- Giữ tâm trạng cân bằng
- Giáo sư Minh Chi
- Học viện Phật giáo Việt Nam
Bí mật của hành thiền tiến bộ và thành công
là luôn giữ cho được tâm trạng cân bằng và thoải mái, không căng thẳng
mà cũng không căng thẳng. Kinh 42 Chương kể chuyện tăng sĩ Sona, khi hành
thieenfkhoong làm sao giữ được tâm trạng cân bằng. Khi thì đầu óc căng
thẳng quasinh ra đau đầu, khi thì buông lỏng quá sinh ra buồng ngủ. Không
biết làm sao được, Sona đến gặp Phật, Phật hỏi:
- Có phải trước đây, khi chưa xuất gia người làm
thợ đàn, có phải không?
- Thưa phải, bạch Thế Tôn-Sona trả lời.
- Nếu dây đàn căng quá thì thế nào? Phật hỏi.
- Bạch Thế Tôn, không thanh tiếng.
- Nếu dây chùng quá thì thế nào? Phật tiếp tục
hỏi.
- Cũng không thanh tiếng, bạch Thế Tôn. Sona trả lời.
Phật bèn giảng giải:
Tu hành cũng như vậy đó, tích cực thái quá tới
mức căng thẳng cũng không được, mà buông lỏng lười biếng cũng không
được. Phải biết giữ tâm trạng cân bằng mới tiến bộ.
Thiền sư Tây Tạng Ma-chik-lap-Dron nhắn nhủ học
trò mình:"Tinh tấn, tinh tấn nhưng vẫn thư giãn, thư giãn".
(Xem cuốn" The Tibetan Book of Living and
Dying" Soyal Rinpoche, trang 73) (Cuốn sách Tây Tạng về Sống và Chết-bản
Anh)
Câu trên của thiền sư Tây Tạng cũng tương tự
về ý tứ như tôn chỉ tu thiền của thiền sư Việt Nam Hương Hải
(1628-1715):
- "Tỉnh tỉnh tịch tịch thị,
- Tỉnh tỉnh loạn tưởng phi.
- Tịch tịch tỉnh tỉnh thị,
- Tịch tịch vô ký phi"
Tỉnh tỉnh là tỉnh táo hay tỉnh giác. Nhưng nếu
chỉ một chiều tỉnh giác thì tạp niệm sẽ dấy lên loạn xạ. Tu thiền
như vậy là sai. Phải vừa tỉnh táo, vừa tịch lặng mới đúng. Do đó
mà thiến sư Hương có hai câu đầu:
- Tỉnh táo mà tịch lặng là phải,
- Tỉnh táo mà loạn tưởng là sai.
Thế nhưng, nếu cứ tịch lặng một chiều mà mất
tỉnh táo sẽ sinh ra buồn ngủ, như vậy cũng sai, mà phải vừa tịch lặng,
vừa tỉnh giác mới là đúng. Do đó mà hai câu cuối cùng của bài kệ của
thiền sư Hương Hải là:
- Lặng lẽ mà tỉnh táo là phải,
- Lặng lẽ mà không biết gì hết là sai.
Vô ký ở đây có nghĩa là mê mờ, không phân biệt
được ngoại cảnh. Sách Phật thường dùng hai từ hôn trầm, thuỵ miên.
Nói tóm lại, nếu chúng ta hiêu hành thiền là một
cái gì đặc biệt, chỉ có thể thành tựu trong hoàn cảnh đặc biệt (thí
dụ sống cô độc trong rừng sâu v.v…) với tư thế đặc biệt (thí dụ
ngồi tư thế hoa sen), mà là cả một nếp sống thoải mái, tự do tự tại,
tỉnh giác và năng động, thì chúng ta mới hiều vì sao đức Phật cũng
như các thiền sư lớn sau này đều nhấn mạnh phải giữ cho luôn luôn có
được tâm thoải mái, tâm nhẹ nhàng, hoàn toàn không có dấu vết ức chế
nào.
Vui thích hay ghét bỏ, vơ vào hay gạt ra là biều
hiện của tình trạng ức chế trong tâm, nhưng thuộc hai cực khác nhau.
Phải là tâm trạng như trong kinh 42 Chương nói:"Nội
vô sở đắc, ngoại vô sở cầu". Nghĩa là trong tâm không thấy được
thêm gì, đối với ngoài cũng không cầu mong gì.
Hay là hai câu thô chữ Hán của Trần Nhân Tông,
kết thúc bài phú nôm "Cư Trần Lạc Đạo":
- "
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên".
Dịch:
- Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
- Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền…
- Chân thành cảm ơn giáo sư Minh Chi
đã gởi cho bài viết
- và cảm ơn Sư cô Liên Hòa đã
giúp đánh máy. ĐPNN,18-6-2000