bản. Về pháp môn điều tâm, thì Mật tông và Thiền tông
đều hoàn toàn giống nhau. Chỗ không giống nhau là Mật tông không nói những
thành tựu Phật pháp thân, mà cũng không nói thành tựu cả Phật báo thân
và Ứng thân. Phật pháp thân là cảnh giới của tâm giác ngộ hoàn toàn
viên mãn. Còn Báo thân và Hoá thân là cảnh giới của khí phần chuyển biến
một cách viên mãn. Pháp thân là tâm, là cái "không" sáng suốt,
là không thể thấy. Báo thân, Ứng thân là khí. Đại thừa nói pháp thân
và ứng thân không phải là hai. Không và Sắc không phải là hai, Tâm và Sắc
không phải là hai.v.v…
Quan điểm trên của Phật giáo Đại thừa hoàn
toàn phù hợp với thuyết "Tâm khí bất nhị". Tâm khí bất
nhị chỉ nói lên tính bất nhị của một vài hiện tượng khí với tâm
thức, thực ra cũng là cùng một luận thuyết với các thuyết "sắc
tâm bất nhị","sắc không bất nhị", "tâm vật bất nhị"
mà thôi. Sac頶à không, tâm và vật, khí và
tâm đều là bất nhị. Nhưng chúng ta lại đem chúng tách đôi ra, chia đôi
ra. Do đó, mới có các cặp:"ta và người", "trong và
ngoài","năng và sở", "sạch và bẩn". Do đó mà có
sanh tử luân hồi. Chỉ khi đạt tới cảnh giới giác ngộ tối hậu mới
chân chính thể hội được lý: "sắc và không" là một, "tâm
với khí" là một. Tất cả đều cùng một cảnh giới nhất nguyên vô
ngại, mọi cặp tương đối tuy hai mà một, tuy một mà hai. Nhưng chỉ có
đến quả vị Phật mới chứng nhập cảnh giới tâm với khí là một.
Còn ở các quả vị thấp hơn thì chỉ thấy tâm và khí là đồng loại và
tương ưng với nhau, hoặc thấy được tâm và khí có phần nào là một,
chớ không phải là hai. Vì vậy, Mật tông nói, khi tâm và khí thật sự
thành bất nhị, thì đó là cảnh giới Phật. Ở người phàm phu, tâm và
khí không những tách làm hai mà còn không nương tựa nhau, kông hoà hợp
nhau, mỗi bên đi một đàng. Phép tu của Du- già là dùng sức mạnh đầu
tiên làm cho tâm và khí nhu nhuyến dễ sử dụng khiến chúng nương tựa
nhau, hoà hợp tương ưng nhau, rồi cuối cùng khiến hoàn toàn nhất trí.
Pháp tu hành có thứ bậc của Phật giáo cũng vậy, đầu tiên làm cho tâm
và khí lúc ban đầu biệt lập và cô động, trở nên nhu hoà sau đó khiến
chúng nương tựa nhau, tương ưng với nhau và cuối cùng trở về nguồn, trở
thành bất nhị.
Dựa vào nguyên tắc bất nhị, để xét cơ cấu
sinh lý của con người về hiện tượng thiền định chúng ta phát hiện ra
nhiều sự thật lý thú. Nếu đứng trên lập trường chủ quan của con
người mà xét thì các hệ thống như hệ thống hô hấp, hệ thống tuần
hoàn, hệ thống bài tiết, hệ thống tiêu hóa sở dĩ được lập ra là để
duy trì, đảm bảo hoạt động của hệ thống thần kinh. Mà hệ thống thần
kinh lại là chỗ dựa của hoạt động tâm thức, tức tinh thần. Để có
thể thấy sắc, nghe âm thanh, ngửi mùi, nếm vị, sờ mó vật phải có hoạt
đôﮧ của những cảm quan cấu trúc phức tạp, vi diệu có liên hệ với
não trung ương, qua hệ thống thần kinh, nhờ đó mà năm thức cảm xúc
được với năm cõi trần. Hoạt động của ý thức lại còn có phạm vi rộng
lớn hơn nhiều so với phạm vi hoạt động của năm thức đầu. Và căn Ý鍊
thức cũng dựa vào hệ thần kinh trung ương mà nắm
bắt được sư vật từ to đến nhỏ, từ sự vật có thật cho đến sự
vật tưởng tượng, kể cả hình ảnh của trí nhớ v.v… . Theo đạo Phật,
tâm thức phải có một công cụ làm trung gian mới có thể tạo nghiệp nơi
ý, nơi miệng và nơi thân, do đó mới phải lưu chuyển trong vòng sanh tử
luân hồi. Thí dụ, người muốn ăn và có thích thú, và ăn thì phải có
miệng. Muốn thấy sắc và thưởng thức sắc đẹp thì phải mở mắt ra
nhìn. Không lắng tai thì cũng không thưởng thức được bài nhạc hay.
Không có danh thực khí thì cũng không có cái vui của tình dục. Con người
phải có cái thanh sắc cấu trúc phức tạp và vi diệu này thì mới có thể
tạo ra các nghiệp thiện hay ác, bắt nguồn từ tham, sân và si. Do đó, mà
phải xoay vòng trong sanh tử luân hồi. Vì trong tâm thức chúng sinh có chấp
nga,堣hấp pháp làm gốc, lại có tham, sân,
si là cội gốc của dục vọng, cho nên mới có tạo nghiệp và có thế giới
này, thân thể này.
Nếu đứng trên nguyên tắc tâm và khí đồng loại
và tương ưng với nhau mà xét khi đã có tâm tham, sân, si thì có những phần
tử khí tương ưng tạo ra bốn đại và thân xác này. Tâm thức đã có
tham, sân, si và ngã pháp chấp thì tất nhiên sản sanh ra phần tử khí, tạo
thành thân này với năm giác quan và các hệ thống sinh lý. Nếu trong tâm
thức không có tham, sân, si và ngã pháp chấp thì sẽ không cần thiết có
nhục thân và cơ cấu sinh lý tương ưng. Người đã ngộ pháp thân tính
không, vì còn có tập khí rơi rớt cho nên nhất thời không thể thay đổi
toàn bộ cơ cấu sinh lý của mình được, để có được báo thân và ứng
thân đẹp đẽ, sáng suốt của Phật. Nhưng trong quá trình tu tập định
tuệ của mình, những phần tử khí cũng tạo thành cơ cấu sinh lý cũng đã
có thay đổi. Những hiện tượng biến đổi sinh lý này được nghiên cứu
bởi môn sinh lý học thần bí (mystic physiology) và môn sinh lý học Du- già.
Đó là hiện tượng như hơi thở trong ngoài đều ngưng chỉ, do dương khí
Kundalini thượng thặng, qua các trung tâm thần kinh (các búi mạch), mà sinh
ra nhiều biến đổi kỳ lạ trong cơ thể, các trung tâm thần kinh được
khai thông v.v… .Đó là những hiện tượng hiện nay khoa học cũng chưa hiểu
và đánh giá được.
Thế nhưng nguyên tắc cơ bản tâm khí bất nhị,
tâm khí tương ưng và đồng loại với nhau là một thực tế, một chân
lý không thể phủ định. Chúng ta có thể dựa vào nguyên tắc cơ bản này
để có một nhận thức hay để đánh giá khái quát đối với hiện tượng
thiền định nói chung, cũng như đối với phép tu thiền và những lệch lạc
có khả năng xảy ra trong tu thiền.
Nếu đứng trên quan điểm chân lý cứu kính mà
nói, thì sắc với không là một, sanh tử với Niết-bàn là một, tâm với
khí cũng là một. Nhưng một khi đã bàn tới quan hệ giữa tâm và khí tức
là mặc nhiên đã xem tâm và khí là hai, và đó chính là quan điểm, là lập
trường không phải của chân đế mà là của tục đế rồi (chân lý thế
tục tương đối). Nếu đứng trên quan điểm chân lý thế tục mà nói,
thì tâm là cái năng y, khí là cái sở y. Tâm ví như người, khí ví như ngựa.
Tâm phải cỡi lên khí (ngựa), thì mới đi xa được. Tâm ví như mắt, khí
ví như hai chân. Không có mắt thì không biết đường, không có chân thì
không đi được. Tâm là cái năng lực hay biết đó cũng như chủ soái ra
trận, biết được tình hình hư thực của địch và ta, biết nên công hay
thủ. Nhưng nếu chỉ có một mình chủ soái, thì không tác chiến được.
Phải có binh sĩ và trang bị mới cơ thể hành động được. Cũng như vậy,
nếu chỉ có cái tâm năng giác, mà không có cái khí năng động, thì cái
tâm hay biết kia cũng không có tác dụng gì được. Vì vậy trong ba thân
là pháp thân, báo thân và ứng thân, tuy pháp thân là chủ thể (tâm phần),
nhưng muốn thành tựu các sự nghiệp, du hý hay biến hoá, thì cần có báo
thân và ứng thân (khí phần).
Pháp, báo, ứng ba thân này, tuy cùng một thể
không khác, thế nhưng đối với phàm phu, còn trong vòng sinh tử, thì phải
thông qua ứng thân và báo thân mới tiếp xúc được với pháp thân của
Phật. Hay là phải dựa vào giáo lý và hành trì, mới có thể dần dần
thành tựu được pháp thân vô vi, vô tướng.
Tâm và khí tuy là một, không phải là hai, thế
nhưng đứng trên quan điểm chân lý thế tục mà nói (tục đế) thì phải
thông qua tâm thức, để tiếp xúc, chế ngự và chuyển biến khí năng, hay
ngược lại, thông qua khí năng để tiếp xúc, chế ngự và chuyển biến
tâm thức. Dựa trên nguyên lý đó, sẽ hiểu được kết luận của kinh
nghiệm tu thiền: Tâm điều hoà thì khí điều hoà. Chế ngự được tâm
thì chế ngự được khí, chế ngự được khí thì chế ngự được tâm.
Nhờ vậy, chúng ta hiểu được rằng vì sao, các phép tu sổ tức, chỉ tức
(đếm hơi thở, dừng hơi thở) lại cực kỳ quan trọng đến như vậy. Vì
sao, đức Phật đề cao pháp tu đó và trực tiếp trao truyền cho các đệ
tử của Ngài.
Vì dùng tâm để đếm hơi thở, hay là quán hơi
thở, cho nên tâm và hơi thở điều hoà nhau, nương tựa nhau, và dần dần
chuyển theo cùng một đường. Khi tâm chuyên chú vào một cảnh, thì hơi thở
trở nên nhỏ nhẹ, ngưng chỉ. Cũng dựa trên nguyên lý tâm khí bất nhị
đó, mà chúng ta hiểu được vì sao các phép quán tưởng lại có tác dụng
đưa người ngồi thiền dần dần nhập định, Thí dụ các phép quán tưởng
như bạch cốt quán (quán xương trắng), quán Phật tướng, quán riêng từng
đại trong bốn đại đều có tác dụng khiến cho tâm thức trở nên cực
kỳ vững chắc và nhỏ nhiệm. Khi những phép quán tưởng ấy thành tựu,
khi các hìng ảnh quán tưởng hiển hiện rõ ràng trước mặt người tu thiền
thì trình độ định lực đã khá rồi, hơi thở đã được điều hoà một
cách tự nhiên rồi, không phải dụng tâm nhiều.
Dựa vào nguyên lý tâm và khí là một, cho nên
hiểu được rằng nơi nào khí đến thì tâm đến, nơi nào tâm đến thì
khí đến. Do đó, tập thiền mà còn mắc bệnh, dùng tâm điều khí đến
chỗ đau, thì lập tức hết đau. Một phương pháp trị bệnh khác là dùng
tâm chuyên chú vào đầu ngón tay mình, làm cho ngón tay đó nóng lên, rồi lấy
ngón tay đó ấn trên chỗ đau của người bệnh, làm cho người bệnh hết
đau. Thuật đạo dẫn, chính là dựa trên nguyên lý tâm khí bất nhị.
Tâm bản thân có nhiều phương diện, Duy Thức tông
chia tâm làm tám tâm thức khác nhau. Tâm bản thân cũng có nhiều công năng
và đặc tánh. Trong tâm có tình cảm. Tâm có khả năng tư duy trừu tượng,
biết dùng các loại phù hiệu v.v… Khí cũng vậy, tính phức tạp và nhiều
phương diện của khí cũng không khác gì tâm.
Theo Mật tông thì trong thân thể có các loại
khí vận hành lên, khí vận hành xuống (gọi là âm khí và dương khí) có
biến hành khí (khí lưu thông khắp nơi), bình trú khí và mạng khí. Đó
là năm loại khí căn bản ở trong thân người, ngoài ra còn có nhiều loại
khí với những tên gọi khác nhau. Phật giáo Tây Tạng có cuốn sách nổi
danh, đầu đề là "Thậm Thâm Nội Nghĩa Căq Bản Tụng" bàn và giải
thích rất tường tận vấn đề khí mạch trong thân người.
Các loại tâm và khí, công dụng và các mối
quan hệ giữa tâm và khí là một môn học rộng lớn, phức tạp. Trên đây,
bất quá chỉ nêu lên vài điểm rất khái quát và sơ lược mà thôi.
Thuyết tâm khí là một thuyết của Mật giáo
Tây Tạng, gọi là Anuttara Tantra, mà tôi được biết qua một bài của
Giáo sư Trương Trừng Cơ, đăng trong tập sách "Phật Học Kim
Thuyên", xuất bản tại Đài Loan. Thuyết này cũng giống như thuyết
"Sắc không bất nhị" (sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc
tức thị không, không tức thị sắc) trong Tâm kinh. Gần đây, khái niệm
"psychosomatique" của y học Tây phương hiện đại nhấn mạnh mối
quan hệ tác động hai chiều của hai yếu tố thân và tâm, theo tôi cũng là
một lối diễn đạt khác của tâm khí bất nhị của Mật giáo Tây Tạng.
Nhưng ưu điểm của Mật giáo Tây Tạng là thay vì nói quan hệ giữa thân
và tâm thì lại nói quan hệ giữa tâm và khí. Nhưng vì theo Phật giáo Tây
Tạng thân bất quá cũng là một dạng hội tụ của khí, cho nên nói tâm
và khí là một hay là nói tâm, khí, thân là một cũng được.
Tôi sẽ không dừng lâu ở mặt lý thuyết của
vấn đề,mà muốn nhấn mạnh ảnh hưởng của thuyết đó đến phương pháp
điều thân và tâm, chế ngự thân và tâm hàng ngày của chúng ta. Tôi cho rằng
đó là vấn đề quan trọng số một đối với sức khoẻ, hạnh phúc của
đời sống và hiệu suất công tác của mỗi chúng ta.
Trước hết, nói vấn đề sức khoẻ, sống
trong môi trường thường bị ô nhiễm của xã hội ngày nay, thân người dễ
nhuốm bệnh, vì qua không khí, nước và thức ăn, thân người phải hấp
thụ hằng ngày biết bao chất độc từ môi trường bên ngoài. Hệ thần
kinh, một công cụ của tâm, lại thường bị kích thích dồn ép. Đóm là
hiện tượng stress của xã hội hiện đại. Nếu chúng ta biết vận dụng
khí, điều hoà thường xuyên hơi thở ra vào, thì chúng ta có thể gián tiếp
điều hoà cả hai mặt thân và tâm, hạn chế bớt ảnh hưởng của môi trường
ô nhiễm đối với thân, cũng như ảnh hưởng của stress đối với hệ thần
kinh, tức là đối với tâm.
Tầm quan trọng của phép điều hoà hơi thở của
đạo Phật là ở chỗ đó. Bản thân tôi thực hiện phép điều hoà hơi
thở này hàng ngày, thường xuyên không những khi ngồi thiền buổi sáng
sau khi thức dậy, mà cả khi nằm, khi ngồi nghỉ, khi tản bộ, thậm chí cả
khi ngồi dự một hội nghị mà mình không ưa thích hoặc không quan tâm lắm.
Tất cả những lúc ấy, thay vì nghĩ vẩn vơ, tôi thở dài, thở đều và
sâu. Thở vào đếm 1,2… cho đến 5. Thở ra đếm từ 6 đến 10 rồi đếm
trở lại 1. Cứ như vậy, không nghĩ gì khác. Thói quen của tôi là cột ý
nghĩ (sách Phật gọi là cột niệm) vào hơi thở bằng phương pháp đếm
hơi thở.
Phương pháp này sách Phật gọi là sổ tức.
Sổ là đếm, tức là hơi thafdd Trong các kinh thuộc Kinh tạng P li, Phật
chỉ dạy niệm hơi thở, cột ý nghĩ vào hơi thở chứ không dạy đếm
hơi thở. Phép đếm hơi thở hình như là của Hữu bộ, một bộ phái Phật
giáo rất có ảnh hưởng ở Ấn Độ, trong thời kỳ Phật giáo bộ phái,
sau khi Phật nhập Niết-bàn. Ở Trung hoa, Đại Sư Trí Khải, người sáng lập
ra tông Thiên Thai, cũng giảng phép đếm hơi thở, chắc chắn là tiếp thu
từ Hữu bộ. Nói như vậy, để thấy có nhiều phép điều hoà hơi thở,
chứ không phải chỉ có một phép sổ tức là đếm hơi thở.
Mục đích là để cho khi thở ra thở vào không
để tâm mình nghĩ lung tung, lan man. Bởi vì, nếu tâm cứ nghĩ lan man, lung
tung thì bản thân hơi thở cũng rất khó điều hoà. Đó là kinh nghiệm mà
người nào tập thiền cũng dễ nhận thấy.
Hỏi: Nếu không niệm hơi thở, không theo
dõi hơi thở thì niệm cái gì?
Sách Phật cũng như các sách về Yoga giới thiệu
các điểm như lỗ rốn, hay một điểm dưới lỗ rốn vài phân gọi là
đan điền. Có sách nói, khi tâm nghĩ lung tung, lan man mà niệm lỗ rốn hay
đan điền thì tâm sẽ định trở lại. Trái lại, nếu buồn ngủ thì hãy
nghĩ tới đầu lỗ mũi, hay là một điểm trên trán giữa hai lông mày.
Công dụng ra sao, mọi người hãy thử xem. Có người lại nằm, đặt tay
trên bụng và theo dõi bụng phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở, vào thì
bụng phồng lên, thở ra bụng xẹp xuống,v.v… . Nói tóm lại, có nhiều
phương pháp khác nhau điều hoà hơi thở và định tâm, có phương pháp
thích hợp với người này, nhưng lại không thích hợp với người khác.
Do đó, người hướng dẫn không nên cứng nhắc. Chúng ta không nên bao giờ
quên tính chất và mục đích việc tập thiền là:
- Thiền là một cuộc cách mạng trầm lặng, nhằm
giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc của thân và tâm.
- Thiền giúp cho chúng ta hoàn toàn tự do, tự chủ
đối với tâm chúng ta. Thí dụ, chúng ta chỉ nghĩ những điều chúng ta muốn
không nghĩ những điều chúng ta không muốn. Nói cách khác, chúng ta điều
khiển tâm của chúng ta hướng nó đến những mục đích cao cả, chỉ nghĩ
điều thiện, không nghĩ điều ác, tâm chúng ta không phải là con ngựa bất
kham, mà là con ngựa đã được nuôi dạy tốt, có thể điều khiển đi đâu
tuỳ ý người chủ.
- Để thành tựu mục đích nói trên, đạo Phật dạy
biện pháp chú tâm vào một cảnh. Nên nhớ câu của kinh Kim Cang: "Chế
tâm nhất xứ, vô sự bất biện" (tập trung tâm vào một chỗ thì sẽ
không việc gì không làm được).
- Với tâm chuyên chú vào một cảnh thì chúng ta sẽ
không bị ngoại cảnh chi phối, đồng thời chúng ta cũng không bị những
xung động bản năng từ trong tiềm thức quấy rối chúng ta. Những xung động
bản năng ấy, sách Phật thường gọi là chủng tử (hạt giống), cũng gọi
là tuỳ miên, bởi lẽ chúng nằm tiềm ẩn sâu trong đáy tiềm thức của
chúng ta.
Trong Truyện Kiều có câu:
"Ma đưa lối quỷ dẫn đường".
Thật ra, không có ma quỷ nào hết khiến cô Kiều
tội nghiệp lạc vào cảnh thanh lâu, mà chính là những xung động bản
năng nằm ẩn sâu trong tiềm thức của cô Kiều đã dẫn cô Kiều đi sai
đường. Người tu thiền ngồi tỉnh tâm ở nơi vắng vẻ, không người,
thường hay bị những xung động bản năng quấy rối dữ dội, nhiều khi
đến phát điên.
Để kết luận, tôi muốn gợi ý đôi điểm về
hạnh phúc nội tâm và về hiệu suất công tác. Qua kinh nghiệm, tôi thấy
chỉ có hạnh phúc nội tâm là lâu bền nhất và chắc thật nhất. Không
có hạnh phúc nội tâm thật sự thì mọi niềm vui khác chỉ là giả tạo
và tạm bợ. Dân gian có câu: "ăn thịt bò lo ngay ngáy, ăn cua cáy ngáy
kho kho".
Đã lo ngay ngáy trong nội tâm thì ăn thịt bò cũng
không thấy ngon. Trái lại, người không làm điều ác, không phải lo nghĩ
gì thì chỉ ăn cua, ăn cáy cũng ngủ một giấc ngon lành. Nếu tất cả hạnh
phúc và niềm vui của chúng ta đều phụ thuộc vào người khác, nếu người
khác đó đối xử tệ với chúng ta hay là ngoại cảnh từ thuận lợi biến
sang đối nghịch chúng ta thì làm sao đây? Khóc chăng? Kêu trời chăng?
Con người ta khổ vì là tâm không chịu yên.
Chúng ta mệt mỏi hay nhuốm bệnh cũng là do cái tâm không chịu yên. Khi mất
ngủ, chúng ta thấy mình vô cùng mỏi mệt mà tưởng là do ta mất ngủ mà
sinh ra mỏi mệt. Thực ra, là khi mất ngủ, tâm chúng ta nghĩ miên man, tán
loạn lung tung. Chính các tâm tán loạn đó làm cho chúng ta mệt mỏi. Phật
Thích-ca mỗi ngày chỉ ngủ hai tiếng, số đông học trò của Ngài cũng ngủ
ít như vậy, chúng ta sẽ bảo các vị ấy đều mất ngu sao? Nhưng Phật Thích-ca
suốt 49 năm, sau ngày thành đạo, đã lãnh đạo Tăng chúng, dạy dỗ loài
người và loài trời không biết mỏi, thậm chí vào giờ trước khi Ngài tịch,
Phật còn thuyết pháp và độ cho ông già ngoại đạo Tu-bạt-đà-la, tuy
ông này đã 120 tuổi. Phật không phải là mất ngủ, mà Phật không cần
ngủ nhiều như chúng ta, vì tấm thân Ngài thường an lạc, khinh khoái. Còn
chúng ta thì suốt ngày thân tâm tán loạn, căng thẳng khác nào con chó rừng
chạy lung tung hay con khỉ leo cây, hết vịn cành nầy rồi vịn cành khác,
không bao giờ chịu ngồi yên, cho nên đến tối mệt đừ người, phải ngủ
nhiều để lấy lại sức. Tâm bình lặng, thì thân an ổn, hơi thở điều
hoà, chúng ta sẽ có được một niềm vui chân thực, vững vàng thấm
thía, chỉ có thể cảm nhận mà khó mô tả bằng lời.
Chúng ta không thể làm gì nghiêm túc, nếu không
tập trung tư tưởng. Mà tập trung tư tưởng chính là thiền. Tập trung tư
tưởng, chuyên chú một cảnh, chúng ta sẽ thành công tối đa trong bất cứ
mọi công việc gì mà chúng ta làm. Đó là bài học của tất cả những
nhân vật đã làm nên sự nghiệp lớn. Nhưng ở đây tôi không nói sự
nghiệp lớn. Tôi muốn nói những công việc nho nhỏ, như học Anh văn, học
chữ Hán. Hàng nghìn, vạn người theo học các trung tâm ngoại ngữ ban tối
hay ban ngày, nhưng số người thành công trọn vẹn không có nhiều đâu. Đấy
là chúng ta học không tập trung, ngồi học lơ đãng, đi học về quăng sách
một chỗ, chữ thầy trả thầy v.v…
Nguyên lý thiền định Phật giáo ứng dụng vào
cuộc sống hằng ngày là một đề tài nói mãi, viết mãi cũng không cạn
nội dung. Quý bạn cứ tiếp tục bắt tay vào tập thiền thì sẽ thấy. Nhưng
phải tập thiền, chứ không phải chỉ nghe giảng thiền, đọc sách thiền.
Phải tập, phải thực nghiệm, phải như Napoleon nói:"Vào cuộc rồi
mới thấy".
- Chân thành cảm ơn giáo sư Minh Chi
đã gởi cho bài viết
- và cảm ơn Sư cô Liên Hòa đã giúp
đánh máy. ĐPNN, 18-6-2000